NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH)
Xin nhắc lại một lời, chính thân tâm BẬC thầy của vị tu thiền đó có xác thật được như thân tâm của chư Phật hay chưa ?
Họ lại bảo cảnh vui hiện tại, hay một niệm vui tươi là Thiên đường, cảnh khổ trước mắt, hoặc một niệm phiền não là Địa ngục. Sự hiểu biết cạn cợt nông nổi như trên, thật đáng thương xót!
34.-Ẩn tu ngại lỗi luận đua tranh
Nói cũng vì người thuyết khác hành
Thái cực ai-phân nhơn-ngã đó
Lạnh lùng huyễn lợi với hư danh !
NHƯ Ý : Người Thật Tu Dù Hiểu Đạo , SONG vẫn dè dặt không thích lý luận nhiều vì sợ phạm lỗi VỌNG NGÔN và tranh đấu. Nếu bắt buộc phải nói cũng chỉ để CẢNH GIÁC kẻ ngôn thuyết và thực hành chẳng giống nhau thôi.
Có một vị tu THIỀN đã nói: Thầy Tôi bác bỏ không cho SÁM HỐI, bảo thân tâm ta chính là PHẬT, đem vị Phật này lễ sám vị Phật khác thật rất sai lầm.
Xin nhắc lại một lời, chính thân tâm BẬC thầy của vị tu thiền đó có xác thật được như thân tâm của chư Phật hay chưa; các Bật Tôn Đức khoán đạt trong Phật giáo đã nói: Danh từ Minh Đức Nhất-quán của đạo NHO, Cóc Thần Thái-cực của đạo LÃO, và Bồ-đề Niết-bàn của đạo PHẬT, cũng điều chỉ cho tâm thể chân như mà thôi, trong CHÂN NHƯ TÂM đâu có ranh giới giữa ta người, người thật tu đã rõ danh lợi là hư huyễn, nói ra cũng để nhắc nhở lẫn nhau, TUYỆT không có ý hơn thua tranh chấp.
TA BÀ TỊNH ĐỘ
TA BÀ TỊNH ĐỘ tức như cảnh giới mà Đức Phật đã thị hiện trên hội Linh Sơn để hướng dẫn hàng tam thừa quyền giáo Bồ tát, cho họ biết rằng ở cõi này tuy ô uế nhưng cũng chính đó là cõi thanh tịnh vậy. Trong kinh chép rằng trên hội Linh Sơn, các đệ tử hỏi Phật vì sao cảnh giới của Ngài hiện đương sống lúc bấy giờ (núi Linh Thứu) lại cũng ô uế bất tịnh, thế thì nhơn địa tu hành của Ngài cũng bất tịnh chăng?
PHẬT LIỀN LẤY NGÓN CHÂN ẤN XUỐNG ĐẤT,
CẢNH UẾ ĐỘ LIỀN BIẾN THÀNH TRANG NGHIÊM THANH TỊNH.
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 68
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
THỨ BA MƯƠI CHÍN
ĐÂY LÀ Y BÁO TỊNH ĐỘ
TÂM TỊNH LÀ TỊNH ĐỘ…? CẦN GÌ PHẢI CẦU SANH VỀ TỊNH ĐỘ LÀM GÌ..ĐỀU LÀ CẢNH “NGOAN KHÔNG” , ĐỀU LÀ “TÂM VỌNG TƯỞNG”,
Như vậy cảnh TA BÀ TỊNH ĐỘ này là một cảnh hằng thường, nhưng biến hiện tùy theo nghiệp nhơn của chúng sanh mà thấy có TỊNH hay có UẾ.
PHỤ CHÚ.-
ĐÂY LÀ "NHỊ ĐẾ DUNG THÔNG TAM MUỘI ẤN" ?
1. CÓ NHỮNG VỊ HÒA THƯỢNG XÂY THÁP DIỆU CAO, RỒI CHIA RA THÀNH NHIỀU NGĂN XONG, KHUYÊN PHẬT TỬ MUA CHỖ, ĐỂ KHI LÂM CHUNG VỀ THÁP Ở; NHƯNG KHÔNG KHUYÊN PHẬT TỬ PHÁT NGUYỆN SANH TÂY PHƯƠNG TRỤ BẬC BẤT THỐI CHUYỂN, MỘT ĐỜI SẼ THÀNH PHẬT. THẬT THƯƠNG CẢM!!!
2. CÓ NHỮNG VỊ HÒA THƯỢNG KHÔNG TIN CÓ CỰC LẠC Ở TÂY PHƯƠNG, NHƯNG HẰNG NGÀY ĐI HỘ NIỆM, GIÚP CHÚNG SANH VỀ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC; THẬT SỰ KHÔNG THỂ HIỂU ĐƯỢC?!
“ CHƠN TÂM BỔN TÁNH” của mình không sanh không diệt, mười pháp giới, dù là Phật hay súc sanh, dù là CỰC LẠC hay TA BÀ… cũng có cùng một CHƠN TÂM này. Vì “CHƠN TÂM” vô ngã (NHÂN VÔ NGÃ, PHÁP VÔ NGÃ) nên hễ duyên với pháp lành thì thành Phật, thành Bồ-tát, THÀNH CỰC LẠC… Còn duyên với pháp ác thì thành ngạ qủi, thành súc sanh, THÀNH TA BÀ…
NẾU CÕI CỰC LẠC DO “DUY TÂM” SỞ HIỆN, THÌ PHẢI CÓ ĐỦ CHÁNH BÁO (PHẬT VÀ NHÂN DÂN CỦA NGÀI) , Y BÁO ( ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, CÂY, CHIM …ĐỀU THUYẾT PHÁP). CHIM LÀ Y BÁO VÌ DO PHẬT DI ĐÀ BIẾN HÓA RA .
NẾU KHÔNG CÓ ĐỦ “Y BÁO VÀ CHÁNH BÁO” MÀ NÓI TỊNH ĐỘ Ở TRONG TÂM, CỰC LẠC Ở TẠI ĐÂY, TÂM TỊNH LÀ TỊNH ĐỘ… CẦN GÌ PHẢI CẦU SANH VỀ TỊNH ĐỘ LÀM GÌ..ĐỀU LÀ CẢNH “NGOAN KHÔNG” , ĐỀU LÀ “TÂM VỌNG TƯỞNG”, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ “CHƠN TÂM SỞ HIỆN NHƯ TRONG KINH HOA NGHIÊM, LĂNG NGHIÊM, DUY MA CẬT… ĐÃ NÓI.”
KINH A DI ĐÀ
NHƠN HẠNH VÃNG SANH
Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền.
Thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng sanh A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ.
Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn.
Nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
DIỆU HIỆP
Diệu Hiệp đại sư, người ở huyện cần tại Minh Châu. Ngài xuất gia khoảng cuối đời nhà Nguyên sang đầu triều Minh, nghiên cứu tinh tường về Thiên Thai giáo quán, chuyên tu môn Niệm Phật tam muội. Đại sư có soạn thuật hai quyển Niệm Phật Trực Chỉ, trong đó thiên Trực Chỉ Tâm Yếu phá vọng hiển chân, biện giải đến chỗ tinh vi. Văn rằng:
“… Đức Thế Tôn thấy cõi Ta Bà có các sự khổ: sanh, già, bịnh, chết, nghiệp phiền não thiêu đốt buộc ràng, nên khuyên chúng hữu tình niệm Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc. Nhưng cách Phật lâu xa, con đường thánh đạo càng bị cỏ tranh khuất lấp. Nhiều người nghe nói: “Các pháp đều ở nơi tâm”, liền lầm nhận nghiệp vọng tưởng thuộc bóng duyên sáu trần trong thân là tâm mình. Do đó nên bảo: “Phật ở nơi đây, cõi Cực Lạc cũng ở trong ấy, không cần tìm cầu đâu xa!” Họ không biết thể huyễn bóng duyên sáu trần đó, thuộc về vọng tâm, vốn không bền chắc. Nếu tiền trần tiêu tan, vọng tâm ấy liền diệt. Như thế, làm sao có cõi Cực Lạc ở trong đó được?
Có kẻ lại miễn cưỡng bảo: “Các bậc ngộ đạo thấy tánh đều nói cõi Phật ở nơi tâm. Đã thấy tánh, lẽ đâu còn chấp bóng duyên của sáu trần nữa!” Các người ấy đâu biết rằng sự ngộ đạo thấy tánh đó, là ngộ được bản tâm chân thật, chớ không phải là vọng tâm như họ tưởng. Muốn ngộ được chân tâm ấy, phải thấu suốt tâm vọng thuộc bóng duyên sáu trần vốn ở trong huyễn thân, huyễn thân lại ở trong thế giới, và tất cả thế giới thật lành hoặc nhơ ác đều ở trong hư không. Thể hư không ấy tuy bao gồm tất cả y báo chánh báo của mười phương, rộng lớn không ngằn mé, nhưng lại ở trong chân tâm sáng suốt bất động vô cùng vô tận của ta, ví như một cụm mây nhỏ điểm lơ lửng giữa khoảng thái thanh bao la lặng lẽ. Chân tâm đã rộng lớn như thế, làm sao tất cả mười phương thế giới hoặc nhơ hoặc sạch lại không ở trong tâm? Thế thì đức Phật hoặc các bậc ngộ đạo nói các pháp ở nơi tâm, là chỉ cho chân tâm đó, chớ không phải vọng tâm thuộc bóng duyên sáu trần trong huyễn thân nầy đâu! Chân tâm ấy vượt niệm hiểu biết, lìa sự thấy nghe, dứt hẳn các tướng sanh, diệt, thêm, bớt. Tất cả thế giới gồm thân chư Phật và chúng sanh đã ở trong chân tâm đó, thì cảnh Ta Bà cùng Cực Lạc đều là tâm của ta. Cho nên các hữu tình ở trong đó tùy ý bỏ đông cầu tây, chán cõi nhơ thích cảnh sạch, dù có trước tướng, vẫn không lìa ngoài chân tâm.
Bởi thế, khi cảnh tướng đẹp của cõi Cực Lạc và đức A Di Đà hiện ra, tức từ tâm ta hiển lộ. Và khi tâm ta hiển lộ thì đức A Di Đà hiện ra. Tâm ta là tâm đức Phật kia, đức Phật kia là Phật của tâm ta, đồng một thể không khác, nên gọi “duy tâm Tịnh độ, bản tánh Di Đà”. Cho nên khi nói duy tâm hay bản tánh, chẳng phải chỉ cho cái vọng tâm sanh diệt thuộc bóng duyên sáu trần trong huyễn thân. Và ở phương Tây chẳng phải không có cõi Cực Lạc cùng đức A Di Đà, mà nói không cần tìm cầu. Cầu đức Phật kia chính là cầu tâm mình, muốn sớm ngộ chân tâm mình, phải cầu đức Phật kia. Thế thì tại sao đời nay các nhà thức giả vừa mới biết chút ít lý thiền, những tăng sĩ nông cạn phá rối Phật pháp, không nghiên tầm sâu chân lý để ngộ cảnh tức là tâm? Mà trở lại ở trong môn Bất nhị, họ chia trong chia ngoài, phân tâm phân cảnh, dạy người tìm trong bỏ ngoài, lìa cảnh để cầu tâm, khiến lòng thương ghét thêm rộng nhiều, niệm phân biệt càng sâu đậm? Khi phân chia cảnh, thì cho cõi Cực Lạc ở ngoài, dạy người chẳng nên cầu vãng sanh … Và khi phân chia tâm, lại lầm nhận vọng thức là tâm, bảo cõi Cực Lạc ở trong đó. Càng sai lầm hơn nữa, họ cho chân tâm là rỗng không, lìa tất cả cảnh tướng nhân quả lành dữ tội phước, nên từ đó muốn tỏ ra mình là vô ngại, lại buông lung theo duyên đời, dạy người không cần lễ Phật. Tụng kinh, sám nguyện, tu phước bảo là trước tướng. Đối với cảnh Thiên cung, Địa ngục và các cõi Tịnh, độ, tuy nghe trong kinh nói đến, nhưng vì mắt phàm không thấy, họ bác hẳn nói không có, cho lời kinh là quyền thuyết. Họ lại bảo cảnh vui hiện tại, hay một niệm vui tươi là Thiên đường, cảnh khổ trước mắt, hoặc một niệm phiền não là Địa ngục. Sự hiểu biết cạn cợt nông nổi như trên, thật đáng thương xót!
Phải biết tâm ta cùng tâm Phật đồng một chân thể. Đức A Di Đà chứng ngộ đầy đủ tâm ấy, nên phóng ánh sáng oai đức soi khắp mười phương, dùng sức nguyện thương xót rộng sâu nhiếp lấy những chúng sanh niệm Phật. Ta tuy đồng một tâm thể với Phật, nhưng bởi bị sức nghiệp vô minh phiền não che lấp buộc ràng, chưa chứng ngộ được bản tâm, nên cần phải tu tất cả hạnh lành, và niệm Phật để cầu sanh Cực Lạc. Vì tất cả pháp chẳng phải khác, nên muôn hạnh đều hướng về chân tâm, đều trôi về biển Phật. Bởi tất cả pháp chẳng phải đồng, nên tuy cùng một tâm thể, vẫn có thiện có ác, có uế có tịnh, thì ở địa vị phàm phu phải bỏ ác cầu thiện, bỏ uế cầu tịnh, phát nguyện cầu sanh để mau chứng quả chân tâm. Khi tu hành như thế, ví như một giọt nước gieo vào biển, tất cả sẽ đồng một vị một thể với biển cả. Lúc được chứng ngộ toàn thể chân tâm, thì trong ánh đại quang minh sẽ thấy tất cả cảnh tướng thiện ác nhơ sạch ở mười phương thế giới đều như bóng như huyễn, sanh diệt không dừng. Sự thiện ác nhơ sạch sanh diệt như huyễn ấy, cũng tức là tâm, nhưng không làm ngại đến tâm thể đại quang minh, như một cụm mây nhỏ không làm ngại đến hư không bao la rộng rãi. Chứng ngộ được như thế mới có thể nói là vô ngại.
Đa số hàng thiện tín nơi thôn ấp quê mùa, tuy không thông hiểu Phật lý, nhưng vì tin có Phật và cõi Cực Lạc, chuyên tâm làm lành phát nguyện niệm Phật, nên khi lâm chung được sự lợi ích vãng sanh, lên ngôi Bất thối chuyển, mau chứng quả Đại bồ đề. Trái lại người có chút ít học thức thông minh, bởi chưa thấu suốt lý tánh, bác sự tướng, trệ vào thiên không, dù tu đạo hạnh, kết cuộc lại lạc vào vòng ngoại đạo, chìm trong nẻo luân hồi. Cho nên hàng Phật tử chân chánh, về chữ Tín phải tin có tội phước nhân quả, có Địa ngục Thiên đường, có mười phương Tịnh độ. Về chữ Nguyện, nên phát tâm cầu sanh Cực Lạc, để sớm thoát ly nỗi khổ ở Ta Bà, mau chứng ngộ bản tâm, khởi sự luân hồi sống chết, rồi độ tất cả chúng sanh đồng thành Phật quả. Về chữ Hạnh, phải hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, tu các nghiệp lành, thọ trì tam quy, giữ gìn giới phẩm, phát lòng Bồ đề, tụng kinh niệm Phật, khuyên người tu hành, đem tất cả công đức ấy hồi hướng về Tây phương. Phải nghĩ mạng người vô thường, chỉ mong manh trong hơi thở, việc thế tục quanh quẩn buộc ràng, móc nối nhau không dứt. Nếu chẳng phát tâm mạnh mẽ, cắt một dao cho đứt đoạn, nhảy hết sức để vượt qua, thì biết chừng nào mới được an nhàn giải thoát? Nay tôi thiết tha đảnh lễ, kính khuyên các Phật tử, nên một lòng thật ngộ thật tu, nguyện ngày kia đồng làm bạn lành nơi cõi Liên hoa thế giới…”
Về sau khi lâm chung, đại sư biết ngày giờ trước, an tường niệm Phật mà vãng sanh.
MẤY ĐIỆU SEN THANH
KINH TAM BẢO
Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh
1. KINH A DI ĐÀ
Hán dịch: Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch.
Bất Động Pháp Sư Thuật
Đời Tây Tấn, ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ dịch
4. PHẨM “QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ-MÔN”
Hán dịch: Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch
Hán dịch: Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch
6. NIỆM PHẬT HỒI HƯỚNG NGHI THỨC
7. NĂM BỘ KINH TỊNH ĐỘ TÔNG
KINH ÐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
TỊNH ÐỘ THẬP NGHI LUẬN
Trí Giả Đại Sư
Việt Dịch : Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
2.- Hỏi: Thể của pháp là không, xưa nay vẫn vô sanh và bình đẳng vắng lặng. Nếu bỏ Ta Bà cầu về Cực Lạc, há chẳng là trái lý ư? Lại trong Kinh nói: “Muốn cầu về Cực Lạc, trước phải tịnh tâm mình; tâm mình thanh tịnh, cõi Phật mới thanh tịnh”. Người cầu sanh Cực Lạc, cũng chẳng là trái lý này?
Đáp: Vấn đề ấy có hai nghĩa. Xin phân làm tổng đáp và biệt đáp.
Về phần tổng đáp, nếu ông cho rằng cầu về Cực Lạc tức là bỏ đây tìm kia, không hợp với lý bình đẳng như như. Còn ông chấp Ta Bà không cầu về Cực Lạc, há lại không bị lỗi bỏ kia chấp đây sao? Nếu ông bảo: “Tôi không cầu kia cũng không chấp đây” thì lại mắc lỗi đoạn diệt. Cho nên Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng nói phát tâm Vô Thượng Bồ Đề là đoạn diệt hết tướng của các pháp. Tại sao thế? Vì phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt”.
Về phần biệt đáp, như ông đã gạn về lý vô sanh và tâm tịnh, tôi xin giải thích. Vô sanh cũng chính là lý bất sanh bất diệt. Bất sanh là các pháp giả hợp của sanh duyên không tự tánh, nên không thật có sanh thể và thời gian sanh. Xét ra không phải thật từ đâu mà đến, nên gọi là bất sanh. Bất diệt là khi các pháp hoại diệt cũng không tự tánh, nó không bảo rằng mình hoại diệt. Vì nó không thật có chỗ đi về nên gọi là bất diệt. Cho nên lý vô sanh hay bất sanh diệt không phải ngoài các pháp sanh diệt mà có. Vì thế chẳng phải không cầu sanh Cực Lạc mà gọi là vô sanh. Trung Quán Luận nói: “Các pháp nhân duyên sanh, ta nói chính là không, đó gọi là giả danh, cũng là nghĩa Trung đạo”. Lại nói: “Các pháp không tự sanh, không từ nơi cái khác mà sanh, không phải cộng sanh, cũng không phải vô nhân, nên gọi là vô sanh”. Kinh Duy Ma nói: “Tuy biết các cõi Phật, cùng với hữu tình không, mà thường tu Tịnh Độ, để giáo hóa quần sanh”. Lại nói: “Ví như có người tạo lập cung thất, nếu cất ở chỗ đất trống thì tùy ý không ngại. Nếu muốn xây giữa hư không, tất không thể thành. Chư Phật thuyết pháp thường nương theo nhị đế, không phải hoại giả danh mà nói thật tướng của các pháp”. Cho nên người trí tuy siêng cần cầu sanh Cực Lạc, mà rõ sanh thể không thật có. Đây mới là chân vô sanh và cũng là nghĩa tâm tịnh cõi Phật thanh tịnh. Trái lại kẻ ngu bị cái sanh ràng buộc, nghe sanh liền nghĩ là sanh, nghe nói vô sanh lại chấp là không có sanh về nơi nào cả, đâu biết rằng sanh chính là vô sanh, vô sanh há lại ngại vì sanh? Vì không hiểu lẽ ấy, họ sanh lòng tranh chấp thị phi khinh chê người cầu sanh Cực lạc, thật rất sai lầm! Đây chính là kẻ tội nhơn báng pháp, hạng tà kiến ngoại đạo vậy.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
Việt Dịch : Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
26) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ðem một ly nước đổ vào chậu nước thì nước cùng nước dung hòa nhau, không làm sao tìm thấy lằn dấu. Khi trút nước ra, khoảng hư không trong ly hợp với hư không bên ngoài, cũng tuyệt không lằn dấu. Hành giả niệm Phật, nếu trong quên thân tâm, ngoài quên cảnh giới, chẳng thấy mình là người hay niệm, Phật là vị được niệm, thì tâm rỗng rang, hồn nhiên, dung hợp với thể tánh Chân Không. Tâm cảnh ấy chẳng phải là không có chi, vì như thế là lạc vào ngoan không của ngoại đạo. Trái lại, hiện tượng Chân Không ấy sáng suốt vô tận bao hàm muôn pháp, vẫn có đầy đủ màu sắc của cỏ cây, sông, núi, trời mây, vẫn có các phương hướng, cho đến cõi Ta Bà thuộc phương Ðông, cõi Cực Lạc ở phương Tây. Ðó mới đích xác tánh không chân chánh, cũng gọi là Như Lai nhứt thật cảnh giới.
Thuở xưa có vị cư sĩ đến hỏi đạo một cao tăng ở chốn sơn lâm. Bậc thượng nhân này không đáp, chỉ trỏ mây trên trời cùng cái bình đựng nước của mình. Tuy nhiên tuệ căn đã sẵn, vị cư sĩ liền ngộ vào thể đạo, tức thật tánh chân không, liền làm bài kệ, trình lên rằng:
Luyện được thân hình tợ hạc hình
Ngàn thông tươi tốt mấy pho kinh.
Ta nay hỏi đạo không chi khác
Mây ở trời xanh, nước ở bình!
Niệm Phật đến chỗ vô niệm, sẽ dung hợp với tánh không bao la, tìm không thấy mối mang dấu vết, mà vẫn đầy đủ tất cả, không thêm bớt là như thế.
62) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Trong
kinh Pháp Hoa, nơi phẩm Hoá Thành Dụ, đức Thế Tôn có nói đại khái như sau:
"Một vị đạo sư hướng dẫn đoàn người vượt qua đoạn đường hiểm trở xa độ năm
trăm do tuần, để đến nơi bảo sở là chỗ có nhiều châu báu. Nhưng giữa đường đoàn
người ấy mỏi mệt thối tâm, xin muốn lui bước trở về. Ðạo sư nghe nói thương
xót, dùng phương tiện biến ra một hóa thành cách đó ba trăm do tuần và bảo:
"Các ông hãy cố gắng đến thành ấy tạm nghỉ sẽ hết nhọc mệt!". Ðoàn
người vui mừng tiến tới hóa thành, cho rằng mình đã đến nơi, đã được chỗ an ổn.
Khi đạo sư thấy họ đã nghỉ ngơi xong, liền diệt mất hóa thành và bảo: "Vừa
rồi là hóa thành không phải cảnh thật. Ta vì thấy các ông mỏi mệt bỏ dở công
khó muốn lui trở về, nên thương xót phương tiện hóa hiện ra. Nay đã sắp gần tới
bảo sở các ông nên cố gắng gia công tiến bước..."
Theo thí dụ trên, Ðạo Sư chỉ cho đức Như lai. Ðoàn người chỉ cho hành giả tiến
tu theo chánh pháp. Ðường năm trăm do tuần, chỉ cho sự hiểm nguy khổ nạn trong
Ngũ thú luân hồi là: Thiên, nhơn, bàng sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Trông đây không
kể A tu la và thần tiên, vì hai đạo này nhiếp vào các nẻo kia. Như A-tu-la thì
có thiên A-tu-la, nhơn A-tu-la, quỉ A- tu-la, súc A–tu-la. Tiên thì có thiên
tiên, quỉ tiên cho đến súc tiên, chẳng hạn như hồ tiên cho đến long tiên v.v...
Nếu phối hợp với các thừa, thì năm trăm do tuần là sự trải vượt qua năm thừa
gồm: Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát còn kể trong giai đoạn hiểm nguy, vì nếu không nhờ sức
Phật gia bị, tất bị u trệ, khó nỗi tiến lên Phật quả. Nhưng đây là luận rộng
thêm đó thôi, thật ra đường hiểm năm trăm do tuần chỉ cho Ngũ Thú thì thiết cận
hơn.
Tiếp tục theo lời dụ, Bảo Sở chỉ cho Phật Quả Vô Thượng Ðẳng Giác. Cách ba trăm
do tuần, chỉ cho sự vượt khỏi Tam Giới. Hóa thành chỉ cho quả vị giải thoát
phiền hoặc ba cõi của hàng Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Tổng kết đại ý, đức
Thế Tôn muốn nói trong giáo pháp của Ngài, chỉ duy một Phật Thừa, không có sự
chia riêng hai thừa như Tiểu Thừa và Ðại Thừa, hoặc ba thừa như Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát Thừa. Những thừa trên đều toàn giả lập, quả vị Thanh
Văn, Duyên Giác, chỉ là Hóa Thành huyễn tạm mà thôi.
Ðối với pháp Tịnh Ðộ, có người không hiểu rõ môn này, lầm cho Cực Lạc là Hóa
Thành, chẳng phải Bảo Sở. Thật ra Hóa Thành cùng Bảo Sở là cảnh giới tu chứng
của tự tâm, không cuộc hạn nơi quốc độ. Xin nói rõ lại, Hóa Thành là cảnh giới
Thanh Văn, Duyên Giác; Bảo Sở là cảnh giới Phật. Môn Niệm Phật đưa chúng sanh
về Cực Lạc, để mau tiến lên cảnh giới Phật, chứng thành Phật quả. Ðó là đường
lối thẳng tắt tiến về Bảo Sở; chớ đâu phải trụ nơi Hóa Thành. Ðúng ra Ta Bà và
Cực Lạc đều là huyễn cảnh, nhưng Ta Bà có vô lượng khổ nạn chướng duyên, Cực
Lạc đủ vô lượng duyên lành tiến đạo. Bởi thế chư Phật đều khuyên nên cầu vãng
sanh để dễ tiến tu, không còn thuộc giới phàm phu đầy đủ nghiệp lực mà cho Cực
Lạc là Hóa Thành, cam ở cảnh Ta Bà vô lượng chướng duyên hiểm nạn, rất khó được
giải thoát, đó là Bảo Sở đấy ư? Thật là lầm lạc và đáng buồn cười lắm vậy!
Câu "Lối hiểm đều san bằng" hàm ý nghĩa: Khi công phu niệm Phật thuần
thục, về cõi Phàm Thánh Ðồng Cư nơi Cực Lạc thì đã thoát khỏi sự luân hồi trong
đường hiểm Ngũ Thú thuộc Tam Giới, lại thường được gần gũi Phật cùng chư Bồ
Tát, không còn bị chướng ngại và bị thối chuyển trên đường Vô Thượng Bồ Ðề. Tóm lại một câu niệm Phật có công năng mầu
nhiệm san bằng tất cả hiểm nạn trên đường tu, đưa hành giả tiến mau về Bảo Sở,
nên Triệt Ngộ thiền sư mới tỏ bày khen ngợi!
ẨN TU NGẪU VỊNH
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh
Phước huệ tăng-kỳ kết tụ thành
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội
Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.
NHƯ Ý : ĐỨC A DI ĐÀ trong vô lượng vô biên a tăng Kỳ-kiếp đã tu sáu độ muôn hạnh, đến khi thành PHẬT mới có TÔN hiệu ấy. Bởi thế nên Hồng-danh của ngài là sự KẾT TỤ, là tinh túy của TRÍ HUỆ Phước-đức đã tu bồ-tát hạnh trong VÔ BIÊN KIẾP; trong KINH có chỗ nói về 10 CÔNG ĐỨC CỦA SỰ NIỆM PHẬT.
TRÍ ĐỘ LUẬN cũng đề cập đến công năng Thù Thắng của niệm PHẬT tam-muội. Nên NIỆM Phật sẽ tiêu TỘI chướng, sanh PHƯỚC Huệ trừ TÀ ma, trị LÀNH bệnh; hiện ra các tướng Kiết-tường.
Có vị phật tử đến chùa than nghèo khổ, một Sư-cụ bảo: Chỉ sợ MI không thuộc câu A-di-đà, nếu THUỘC CÂU A DI ĐÀ HƯỞNG TỚI GIÀ CŨNG KHÔNG HẾT, chỉ cần phải lưu ý đến chữ THUỘC này.
THUỘC
Là hết lòng thành kính
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng thành kính
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu !!!
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
Đời Diêu Tần, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn-văn ra Hán-văn
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
PHẨM THỨ TƯ
XƯNG TÁN DANH HIỆU
NIỆM PHẬT ĐỂ THÂM NHẬP NHƯ LAI TẠNG TÂM
THÌ KHÔNG DÍNH MẮC VÀO "HIỆN TẠI LẠC TRÚ"
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Một câu A Di Ðà
Như không hợp hư không.
Tuyệt không chút lằn dấu
Nhưng vẫn có Tây Ðông.
Phổ-Hiền Bồ-Tát bèn quán sát tâm niệm của hết thảy đại chúng hiện tiền, mà dạy rằng :
- Nầy Phật tử, khi đức Thế-Tôn Thích-Ca Mâu-Ni thị hiện thành đạo, và bắt đầu hóa độ chúng sanh cang cường, Ngài đã vì hạng tiểu căn mà khai diễn tiểu pháp kẻo họ kinh nghi ... Nay đã tới thời kỳ giảng nói Đại pháp.
Cũng chỉ là một pháp Niệm Phật, nhưng kẻ hạ liệt chí nhỏ, mong cầu xuất ly tam giới, thì niệm Phật chỉ là pháp Thanh-văn, Duyên-giác. Như-Lai vì họ mà dạy HIỆN TẠI LẠC TRÚ.
Riêng chư vị Bồ-Tát sơ phát tâm, dùng niệm Phật để thâm nhập Như-Lai tạng tâm thì không dính mắc vào hiện tại. (HIỆN TẠI LẠC TRÚ)
Đức Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề: "Bao nhiêu thứ tâm-niệm của tất cả chúng-sanh trong ngần ấy cõi nước, đức Như-Lai đều biết rõ. Bởi vì sao? Vì đức Như-Lai nói các thứ tâm đều là chẳng-phải-tâm, đó gọi là tâm. Vì cớ sao thế? Nầy Tu-Bồ-Đề! Tâm quá-khứ không có chi mà đặng,“TÂM HIỆN-TẠI” không có chi mà đặng, tâm vị-lai không có chi mà đặng.
KINH KIM CANG
“KHÔNG CÓ CHỖ TRỤ MÀ TRỤ TÂM”
4.- Hỏi: Mười phương đều có chư Phật và Cực Lạc. Nếu vì lẽ chúng sanh ở cõi nầy tâm tánh trược loạn, niệm nhiều vị Phật e Tam Muội khó thành, tại sao người tu không tùy ý niệm một đức Phật, tùy nguyện cầu sanh về một Cực Lạc nào khác, hà tất phải riêng niệm Đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc?
Đáp: Phàm phu vô trí phải theo lời Phật dạy, chẳng nên tự
chuyên, vì thế xưa nay những người tu Tịnh Độ đều chuyên niệm Phật A Di Đà.
Theo lời Phật dạy là thế nào? Đức Thích Ca Thế Tôn một đời thuyết pháp, hằng khuyên
chúng sanh niệm Phật A Di Đà cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Như trong các Kinh
Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A Di Đà, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm… có
đến mấy mươi bộ, Phật đều ân cần khuyên sanh về Tây Phương. Chẳng những riêng
các Kinh, mà trong các luận, chư Bồ Tát, Tổ Sư đều bảo nên cầu sanh về Cực Lạc.
Lại nữa, Đức Phật A Di
Đà có bốn mươi tám điều đại bi nguyện lực để tiếp độ chúng sanh. Kinh Quán Vô
Lượng Thọ nói: “Phật A Di Đà có tám mươi bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám mươi
bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, mỗi vẻ đẹp phóng ra tám mươi bốn ngàn tia sáng soi
khắp pháp giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật không rời bỏ. Nếu có chúng sanh
nào niệm danh hiệu ngài, thì cơ cảm tương ưng, quyết định sẽ được vãng sanh”.
Các Kinh Phật Thuyết A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Cổ Âm Vương Đà La Ni đều nói: “Khi
Đức Thích Ca thuyết Kinh, hằng hà sa chư Phật ở mười phương đều hiện tướng lưỡi
rộng dài che khắp cõi đại thiên để chứng thật rằng nếu chúng sanh nào niệm Phật
A Di Đà, tất sẽ nương nhờ đại bi nguyện lực của ngài, quyết định được sanh về
thế giới Cực Lạc”.
Nên biết Phật A Di Đà
đối với cõi nầy có nhân duyên lớn. Như Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trong thời mạt,
khi các Kinh khác đã diệt hết, chỉ còn Kinh nầy lưu trú ở đời một trăm năm để
tiếp độ loài hữu tình vãng sanh về cõi kia”. Đây là điểm chứng minh Phật A Di
Đà đối với chúng sanh ở cõi trược nầy có đại nhân duyên.
Về các Cực Lạc khác, tuy một hai bộ Kinh có lược khuyên vãng sanh, song chẳng bằng cõi Cực Lạc là tiêu điểm mà các Kinh Luận đều ân cần khuyến hướng.
TỊNH ÐỘ THẬP NGHI LUẬN
Trí Giả Đại Sư
Việt Dịch : Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
THIẾT
LẬP TỊNH ĐỘ
KINH
A DI ĐÀ THIỀN GIẢI
THÍCH
NHẤT HẠNH
1. BỤT TẠI MƯỜI PHƯƠNG
Kinh A Di Đà là một kinh Đại thừa, thuộc về nền Phật giáo phát triển. Đạo Bụt giống như một cây đại thọ và cũng là một thực tại sinh động. Bất kỳ một cái gì đang sống cũng phải lớn lên. Một cây đang sống thì ngày nào cũng cho thêm cành, lá; cành dài ra thêm, lá mọc nhiều thêm. Có cành mới, lá mới, hoa mới và trái mới thì cây đạo Bụt mới là một thực tại linh động, một cái gì đang sống. Vì vậy, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, đạo Bụt phải phát triển thêm. Đạo Bụt Đại Thừa là những hoa trái phát triển từ cội nguồn Phật giáo nguyên thỉ.
Mình không muốn Đạo
Bụt là một cái xác khô nằm trong Bảo tàng viện mà là một thực tại sống động,
mỗi ngày đều có thêm sức sống. Và vì vậy, mình phải chấp nhận rằng cây Phật
giáo mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm phải có thêm cành mới, lá mới. Đạo Bụt phát
triển không ngừng nhưng vẫn là Đạo Bụt như thường.
Kinh A Di Đà hiện giờ
đang được đọc tụng ở khắp các chùa, dầu là chùa Thiền tông, vì kinh A Di Đà
trình bày một giáo lý rất dễ thực tập. Những người không có căn trí lớn, những
người không đủ Niệm, Định, Tuệ cũng có thể thực tập được kinh A Di Đà. Nói như
vậy, không có nghĩa là những người có căn trí lớn thì không thực tập được. Tại
vì kinh A Di Đà có thể được hiểu rất sâu, cũng có thể được hiểu rất cạn. Người
hiểu sâu cũng có thể thực tập, người hiểu cạn cũng có thể thực tập. Vì vậy
chúng ta cũng phải học kinh A Di Đà bằng một nhận thức hết sức cởi mở, bởi vì
kinh A Di Đà là một giáo pháp có tính cách phổ biến. Người đại căn thực tập
cũng được mà người căn trí nhỏ hẹp thực tập cũng được. Khi người có đại căn
niệm "Nam mô A Di Đà Phật" hay là "Nam mô Bụt A Di Đà" thì
sở kiến và sở đắc rất lớn lao. Khi người có căn trí nhỏ hẹp niệm câu "Nam
mô A Di Đà Phật" thì tuy người ấy cũng có sở kiến và sở đắc nhưng có thể
sở kiến và sở đắc ấy nhỏ bé hơn. Niệm Bụt, ta có thể đạt tới Niệm, Định và Tuệ
rất cao. Ta cũng có thể niệm Bụt mặc dù năng lượng Niệm, Định và Tuệ chưa hùng
hậu. Hiệu quả của câu niệm Bụt có thể lớn hay nhỏ. Đó là do cách hành trì của
chúng ta. Hiệu quả lớn hay nhỏ là do Niệm và Định vững chãi nhiều hay ít.
Vài chi tiết - kinh A
Di Đà
Trước khi đi vào kinh
A Di Đà, chúng ta phải biết một vài chi tiết.
Thứ nhất, trong Đạo
Bụt nguyên thỉ, phương pháp Niệm Bụt đã là một phương pháp rất quan trọng. Niệm
Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên đều là những
phương pháp thực tập có ngay trong thời Bụt tại thế. Phương pháp này được gọi
là Tùy niệm, và ngay trong thời Bụt tại thế đã có nhiều người Phật tử thực tập
Niệm Bụt. Đức Thế Tôn có vững chãi, có thảnh thơi, có từ bi, có hỷ xả, và mỗi
khi nhớ tới đức Thế Tôn thì tự nhiên mình thấy trong người khỏe, có được tính
vững chãi, tính thảnh thơi của đức Thế Tôn. Cho nên thời bấy giờ có nhiều người
niệm Bụt. Người ta thường chắp tay và đọc: "Namo tassa bhagavato arahato
sammā sambuddhassa" (Kính lạy đức Thế Tôn, bậc ứng cúng, bậc Chánh biến
tri). Bhagavato: Thế Tôn, Arahat: ứng cúng, và Chánh biến tri là Sammà
Sambuddhassa. Và sau đó, người ta tụng mười danh hiệu của đức Thế Tôn: ‘‘Đức
Như Lai là bậc ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Bụt, Thế Tôn. Trong
trang 203 của quyển "Thiền Môn Nhật Tụng năm 2.000", quý vị sẽ thấy
có bài "Xưng Tán Tam Bảo", bên trái là tiếng Hán Việt và bên phải là
tiếng Pali.)
Họ đọc mười danh hiệu của đức Như Lai và họ hiểu được mười danh hiệu đó. Mỗi danh hiệu tượng trưng cho một đức tính, một năng lượng của Như Lai. Khi đọc lên các danh hiệu đó thì ta đã thấm được một ít năng lượng và thấy trong người có thêm vững chãi và thảnh thơi. Tiếng Pali: "Iti pi so Bhagavā: Araham, Sammā-sambuddho, Vijjā-carana-sampanno, Sugato, Lokavidu, Anuttaro purisā-damma-sārathi, Satthadeva manussānam, Buddho, Bhagāvati. "Ngày xưa, người ta niệm Bụt như vậy, và niệm Bụt là để có sự vững chãi, thảnh thơi, an lạc. Người ta còn niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới... Vì thế, niệm Bụt là một pháp môn chính thống ở trong truyền thống Phật giáo ngay từ ban đầu. Theo nguyên tắc của pháp môn niệm Bụt thì trước hết hành giả phải nghĩ rằng Bụt là một thực tại ngoài mình. Ngài đang cư trú ở tu viện Kỳ Viên hay trên núi Thứu. Khi niệm Bụt như vậy, tự nhiên mình tiếp xúc được với sự thảnh thơi và vững chãi, với chất liệu Từ, Bi, Hỷ và Xả trong con người của mình. Khi ta bắt đầu thực tập Niệm Bụt, thì Bụt là một thực tại ở ngoài, nhưng từ từ Bụt trở thành một thực tại vừa ở trong, vừa ở ngoài. Tại vì trong tâm thức của ta cũng có những hạt giống của vững chãi và thảnh thơi, của Từ, Bi, Hỷ, Xả, của ứng cúng, của Chánh biến tri, của Minh hạnh túc... như Bụt. Khi ta niệm Bụt như vậy, ta tiếp xúc được vừa với thực tại của Bụt ở ngoài và vừa với thực tại của Bụt ở trong tâm. Nếu ta giỏi thì ta nhận thức ra rất sớm rằng Bụt luôn luôn có mặt trong tâm ta. Nhờ đó nên khi Đức Thế Tôn qua đời, ta không còn than khóc nữa. Ta biết rằng Bụt luôn luôn ở trong ta. Ngài không bao giờ mất. Nguyên tắc chỉ đơn giản như vậy thôi.
Đối với người vừa mới
thực tập niệm Bụt thì Bụt là một thực tại ở ngoài. Nếu người ấy thực tập cho
sâu sắc thì Bụt trở nên một thực tại ở trong tâm. Và vì vậy, dù Bụt ở Tịnh Độ
hay Bụt ở ngoài Tịnh Độ thì Ngài vẫn có mặt trong tâm ta và trong tâm của ta
vẫn thường có Tịnh Độ. Các thầy sau này đã nói rằng Bụt A Di Đà có mặt trong
tâm mình và Tịnh Độ cũng có mặt ngay ở trong tâm mình. Đó gọi là "Duy tâm
Tịnh Độ". Ý niệm - Tịnh Độ là một thực tại ở ngoài, nằm về phương Tây - đó
chẳng qua chỉ là ý niệm ban đầu. Nếu thực tập giỏi thì ta sẽ thấy sâu hơn rằng
Bụt A Di Đà và cõi Tịnh Độ không phải chỉ nằm ở phương Tây mà còn nằm ở trong tâm
mình và ở cả mọi phương. Như vậy, cả người thực tập giỏi lẫn người thực tập
chưa giỏi đều đạt tới kết quả, nhưng đối với người tu tập giỏi thì kết quả rất
lớn, còn người tu tập chưa giỏi thì kết quả chỉ vừa vừa.
Tịnh nhiễm do tâm
Trong Đạo Bụt nguyên
thỉ có kinh Đại Thiện Kiến Vương. Kinh này cũng có trong tạng Pali. Đọc kinh
này, ta thấy khung cảnh rất giống khung cảnh kinh A Di Đà ở trong truyền thống
Bắc Phạn. Trong kinh này cũng có nói đến "Thất trùng lan thuẫn, thất trùng
la võng, thất trùng hàng thọ,... "và ‘‘hoa sen lớn như bánh xe’’. Cảnh
tượng giống hệt như cảnh Tịnh Độ ở kinh A Di Đà.
Hồi đó Bụt sắp tịch,
thầy trò đang đi lên miền Bắc. Có lẽ Bụt muốn trở về thành Ca Tỳ La Vệ để nhập
diệt, nhưng khi tới được thành Câu Thi Na thì Bụt nghĩ rằng mình nhập diệt nơi
đây cũng được. Đây chỉ là một thành phố nhỏ. Thầy A Nan yêu cầu Ngài đừng nhập
diệt ở đây, đợi tới một thành phố nào thật đẹp mới nên nhập diệt. Đó là chiến
thuật của Thầy A Nan. Thầy muốn Bụt chậm nhập diệt giờ phút nào thì quý giờ
phút đó. Thầy A Nan thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, thành phố Kusinagara này nhỏ
xíu, phần nhiều nhà cửa được làm bằng nền đất tường vôi. Đức Thế Tôn đừng nhập
diệt ở đây. Đức Thế Tôn, xin Ngài đợi đến một thành phố nào lớn hơn và đẹp hơn
rồi hãy nhập diệt. "Bụt cười và nói: "Thầy đừng tưởng rằng thành phố
này không đẹp. Ngày xưa, thành phố này đã từng là một Tịnh Độ. Ta đã từng ở
thành phố ấy. "Và Đức Thế Tôn tả cho Thầy A Nan nghe về những nét đẹp đẽ,
phồn vinh và hạnh phúc của quốc độ Câu Thi Vương ngày xưa của vua Đại Thiện
Kiến. Những điều này đã được ghi chép trong kinh Đại Thiện Kiến Vương - Kinh số
68 của bộ Trung A Hàm. Quý vị sẽ thấy là trong kinh A Di Đà cũng có những chi
tiết giống hệt kinh Đại Thiện Kiến Vương.
Trong tạng Pali, kinh
này tên là Mahāssudarsana, nằm trong Trường bộ số 17.Kinh có ghi lời thưa của
thầy A Nan: "Bạch đức Thế Tôn, có những thành phố lớn khác như thành Vương
Xá, Xá Vệ, Ba La Nại,... Tại sao đức Thế Tôn không nhập diệt nơi các thành phố
ấy mà Ngài lại quyết định nhập diệt ở nơi thành phố nhỏ hẹp này - một thành phố
nhỏ hẹp nhất trong các thành phố?”
Đức Thế Tôn nói:
"Này A Nan, Thầy đừng nói rằng đây là một thành phố nhỏ hẹp. Thuở quá khứ,
thành Câu Thi Na này có tên là Câu Thi Vương, giàu có cùng tột, dân chúng đông
đúc. A Nan, thành Câu Thi Vương dài
mười hai do diên, rộng
bảy do diên. Ở đây, người ta đã dựng lên các tháp cao bằng một người, hai, ba,
bốn cho đến bảy người. Này A Nan, thành Câu Thi Vương ở bên ngoài có bảy lớp
hàng rào bao bọc, rào được xây bằng gạch với bốn loại châu báu là vàng, bạc,
lưu ly, thủy tinh; bảy lớp hào thì được rãi bằng cát với bốn lớp châu báu là
vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.
Này A Nan, Câu Thi
Vương được bao bọc bởi bảy lớp tường thành. Ở ngoài các lớp tường thành ấy,
cũng được xây dựng bằng bốn lớp châu báu vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Này A
Nan, thành Câu Thi Na cũng được bao bọc bởi bảy lớp cây đa la. Các cây ấy được
dựng bằng bốn lớp châu báu; cây đa la bằng vàng thì hoa, lá, trái bằng bạc; cây
đa la bằng bạc thì hoa, lá, trái bằng vàng; cây đa la bằng thủy tinh thì hoa,
lá, trái bằng lưu ly và hoa, lá, trái bằng thủy tinh thì cây đa la bằng lưu ly.
Này A Nan, khoảng giữa
cây đa la có đào những ao hoa. Trong các ao ấy có trồng các loại thủy hoa như
hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa sen hồng. Bờ ao hoa ấy có đắp bốn
loại châu báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Ở đây, ao hồ trải cát bằng bốn
loại châu báu vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh. Trong các ao ấy, có thềm cấp bằng
bốn loại châu báu vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Này A Nan, các ao ấy được màn
che ở dưới, có chuông lắc ở giữa, bốn loại châu báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy
tinh; chuông bằng bạc thì quả lắc bằng vàng và chuông bằng vàng thì quả lắc
bằng bạc. “
Nói tóm lại, ở trong
kinh này, ta thấy có những chi tiết về những vẻ đẹp của Tịnh Độ. Các vị Tổ sư
đã có nhiều tác phẩm chú giải kinh A Di Đà và nhiều tác phẩm diễn giải rất sâu
sắc. Chúng ta có thể thừa hưởng được những bộ sách diễn giải đó.
Ở Làng Mai, chúng ta
hãy học hỏi và thực tập kinh A Di Đà theo phương pháp thiền quán hiện pháp lạc
trú để đừng bị chìm đắm, dù là chìm đắm trong những lý thuyết thậm thâm vi
diệu. Chúng ta học hỏi và áp dụng kinh A Di Đà trong đời sống tu tập hàng ngày
của chúng ta, học hỏi và thực tập như thế nào để có hạnh phúc, an lạc, vững
chãi và thảnh thơi, để Đức A Di Đà và cõi Tịnh Độ có thể có mặt trong đời sống
hàng ngày của chúng ta. Vì vậy, trong những buổi giảng về kinh A Di Đà, tôi sẽ
không sử dụng những tác phẩm diễn giảng của các vị Tổ sư đi trước. Chúng ta hãy
học kinh A Di Đà bằng nhãn quan mới, chúng ta nhìn giáo lý của kinh A Di Đà
bằng cách nhìn của đạo Bụt nguyên thỉ.
Ta nên biết rằng niềm
ao ước sâu xa nhất của con người là tìm ra được môi trường sống có an ninh,
tình thương và sự hiểu biết. Tất cả chúng ta đều mong ước có một môi trường như
vậy. Các đức Bồ tát, các đức Thế Tôn cũng thấy được ước muốn của chúng ta và
của mọi loài chúng sanh. Cho nên, bất cứ ai mà thực tập một cách thông minh và
vững chãi đều nghĩ tới sự thành lập những môi trường như vậy, để mình tự nuôi
dưỡng mình, và để mình có thể nuôi dưỡng những người khác. Vì vậy ý hướng thành
lập Tịnh Độ là tâm niệm của tất cả những người tu học. Trong chúng ta, người đã
tu lâu năm hay người mới tu cũng vậy, ai cũng ao ước thiết tha là làm thế nào
để lập ra một khung cảnh trong đó chúng ta được sống có thầy, có bạn, có an
ninh, được che chở, được thương yêu và có điều kiện đi tới trên con đường thành
tựu đạo nghiệp và chuyển hóa khổ đau.
Kinh A Di Đà cũng nằm
trong viễn tượng đó. Đức A Di Đà là người đã từng tu học và cũng đã có ước vọng
đó, nên Ngài đã tạo ra một khung cảnh có an toàn, có tình thương, có những điều
kiện để thực tập. Người chủ trương Tịnh Độ là Bụt A Di Đà, khung cảnh có tên là
Cực Lạc. Chúng ta, ai cũng ôm ấp ước muốn ấy. Chúng ta cũng muốn lập ra một
khung cảnh để an trú, để có nơi đón tiếp những người bạn của mình, những người
thương của mình, mời họ đến đó để cùng chung sống, cùng tu học, cùng hưởng được
sự có mặt của vững chãi, thảnh thơi, tình thương và sự an lạc. Tuy nuôi dưỡng
tâm niệm đó, nhưng có khi chúng ta không có nhiều may mắn. Chúng ta chỉ lập ra
được một cơ sở, rồi chúng ta bị mắc kẹt và chạy theo cơ sở ấy. Chúng ta mất hết
thì giờ để xây dựng cơ sở, nhưng chúng ta lại không tạo ra được một nội dung
cho cơ sở đó. Nghĩa là tạo ra được sự an lạc, hòa hợp và thanh tịnh của một
Tăng thân. Nếu ta không tạo được một khung cảnh có nội dung như vậy, thì ta chỉ
là người làm nô lệ cho khung cảnh mà thôi. Chúng ta phải chạy kiếm tiền để tiếp
tục duy trì và phát triển cái vỏ của những cơ sở ấy, rốt cuộc ta không có thì
giờ để chăm sóc cho bản thân ta và cho những người đến với ta. Từ khởi điểm thì
bản nguyện ta cũng cùng bản chất với bản nguyện của đức A Di Đà, nhưng sau đó
chúng ta bị lầm lạc - lầm lạc đi sang một nẻo khác, đó là nẻo làm chùa. Việc
làm chùa khiến chúng ta trở thành một người bận rộn nhất trên đời. Ta mất hết
thảnh thơi, mất hết an lạc và bản hoài ban đầu của ta, ta không thực hiện được.
Xây dựng và kiến thiết Tịnh Độ là hoài bão của tất cả chúng ta. Nhưng ta phải
khéo léo lắm mới xây dựng được một Tịnh Độ, nếu không, ta sẽ đánh mất bản thân
của ta. Trú xứ ta xây dựng phải có chất liệu an tịnh ta mới gọi nó là Tịnh
Độ
được. Khung cảnh mà
chúng ta muốn tạo lập ra phải có chất liệu "Tịnh" của nó. Tịnh tức là
không có sự ô nhiễm. Sự ô nhiễm nào? Trước hết, ta gọi tên nó là sự bận rộn.
Chúng ta bận rộn quá, bận rộn về chuyện đi cúng, làm đám và xây cất. Chúng ta
đâu có thì giờ để tu học, đâu có thì giờ chăm sóc cho nhau, đâu có thì giờ
thương nhau. Có sự bận rộn là không có tịnh, tức là nhiễm. Cõi của ta là Uế độ,
không phải Tịnh Độ. Chúng ta để tiền bạc thống trị chúng ta, chúng ta để tiền
bạc và quyền lực của nó chi phối chúng ta. Ở trong khung cảnh đó, người nào
cũng muốn làm lớn, cũng muốn có uy quyền với những người khác, người nào cũng
muốn có tiền bạc. Cõi đó đâu còn là cõi Tịnh Độ nữa. Vì trong khung cảnh đó, ta
chỉ thấy có sự ganh tỵ, giận hờn và sợ hãi. Tất cả các yếu tố ấy đều là bất
tịnh. Những gì làm ô nhiễm môi trường thì ta gọi là bất tịnh. Ban đầu thì tâm
chúng ta rất tốt; ta muốn tạo ra một cõi Tịnh Độ. Nhưng vì thiếu khéo léo,
thiếu chánh niệm mà chúng ta đã tạo ra một cõi Uế độ. Bận rộn là yếu tố làm hư
hoại sinh môi của chúng ta, làm ô nhiễm môi trường sống của chúng ta. Ô nhiễm
tiếng Pháp là pollution. Khi tới một đạo tràng, như Đạo tràng Làng Mai, chúng
ta thử hỏi Đạo tràng Mai Thôn có ô nhiễm không? Nơi đó có chuyện tranh giành
quyền bính không? Người ta có suốt ngày lo chuyện tiền bạc, người ta có bận rộn
về chuyện tổ chức quá không? Người ta có thì giờ để tu học, người ta có thì giờ
để thương nhau, để chăm sóc cho nhau không? Người ta có ganh tỵ, giận hờn và sợ
hãi nhau không? Người ta có sống an lạc không? Tất cả những câu hỏi đó ta có
thể trả lời được. Nhờ sự tu tập, nhờ sự quyết tâm của ta mà ta giữ được khung
cảnh thanh tịnh - khung cảnh của sự không ô nhiễm. Đó là Tịnh Độ. Cõi của ta có
thể là Tịnh Độ hay Uế độ, điều đó tùy thuộc theo tâm niệm của những người sống
ở trong cõi đó. Chúng ta có quyền và có khả năng tạo ra một Tịnh Độ để sống với
nhau, chăm sóc nhau, thương yêu nhau, giúp cho nhau tu học và chuyển hóa. Chúng
ta cũng có quyền tạo ra một Uế độ, trong đó sự giành giật, sự ganh tỵ, sự sợ
hãi, tiền bạc và quyền lực đóng vai trò then chốt.
Khi đọc kinh A Di Đà,
ta nghe nói cõi Tịnh Độ (Sukhāvatī) là do đức A Di Đà sáng tạo ra bằng bốn mươi
tám nguyện lực của ngài. Kinh A Di Đà có nói về dân chúng của Tịnh Độ, và về
sinh hoạt hàng ngày của những người trong cõi Tịnh Độ. Sáng sớm, những người
trong nước có thì giờ lấy lẵng vải đi nhặt hoa trên trời rơi xuống để đem cúng
dường các vị Bụt và Bồ tát ở các cõi nước khác. Họ đi bằng thần thông, nên sau
khi viếng thăm và
cúng dường hoa cho các
vị Bụt và các vị Bồ tát ở nước khác rồi mà về vẫn còn dư thì giờ để ăn trưa. Ăn
trưa xong thì đi thiền hành.
Những điều mình ưa
thích nhất trong kinh, mình có thể kể ra. Mỗi khi có gió nhẹ thổi qua, các hàng
cây xao động. Từ trong tiếng xao động của lá cành, nếu lắng tai, mình có thể
nghe được tiếng thuyết pháp về Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo
phần và Tứ thánh đế. Và bay liệng giữa hư không có những loài chim mầu nhiệm. Khi
mình lắng nghe tiếng hót của các loài chim ấy, mình cũng nghe được pháp âm của
các đức Như Lai. Kinh không nói đến một cách trực tiếp hay đầy đủ về phần đóng
góp của dân chúng mà chỉ nói đến thần lực của đức A Di Đà trong việc tạo ra một
cõi Tịnh Độ. Thật ra, trong một khung cảnh sinh hoạt, tất cả những người tham
dự đều có bổn phận đóng góp. Nếu mình biết sống an lạc và thảnh thơi như những
người đang sống ở Tịnh Độ, có thì giờ lắng nghe tiếng gió trong cây, nghe tiếng
chim, đi nhặt hoa cúng dường, ăn cơm và đi kinh hành, tức là mình đã đóng góp
được vào việc kiến thiết Tịnh Độ rồi.
Dầu đức A Di Đà có
thảnh thơi cách mấy, có vững chãi cách mấy, có thương yêu cách mấy, mà những
người vãng sinh về cõi A Di Đà vẫn còn bận rộn, vẫn còn tập quán bước đi như bước
trên than hồng, vẫn chưa nói được với nhau những lời ái ngữ thì cõi đó chưa thể
gọi là một cõi Tịnh Độ được cả. Hãy tưởng tượng trong cõi Tịnh Độ có một người
đang đi như bị ma đuổi, hãy tưởng tượng trong cõi Tịnh Độ có một người đang nói
với người khác bằng giọng trách móc, chua chát. Cõi Tịnh Độ tan biến liền lập
tức. Tịnh Độ là một sáng tạo phẩm cộng đồng của đức A Di Đà và của dân chúng
trong nước đó. Vì vậy, tịnh hay không tịnh, tịnh nhiều hay tịnh ít, điều đó
không phải chỉ do đức A Di Đà mà còn do dân chúng trong cõi ấy nữa. Khung cảnh
mà ta tạo ra ở Âu châu, ở Việt Nam hay ở Hoa Kỳ để cho một số người về tu học
cũng vậy, không phải chỉ là sáng tạo phẩm của người đứng ra thành lập mà là
sáng tạo phẩm chung của tất cả những người đã tới bằng bước chân thảnh thơi,
bằng nụ cười hiền hậu, bằng cái nhìn bao dung, bằng lời nói ái ngữ của họ. Như
thế là mình cùng chung sức tạo ra một cõi Tịnh Độ, trong đó mọi người được sống
an ninh trong tình thương và sự hiểu biết. Cho nên Tịnh Độ phải là một sáng tạo
phẩm cộng đồng mà không phải chỉ là sáng tạo phẩm của một người, dầu người đó
là một người có nhân cách vĩ đại như đức Bụt A Di Đà. Ta hãy tưởng tượng một
người chưa biết đi thiền hành, bây giờ sanh sang bên kia và tiếp tục chạy như
bị
ma đuổi. Đức A Di Đà
sẽ gọi người ấy đến và nói: "Con hãy tới đây, Thầy dạy cho con cách đi
thiền hành". Cố nhiên bên Tịnh Độ có rất nhiều vị giáo thọ, và đức A Di Đà
có thể dặn dò các vị giáo thọ kiên nhẫn dạy phép thiền hành, phép theo dõi hơi
thở và ăn cơm chánh niệm cho những người vừa mới sanh về cõi Tịnh Độ. Một ngày
có không biết bao nhiêu là người sanh về Tịnh Độ, nhiều lắm, mà chắc chắn là
đức A Di Đà có đủ số giáo thọ để lo dạy dỗ và hướng dẫn cho họ.
Nói như vậy để làm gì?
Nói như vậy là để chúng ta thấy rằng: dù đang ở trong cõi Ta Bà, chưa sinh về
cõi Tịnh Độ, nhưng nếu chúng ta đi được từng bước vững chãi và thảnh thơi, nếu
chúng ta biết sử dụng ái ngữ, biết thương yêu nhau và đùm bọc cho nhau, thì
Tịnh Độ đã có thể có mặt ngay tại đây rồi, và chuyện gia nhập vào cõi Tịnh Độ
của đức A Di Đà trở thành một chuyện rất dễ. Vì nếu ngay ở đây ta đã được có
Tịnh Độ rồi thì đi đâu cũng là Tịnh Độ cả. Mình không thể lấy Tịnh Độ ra khỏi
con người của mình được, mình ở đâu là Tịnh Độ ở đó, vì Tịnh Độ ở ngay trong
tâm mình. Và vì đã quyết tâm thực hiện Tịnh Độ cho mình và cho người, nên đi
tới đâu là ta có Tịnh Độ ở đó. Tịnh Độ là sáng tạo phẩm cộng động của mình với
những người tham dự. Và càng thực tập, ta càng thấy rõ ràng rằng đức A Di Đà và
cõi Tịnh Độ là những sáng tạo phẩm của Tâm.
Khổ vui tương tức
Vào thời Lý - Trần,
Thiền tông ở Việt Nam rất vững chãi. Đời Trần, pháp môn Niệm Phật đã trở thành
quan trọng. Tuệ Trung thượng sĩ và vua Trần Thái Tông đã tu thiền. Nhưng hai
người đã bắt đầu thấy được sự quan trọng của pháp môn Tịnh Độ. Cho nên Trần Thái
Tông đã nói về Tịnh Độ và Tuệ Trung thượng sĩ cũng đã nói về đức A Di Đà.
Chúng ta hãy nghe tổ
tiên của chúng ta nói về Tịnh Độ. Trước hết, vua Trần Thái Tông, trong tác phẩm
Khóa Hư Lục - đây là một tác phẩm của vua Trần Thái Tông viết về Thiền - đã viết:
"Niệm Phật là do
tâm phát khởi, tâm phát khởi về nẻo Thiện thì đó là thiện niệm, thiện niệm đã
phát khởi thì thiện nghiệp sẽ đền bồi. Tâm phát khởi về nẻo Ác thì đó là ác
niệm, ác niệm đã sinh thì ác nghiệp sẽ ứng nghiệm. Như kính hiện ảnh, như bóng theo
hình. Cho nên Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói: Ai mà vô niệm, ai mà vô sanh?’’
Đó là ý niệm căn bản
về sự thực tập. Vua Trần Thái Tông nói tất cả đều do tâm. Nếu tâm niệm mình
Thiện thì hành động của mình và nếp sống của mình sẽ là Thiện và mình sẽ được
đền bồi bởi điều Thiện. Và nếu tâm mình khởi ác niệm thì con người mình và hành
động của mình sẽ là Ác. Ác nghiệp đưa tới những hậu quả không có hạnh phúc. Và
vì vậy, khi tâm mình lấy đức A Di Đà và Tịnh Độ làm đối tượng, thì Niệm đó
thành ra Thiện Niệm, mà có Thiện Niệm là có sự đi lên, tức là có hạnh phúc.
Chúng ta hãy nghe vua
nói tiếp: "Nay hành giả muốn khởi Chánh niệm để dứt Tam nghiệp thì cũng
cần mượn công phu Niệm Phật. Vì sao? Vì niệm Phật là dứt trừ được Tam nghiệp.
Khi niệm Phật, thân ngồi ngay thẳng, không hành tà đạo, đó là dứt thân nghiệp.
Miệng tụng chân ngôn (tức là danh hiệu Bụt), không nói lời tà ngữ, đó là dứt
trừ khẩu nghiệp. Ý duy trì tinh tấn mà không khởi tà niệm, đó là dứt trừ ý
nghiệp. "Đây là những giải thích rất đơn giản của vua Trần Thái Tông. Khi
niệm Bụt, thân mình ngồi ngay thẳng, không làm những tà nghiệp, miệng mình
không nói những lời ác độc, ganh tỵ thì cái đó cũng gọi là thiện niệm của thân
và khẩu nghiệp. Ý của mình không nghĩ đến chuyện ganh đua, sợ hãi, tham đắm và
vì vậy, ý
nghiệp của mình cũng
thiện. Thân, khẩu, ý đều hướng về nẻo thiện, đó là kết quả của sự niệm Bụt. Và
như vậy theo vua Trần Thái Tông, niệm Bụt cũng là một hình thức của sự tập
Thiền. Tại vì trong khi tập Thiền, thân khẩu ý đi vào đường chính. Vua lại nói:
"Tuy nhiên, có ba trình độ trí giả. Đối với bậc thượng trí, tâm chính là
Phật, không cần thêm gì vào, chủ thể niệm và đối tượng niệm là một, không phải
là hai thực thể tách rời nhau. Đối tượng và chủ thể niệm vốn bản nhiên thanh
tịnh. Vì thế nên nói rằng như như bất động là Phật thân. Pháp thân và thân ta
không phải là hai hình tướng khác nhau, nó tịch nhiên thường tồn, vượt ngoài
mọi tư duy, nên gọi là Phật đang sống.’’
Ở đây, vua Trần Thái
Tông nói về ba căn trí hay ba trình độ Niệm Bụt. Đối với bậc thượng trí - bậc
cao nhất, thì Bụt không phải là một thực thể ở ngoài, mà nằm ngay trong tâm
mình. "Đối với bậc thượng trí, tâm chính là Bụt, không cần thêm gì vào,
chủ thể niệm và đối tượng niệm là một không phải là hai thực thể tách rời nhau.’’Năng
niệm và sở niệm là một, tất cả đều ở trong tâm, và đối với bậc thượng trí, Tịnh
Độ là Duy tâm Tịnh Độ, và A Di Đà là bản thể vắng lặng, trong suốt của tự tâm.
Tổ tiên của chúng ta
đã thấy được như thế. Nếu niệm Phật mà niệm theo kiểu thượng thừa đó, thì Phật
không phải là một thực tại bên ngoài nữa mà Phật ở trong tâm. Năng niệm và sở
niệm (chủ thể Niệm Bụt và đối tượng là Bụt) không chia cách. Tuệ Trung thượng
sĩ, tên là Trần Quốc Tung, anh ruột của tướng Trần Hưng Đạo, cũng đã làm một
bài kệ bốn câu như sau:
Di Đà vốn thật pháp
thân ta
Nam, Bắc, Đông, Tây
khắp chói lòa Trăng thu ngự giữa trời cao rộng Đêm lặng trùng dương rạng chiếu
xa.
Vua Trần Thái Tông và
Tuệ Trung thượng sĩ là hai cây đuốc sáng của Thiền học đời Trần. Cả hai đều có
nói về Tịnh Độ và cái thấy của họ rất chín chắn. Đối với những vị này, đức A Di
Đà cũng như cõi Tịnh Độ không phải là những thực tại nằm ngoài không gian mà là
một thực tại nằm ngay trong tâm. Và đức A Di Đà, trước hết đối với Tuệ Trung
thượng sĩ, là pháp thân của chính ta:
Tâm nội Di Đà tử mạc
khu
Đông, Tây, Nam, Bắc
pháp thân chu Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt Sát hải trừng trừng dạ mạn
thu.
Pháp thân (Dharmakaya)
là pháp thân của chính mình. Tất cả chúng ta, người nào cũng có nhục thân và
người nào cũng có Pháp thân. Pháp thân của chúng ta là đức A Di Đà. Đó là một
thực tại, không phải là một ý niệm, nó nằm trong không gian, nó có trong thời gian.
Nếu nó là Pháp thân của chính ta, thì nó không phải chỉ có mặt ở phương Tây
thôi, mà còn có mặt ở phương Nam, phương Bắc và phương Đông nữa - "Nam,
Bắc, Đông, Tây khắp chói lòa". Đây là vượt thoát ý niệm "Tùng thị Tây
phương quá thập vạn ức Phật độ". "Tây" là một ý niệm. Nếu đức A
Di Đà là Pháp thân của mình rồi, thì đâu có phải "cõi Tịnh Độ chỉ nằm ở
phía Tây". Nó cũng nằm ở phía Nam, phía Bắc, phía Đông, nó nằm ngay trong
tâm mình - cùng khắp chói lòa. Nghĩa là chỗ nào cũng có mặt Ngài. A Di Đà là ánh
sáng - là vô lượng quang, là vô lượng thọ, nên cõi Tịnh Độ cũng có khi gọi là
"Thường tịch quang" - cõi Tịnh Độ thường tịch quang luôn luôn có ánh
sáng, ánh sáng đó không bao giờ bị ngưng lại, luôn luôn chiếu sáng, nên Bụt
cũng gọi là Vô lượng quang hoặc Vô lượng thọ. Chân tâm của mình là pháp thân
của mình, nó vắng lặng, nghĩa là không bị ràng buộc bởi những ý niệm và danh từ
.Tịch ở đây nghĩa là sự im lặng của tất cả mọi ngôn từ và ý niệm. Và chỉ có ánh
sáng thường trực nên gọi là Thường tịch quang. Vậy thì đức A Di Đà, cũng như
cõi Tịnh Độ, là ánh sáng chiếu soi cùng khắp. Ánh sáng là Pháp thân của mình.
Đây là lời tuyên bố của Tuệ Trung thượng sĩ về A Di Đà và cõi Tịnh Độ: ‘‘Phật A
Di Đà và cõi Tịnh Độ là ánh sáng của pháp thân, không bị ngăn cách bởi không
gian và thời gian.’’ Và cả hai câu sau đây là hai câu của thi sĩ muốn dùng hình
ảnh trăng và biển để làm cho rõ thêm. Thi sĩ phải dùng hình ảnh làm cho rõ lên
điều mình muốn nói:
Trăng thu ngự giữa
trời cao rộng Đêm lặng trùng dương rạng chiếu xa.
Trên kia có trăng và
dưới này có biển lớn. Đi tới đâu ta cũng thấy bóng trăng chiếu xuống. Đứng tại
nơi này cũng thấy bóng trăng, đi tới một trăm cây số nhìn xuống cũng còn thấy
bóng trăng. Bóng trăng ở khắp nơi, nghĩa là ánh sáng của trăng thu này không bị
ngăn cách bởi không gian và thời
gian, giống như pháp
thân A Di Đà trong ta luôn luôn có mặt không chỉ ở phương Tây mà ở khắp nơi.
Trùng dương là biển rộng. Vì biển lặng nên mình thấy trăng thu có mặt khắp nơi.
Đó là hình ảnh mà thi sĩ dùng để diễn tả cái pháp thân A Di Đà của ta. Đó là
quan niệm về A Di Đà và Tịnh Độ của bậc thượng trí.
Bây giờ ta hãy nói đến
quan niệm của bậc trung trí. Chúng ta trở về với lời tuyên bố của vua Trần Thái
Tông: "Đối với bậc trung trí, tất cả đều cần mượn đến phương pháp Niệm
Phật, chuyên tâm tinh cần, niệm trước nối tiếp niệm sau, không vong thất, gián
đoạn, tự tâm thành ra thuần thiện. Thiện niệm được hiện thì ác niệm liền tiêu,
ác niệm đã tiêu thì chỉ còn lại thiện niệm. Dùng thiện niệm để ý thức đến sự có
mặt của khái niệm và dùng khái niệm để diệt trừ khái niệm. Khái niệm đã diệt,
tất nhiên hành giả trở về với chánh đạo. Khi mạng chung thì ta đạt tới niềm vui
Niết bàn. Thường, Lạc, Ngã, Tịnh vốn chính là chất liệu Niết bàn của Bụt vậy.”
Đối với bậc thượng
trí, A Di Đà là Pháp thân của mình và Tịnh Độ cũng nằm trong Pháp thân đó. Đối
với bậc trung trí thì hành giả phải thực tập tinh chuyên niệm Bụt, niệm trước
nối tiếp niệm sau không vong thất, không gián đoạn. Và niệm Bụt trước hết là
niệm cái tâm của mình, trở về với tâm mình trong giây phút hiện tại. Bụt A Di
Đà và cõi Tịnh Độ là đối tượng của Niệm. Mình phải mượn hình ảnh của Bụt A Di
Đà, hình ảnh của ánh sáng, hình ảnh của một cõi không ô nhiễm bởi danh lợi, sân
si, phiền não làm đối tượng của Niệm. Vì niệm bao giờ cũng phải niệm một cái
gì. Niệm là nhớ. Niệm có chủ thể niệm và đối tượng niệm. Và niệm đó phải là
niệm liên tục. Đối với bậc thượng căn, thượng trí thì không cần niệm. Tại vì A
Di Đà vốn là pháp thân của mình, cõi Tịnh Độ vốn là pháp thân của mình. Nhưng
đối với bậc trung trí chưa thấy được A Di Đà là tâm của mình, thì cần phải thực
tập niệm để trở về với giây phút hiện tại, và đối tượng của giây phút hiện tại
là đức A Di Đà và cõi Tịnh Độ. Bậc trung trí luôn luôn nỗ lực để duy trì chánh
niệm để chánh niệm có mặt liên tục. Nhờ sự thực tập liên tục đó mà một ngày
kia, khi đã được thuần thục, ta sẽ đạt tới chỗ vô niệm - nghĩa là không còn
niệm nữa mà A Di Đà và cõi Tịnh Độ vẫn hiện tiền. Bậc trung trí luôn luôn duy
trì thiện niệm, do đó ác niệm không sanh. Tại vì khi mà đức A Di Đà và cõi Tịnh
Độ còn tiếp tục có mặt trên ý thức của mình thì những phiền não không có môi
trường và cơ hội để sinh khởi. Thiện niệm miên mật ngăn được tà niệm, đó là sự
thực tập của bậc trung trí.
"Đối với bậc
trung trí, cần mượn đến phương pháp Niệm Phật, chuyên tâm tinh cần niệm trước
nối tiếp niệm sau không vong thất, gián đoạn, khiến tự tâm thành ra thuần
thiện, đưa hành giả trở về với chánh đạo".
Lúc đó hành giả từ nơi
niệm trở về với vô niệm nghĩa là không cần phải niệm nữa mà ánh sáng của Bụt A
Di Đà vẫn hiện ra ở nơi tâm mình.
"Đối với bậc hạ
trí, miệng phải chuyên niệm lời Bụt, tâm phải mong thấy tướng Bụt và phải
nguyện sanh về nước Bụt. Ngày đêm siêng năng tu hành không thối chuyển, sau khi
mạng chung, tùy thiện niệm của mình mà sanh về nước Bụt. Sau đó, được nghe
chánh pháp do chư Phật giảng dạy mà cũng chứng được quả vị Bồ đề. Đây là sự
thực hành Tịnh Độ của bậc hạ trí.”
Hạ trí thì dùng cả
thân, khẩu, ý để niệm Bụt nghĩa là phải niệm Bụt bằng miệng và tâm phải mong
thấy tướng Bụt. Vì sao? Bậc hạ trí chưa có trí tuệ lớn để có thể thấy được đức
A Di Đà và Tịnh Độ chính là pháp thân của mình. Bậc hạ trí nghĩ rằng đức A Di
Đà và cõi Tịnh Độ là ở phương Tây và phải sử dụng danh hiệu "Nam mô Bụt A
Di Đà" hoặc "Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại từ, đại bi A Di
Đà Phật". Họ phải sử dụng âm thanh niệm Bụt, phải nương vào hình ảnh của
Bụt để có thể quán tưởng. Tại vì người sơ cơ cần có những hình ảnh và âm thanh
làm điều kiện để duy trì chánh niệm. Và đối tượng của chánh niệm là Bụt A Di Đà
và cõi Tịnh Độ ở phương Tây.
Như vậy, bậc thượng
trí tu theo thượng trí, bậc trung trí tu theo trung trí, bậc hạ trí tu theo hạ
trí, tu tập theo bậc nào thì có lợi ích theo bậc đó. Do đó kinh A Di Đà đáp ứng
được cho cả ba trình độ tu tập, cho nên mình đừng bắt buộc người khác phải thực
tập Tịnh Độ giống hệt như mình. Đây là điều hết sức tế nhị. Mình không có quyền
nói rằng phương pháp thực tập của tôi mới đúng, còn phương pháp thực tập của
anh là sai. Ta phải biết rằng mọi phương pháp tu tập chỉ là phương tiện đưa
người thực hành đi tới với Tịnh Độ, hay đi tới với sự an toàn và hạnh phúc. Và
mỗi người đi tới với Tịnh Độ tùy theo căn trí của mình. Căn trí đã khác nhau,
người thì bắt đầu từ chỗ này, người thì bắt đầu từ chỗ kia. Vì vậy, nhận thức
của mình về sự thực tập Tịnh Độ phải là một nhận thức rộng rãi mới được. Đạo
Bụt có tám mươi bốn ngàn pháp môn; nếu may mắn thì mình tìm ra được một trong
các pháp môn ấy và sự thực tập đem lại cho mình hạnh phúc.
Ta hãy cẩn thận đừng nói
chỉ có pháp môn của ta mới đúng còn các pháp môn khác là không đúng. Nói như
vậy là không hợp với tinh thần đạo Bụt. Vì vậy giáo lý Tịnh Độ có thể nói là
một hình thức thực tập của Thiền. Tịnh có thể là Thiền mà Thiền cũng có nghĩa
là Tịnh. Đứng về phương diện Thiền ta có thể thấy rằng Tịnh Độ là một thực tại
có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Khi mình bước đi những bước chân vững
chãi và thảnh thơi, khi hơi thở của mình đưa lại sự vững chãi, thảnh thơi và
đem lại an lạc thì Tịnh Độ hiện tiền ngay trong giây phút này. Vì vậy, mình
không thấy sự khác biệt giữa Thiền và Tịnh. Khi sử dụng âm thanh để niệm Bụt,
sử dụng hình ảnh để quán chiếu về Bụt mà ta có được một ít năng lượng Chánh
niệm và Tam muội thì lúc đó Thiền đang có mặt trong ta. Như vậy Thiền và Tịnh
chỉ khác nhau ở danh từ mà không khác nhau ở bản chất. Ta cần có cái nhìn tương
tức như thế khi đi vào kinh văn:
"Đây là những
điều tôi đã được nghe Bụt nói vào một thời Người còn cư trú ở tu viện Cấp Cô
Độc, trong vườn cây của Thái tử Kỳ Đà. "Đó là lời của Thầy A Nan.
"Hồi đó cùng ở bên Bụt có một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ, trong đó
có những vị A La Hán đệ tử lớn của Bụt mà ai cũng biết đến như các thầy Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Câu Hy La, Ly Bà Đà, Châu Lợi Bàn Đà
Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lư
Đà Di, Kiếp Tân Na, Bạt Câu La và A Nậu Lâu Đà.”
Tất cả những tên gọi
này chúng ta đều có tiếng Phạn ở trong bản tiếng Anh. Nếu có thể được, thì quý
vị hãy tìm hiểu về từng người, tại vì trong kinh có ghi chép về từng vị. Chúng
ta nghe tên quý vị nhưng chúng ta cũng phải biết sơ lược công hạnh của sự thực
tập, cũng như bản tính của từng người. Hiện nay, chúng ta đã có những cuốn sách
nói về quý thầy, và khi đọc những cuốn sách đó, chúng ta có một ít nhận thức về
tánh tình, sự hành trì và trí tuệ của từng người. Sự hiểu biết như vậy là rất
quý!
"Lại cũng có mặt
các vị Bồ tát đại nhân như Văn Thù, A Dật Đa, Càn Đà Ha Đề, Thường Tinh Tấn, và
rất nhiều các vị Bồ tát lớn như thế, cùng với chư thiên như Thích Đề Hoàn Nhân,
nhiều đến vô lượng, đều cùng có mặt.”
Tất cả những danh từ
đó, chung và riêng, chúng ta có thể học hiểu thêm từ những tác phẩm chú
giải.
"Lúc bấy giờ Bụt
gọi thầy Xá Lợi Phất và bảo: Từ đây đi qua phương Tây, cách khoảng mười vạn ức
cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực Lạc, trong cõi ấy, có một vị Bụt tên là A
Di Đà, hiện đang thuyết pháp.”
Chúng ta biết rằng
kinh này thuộc về loại kinh "vô vấn tự thuyết" nghĩa là tuy không có
ai hỏi cả mà Bụt tự nhiên nói ra. Bụt Thích Ca giới thiệu đức A Di Đà và cõi
nước Cực Lạc nằm về phía Tây. Nằm về phía Tây, nghĩa là lúc đó Bụt ngồi tại tu
viện Cấp Cô Độc và Ngài chỉ về phía Tây của Ngài. Nếu lúc ấy ta ngồi ở bên kia
bán cầu thì Tịnh Độ lại nằm ở phương Đông của ta. Chỉ điều đó thôi cũng đủ cho
chúng ta thấy rằng ý niệm Tây, Đông là không quan trọng.
Bây giờ chúng ta hãy
tìm đọc câu kinh định nghĩa về Cực Lạc: "Này Xá Lợi Phất, đất nước ấy vì
sao gọi là Cực Lạc? Bởi vì dân chúng trong nước ấy không biết khổ là gì, chỉ
hưởng thụ mọi thứ an lạc, cho nên cõi ấy được gọi là Cực Lạc." Nếu ta hiểu
được câu kinh này thì ta khỏi cần học thêm kinh nào nữa hết. Câu kinh ấy trong
văn hệ chữ Hán như sau: "Kỳ độ chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ chư
lạc, cố danh Cực Lạc. "Đây là định nghĩa về Cực Lạc. Chúng sanh ở trong
cõi nước đó không biết khổ là gì, chỉ hưởng thụ hạnh phúc mà thôi. Vì vậy, cõi
đó gọi là cõi Cực Lạc. Câu kinh này có thể được xếp loại vào các kinh văn
"bất liễu nghĩa". Bất liễu nghĩa là chưa đạt tới cứu cánh. Tôi còn
nhớ ngày xưa ở Phật học đường Báo Quốc có một học tăng tên là Viên Giác, bổn sư
của Thầy Tịnh Từ, viện trưởng tu viện Kim Sơn bây giờ. Hồi đó là mùa thi lên
lớp. Sau khi làm bài rồi thì đến lượt thi vấn đáp. Thầy Viên Giác được gọi tên,
các học tăng khác ngồi dưới. Hôm đó thi kinh A Di Đà. Các thầy giáo thọ còn hỏi
lại: Cực Lạc nghĩa là gì? Thầy Viên Giác hơi có tự ái, tại vì cho rằng mình đã
học lên trung học rồi mà các thầy giáo thọ còn bắt mình định nghĩa thế nào là
Cực Lạc. Thầy Viên Giác không vui và thầy nói liều: ‘‘Cực là cực khổ, Lạc là
hạnh phúc’’. Chữ "Cực" có nghĩa là rất; Cực Lạc là rất sung sướng chứ
không phải là cực khổ và sung sướng. Vì tự ái nên thầy đã trả lời như vậy, chứ
không phải là thầy không hiểu nghĩa chữ Cực lạc. Các thầy giáo thọ đều thấy
điều đó, nên ai cũng cười.
Khi đọc câu kinh này,
mình thấy được lòng từ bi của đức Thế Tôn. Vì sao? Vì trong chúng ta, ai cũng
muốn trốn chạy khổ đau, tìm tới một cõi không có khổ đau. Phần lớn chúng ta đều
là những người nhát gan, đều là những
người yếu đuối, chúng
ta ai cũng sợ đau khổ, chúng ta ai cũng chạy trốn đau khổ, ai cũng muốn đi tìm
tới một cõi không có khổ đau. Đó là tính người. Bụt thấy được điều đó, nên Bụt
nói: "Có một cõi không có khổ đau, chỉ toàn là hạnh phúc." Nghe như
thế, chúng ta tỉnh người ra và vễnh hai tai lên nghe. Thi sĩ Chế Lan Viên viết
như thế này:
“Hãy cho tôi một tinh
cầu giá lạnh Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
Để nơi ấy tháng ngày tôi
lẫn tránh Những ưu sầu, đau khổ với buồn lo.”
Thi sĩ ưu sầu, đau
khổ, buồn lo nhiều quá đi, nên bây giờ muốn đi tới một vì sao, xa bao nhiêu
cũng được, nơi mà ông có thể trốn chạy được những ưu sầu, đau khổ và buồn lo ấy
trong cuộc sống hiện tại.
Tội nghiệp cho thi sĩ
quá! Trong khi đó, với sự quán chiếu của tương tức, không thể có cái gọi là vui
mà không đi theo cái gọi là khổ. Cũng như vậy, không thể nào có cái rác nào mà
lại không thể biến thành hoa, cũng không thể nào có cái hoa nào mà lại không
biến thành rác. Cũng như cái bên phải và bên trái. Nếu không có bên phải thì
làm gì có bên trái, nếu không có bên trái thì làm gì có bên phải. Cái khổ với
cái vui cũng vậy thôi. Mình đi tìm một cõi mà trong đó chỉ có cái vui mà không
có khổ, đó có phải là một không tưởng không? Ở đây, đức Thế Tôn có muốn hiến
tặng cho chúng ta một cái không tưởng hay không? Nếu chúng ta không biết đói là
gì, thì khi ăn cơm chúng ta sẽ không có hạnh phúc. Sở dĩ ăn cơm mà có hạnh phúc
là vì chúng ta đã biết đói là gì. Hãy tưởng tượng một người chưa bao giờ biết
đói. Người đó có ăn cái gì đi nữa, thì cũng không có hạnh phúc. Những người
chưa bao giờ bị rét thì không thấy được cái hạnh phúc của người được mặc áo ấm,
hoặc những người chưa bao giờ nếm mùi địa ngục thì không thể nào thấy được giá
trị của Thiên đường. Rõ ràng là nếu chúng ta không biết khổ là gì thì chúng ta
không thể nào biết vui là gì. Vì vậy, một cõi không có khổ mà chỉ có vui là một
cõi hoàn toàn không tưởng. "Dân chúng trong nước đó không biết khổ là gì,
chỉ hưởng thụ mọi thứ an lạc, nên cõi ấy được gọi là Cực Lạc. "Câu đó có
phải là một câu kinh "liễu nghĩa" hay không, hay là một câu kinh
quyền nghĩa? Cho nên câu kinh này là một câu kinh có thể làm cho chúng ta mất
ngủ.
Chúng ta có thể đi sâu
vào câu kinh này để giải thích rằng cái Lạc của cõi Tịnh Độ không phải là cái
Lạc tương đối mà là cái Lạc tuyệt đối, vượt thoát ra khỏi cái vui khổ tầm
thường, nhưng điều đó cũng chỉ nằm trong phạm vi triết học và lý luận. Cũng như
nói là: "Thiên hạ đua nhau nói khổ vui, có chi là khổ, có chi vui"
rồi kết luận: "thà rằng đừng khổ cũng đừng vui. "Đừng khổ, đừng vui
mới là cái vui tuyệt đối, nói như vậy cũng chỉ là lý thuyết thôi. Sự thật có
những người trong chúng ta rất sợ đau khổ, có những người nghĩ rằng có thể chạy
trốn đau khổ, đi tìm tới một chỗ không có đau khổ. Ta biết họ đang khao khát
như vậy, nên ta mới thiết lập phương tiện để hiến tặng cho họ một tia hy vọng,
nói rằng có một cõi không có đau khổ mà chỉ thuần là hạnh phúc thôi, đó là cõi
Cực lạc.
Sư em Kính Nghiêm có
một đứa em gái tên là Ánh, mười hai tuổi. Nó tới Làng Mai và tuyên bố một câu
động trời: "Con muốn sống ở một nơi mà buổi sáng có hạnh phúc, buổi trưa
có hạnh phúc, buổi chiều có hạnh phúc. "Theo ý nó thì chỉ có Làng Mai mới
được như vậy thôi. Nếu ở lâu tại Làng Mai chừng ba, bốn tháng thì nó sẽ biết
hạnh phúc ở chỗ là tuy mình có đau khổ nhưng nếu mình biết chuyển hóa đau khổ
thì hạnh phúc sẽ có mặt. Cái khổ ở bên cạnh nhắc mình nhận diện ra hạnh phúc
cũng ở bên cạnh. Nếu không có cái khổ đó thì mình không biết được là hạnh phúc
đang có mặt. Do đó cõi Cực Lạc của chúng ta, nếu quả thực là một cõi Cực Lạc
đúng theo nghĩa của nó, thì phải có những dấu hiệu của khổ đau để người ta được
nhắc nhở rằng: Anh đang được hạnh phúc. Có rất nhiều người đang ở Thiên đường
nhưng không biết là họ đang ở Thiên đường, tại vì họ không biết hoặc chưa biết
khổ đau là gì.
Xin đại chúng hãy tổ
chức pháp đàm về câu kinh này. Đọc câu kinh này, trước hết ta thấy được lòng từ
bi của Bụt. Bụt thấy rằng con người yếu đuối, con người đau khổ, con người muốn
chạy trốn khổ đau và Bụt nói rằng có một cõi, nơi ấy chỉ có hạnh phúc thôi,
không có đau khổ. Đây là một Hóa Thành (a magic city) - một thành phố do nhà ảo
thuật biến hiện ra để cho đoàn người, sau bao nhiêu ngày đi mệt mỏi, có một chỗ
để mà nghỉ ngơi. Sau thời gian nghỉ ngơi, đoàn người đó có khả năng lên đường
trở lại - đây là một hình ảnh trong kinh Pháp Hoa. Một đoàn người đang đi kiếm
châu báu. Sau bao nhiêu tuần lễ trèo non, lặn suối, đoàn người đó mệt nhoài và
trong tâm có người muốn thoái lui. Vị Đạo sư - người dẫn đường - nói rằng:
"Các người cố gắng đi, gần đây có một thành phố. Nếu chúng ta đi
thêm
bốn, năm giờ nữa thì
chúng ta sẽ tới thành phố đó thì chúng ta sẽ được nghỉ ngơi, ăn uống, tắm rửa.
Khi nghe như vậy, đoàn người có năng lượng thêm và họ đi thêm được bốn, năm
giờ. Sau đó, người lãnh đạo dùng phép thần thông của mình biến hiện ra một
thành phố gọi là Hóa Thành. Hóa tức là biến hiện. Tất cả những người kia thấy
thành phố liền tìm nơi đi rửa chân, rửa mặt, tắm rửa, ăn uống, nằm ngủ. Sáng
mai thức dậy, thì thành phố đó biến mất, vì thành phố đó chỉ là một hóa thành.
Tôn giáo, nói chung,
có mục đích là để an ủi con người, để làm dịu bớt những đau khổ của cuộc sống,
hứa hẹn một nếp sống ít đau khổ, nhiều an lạc. Vì vậy tôn giáo hay cống hiến
cho chúng ta một cái gọi là Thiên đường và cho chúng ta nuôi một niềm hy vọng.
Đạo Bụt cũng có thể được diễn tả như là một tôn giáo, nhưng sự thật đạo Bụt
không phải chỉ là một tôn giáo. Đạo Bụt còn là một nền đạo đức có nhiệm vụ đáp
ứng lại những nhu yếu đích thực của con người. Và bản hoài của đức Thế Tôn là
đưa ra những biện pháp cụ thể, giúp con người chuyển hóa khổ đau, đạt được an
lạc. Đó là cái chính. Nhưng con người còn có những nhu yếu khác, nhu yếu bám
víu vào một niềm tin, nhu yếu chạy trốn khổ đau. Có những người không đủ khả
năng tu tập để chuyển hóa khổ đau, họ chỉ muốn chạy trốn khổ đau để tìm tới an
lạc thôi. Vì vậy, đạo Bụt cũng phải tạo tác ra những phương tiện và những câu
giải đáp cho những người đó. Đạo Bụt không phải dành riêng cho bất cứ ai. Bậc
thượng căn, thượng trí không bị bỏ đã đành; bậc trung căn, trung trí không bị
bỏ đã đành, mà bậc hạ căn, hạ trí cũng không bị bỏ. Cho nên chúng ta có thể
hiểu được câu kinh này. Chúng ta thấy được lòng từ bi bao la của đức Thế Tôn
trong câu kinh này. Ban đầu chúng ta nói câu kinh này không phải là một câu
kinh liễu nghĩa, tại vì nếu là liễu nghĩa thì nó phải chứa đựng tuệ giác tương
tức, nghĩa là không có cái này thì không có cái kia. Nếu chúng ta nhìn sâu hơn nữa
vào những nhu yếu của con người, những nhu yếu đa dạng của con người, thì chúng
ta có thể hiểu được câu kinh này và câu kinh có thể được nhận thức là liễu
nghĩa.
Diệu dụng pháp thân
‘‘Này nữa, Xá Lợi
Phất! Ở nước Cực Lạc có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây,
tất cả đều được làm bằng bốn thứ châu báu, bao quanh giáp vòng, vì vậy cõi ấy
được gọi là cõi Cực Lạc.’’
Câu kinh này nói về y
báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Y báo là môi trường và hoàn cảnh tương hợp
với chánh báo. Chánh báo chính là bản thân đức Bụt A Di Đà. Y báo bao gồm cả
nhân dân và cõi nước. Y báo và chánh báo trang nghiêm của cõi Tịnh Độ là do bản
nguyện của đức Bụt A Di Đà và nhân dân của cõi nước ấy tạo nên. Cũng vậy, y báo
và chánh báo của cõi Ta Bà đều do nghiệp lực cộng đồng của chúng sanh ở cõi này
tạo tác ra. Nghiệp lực của chúng sanh nơi cõi Ta Bà này được tạo nên bằng ngũ
dục. Nhân dân cõi này luôn luôn lao mình vào ngũ dục, do đó chất liệu Tịnh Độ
biến mất, không còn nữa.
Tại sao Bụt Thích Ca
nói ở cõi Tịnh Độ không có mặt ba con đường ác? Một mặt thì Bụt A Di Đà thuyết
pháp, một mặt thì chim chóc nhắc nhở và giúp mình đi về nẻo hướng thượng, thì
làm sao mà có tam ác đạo được? Chỉ trừ khi nào ta chán Tịnh Độ và muốn bỏ đi.
Điều này là do ta mà ra. Tâm ta bất an. Bất an nên không an trú được. Ta đã
sinh về Tịnh Độ với một ít hành trang phiền não; còn giận, còn ganh, còn được
muốn biệt đãi. Sinh về Tịnh Độ rồi, ta thấy Bụt A Di Đà không dễ thương như ta
đã tưởng. Cái mặt ngài cứ lầm lầm lì lì, không chú ý nhiều tới ta. Ngoài những
giờ thuyết pháp, ăn cơm và đi thiền hành với dân chúng, Ngài chỉ bàn chuyện với
các vị Bồ Tát lớn. Các vị Bồ tát lớn cũng thế, họ để ý tới ta ít quá, vì họ
suốt ngày bận rộn hướng dẫn cho những người vừa được vãng sinh tới. Số người
vãng sinh qua Tịnh Độ hàng ngày sao mà đông quá, các vị Bồ tát phải lo cho họ,
nên không còn thì giờ để chú ý tới ta. Không được biệt đãi, ta chán, ta ghét,
ta ganh tỵ và ta muốn bỏ đi. Ta tới tuyên bố với Bụt A Di Đà như thế. Đức Bụt A
Di Đà sẽ nói: ‘‘Tội nghiệp cho con. Con không muốn ở đây, con lại muốn trở về
bên đó. Ở đây thì con có Tăng thân, có Bụt, có chim, có hồ sen, có đủ điều kiện
để giữ cho con đừng đi thối lui. Nhưng nếu lòng trần của con đã biểu hiện và
con muốn trở về với cõi Ta Bà thì con sẽ đánh mất Tịnh Độ và Tăng thân
này.’’
Tăng thân là một môi
trường có khả năng hiến tặng cho ta sự an ninh. Tăng thân với hai vòng tay vững
chãi giữ ta lại trên con đường giới, định và tuệ. Vì vậy chúng ta phải quyết
tâm ở lại với Tăng thân. Chúng con nguyện một lòng về nương tựa Tăng thân. Cõi
Tịnh Độ là một trong những Tăng thân quý báu nhất.
Khi đi vào bếp nấu
cơm, ta cũng có thể tu chánh niệm được. Đến phiên ta nấu cơm cho đại chúng, ta
vào bếp, thắp một cây hương, dâng hương, rồi bắt đầu nấu cơm. Trong suốt thời
gian một giờ rưỡi hay hai giờ làm việc dưới bếp, ta biết thực tập theo dõi hơi
thở, biết là ta đang xắt gọt, rửa nồi hay xào nấu, v.v… trong chánh niệm. Do đó
ta vẫn còn đang an trú trong cõi nước Cực Lạc. Còn nếu không biết tu thì ta vừa
làm vừa giận, vừa làm vừa buồn, vừa ganh, vừa làm vừa nói xấu người khác, thì
tuy cũng là khung cảnh ấy nhưng đó lại là cõi Ta Bà. Nếu ta có giới, định và
tuệ, tức là có sự thực tập, thì nhà bếp là Tịnh Độ chứ không phải là Ta Bà. Tất
cả đều tùy nơi ta.
Bất cứ một cái gì ta
thấy được và tiếp xúc được đều có thể biến thành pháp khí. Cái chổi hay cái nồi
cũng là pháp khí, cái gì cũng có thể trở thành một điều kiện thuận lợi cho sự
tu học của ta. Đó là tài năng của đức A Di Đà. Tài năng của đức A Di Đà là sử
dụng tất cả những gì đang có mặt để đưa dân chúng của mình đi lên trong sự tu
học. Tài năng của Tăng thân cũng vậy, từ chuyện nấu nướng, dọn dẹp, làm vườn,
cho đến việc chăm sóc cây cảnh, tất cả những cái đó đều trở thành phương tiện
tu học. Chúng ta phải sử dụng tất cả những yếu tố kia để đi tới trên con đường
tu tập và chuyển hóa.
Trong một cõi Tịnh Độ,
người ta cũng có nấu cơm, ăn uống, đi hái hoa cúng Bụt, nghe kinh và đi thiền
hành; mọi người thảnh thơi và an lạc trong khi làm những việc ấy. Cõi ta đang ở
cũng vậy thôi. Không cần phải qua bên đó ta mới làm được những chuyện kia. Ngay
bây giờ ta cũng có thể làm được những chuyện mà bên ấy người ta đang làm, tức
là hái hoa, cúng Bụt, tụng kinh, nghe kinh, rửa chén, ăn cơm, đi kinh hành...
Cõi Tịnh Độ đang có mặt cho chúng ta. Chỉ có một điều đáng hỏi là chúng ta đang
có mặt cho cõi Tịnh Độ hay không mà thôi.
Trong khung cảnh Tăng
thân, mỗi khi chúng ta rửa nồi, pha trà, đi tắm hay làm vườn, mỗi hành động và
mỗi bước chân của chúng ta đều phải trở
thành một lời thuyết
pháp. Bước đi một bước, đó là một bài thuyết pháp; nâng chén trà lên để uống
cũng trở thành một bài thuyết pháp. Bởi vì trong khi nâng chén trà lên ta có sự
vững chãi, thảnh thơi và ung dung. Uống trà như vậy là thuyết pháp. Ăn cơm như
thế nào để có hạnh phúc và an lạc trong khi ăn, thì ăn cơm cũng là thuyết pháp.
Nhìn vào ta, người khác thấy một vị Bồ tát đang sống trong Tịnh Độ. Điều này
không phải đợi tới ngày mai ta mới làm được. Ta phải làm được ngay ngày hôm
nay. Làm được một ngày là ta đã đi đến Tịnh Độ được một ngày.
Vì muốn làm cho pháp
âm được tuyên lưu rộng rãi trong xứ của Ngài, đức A Di Đà đã sáng tạo ra các
loài chim mầu nhiệm. Cũng vậy, muốn cho pháp môn và giáo lý của đức Bổn Sư được
thấm nhuần trong Tăng thân, chúng ta cũng phải sáng tạo như thế. Mỗi cử chỉ,
lời nói và ý tưởng của ta đều phải trở nên một phương tiện để thuyết pháp. Ta
phải tham dự vào sự nghiệp của Pháp thân, vì Pháp thân là thân của Pháp, thân
luôn luôn biểu hiện Pháp. Một bài thuyết pháp của ứng thân hay Hóa thân có thể
dài tới một giờ rưỡi hay là hai giờ. Nhưng thế nào ứng thân cũng phải dừng lại
để nghỉ ngơi, để ăn cơm. Còn Pháp thân thì khác, pháp thân thuyết pháp liên tục
không ngừng. Thuyết pháp bằng chim, bằng mây, bằng gió, bằng bước chân hay bằng
hơi thở. Vì vậy chúng ta phải tham dự vào sự nghiệp của Pháp thân. Chúng ta
thuyết pháp bằng đời sống hàng ngày của chúng ta. Ta thuyết pháp bằng hai bàn
tay, bằng hai bàn chân, bằng cái miệng trong khi ăn hoặc khi nói và bằng hai
con mắt trong khi nhìn. Bổn phận của người sống trong Tịnh Độ là phải tham dự
vào sự nghiệp của Pháp thân. Nghĩa là phải thuyết pháp bằng đời sống hàng ngày
của mình.
Ngày xưa thánh Gandhi
có nói rằng: ‘‘Đời sống của tôi là bức thông điệp của tôi’’(My life is my
message). Thông điệp không được viết trên giấy mà được viết bằng đời sống hàng
ngày. Một bài thuyết pháp cũng vậy, không phải chỉ làm bằng ngôn ngữ và danh
từ. Bài thuyết pháp còn được làm bằng bước chân, hơi thở, động tác và cái nhìn
của ta. Tham dự vào sự nghiệp của Pháp thân là điều chúng ta có thể làm được
hàng ngày. Nhìn vào cách ta đi, đứng và tiếp xử hàng ngày tự nhiên người ta
sinh lòng kính ngưỡng và phát tâm tu tập. Như vậy, ta đã là một phần của đức
Bụt Di Đà.
“Xá Lợi Phất, ở nước
Bụt ấy, mỗi khi có gió nhẹ xao động các hàng cây và các màn lưới châu báu thì
người ta được nghe những âm thanh vi
diệu, giống như là có
trăm ngàn nhạc khí cùng được tấu lên một lần. Người dân nước ấy mỗi khi nghe
các âm thanh kia thì đều nhiếp tâm niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng.”
Hiện tượng này ở đâu
cũng có. Mỗi khi có gió đi ngang các hàng cây tùng hay các hàng cây phong thì
âm thanh cũng mầu nhiệm vô cùng. Trong kinh không nói tới mưa, nhưng tiếng mưa
cũng êm đềm dễ chịu lắm. Những cơn mưa có khi rạt rào, có khi êm đềm làm cho
tâm hồn ta dịu lại và ta nghe trong tiếng mưa có âm nhạc của chư thiên, có
tiếng thuyết pháp. Nếu nhìn kỹ cõi Ta Bà với tất cả niệm và định, ta sẽ thấy
cõi Ta Bà này đẹp lắm. Tôi nghĩ rằng cõi Tịnh Độ có đẹp cách mấy thì cũng chỉ
đẹp bằng cõi Ta Bà mà thôi. Tất cả những gì ta thấy ở cõi Tịnh Độ thì bên này
ta cũng có thể thấy được cả. Chúng ta đã từng nghe các vị tổ sư nói: ‘‘Tịnh Độ
ở trong tâm mình.’’ Trong tâm mình có sự nhẹ nhàng, có sự cởi mở, có sự thanh
thoát thì tự nhiên nhìn cái gì cũng thấy là Tịnh Độ cả.
‘‘Mỗi khi có gió nhẹ
xao động các hàng cây và các màn lưới châu báu thì người ta được nghe những âm
thanh vi diệu...’’
Chúng ta nghĩ rằng ở
tiệm kim hoàn mới có những hạt châu báu, nhưng kỳ thực những hạt sương long
lanh trên ngọn cỏ cũng đẹp và còn đẹp hơn cả kim hoàn nữa là khác. Và hay nhất
là không có ai muốn ăn cắp hoặc chiếm hữu. Tại vì ở đâu cũng có và chúng đẹp vô
cùng. Nói rằng những hàng cây bên đó làm bằng châu báu, nhưng những hàng cây
làm bằng châu báu thì làm sao đẹp bằng những hàng cây thật. Trên bàn Bụt, thỉnh
thoảng ta dâng cúng những hoa sen làm bằng gỗ, bằng bạc, bằng ngọc hay bằng
vàng nhưng những bông sen dâng lên trên bàn Bụt làm bằng vàng hay bằng ngọc thì
không thể đẹp bằng những bông sen thật. Những gì nhiệm mầu đã tả trong kinh A
Di Đà đều có đủ ở nơi ta ở, chỉ cần ta có tâm hồn thanh thoát và an lạc là có
thể thấy hết tất cả.
Ở cõi Tịnh Độ, khi có
gió đi qua các hàng cây và các màn lưới châu báu thì có những âm thanh vi diệu,
có âm nhạc và có lời thuyết pháp. Và khi được nghe những âm thanh như vậy thì
có cơ hội để dân chúng nhiếp tâm niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Ở đây chúng
ta cũng có thể làm y hệt như vậy. Chúng ta có tiếng chuông đại hồng, tiếng
chuông gia trì, tiếng chuông báo chúng, tiếng đồng hồ và tiếng điện thoại.
Chúng ta có những tiếng xướng kệ của các sư chú và các sư cô, có những hình ảnh
đi ra đi vào của
thiền sinh trong chánh
niệm. Tất cả những cái đó đều là những phương tiện để nhắc ta trở về với sự
niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Tiếng mưa, tiếng gió, tiếng chim ta cũng có.
Quả thật là không cần đi đâu hết, ở đây ta cũng có đủ tất cả những gì diễn tả
trong kinh A Di Đà.
Tích môn bản môn
“Xá Lợi Phất! Thầy
nghĩ sao? Đức Bụt kia tại sao có tên gọi là A Di Đà?”
Tại sao đức Bụt ở cõi
Tịnh Độ không có tên khác mà có tên là Amitābha? Đức Thích Ca trả lời:
‘‘Xá Lợi Phất! Bởi vì
đức Bụt ấy là ánh sáng vô lượng có thể chiếu soi được tất cả các cõi nước trong
mười phương mà ánh sáng ấy không bao giờ bị ngăn cách. Vì vậy, nên ngài được
gọi là A Di Đà.’’
A Di Đà là ánh sáng vô
lượng, cũng vì vậy Tuệ Trung Thượng Sĩ đã nói:
‘‘Di Đà đích thực pháp
thân ta
Nam, Bắc, Đông, Tây
khắp chói lòa’’
Khi đốt lên một cây
đèn nến hay một cây đèn dầu, ta sẽ có ánh sáng, nhưng ánh sáng đó không vô
lượng. Tại sao vậy? Tại vì nến sẽ hết, dầu sẽ hết và theo đó ánh sáng sẽ hết.
Nhưng đức A Di Đà là một nguồn ánh sáng vô tận. Một vị bồ tát, một vị giác ngộ,
một vị Bụt luôn luôn từ cơ thể phóng ra ánh sáng. Đó là ánh sáng của chánh
niệm. Ánh sáng của các vị Bụt đi rất xa, đi xa lắm. Phóng ra ánh sáng đó để làm
gì? Để soi đường và giúp người ta đừng bước sa vào hầm hố của khổ đau.
Chúng ta đừng nghĩ
rằng chỉ có Bụt và các vị Bồ tát mới có thể phát ra ánh sáng này. Người nào
trong chúng ta cũng có thể phát ra ánh sáng đó, ánh sáng của chánh niệm. Trong
khi đi, đứng, nằm, ngồi hay thuyết pháp, ánh sáng của chánh niệm tỏa chiếu đi
rất xa. Khi người ta tới chơi hay tới thăm viếng mà thấy chúng ta đi, đứng, nằm
và ngồi trong chánh niệm, họ cũng thấy ánh sáng trong thân ta đang chiếu ra.
Khi một tia sáng này của ta chạm vào một người khác thì người ấy cũng cảm động
và cũng muốn được đi, đứng và làm việc ung dung như vậy. Các thầy, các sư cô,
các sư chú và các đạo hữu ở đây người nào cũng có thể phát ra ánh sáng từ thân
thể, từ tâm hồn của mình. Tất cả chúng ta đều có khả năng phát ra ánh sáng
chánh niệm, và chỉ có sự thực tập chánh niệm mới làm phát ra ánh sáng đó.
Chánh
niệm đưa đến chánh
định, chánh định đưa đến trí tuệ. Đó là những viên ngọc lưu ly có thể chiếu ra
ánh sáng. Chúng ta đừng có mặc cảm. Chúng ta cũng có thể phóng quang được như
đức A Di Đà, tuy ánh sáng của ta chưa đi xa bằng, nhưng chúng ta đã có thể
phóng ra được. Nếu mỗi ngày ta đều thực tập thì ánh sáng càng ngày càng được
phóng xa. Ánh sáng đó có thể được phát ra dưới nhiều hình thức. Ở trên thế giới
bây giờ có biết bao nhiêu người đang tu tập theo pháp môn của Làng Mai. Hàng
triệu người đọc sách, nghe băng và tiếp xúc với các vị giáo thọ ở Làng Mai. Vì
vậy ánh sáng của chúng ta đã đi rất xa, và chúng ta cũng đang tham dự vào công
nghiệp của đức A Di Đà tức là phát ra ánh sáng. Phát ra ánh sáng là điều chúng
ta làm được và làm được ngay ngày hôm nay. Hễ bước một bước chân có chánh niệm
thì có ánh sáng lóe ra liền. Ta phải hiểu ánh sáng là như vậy. Và ánh sáng của
đức A Di Đà là vô lượng. Đó là định nghĩa đầu của chữ Amitābha: ánh sáng vô
lượng. Bây giờ ta đi đến định nghĩa thứ hai:
‘‘Hơn nữa, Xá Lợi
Phất! Thọ mạng của đức Bụt ấy cũng như của dân chúng trong nước ngài là thọ
mạng vô lượng kéo dài tới vô lượng vô biên kiếp a tăng kỳ, vì vậy, danh hiệu
của ngài là A Di Đà’’
A tăng kỳ có nghĩa là
vô lượng, vô số. Đứng về phương diện tích môn thì chúng ta có sanh có diệt. Kẹt
vào ý niệm thọ mạng, ta nghĩ rằng ta chỉ bắt đầu có mặt từ năm đó và sẽ trở
thành không có mặt từ năm kia. Nhưng theo giáo lý đạo Bụt thì bản chất của
chúng ta là không sanh và không diệt. Đứng về phương diện bản môn thì thọ mạng
của ta cũng vô lượng như thọ mạng của đức Thế Tôn và của đức A Di Đà. Nhìn cho
kỹ ta thấy tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đều như vậy. Một bông hoa hay một
chiếc lá cũng có thọ mạng vô lượng. Nhìn cạn cợt thì ta thấy chiếc lá có sinh
và có diệt; nhìn sâu thì chúng ta thấy sinh diệt chỉ là cái bên ngoài. Bản chất
của một chiếc lá là vô sinh bất diệt, bản chất của chúng ta cũng như vậy. Ánh
sáng của đức A Di Đà là vô lượng nên thọ mạng của ngài cũng là vô lượng. Ánh
sáng của cái đèn dầu có khi tắt, nhưng ánh sáng của đức A Di Đà không bao giờ
tắt. Vì sao? Vì thọ mạng của đức A Di Đà là vô lượng. Chúng ta cũng vậy, chúng
ta cũng có thể tham dự vào thọ mạng vô lượng của đức A Di Đà. Bởi vì chúng ta
cũng có bản chất bất sanh và bất diệt. Niệm Bụt cho sâu sắc, quán chiếu về đức
A Di Đà cho sâu sắc, ta tiếp xúc được với bản môn, với tính vô sinh bất diệt
của chính ta, và đó là thành quả cao nhất của sự thực tập. Ta thấy được rằng
bản chất của ta cũng là bản chất vô lượng thọ.
Hai định nghĩa về đức
A Di Đà như vậy là vô lượng quang (ánh sáng vô lượng) và vô lượng thọ (tức là
thọ mạng vô lượng). Không phải chỉ có đức A Di Đà mới có bản môn mầu nhiệm, mới
có bản chất bất sanh bất diệt, mà tất cả chúng ta cũng đều có bản chất bất sanh
bất diệt. Vì vậy chúng ta có thể tham dự đời đời vào công việc chế tác ánh sáng
của đức A Di Đà và ánh sáng đó sẽ có mặt liên tục không bao giờ chấm dứt.
‘‘Xá Lợi Phất! Từ khi
Bụt A Di Đà thành đạo đến nay tính ra là đã mười kiếp. Này nữa, Xá Lợi Phất, số
đệ tử Thanh Văn đã đắc quả A La Hán của đức Bụt ấy nhiều vô lượng không thể đếm
được bằng toán học. Số đệ tử bồ tát của ngài cũng đông đảo như thế.’’
Trên phương diện tích
môn, từ khi đức Bụt A Di Đà thiết lập ra cõi Cực Lạc chỉ có mười kiếp thôi và
Bụt A Di Đà đang biểu hiện như một Hóa thân. Và chúng ta thấy rằng tuy Hóa thân
hay ứng thân của đức A Di Đà mới thiết lập cõi Cực Lạc được mười kiếp, nhưng số
đệ tử Thanh Văn đã đắc quả A La Hán của Ngài nhiều vô lượng không thể đếm được
bằng toán học. Không thể dùng điện toán để đếm. Số đệ tử bồ tát của ngài cũng
đông đảo như thế. Nghĩa là đức A Di Đà có đệ tử về phía Thanh Văn và cũng có đệ
tử về phía Bồ tát. Dân chúng Tịnh Độ gồm những người tu theo đạo Bụt nguyên thỉ
và những người tu theo đạo Bụt phát triển. Ở bên nào cũng đông đến nỗi các nhà
toán học cũng không thể nào đếm hết được.
‘‘Này Xá Lợi Phất!
Nước Bụt kia đã được xây dựng bằng những công đức đẹp đẽ như thế.’’
Những công đức đẹp đẽ
như thế là những điều chúng ta đã được nghe trong những đoạn kinh vừa qua, như
các hàng cây, các hồ sen có nước tám công đức, âm nhạc trên không, dân chúng có
thì giờ để đi hái hoa cúng dường các vị Bụt, nấu cơm, ăn cơm, đi kinh hành,
nghe chim hót, nghe thông reo, nghe thuyết pháp và dân chúng ở nước Cực Lạc rất
đông. Tất cả những cái đó đều là những công đức và những cái đẹp mầu nhiệm của
cõi Cực Lạc.
Đạo tràng lý tưởng
‘‘Này nữa Xá Lợi Phất!
Tất cả những ai sinh về nước Cực Lạc đều có tư cách bất thối chuyển, trong số
ấy có nhiều vị đã là bồ tát nhất sinh bổ xứ. Số lượng của các vị này đông đảo
vô cùng, không thể dùng toán học mà kiểm đếm được, ta chỉ có thể dùng danh từ
vô số A Tăng Kỳ để diễn tả mà thôi.’’
Trong kinh này, Bụt
liên tiếp đưa ra những hình ảnh rất tích cực về nước Cực Lạc, và sau khi đưa ra
những hình ảnh tích cực kia Bụt lại nói: ‘‘Còn nữa... này nữa...’’Trong nguyên
văn là: ‘‘Phục thứ Xá Lợi Phất!’’. Chúng ta dịch là ‘‘Này nữa Xá Lợi Phất!''
.''Này nữa Xá Lợi Phất! Tất cả những ai sinh về nước Cực Lạc đều có tư cách bất
thối chuyển.’’ Bất thối chuyển có nghĩa là không còn bị sa đọa trở lại. Thối là
đi lui; hễ sinh sang nước đó rồi thì chỉ đi tới thôi, không còn đi lui, không
rơi rụng trở lại nữa, nghĩa là không rơi rụng trở lại trong cõi đau khổ, chìm
đắm và hệ lụy. Tại sao? Tại vì có một cái gì giống như một cái lưới đã được
giăng ra làm cho mình có muốn rơi xuống cũng không rơi xuống nữa. Cái lưới đó
là cái lưới gì mà giữ cho ta không sa đọa trở lại? Đức Thế Tôn sẽ cho chúng ta
biết trong một đoạn kinh tiếp theo.
Bất thối chuyển nghĩa
là không còn sa đọa trở lại. Những người nào sinh về cõi Cực Lạc đều có tư cách
bất thối chuyển. Và trong số đó có nhiều vị bồ tát đã là nhất sanh bổ xứ. Bồ
tát nhất sanh bổ xứ là bồ tát sẵn sàng được sinh ra một lần cuối để thành Phật.
Muốn cõi nào thì đi về cõi đó để thành Bụt. Đức Thích Ca Mâu Ni trước khi sanh
đã là bồ tát nhất sanh bổ xứ, sinh ra lần chót ở cõi Ta Bà và thành Bụt ở đây.
Số lượng các vị này, tức là các vị bồ tát nhất sanh bổ xứ, đông đảo vô cùng,
không thể nào dùng toán học để kiểm đếm được. Ta chỉ có thể dùng danh từ vô số
A Tăng Kỳ để diễn tả mà thôi. ATăng Kỳ có nghĩa là vô số. Chữ A tức là vô và
Tăng Kỳ là số.
‘‘Xá Lợi Phất! Chúng
sanh mọi nơi, khi nghe nói tới nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về nước
ấy.’’
Đó là lời gởi gắm,
nhắn nhủ và khuyên bảo của đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn khuyên rằng: Nếu quý vị
được nghe nói đến cõi Cực Lạc thì nên phát tâm
sanh về cõi đó. Và Thế
Tôn đưa ra một lý do rất chính đáng:
‘‘Tại sao? Tại vì sinh
về nước đó thì sẽ được sống chung và gần gũi với rất nhiều các bậc thiện nhân
cao đức.’’
Trong kinh có rất
nhiều câu hay nhưng câu này là câu hay nhất. Không phải là sinh về nước đó thì
có vàng, bạc, ao, hồ, gió, các loại chim, các hàng cây hay các thứ đẹp đẽ khác
mà bởi vì một lý do rất quan trọng. Nước này có một cảnh tượng rất đẹp: đó là
nơi tụ họp của rất nhiều người dễ thương, rất nhiều bậc cao đức. Đó là lý do số
một để chúng ta sinh về. Tại vì sinh về chỗ đó thì ta sẽ được sống chung và gần
gũi với rất nhiều người dễ thương. Tuy Bụt Thích Ca không nói rõ nhưng chúng ta
biết rằng Bụt A Di Đà là một người có khả năng rất lớn trong việc xây dựng tăng
thân. Nếu đức Bụt A Di Đà không dễ thương thì đâu có ai muốn đến cõi đó để cộng
tác và sống chung với Ngài. Vì đức A Di Đà dễ thương quá chừng, cho nên hầu hết
tất cả những người dễ thương đều quy tụ về bên đó. Chìa khóa của sự thành công
là quy tụ được những người dễ thương, những bậc thượng thiện nhân, về chỗ mình
ở. Câu hội nhất xứ là đến cùng ở chung một chỗ. Chúng ta người nào cũng muốn
được như đức Bụt A Di Đà. Khi chúng ta thiết lập một đạo tràng, một quê hương
tịnh độ thì ta cũng muốn rằng tất cả những người dễ thương trên thế giới đều
quy tụ về trú xứ đó để cùng cộng tác với chúng ta. Và ta biết trước rằng nếu ta
độc tài, khó chịu và không biết sử dụng ái ngữ thì các bậc thiện nhân sẽ không
tới. Vì vậy ta biết rằng đức Bụt A Di Đà là một người rất dễ thương, nghe tới
đức Bụt A Di Đà và cõi nước của ngài ai cũng muốn đi tới để được cùng sống và
gần gũi với những người dễ thương nhất trên đời.
‘‘Xá Lợi Phất! Chúng
sanh mọi nơi, khi nghe nói tới nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về nước
ấy. Tại sao? Tại vì sinh về nước đó thì sẽ được sống chung và gần gũi với rất
nhiều các bậc thiện nhân cao đức.’’
Thiện nhân là những
người có trái tim rất rộng, có những hạt giống rất lành trong tâm thức, chỉ
muốn nghĩ điều lành, nói điều lành và làm điều lành thôi. Thiện nghĩa là tốt
lành. Nhân phẩm của các vị thiện nhân là nhân phẩm cao đẹp cho nên gọi là thiện
nhân cao đức. Trong cõi này, ta chỉ nghĩ tới những điều thiện thôi và tư tưởng
của ta là tư tưởng thiện. Vì sao vậy? Vì hoàn cảnh chung quanh có nhiều điều
kiện để tưới tẩm và đánh động tới những hạt giống lành ở trong ta. Ví dụ, khi
nghe tiếng chim hót, thì được
nhắc nhở những giáo lý
Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần,... khi nghe tiếng gió reo qua đọt thông thì
ta cũng được nghe pháp; sống giữa những người biết đi, đứng, nằm và ngồi trong
chánh niệm thì ta cũng được đi, đứng, nằm và ngồi trong chánh niệm và tâm tư ta
luôn luôn nghĩ đến điều thiện.
Buổi sáng nghĩ điều
lành, buổi trưa nghĩ điều lành, buổi tối nghĩ điều lành, ta có một niềm vui. Sở
dĩ tâm ý ta luôn luôn tương ứng với điều lành là do hoàn cảnh chung quanh rất
thuận tiện. Chung quanh ta toàn là những người lành. Và tất cả những gì ta thấy
và nghe ở chung quanh cũng đều có tác dụng tưới tẩm những hạt giống tốt đẹp ở
trong ta, gọi là ý lành. Miệng lành, tức là những lời ta nói ra đều là lành. Ta
không còn chửi mắng, vu khống, thêu dệt hay nói xấu. Vì mọi người đang học tập
chánh pháp, do đó không ai có cơ hội để nghĩ và nói tới những điều không lành.
Mỗi lời nói của ta đều có tác dụng làm cho êm dịu tâm tư và ban phát hạnh phúc
cho những người ở chung quanh. Ở cõi Tịnh Độ không có ác ngữ mà chỉ có thiện
ngữ. Và thân ta cũng vậy. Tất cả mọi người đều thực tập với tư cách của các vị
bồ tát. Vì vậy nơi cõi Tịnh Độ, không có sự giết chóc lẫn nhau và không có sự
ăn cắp. Ở cõi Tịnh Độ không có sát, đạo và dâm. Vì ở bên đó có những niềm vui
rất lớn. Ở Tịnh Độ dân chúng thực tập giới cho nên không ăn thịt, không uống
rượu và không sử dụng những thứ kích thích. Vì vậy người ta không phạm giới dâm
dục, không phạm giới sát sanh, cũng không phạm giới trộm cắp. Những con người
bên đó đều có lý tưởng cao vời, ai cũng muốn những chuyện đẹp thôi, tức là muốn
thành lập Tịnh Độ. Sau khi đã ở Tịnh Độ với Bụt A Di Đà thì ta cũng muốn đi xây
dựng một Tịnh Độ theo mô thức của nước Bụt A Di Đà. Tại vì ta là một vị bồ tát
nhất sanh bổ xứ. Ta muốn về Việt Nam để làm Tịnh Độ, ta muốn về Phi Luật Tân để
làm Tịnh Độ, ta muốn về Mỹ để làm Tịnh Độ...
‘‘Này nữa, Xá Lợi
Phất, ở nước Cực Lạc có rất nhiều hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám công
đức, dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những lối đi làm bằng vàng,
bạc, lưu ly và pha lê; phía trên các con đường ấy lại có vô số lâu đài, cũng
được xây dựng và trang trí bằng các chất liệu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
xích châu và mã não. Sen trong các hồ lớn như những chiếc bánh xe, sen xanh
chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ,
sen
trắng chiếu hào quang
trắng, hương sen tỏa ra vi diệu và tinh khiết. Xá Lợi Phất! Nước Cực Lạc được
tô điểm bằng những cái đẹp như thế.’’
Trong đoạn kinh này ta
thấy có danh từ nước tám công đức. Tám công đức đó là: trong trẻo sạch sẽ,
thanh tịnh mát mẻ, có vị ngon ngọt, nhẹ nhàng mềm mại, thuần nhị mượt mà, yên
ổn điều hòa, uống vào thì trừ được vô lượng quá hoạn như đói khát..., uống xong
thì chắc chắn có thể trưởng dưỡng được các căn.
“Này nữa, Xá Lợi Phất!
Ở nước Bụt ấy, người ta thường được nghe nhạc từ hư không vọng xuống. Đất được
làm bằng vàng ròng. Mỗi ngày sáu lần có mưa hoa mạn đà la rơi xuống. Dân chúng
nước ấy có thói quen buổi sáng lấy lẵng hứng đầy các bông hoa mầu nhiệm ấy để
đem đi cúng dường các vị Bụt đang cư trú ở vô số các cõi Bụt khác. Đến giờ cơm
trưa, mọi người đều về kịp nước mình để ăn cơm rồi đi kinh hành. Xá Lợi Phất,
nước Cực Lạc đẹp tuyệt vời như thế đấy.”
Chúng ta không biết
những tiếng nhạc từ hư không vọng xuống là nhạc gì? Thiên nhạc. Chúng ta biết
rằng mỗi buổi sáng thức dậy ở Xóm Thượng, Xóm Hạ hay Xóm Mới, nếu tâm hồn ta
thanh tịnh thì ta sẽ thấy đất trời rất thơm. Tuy là im lặng nhưng như có âm
nhạc ở trong không gian, rất thanh thoát và nhẹ nhàng. Tất cả những mùi hương,
những âm điệu đó đều ở trong tâm ta thoát ra. Chúng ta không nhất thiết phải
mua hoa ở chợ. Hoa đã có sẵn. Nếu chúng ta biết nhìn và thưởng thức thì sẽ thấy
bất cứ cành hay lá nào cũng đều là hoa cả và những người cắm hoa giỏi không cần
phải đi ra mua hoa ở chợ. Trong đoạn kinh này, ta nghe nói tới hoa, tới nhạc,
tới chuyện đi thăm các vị Bụt để cúng dường, tới chuyện ăn cơm trưa và đi kinh
hành, chúng ta tự hỏi: Ai nấu cơm? Nếu ăn cơm thì thế nào tám giờ sau cũng phải
đi cầu. Ở Tịnh Độ có cầu tiêu hay không? Đó là những câu hỏi rất thực tế. Chùa
Bảo Liên ở Hương Cảng ngày xưa có treo bốn câu thơ:
“Hữu độ tức phi tịnh
Ngôn thuyên hà sở vi? Phật thuyết nguyên vô ngã Thiền sư vấn thị thùy?”
Hữu độ tức phi tịnh
tức là nếu đã có một cõi nước thì làm sao mà cõi nước đó tịnh được? Hễ có ăn
cơm thì thế nào cũng phải đi đại tiện, có uống nước
thì thế nào cũng có đi
tiểu tiện. Trên Tịnh Độ cũng có phân và rác, nghĩa là không tịnh theo cách ta
đã tưởng tượng.
“Hữu độ tức phi tịnh
Ngôn thuyên hà sở vi”
Dịch là:
Có độ là không tịnh
Lời nói dùng làm gì?
Sự diễn tả của lời nói
là để làm gì? Hễ nói tới cõi nước thì không thể có tịnh được. Có cõi thì thế
nào cũng có người, có người thì thế nào cũng có sự tiêu thụ, có sự tiêu thụ thì
thế nào cũng có phân rác, thành ra không thể nào có độ mà không có bất tịnh. Có
độ là không có tịnh. Lời nói của mình được dùng để làm gì? Mở miệng ra là bị
mắc kẹt:
"Phật thuyết ngôn
vô ngã Thiền sư vấn thị thùy?’’
Dịch là:
Bụt đã dạy vô ngã
Thiền sư là ai kia?
Bụt đã dạy rằng chúng
ta vốn không có ngã. Vậy thì người được gọi là thiền sư đó là ai vậy? Tại sao
đã vô ngã rồi mà còn có cái ông gọi là thiền sư? Thiền sư đó có phải là một cái
ngã không? Ngôn từ ta nói ra là có thể bị mắc kẹt. Đứng về phương diện Tịnh
cũng vậy, mà đứng về phương diện Thiền cũng vậy. Ta đang còn kẹt vào ngôn từ.
Hễ nói tới độ là không nói tới tịnh được, hễ nói tới vô ngã thì từ ngữ thiền sư
không thể nêu lên. Thiền sư là một cái ngã. Do đó, khi đọc kinh ta phải quán
chiếu. Có thể ta phải ăn cơm, uống nước, đi đại tiện, đi tiểu tiện, nấu cơm và
rửa bát. Ăn cơm thì phải dùng bát đĩa, có bát đĩa thì thế nào cũng phải rửa bát
đĩa. Mà rửa bát đĩa có dùng tới xà phòng không? Và thức ăn ở trên Tịnh Độ có
dầu mỡ hay không? Tịnh hay không tịnh là tùy theo nhận thức của chúng ta. Ban
đầu chúng ta đã nói tới tịnh là sự vắng mặt của ô nhiễm. Ô nhiễm của sự bận
rộn, của tiền bạc, của quyền hành, của sự ganh tỵ, của sự lo lắng hay của
sự
sợ hãi. Ô nhiễm là
những cái phân rác. Nếu biết cách chúng ta sẽ chuyển được phân rác thành ra hoa
quả và rau trái để sử dụng hàng ngày. Vì vậy tịnh ở đây có nghĩa là không bị ô
nhiễm bởi phiền não và danh lợi chứ không phải là vì có cầu tiêu, nhà tắm, có
nấu ăn và chén bát cần rửa.
Ở đạo tràng Mai thôn,
chúng ta phải đặt những câu hỏi như vậy. Đạo tràng Mai thôn có phải là một cõi
Tịnh Độ hay không? Nếu sống trong một khung cảnh mà ta thấy có an ninh, có hiểu
biết, có thương yêu và có khả năng chuyển hóa được những khổ đau, sợ hãi và
vướng mắc thì ta biết rằng đó là khung cảnh của Tịnh Độ. Còn nếu ta không thấy
những yếu tố an ninh, thương yêu, hạnh phúc và hòa điệu trong đó thì ta biết
rằng đó không phải là một cõi Tịnh Độ mà là một Uế độ. Ta cũng thấy rằng ta có khả
năng đóng góp hay phá hoại khung cảnh đó. Tịnh Độ là một nhu yếu rất lớn của
tất cả mọi người trong xã hội chúng ta. Vì vậy, đọc kinh A Di Đà là một cơ hội
để quán chiếu nhu yếu ấy và khám phá ra khả năng tạo dựng Tịnh Độ của mỗi chúng
ta. Tại vì mỗi chúng ta đều là một vị Bụt A Di Đà tương lai, mỗi chúng ta đều
có hoài bão muốn thiết lập Tịnh Độ cho chính ta và những người thân cận với ta.
"Này nữa, Xá Lợi
Phất! Ở nước Cực Lạc kia, thường có nhiều loại chim đủ màu rất kỳ diệu như Hạc
trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá lợi, Ca lăng tần già và Cọng mạng... Những con
chim ấy, sáu buổi mỗi ngày, thường hót lên những thanh âm hòa nhã: trong giọng
hót của chúng, người ta nghe được tiếng diễn xướng các pháp môn ngũ căn, ngũ
lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần... Dân chúng trong nước nghe được
những pháp âm như thế đều nhiếp tâm trở về thực tập niệm Bụt, niệm Pháp và niệm
Tăng.’’
Trong đoạn văn này
chúng ta thấy Bụt nhắc lại pháp môn trì niệm. Trì niệm là một pháp môn thực tập
có từ hồi Bụt còn tại thế. Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí
và niệm Thiên. Theo giáo lý của kinh A Di Đà, những người thường trú ở thế giới
Cực Lạc cũng thực tập niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Niệm Bụt, niệm Pháp và
niệm Tăng là để tiếp xúc được với Tam Bảo và khi tiếp xúc được với năng lượng
của Tam Bảo thì ta được sống trong sự an ninh, vững chãi và thảnh thơi. Thử
tưởng tượng những người ở trong cõi Cực Lạc mà không thực tập niệm Bụt, niệm
Pháp
và niệm Tăng: cõi Cực
Lạc sẽ không còn là cõi Cực Lạc nữa. Tại sao? Tại vì ở đó sẽ không còn sự an
ninh, vững chãi và thảnh thơi.
Gió chim thuyết pháp
Sở dĩ ta gọi cõi ấy là
cõi Cực Lạc là tại vì dân chúng ở đó có thực tập chánh niệm và vẫn thường được
nghe pháp thoại. Nếu có sự chú tâm thì khi những con chim hót lên, ta cũng nghe
được pháp thoại và pháp thoại này có đủ ba mươi bảy phẩm trợ đạo, là tứ niệm
xứ, tứ như ý túc, tứ chánh cần, v.v… Sang bên đó ta vẫn còn nghe pháp thoại như
ở đây và cũng sẽ được học những điều y hệt như ta đang được học trên cõi Ta Bà
này, nghĩa là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Chúng ta biết rằng đức A Di Đà là một
vị thầy. Ngay trong giây phút này ngài đang thuyết pháp. Đức Bụt Thích Ca dạy:
‘‘Từ đây đi qua phương
Tây, cách khoảng mười vạn ức cõi Bụt, có một thế giới gọi là Cực Lạc, trong cõi
ấy có một vị Bụt tên là A Di Đà, hiện đang thuyết pháp.’’
Bụt A Di Đà đang
thuyết pháp và những con chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần
già, và cọng mạng... cũng đang thuyết pháp và giọng hót của những loài chim đó
rất hòa nhã. Những con chim này thay phiên nhau hót, một ngày sáu lần (trú dạ
lục thời).Đó là công phu sáu thời. Ngày xưa trong sự tu tập người ta chia một
ngày làm sáu phần gọi trú dạ lục thời. Trú là ban ngày, dạ là ban đêm. Khi hành
trì phép sám hối của vua Trần Thái Tông thì chúng ta cũng sám hối sáu lần một
ngày. Vua Trần Thái Tông sáng tác ra nghi thức sám hối này để tự hành trì, gọi
là Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, tức là khoa nghi để sám hối sáu lần trong một
ngày. Chia sáu thời trong một ngày, đó là sự thực tập trong truyền thống. Những
con chim này biết rằng dân chúng mỗi ngày đều thực tập sáu thời cho nên bắt đầu
mỗi thời là hót lên, và trong khi chim hót lên thì ta nghe được tiếng pháp
trong đó. Có thể khi chim hót thì đức A Di Đà ngừng thuyết pháp và khi đức A Di
Đà thuyết pháp thì chim ngừng hót. Cũng có nghĩa là Bụt A Di Đà và cả các loài
chim, cây và gió, khi mở miệng là chỉ thuyết pháp mà thôi.
Chung quanh ta cũng
đang có rất nhiều loại chim. Nếu sống trong chánh niệm và tâm có định thì chúng
ta cũng có thể nghe trong tiếng gió và tiếng chim có tiếng nói pháp. Tiếng nói
pháp này có thể được xem như là tiếng nói pháp của đức Bụt A Di Đà hay là của
những con chim ở cõi Cực Lạc.
Nếu có niệm và định
thì tất cả những gì chúng ta thấy và nghe trong đời sống hàng ngày đều là những
bài pháp thoại. Một chiếc lá rụng, một bông hoa nở, một con chim bay ngang hay
một tiếng chim hót đều là những bài thuyết pháp và người đang nói pháp là Bụt
Tỳ Lô Giá Na, tức là Bụt pháp thân.
Chúng ta phân biệt ra
ba thân của Bụt, tức là pháp thân, báo thân và hóa thân. Pháp thân là bản thể
trong sáng bất sinh bất diệt. Báo thân là thân tướng tốt đẹp của những người đã
tu học, đã tạo ra rất nhiều công đức. Và hóa thân hay ứng thân là cái thân bình
thường của ta. Đức Thích Ca cũng có một thân như vậy, gọi là ứng thân hay hóa
thân. Khi đức Bụt Thích Ca ngồi ở trên núi Thứu mà thuyết pháp thì đó là ứng
thân Bụt hay hóa thân Bụt đang thuyết pháp. Ứng thân thì có khi ngủ, có khi
thức dậy, có khi đi tắm, có khi đi ăn cơm. Còn pháp thân của Bụt thì lúc nào
cũng có mặt để thuyết pháp. Vì vậy, nếu có chánh niệm thì chúng ta có thể nghe
pháp bất cứ lúc nào trong tiếng gió, tiếng chim, trong khi cành trúc lay, bông
hoa nở và người đang thuyết pháp là pháp thân của Bụt. Ứng thân hay hóa thân
của Bụt thì chỉ nói tiếng người, còn pháp thân có thể nói tiếng chim, tiếng
hoa, tiếng gió và tất cả mọi thứ tiếng. Đoạn kinh này cho chúng ta biết rằng
nếu có niệm và định thì chúng ta có thể nghe pháp trong khi chim hót, thông reo
và hoa nở. Pháp chúng ta đang nghe đó là pháp nguyên thỉ, nghĩa là tứ niệm xứ,
tứ chánh cần, tứ như ý túc... và phương pháp niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng.
Kinh đại thừa này chuyên chở giáo lý nguyên thỉ. Trong cõi Cực Lạc, dân chúng
thực tập pháp môn nào? Thực tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo và phương pháp niệm
Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Ta là thiền sinh giỏi thì đừng đợi đến giờ pháp
thoại mới nghe thuyết pháp mà phải biết nghe pháp trong khi nhìn hoa nở, trong
khi nghe thông reo, chim hót và khi ngắm trúc lay. Pháp thân của Bụt chưa bao
giờ ngừng thuyết pháp. Trong bài Trường ca Avril, tôi có viết một câu: ‘‘Bông
hoa vẫn chưa ngưng lời hát ca.’’ Câu này cũng có nghĩa như vậy: pháp thân của
Bụt vẫn đang thuyết pháp. Ở Việt Nam, trong thời chiến tranh Việt-Pháp, có một
thi sĩ trẻ tên là Quách Thoại. Quách Thoại cùng với Trụ Vũ đã từng sống ở chùa
Giác Nguyên. Quách Thoại chết trẻ, để lại một bài thơ rất hay là bài Bông Thược
Dược:
"Đứng yên ngoài
hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu.”
Bông thược dược đứng ở
ngoài hàng rào và đang mỉm cười một cách mầu nhiệm. Có thể nhiều thiền sư cũng
không làm thơ hay bằng thi sĩ trẻ này. Tại vì trong giây phút đó, thi sĩ may
mắn tiếp xúc được với sự mầu nhiệm của bông hoa thược dược, thấy bông hoa thược
dược là biểu hiện nhiệm mầu của pháp thân Bụt. Thấy bông hoa thược dược chưa
bao giờ ngưng hát ca, chưa bao giờ ngưng thuyết pháp.
‘‘Lặng nhìn em kinh
ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu.’’
Đứng trước một sự biểu
hiện nhiệm mầu như vậy, tiếp xúc được với pháp thân của Bụt thì thái độ của ta
chỉ là sụp lạy và cúi đầu trước bông hoa thôi. Tại vì bông hoa đó là pháp thân
của Bụt. Năm 1966, trong khi đi diễn thuyết bên Úc, tôi có tá túc tại một tu
viện Thiên Chúa giáo. Tôi đang ngồi ở ngoài sân cỏ thì có một bà sơ đem ra cho
tôi một chén nước trà. Rồi bà rút lui để đi thỉnh chuông. Tôi ngồi yên trên bãi
cỏ uống trà và làm được bài thơ Tiếng Gọi sau đây:
‘‘Sáng hôm nay, tới
đây
Chén trà nóng Bãi cỏ
xanh
Bỗng dưng hiện bóng
hình Em ngày trước Bàn tay gió
Dáng vẫy gọi
Một chồi non xanh mướt
Nụ hoa nào
Hạt sỏi nào Ngọn lá
nào
Cũng thuyết Pháp Hoa
Kinh.’’
Ngồi đó và an trú
trong giây phút hiện tại, nên tôi thấy được một chồi cây xanh đang vẫy tay chào
gọi. Đó là biểu tượng của pháp thân. Và khi thấy được sự mầu nhiệm đó rồi, ta
nhận thấy rằng bất cứ nụ hoa nào, hạt sỏi và ngọn lá nào cũng đang thuyết pháp
và đang thuyết pháp đại thừa, thuyết kinh Pháp Hoa.
Bàn tay gió Dáng vẫy
gọi
Một chồi non xanh mướt
Nụ hoa nào
Hạt sỏi nào Ngọn lá
nào
Cũng thuyết Pháp Hoa
Kinh.
Bài thơ này, cũng như
bài thơ của Quách Thoại, nói tới sự kiện pháp thân của Bụt hiện đang thuyết
pháp. Nếu chúng ta chăm chú, sống có giới và có định thì chúng ta tiếp xúc được
với pháp thân và được liên tục nghe thuyết pháp, chứ không phải cần bỏ băng giảng
vào trong máy bấm nút rồi mới được nghe. Chúng ta có thể nghe pháp bất cứ lúc
nào. Đọc đoạn kinh này, ta phải thấy được rằng ở cõi Cực Lạc, không những Bụt A
Di Đà đang thuyết pháp mà chim chóc, hoa lá đều thuyết pháp cả. Và ta có thể
thấy rằng Bụt A Di Đà cũng như chim chóc ở đây đều là biểu hiện của pháp thân.
Chúng ta hãy cùng đọc lại:
‘‘Này nữa, Xá Lợi
Phất! Ở nước Cực Lạc kia, thường có nhiều loại chim đủ màu rất kỳ diệu như hạc
trắng, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già và cọng mạng... Những con
chim ấy, sáu buổi mỗi ngày, thường hót lên những thanh âm hòa nhã: trong giọng
hót của chúng, người ta nghe được tiếng diễn xướng các pháp môn ngũ căn, ngũ
lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần... Dân chúng trong nước nghe được
những pháp âm như thế đều nhiếp tâm trở về thực tập niệm Bụt, niệm Pháp và niệm
Tăng.’’
Một điều cần để ý là ở
ngay đây, trong giây phút hiện tại, chúng ta cũng có thể thừa hưởng được những
tiện nghi của cõi Cực Lạc. Nghĩa là ở đây chúng ta cũng có thông reo, hoa nở và
cũng có đức A Di Đà. Những yếu tố hấp dẫn được nói đến trong kinh A Di Đà chúng
ta đều đang có đủ. Chúng
ta không cần đi đâu
hết, không cần đợi tới sau khi chết rồi mới đi vào thế giới Cực Lạc.
‘‘Xá Lợi Phất, thầy
đừng tưởng rằng các loài chim ấy đã được sinh ra trên căn bản nghiệp báo. Tại
sao? Tại vì ở nước Bụt kia không có ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ
và súc sanh. Xá Lợi Phất! Ở nước ấy danh từ ác đạo mà còn không có, huống hồ là
sự thực về ác đạo. Những con chim kia đã được Bụt A Di Đà biến hóa ra với mục
đích là làm cho pháp âm được tuyên lưu rộng rãi trong xứ của ngài.’’
Bên nước Cực Lạc dân
chúng không cần dùng máy video cassette, chỉ dùng chim thôi. Ở đây, chúng ta
ngồi trong phòng và mở video cassette ra nghe pháp được, nhưng ra ngoài đi
thiền hành, lắng nghe tiếng chim, tiếng suối, nghe thông reo hay nhìn hoa nở ta
cũng có thể nghe thuyết pháp. Không có ngọn lá nào, hạt sỏi hay nụ hoa nào mà
không đang thuyết pháp cả. Đứng về phương diện tích môn thì những con chim đó,
những bông hoa, cành trúc và những đám mây đó đều có sinh diệt và luân hồi.
Nhưng đứng về phương diện pháp thân thì tất cả đều là biểu hiện của pháp thân
mầu nhiệm. Trong đạo Bụt đại thừa, tất cả những mầu nhiệm trong vũ trụ như trời
xanh, mây trắng, trúc tím và hoa vàng đều là biểu hiện của pháp thân. Chúng ta
hãy luôn luôn ý thức điều này.
‘‘Thúy trúc hoàng hoa
phi ngoại cảnh Bạch vân, minh nguyệt hiện toàn chân.’’
(Trúc biếc, hoa vàng
đều không phải là những cái gì bên ngoài. Trăng sáng, mây bay đều là biểu hiện
của pháp thân). Nhìn từ phương diện nghiệp thì tất cả đều do nghiệp báo mà hiện
thành. Nhưng nhìn từ phía của pháp thân thì ta thấy tất cả đều là biểu hiện của
pháp thân. Những con chim kia cũng vậy, về phương diện nghiệp báo thì thấy
chúng là sản phẩm của nghiệp báo. Đứng về phương diện pháp thân thì chúng lại
là biểu hiện mầu nhiệm của pháp thân, không sinh cũng không diệt. Có khi ta tự
hỏi là không biết vì nghiệp báo nào mà ta phải sinh ra ở trên cõi đời này cho
khổ? Những con chim, con ruồi, con muỗi, con nai và con cá kia do nghiệp báo
nào mà phải sinh ra làm thân con chim, con ruồi, con muỗi, con nai hay con cá?
Đó là câu hỏi từ phương diện nghiệp báo. Cũng những cảnh tượng đó, mà nếu ta bi
lụy, sầu đau, nghi ngờ và giận hờn thì đó là biểu hiện cái quả của nghiệp báo.
Còn nếu tâm ta nhẹ nhàng, an lạc và giải thoát thì tất cả những cái đó
trở thành biểu hiện
của pháp thân mầu nhiệm. Tất cả đều do nhận thức nơi ta. Những con chim này
không hẳn là khác với những con chim mà mình thấy và nghe mỗi ngày. Đúng là
những con chim đó, nhưng nếu tâm ta trong sáng, nhẹ nhàng, không có ganh tỵ, sợ
hãi và kỳ thị, thì tự nhiên chúng trở thành những con bạch hạc, khổng tước, anh
vũ, xá lợi, ca lăng tần già và cọng mạng... ở cõi Cực Lạc. Còn nếu tâm hồn ta
đen tối, lo lắng, sợ hãi và kỳ thị thì chúng trở thành những con chim của
nghiệp báo, của vô minh và khổ đau. Thực vậy, chúng ta muốn tiếp xúc với loài
chim nào (chim của đức Bụt A Di Đà biểu hiện hay là chim của nghiệp báo) là tùy
chúng ta. Ví dụ tiếng điện thoại hay tiếng chuông đồng hồ. Tiếng điện thoại có
thể làm ta bực bội và lo âu, đó là tiếng điện thoại của nghiệp báo, của phiền
não. Nhưng nếu ta làm như ở Làng Mai, tiếp nhận tiếng điện thoại là một tiếng
chuông chánh niệm thì khi tiếng điện thoại reo lên, ta biết nhiếp tâm vào hơi
thở, mỉm cười và làm cho thân tâm an lạc, thì tiếng điện thoại đó là do uy lực
của đức A Di Đà sáng tác. Tiếng điện thoại có thể làm cho ta hồi hộp, lo lắng
và sầu đau, mà cũng có thể làm cho ta có chánh niệm, giải thoát và tự do. Tùy
theo cách tiếp nhận của ta. Tiếng chuông nhà thờ hay tiếng chuông chùa cũng
vậy, có thể ta đang nghe tiếng chuông mà vẫn tiếp tục buồn tủi, khổ đau và giận
hờn. Nhưng nếu biết phương pháp biến hóa của đức A Di Đà, thì ta cũng có thể
chế tác ra được những tiếng chuông có bản chất thanh thoát và nhẹ nhàng. Khi
nghe những tiếng chuông ấy tất cả các phiền não đều tan thành mây khói, bởi vì
ta biết trở về với hơi thở và đem chất liệu của sự thảnh thơi và vững chãi đi
vào trong tâm hồn ta. Vì vậy, tiếng chuông hay tiếng điện thoại cũng là sáng
tạo phẩm của đức A Di Đà, của đức Thích Ca và của tăng thân. Ta cần sử dụng
những âm thanh đó cho cuộc đời bớt khổ. Khi gặp nhau, chúng ta chắp tay lại
thành búp sen để xá chào thì cử chỉ chắp tay đó không phải chỉ là lễ phép mà là
sự thực tập chánh niệm. ‘‘Sen búp xin tặng người, một vị Bụt tương lai.’’ Khi
thở vào, ta làm nên một đóa sen búp bằng hai bàn tay; khi thở ra, ta xá xuống
người trước mặt. Trong thời gian làm như thế ta có an lạc và hạnh phúc. Vì vậy,
chắp tay búp sen cũng là sáng tạo phẩm của Bụt A Di Đà, của Bụt Thích Ca, hay
của tăng thân có mục đích đem lại an lạc và hạnh phúc cho tăng thân. Nếu chắp
tay giống như một cái máy, không có niệm, không có định, không có tuệ, không có
an lạc gì hết thì sự chắp tay ấy không đưa tới một an lạc nào. Vì ở đây, ta
nghe trong tiếng chim có tiếng thuyết pháp, nên ta cũng biết rằng ta không cần
đi đâu hết. Chỉ cần an trú trong hiện tại với tâm có niệm và có định là ta nghe
được tiếng chuông mầu nhiệm, và tiếng chim
đang thuyết pháp.
Những tiếng chim hót ở cõi Cực Lạc, ở đây mình cũng có. Học kinh A Di Đà, ta
phải thấy rõ điều này.
Tạo lập Tịnh Độ
Khi tâm mình nhẹ nhàng,
thảnh thơi và hạnh phúc thì ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc
sanh không thể xuất hiện. Những nẻo đường đen tối đó có thể phát hiện trong ta
bất cứ lúc nào trong ngày nếu ta đánh mất niệm, định và tuệ. Địa ngục, quỷ đói
hay là súc vật đang có mặt trong ta dưới hình thức của những hạt giống đen tối.
Nếu ta không có chánh niệm, không có tu tập, thì ba nẻo đường xấu ác đó có thể
xuất hiện bất cứ lúc nào. Bất cứ lúc nào ta nổi giận lên là lửa địa ngục bừng
dậy đốt cháy ta. Địa ngục mà phát hiện thì Tịnh Độ tự nhiên biến mất. Điều này
rất rõ. Bóng tối mà phát hiện thì ánh sáng không còn. Tịnh Độ cũng vậy. Khi địa
ngục biến đi thì Tịnh Độ biểu hiện. Ở trong ta có hạt giống của Tịnh Độ, ở
trong ta cũng có hạt giống của tam ác đạo, của ba nẻo về xấu ác. Nếu muốn có
Tịnh Độ thì ta có thể làm cho Tịnh Độ biểu hiện trong hiện tại. Và nếu muốn có
tam ác đạo, ta cũng có thể làm cho địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh biểu hiện
trong hiện tại. Địa ngục là gì, chúng ta đã biết. Tại vì chúng ta đã từng ở
dưới địa ngục. "Con đã từng cất tiếng kêu gào dưới ngục A tỳ mòn mỏi hư
hao." Mình đã từng ở địa ngục nên mình biết địa ngục nóng hay lạnh như thế
nào rồi. Và khi mà chất liệu địa ngục ở trong ta không còn phát hiện thì ta có
Tịnh Độ.
Ngày xưa mình cũng đã
từng làm ma đói (ngạ quỷ). Mình đã từng làm ma đói chạy đi chỗ này chỗ khác để
mong kiếm chác một chút tình thương, một chút hiểu biết, một nơi nương tựa. Hạt
giống của ma đói nằm ngay trong tâm của ta chứ ở đâu. Khi nào khuynh hướng cô
hồn lạc loài phiêu lãng trong ta phát khởi thì ma đói hiện ra và ta trở thành
một con ma đói. Khi bị sự thèm khát vật dục trấn ngự, ta lại trở thành súc
sanh. Ta trở thành một con thú vật, một con heo, một con bò, chỉ biết ăn, chỉ
biết chạy theo tình dục... Nếu cõi Tịnh Độ biến mất trong đời sống của ta, đó
là vì những hạt giống của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh đang biểu hiện trong
lời nói, hành động và sự suy nghĩ của ta.
Ước muốn cao nhất của
đời tôi là gì? Tôi không muốn làm chùa lớn, không muốn đúc tượng lớn, không
muốn có nhiều trương mục lớn trong một nhà băng, không muốn có bằng cấp tiến
sĩ. Tôi không muốn làm Hội trưởng hội Phật học. Tôi không muốn làm Tăng Thống,
không muốn làm giáo chủ. Tôi
chỉ muốn kiến thiết
một Tịnh Độ thôi! Xây dựng Tịnh Độ để mời những người dễ thương đến sống chung
và làm chỗ nương tựa cho nhau. Trong tâm ta nếu có Tịnh Độ thì ta đi đâu Tịnh
Độ cũng hiển bày. Những người có Tịnh Độ trong tâm là những người có phẩm chất
nhân cách rất cao. Người nào có phẩm chất như vậy thì được gọi là "thượng thiện
nhân" hay là cao đức. Vì những người này có tâm trí vượt khỏi danh lợi. Có
một vị thượng thiện nhân là có một người dễ thương. Cõi Cực Lạc là nơi mà các
bậc thượng thiện nhân lưu trú rất đông: "Chư thượng thiện nhân câu hội
nhất xứ". Đây không phải là một câu kinh ước mơ mà là một câu kinh chí
nguyện, tại vì điều thích thú và hào hứng nhất của mình là lập được một đạo
tràng để những người dễ thương trên thế gian quy tụ lại sống với nhau một cách
rất hạnh phúc và để làm nơi nương tựa cho không biết bao nhiêu người khác. Vì
vậy trong ước muốn của chúng ta cũng có hạt giống của Bụt A Di Đà. Hạt giống đó
chính là ước muốn thành lập một trú xứ dễ thương, một hoàn cảnh thuận lợi cho
sự tu học. Có nhiều vị thượng thiện nhân đến sống chung thì tự nhiên ta không
cầu Tịnh Độ mà Tịnh Độ cũng vẫn hiển bày. Được ngồi gần bên một người dễ
thương, mình cảm thấy sung sướng biết bao. Huống hồ là mình được bao bọc bởi
biết bao nhiêu người dễ thương. Những người dễ thương ấy đến với nhau, tuy chưa
làm gì hết mà cảnh trí đã là cảnh Tịnh Độ rồi, phải không? Những người không dễ
thương ngồi bên nhau khoảng mười lăm phút thì không khí đã thấy ngột ngạt. Địa
ngục hiện ra ngay khi những người không dễ thương tụ tập đông đảo đến ba bốn
trăm người. Mình sẽ chết ngột. Vì vậy, cảnh Tịnh Độ và cảnh Địa ngục đều có thể
phát hiện từ lòng mình. Cho nên mỗi người tu đều có sự thích thú và ước muốn
thành lập một Tịnh Độ. Tịnh Độ tuy thế không phải là công trình của một người,
dù người đó là một bậc Toàn Giác. Tịnh Độ là công trình của rất nhiều người, và
những người đó được gọi là ‘‘thượng thiện nhân’’. Chúng ta thấy cõi Cực Lạc
(Sukhāvatī) không phải là công trình riêng của một người, dù người ấy là Bụt A
Di Đà. Cho nên ta đừng nghĩ với tư cách cá nhân ta có thể tạo lập được Tịnh Độ.
Ta tạo lập Tịnh Độ bằng công sức Tăng thân. Nếu ta không dễ thương, không có
khả năng lắng nghe, không có khả năng nói lời ái ngữ, không biết làm việc tập
thể, nếu ta độc tài, thì ai mà tới cọng tác với ta? Như thế, làm sao ta có thể
tạo ra được Tịnh Độ. Chúng ta phải tự hỏi rằng chúng ta đã là một vị bồ tát
nhất sanh bổ xứ hay chưa? Trong lòng ta, ai cũng muốn thiết lập một trung tâm
Tịnh Độ. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng khi đứng ra làm chủ trung tâm ấy,
ta sẽ không bị lệ thuộc vào sư anh này, vào sư chị kia, sư em nọ, và ta sẽ
có
toàn quyền quyết định.
Ước muốn làm chủ Tịnh Độ là một ước muốn ngây thơ. Nếu mình không sống hạnh
phúc được với sư anh, sư chị và sư em của mình, thì làm sao mình có thể thiết
lập Tịnh Độ? Những người đến với mình sẽ bỏ mình và mình sẽ cô đơn. Mà một
người cô đơn thì không bao giờ thiết lập được Tịnh Độ. Chúng ta chỉ cần nhìn
chung quanh để thấy. Không phải người đó không có chí nguyện thiết lập Tịnh Độ.
Chỉ tại người ấy chưa có đủ hạnh phúc, chưa có đủ sự bao dung, chưa có đủ khả
năng lắng nghe, chưa có đủ khả năng nói lời ái ngữ, chưa có đủ khả năng làm
việc chung; người ấy chỉ muốn người ta làm theo ý của mình. Những người như vậy
không có khả năng thành lập Tịnh Độ, họ chưa phải là bồ tát nhất sanh bổ xứ. Ai
có thể nói cho mình biết mình đã là bồ tát nhất sanh bổ xứ? Chúng ta không cần
ai nói hết. Cứ nhìn vào tâm hành của chúng ta, là chúng ta biết ngay. Từ nay về
sau, mỗi khi đại chúng tụng đến câu này, thì xin để tâm quán chiếu. Tịnh độ là
một nơi quy tụ của các bậc thượng thiện nhân. Tịnh Độ không phải là công trình
của một anh hùng cá nhân.
‘‘Xá Lợi Phất! Những
kẻ thiếu phúc đức và căn lành thì ít hy vọng được sanh về cõi ấy’’.
Câu kinh này có thể
làm cho ta nản chí. Nhưng sẽ có những câu kinh khác làm cho chúng ta phấn khởi
trở lại. Như câu chúng ta chỉ cần niệm Bụt một lần hoặc mười lần là đã đủ điều
kiện để sinh về Tịnh Độ. Ta nên tin vào câu kinh này hay là tin vào câu kinh
kia? Thật ra nếu ta hiểu được câu kinh này thì ta sẽ hiểu được những câu kinh
kia, và nếu không hiểu được câu kinh này thì ta cũng không hiểu được những câu
kinh kia. Hai câu không chống nhau mà bổ túc cho nhau. Hai câu kinh này là hai
mặt cùng một thực tại.
Phúc đức tức là những
may mắn, những thiện duyên. Căn lành là những gốc rễ tốt đẹp. Trong lòng chúng
ta nếu những gốc rễ ấy hiếm hoi thì chúng ta ít hy vọng được sanh về cõi đó.
Căn là gốc rễ, nhưng cũng có khi được hiểu là hạt giống. Có những lúc chúng ta
trồng cây bằng rễ, có những lúc chúng ta trồng bằng hạt. Trồng bằng hạt cũng
lên, trồng bằng rễ cũng lên. Như hoa sen vậy. Ta trồng sen bằng hạt hay bằng củ
thì sen cũng đều lên được. Vậy muốn sanh về cõi Cực Lạc ta phải có hạt hoặc là
rễ của Tịnh Độ. Nghĩa là những hạt giống tốt đẹp mà ta đã gieo vào trong tâm
thức của ta, như ta đã có lần đến chùa lạy Bụt, đã có lần bố thí cho một em bé
mồ côi, đã có lần cúng dường cho một vị xuất gia, đã có lần đưa tay ra cứu một
con kiến đang
chết đuối. Tất cả
những hành động đó đều là những hành động gieo trồng căn lành. Hay ta đã từng
mở miệng đọc Namo Buddhāya. Tất cả những cử chỉ nho nhỏ đó đều là những căn
lành đã gieo trồng. Điều này trong kinh Pháp Hoa có dạy:
‘‘Nhược nhân tán loạn
tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo.’’
Giả dụ có một người
tâm ý tán loạn mà bước vào trong chùa, hoặc bước vào trong tháp, rồi mở miệng
niệm lên một câu ‘‘Nam mô Phật’’ thì cái đó đã là một nhân duyên có thể đưa đến
sự kiện người đó thành Phật sau này. Tuy là một hạt giống rất nhỏ, một cái rễ rất
nhỏ, nhưng hành động ấy đã được gieo trồng vào trong tâm, và thế nào ngày mai
nó cũng sẽ trở thành những nhân duyên đưa mình đi đến với đạo và thành đạo.
Nhất xưng Nam mô Phật. Nhất xưng là chỉ niệm một lần Namo Buddhāya thôi. Ấy vậy
mà hạt giống đó sẽ đưa đẩy người kia đi đến cái nhân duyên thành Phật sau này.
Đó chính là những căn lành, những phước đức. Câu kinh này nói rằng những người
ít căn lành, ít phước đức thì ít có hy vọng sanh về cõi Tịnh Độ. Chúng ta biết
tại Làng Mai, có những thiền sinh đến từ những nơi rất xa xôi, họ đến từ bên
Nga, họ đến từ Na uy, Nam Phi, trong khi đó có những người sống ở Paris, chỉ
cần một giờ đồng hồ là có thể bay tới, vậy mà suốt đời không bao giờ có cơ
duyên bước đến Làng Mai. Tuy họ ở gần một bên mà họ cũng không biết sự có mặt
của Làng Mai, vì vậy, họ không có được cơ duyên tham dự:
‘‘Hữu duyên thiên lý
năng tao ngộ Vô duyên đối diện bất tương phùng’’
Có nhân, có duyên thì
dù cách xa ngàn dặm cũng có thể gặp nhau, mà vô duyên thì ngồi đối diện nhau
cũng chẳng gặp nhau được. Vậy sự khác biệt giữa hữu duyên và vô duyên là như
thế nào? Sự khác biệt không phải do ở gần hay ở xa Tịnh Độ mà là chúng ta có
nhân duyên hay không? Tôi mới nghe Thomas báo cáo là: ‘‘Cho tới hôm nay đã có
ba chục ngàn người Thụy Sĩ đi xem cuốn phim The Step of Mindfulness’’. Cuốn
phim này kể lại chuyến hoằng pháp của tôi tại Ấn độ năm 1997. Tại sao họ không
đi rạp chiếu phim khác, mà lại mua vé đi xem cuốn phim này. Có rất nhiều người
sau khi xem phim đã đi mua hết những quyển sách của tôi về đọc và đã có nhiều
người viết thư về xin tham dự khóa tu tại Làng Mai. Tại sao họ làm
như vậy, khi họ chưa
một lần đi chùa? Họ chỉ có dịp đi xem phim, thấy được quý thầy, quý sư cô và
nghe những bài pháp thoại trong phim, thế mà những hạt giống tốt trong họ được
tưới tẩm và khi về nhà, họ mong muốn được tu học. Vậy sang Tịnh Độ không khó
khăn gì, nếu ta có chút nhân duyên. Chỉ cần ta biết rằng Tịnh Độ đang có mặt ở
đó, và ta chỉ cần cầm điện thoại lên và nói: ‘‘Alo! Tịnh Độ đó phải không? Tôi
muốn được về tu học hai tuần’’. Sư chú hay sư cô sẽ trả lời: ‘‘Dạ được, khóa tu
mùa đông còn chỗ. ’’Có khó khăn gì đâu? Ăn thua là có cái duyên hay không. Vô
duyên thì có gần sát bên cũng không gặp, có duyên thì mấy ngàn cây số cũng gần.
Chỉ cần một mảnh điện thư (e-mail), một tờ truyền chân (fax) hay một cú điện
thoại là mình có thể bay sang Tịnh Độ.
Nắm lấy danh hiệu
‘‘Xá Lợi Phất, những
kẻ thiếu phúc đức và căn lành thì ít hy vọng sanh về cõi ấy. Vì vậy Xá Lợi
Phất! Người con trai lành, người con gái lành nào muốn sanh về cõi ấy thì khi
nghe danh hiệu Bụt A Di Đà, phải nắm lấy danh hiệu ấy.’’
Nghĩa là nghe danh
hiệu thì phải nắm lấy danh hiệu. Cho tôi địa chỉ đi, cho tôi số fax, số phone
đi. Cho tôi địa chỉ điện thư. Phải nắm lấy chúng. Tại vì danh hiệu hay địa chỉ
ấy rất quan trọng. Vì sao? Vì cuộc đời dữ dằn lắm. Nó lôi kéo mình đi theo như
một dòng thác. Và trong những khi bị chìm đắm, trong khi bị lôi kéo như vậy mà
giả sử mình nhớ được cái tên đó và cái địa chỉ đó, thì mình có thể nhờ vậy mà
được cứu thoát. Còn nếu không ghi nhớ được, chỉ nhớ mờ mờ cái tên thì ta không
thể được cứu thoát. Ta phải nhớ danh hiệu và địa chỉ thật rõ ràng.
Nếu ghi nhận được danh
xưng ấy, tên gọi ấy, địa chỉ ấy, thì mình có cơ thoát ra khỏi cái trầm trệ khổ
đau của mình. Nước Úc, xa bên này biết bao nhiêu mà kể, vậy mà nhờ có một cái
tên, nhờ có một cái địa chỉ, nhờ có một số điện thoại mà chỉ trong một hai
ngày, mình đã được ngồi trong Đạo tràng Mai Thôn. Trong khi đó có rất nhiều
người ở chung quanh đây, đầy đủ các điều kiện để đến, vậy mà không bao giờ biết
đến đạo tràng.
‘‘Phải nắm lấy danh
hiệu ấy mà hết lòng thực tập quán niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn, hoặc
trong vòng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy
ngày...’’
Đọc câu này, tôi chảy
nước mắt, tại vì nhớ tới kinh Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ là kinh căn bản của thiền
tập nguyên thỉ. Rất tiếc là ở trong các chùa viện đại thừa, có nhiều người
không được biết đến và không được học kinh Niệm Xứ, tại vì, kinh Niệm Xứ là
kinh gối đầu giường của các thầy và các sư cô thời Bụt còn tại thế. Đó là kinh
mà các thầy và các sư cô thời nguyên thỉ học thuộc lòng. Vì sao? Vì trong kinh
này Bụt dạy về quán niệm thân trong thân, quán niệm cảm thọ trong cảm thọ, quán
niệm tâm trong tâm, quán niệm pháp trong pháp. Đó là thiền của Bụt. Đó là thiền
mà Bụt đã thực tập, các thầy, các sư cô học trò của Bụt đã trực tiếp thực tập.
Bụt đưa ra
những phương pháp rất
cụ thể: Làm thế nào để quán niệm thân thể trong thân thể, cảm thọ trong cảm
thọ, tâm ý trong tâm ý, và đối tượng tâm ý trong đối tượng tâm ý. Sự thực tập
của các thầy và các sư cô là sự thực tập chính trong hàng ngày: đi, đứng, nằm,
ngồi, ăn cơm, rửa bát... Cho nên kinh phải được học thuộc lòng. Sự thuộc lòng
này đích thực là một trái tim, chứ không phải như một con vẹt. Con vẹt có thể
học thuộc được nhưng không phải thuộc lòng. Trong kinh Niệm Xứ, Bụt dạy rằng:
Người nào thực tập được bảy năm thì sẽ thành đạo. Rồi Bụt nói không cần bảy
năm, ba năm cũng thành. Rồi Bụt nói không cần ba năm, một năm cũng thành. Rồi
Bụt nói không cần một năm, nửa năm cũng thành. Rồi Bụt nói không cần nửa năm,
một tháng cũng thành. Rồi Bụt nói không cần một tháng, bảy ngày cũng thành. Rồi
Bụt nói không cần bảy ngày, một ngày cũng thành. Chính những câu đó làm cho tôi
chảy nước mắt. Khi mình nói bảy năm có người rất sung sướng: Trời ơi! chỉ có
bảy năm thôi. Nhưng có người nói: Bảy năm lâu quá, sao tôi có thể làm được? Vì
vậy mà Bụt nói không cần bảy năm, ba năm cũng được. Sở dĩ mình nghe mà muốn
khóc, tại vì thấy lòng thương của Bụt bao la không bờ bến. Bụt ngồi đó mà mặc
cả với chúng sanh: Nếu con không làm bảy năm thì ba năm cũng được, nếu không
làm ba năm thì một năm cũng được, tùy ý. Tôi khóc là khóc ở chỗ đó. Rồi Kinh A
Di Đà lại nói: Nếu niệm không được mười tiếng thì một tiếng cũng được. Không
khóc sao được. Ở đời làm sao lại có một người có tình thương lớn đến như vậy.
Nếu đọc kinh này mà không đọc bằng trái tim thì làm sao thấy được điều đó. Có
người khó có định, có tuệ, nghĩ rằng mình tu không được, người khác tu chắc
cũng không được. Nhưng Bụt nói: Tất cả đều tu được. Con cứ tu đi, nếu con nghĩ
rằng, con niệm mười tiếng không được thì con niệm một tiếng cũng được. Đoạn
kinh Tứ niệm xứ ở trên tương tự như đoạn kinh A Di Đà này. Điều cảm động nhất
là ở chỗ đó. Bụt duỗi cánh tay ra để cứu vớt những người trầm luân ở trong cuộc
đời, và độ những người không có khả năng giới, định và tuệ. Bụt nói: ‘‘Con hãy
làm đi, con sẽ làm được’’.
Chúng ta biết rằng ở
trong dược khoa, nhiều khi vì thuốc đắng nên những nhà bào chế phải đưa chất
ngọt vào và làm cho thuốc đó trở thành ngọt. Những viên thuốc tể ở Đông y cũng
vậy. Người ta tán thuốc ra và trộn với mật ong để cho mình cảm thấy ngọt mà
uống được. Có một thứ chè gọi là sâm bổ lượng. Những thứ này mát, con nít chịu
ăn vào thì cơ thể chúng mới mát mẻ, mới không còn nổi mụt, vì vậy ta làm cho nó
thành chè. Cũng như mẹ bỏ viên thuốc ki-ninh đắng vào trong một miếng chuối để
cho mình
ngậm vào miệng, rồi
bảo: ‘‘Nuốt đi con.’’ Tất cả những cái đó đều từ lòng thương mà ra. Ở đây cũng
vậy, Đức Thế Tôn là một bà từ mẫu, biết rằng con mình có đứa mạnh giỏi, nhưng
cũng có đứa yếu đuối, thành phải thi thiết ra những pháp môn phương tiện để các
con có thể thâu thập một chút nào của chánh pháp. Nếu không thâu thập nhiều thì
thâu thập ít. Tất cả đều là do lòng từ bi vô lượng của đức Thế Tôn đối với
chúng sanh.
Đọc kinh ta phải đọc
với tất cả trái tim của mình, đừng chỉ đọc bằng trí năng, sự tìm tòi, sự phân
tích, một sợi tóc chẻ làm mười. Nếu thấy được điều đó, chúng ta cũng sẽ có tình
thương giống như Đức Thế Tôn. Ta ôm lấy tất cả mọi người, không chê bai một pháp
môn nào, dẫu pháp môn đó rất dễ dàng. Nó dễ nhưng chưa chắc ta đã hiểu được.
‘‘Sẽ thấy được Bụt A
Di Đà và thánh chúng nước ấy hiện ra trước mặt.’’
Câu này rất trung
thành với ý niệm ‘‘thiện căn, phước đức nhân duyên’’. Mỗi ngày mình niệm một
câu, mà ngày nào cũng niệm. Nếu giỏi thì niệm hai câu hay mười câu, và mỗi ngày
đều niệm như vậy. Đến khi lâm chung, tự nhiên mình sẽ nhớ mà niệm. Còn nếu nói:
‘‘Thôi, bây giờ chưa cần niệm, đợi đến phút gần lâm chung niệm một lần cho
luôn.’’ thì mình sẽ mất cơ hội. Vào giờ phút lâm chung, mình đau nhức quá trời.
Làm sao nhớ mà niệm. Quan trọng là ngày hôm nay. Chúng ta phải niệm, dù là niệm
chỉ được một hoặc hai câu. Người ta nói mình mê tín, mình cũng cứ niệm, bởi vì
niệm như vậy mình biết rằng mình đã gieo một hạt giống tốt đẹp vào trong tâm
thức. Nếu một ngày niệm một câu hay mười câu, thì thế nào đến giờ phút lâm
chung mình cũng không còn sợ hãi nữa. Mình đã có địa chỉ, đã có số điện thoại
rồi, tự nhiên lúc đó mình sẽ nhớ. Sư cô Thuần Nghiêm kể là hồi còn nhỏ ở bên
Đức mấy chị em trong nhà đều bắt phải học thuộc lòng địa chỉ của nhà, để lỡ đi
chơi lạc đường thì nói ra được địa chỉ để người ta có thể đem mình về nhà. Học
thuộc địa chỉ là lợi như vậy. Mình có một quê hương, mình không biết địa chỉ
của quê hương thì làm sao mà về được. Cho nên mình phải thuộc nằm lòng cái tên
quê hương của mình, cái địa chỉ quê hương của mình, để những lúc thất điên bát
đảo, những lúc bị ba đào sóng gió cuốn theo, nhớ đến tên gọi quê hương, nhớ tới
địa chỉ, mình có thể tìm về. Mỗi ngày chúng ta đều có công phu. Công phu ngồi,
công phu kinh hành, hay công phu tụng niệm... đều là công phu. Tất cả những
cái
đó là những cái thực
tập hàng ngày. Sự thực tập này hết sức quan trọng, nhất là khi thực tập chung
với anh em, chị em. Đừng nói tôi lớn rồi tôi khỏi cần thực tập theo chúng.
Ta phải nắm lấy danh
hiệu mà hết lòng thực tập quán niệm. Phương pháp này gọi là phương pháp trì
danh. Trì danh không phải chỉ bằng miệng của mình, mà còn bằng tâm của mình.
Nắm lấy là trì, hết lòng là nhất tâm. Nắm lấy danh hiệu, không phải bằng trí
năng, hoặc bằng miệng lưỡi, mà bằng trái tim. Tâm của mình phải chuyên nhất.
Mình phải để tâm vào danh hiệu đó, phải làm cho danh hiệu của Bụt có mặt trong
tâm mình. Khi niệm “Nam mô Bụt A Di Đà” mà tâm ta nghĩ đến chuyện khác, thì đó
là niệm danh hiệu suông, cũng giống như vỏ trấu không có hạt gạo ở trong. Đó là
hạt lúa lép. Niệm Bụt mà không có nội dung, gọi là niệm Bụt không nhất tâm. Vỏ
trấu không thể nấu thành cơm được. Vì vậy trong vỏ trấu phải có hạt gạo. Cũng
vậy, niệm Bụt có nhất tâm thì gọi là niệm Bụt có nội dung. Khi mình niệm Bụt:
“Namo Tassa Bhagavato Arahato Samasambu-ddhassa” (Con kính lạy Đức Thế Tôn, Bậc
A La Hán, Bậc ứng Cúng, Bậc Chánh Biến Tri), thì mình biết Thế Tôn (Bhagavat)
là Đấng mà người đời tôn kính. Ứng Cúng (Arahato) là người xứng đáng được cúng
dường. Chánh Biến Tri là bậc có sự hiểu biết chân thực và toàn vẹn. Khi niệm
danh hiệu, lòng mình có sự rung động và tha thiết. Giống như mình gọi tên của
người thương vậy. Nghe tên người thương mình cảm thấy rung động. Nó làm cho
mình khỏe, nó làm cho mình có hy vọng. Niệm Bụt cũng phải như vậy. Niệm Bụt
không phải chỉ là gọi tên một cách trống rỗng, mà phải làm cho lòng mình tràn
đày sự tín kính. Có những người niệm Bụt chưa kinh nghiệm, không có nội dung.
Có một bà cụ khi giận quá niệm Bụt: ‘‘Nam mô A Di Đà Phật, trời ơi là trời, tức
quá, tôi muốn chết quá đi!’’ Niệm Bụt như vậy thì không có an lành, vững chãi
và từ bi. Niệm Bụt là phải có an lành, vững chãi và từ bi. Chúng ta đôi lúc gặp
nhau, chào: ‘‘A Di Đà Phật’’ hay ‘‘Mô Phật’’. Tiếng chào không có nội dung,
tiếng chào rất buồn cười. Và đôi khi lại còn sử dụng từ ‘’Mô Phật’’ để mỉa mai
nhau. Điều này không nên, vì nó đưa đến tội bất kính. Do đó trì danh là phải
nhất tâm. Nếu trì danh mà không nhất tâm là trì danh không có nội dung, tức là
không gieo được hạt sen giác ngộ vào trong tâm địa của mình.
Có một bà cụ niệm Bụt
rất siêng năng, sáng nào bà cũng lên hương đèn rồi niệm Bụt, có mõ có chuông
đàng hoàng. Nhưng bà đã niệm Bụt như vậy
trải qua mười năm mà
tánh xấu của bà vẫn không thay đổi gì cả. Bà dữ lắm. Và hàng xóm ai cũng ngán
cái khẩu nghiệp của bà. Có một người đàn ông trong làng muốn dạy cho bà một bài
học. Buổi sáng hôm ấy, đúng lúc bà lên hương đèn niệm Bụt, thì ông ta đến đứng
trước ngõ gọi tên của bà ‘‘Bà Tư ơi! Bà Tư ơi!’’ Nghe gọi tên mình, bà Tư thầm
trách là đã tới sao không vào, lại còn đứng ngoài cửa mà kêu, và bà bắt đầu bực
bội. Bà thỉnh chuông mõ lớn hơn và niệm Bụt to hơn để gián tiếp nói rằng bà
đang niệm Bụt và ông hàng xóm không lịch sự. Ông hàng xóm giả bộ không nghe.
Ông ta cứ đứng ngoài cổng tiếp tục gọi tên bà. Ở trong này bà lại càng niệm lớn
giọng. Hai bên đều lớn tiếng. Nhưng ông hàng xóm cứ giả bộ không nghe, vẫn tiếp
tục gọi tên bà. Đến một lúc nào đó, bà chịu không nổi nữa. Bà vứt chuông mõ, ra
đường chống nạnh để chửi. ‘‘Này cái anh kia, anh có biết giờ này là giờ ta đang
niệm Phật không? Đồ bất lịch sự, đồ khốn nạn.’’ Bây giờ ông nọ mới cười lớn và
bảo: ‘‘Trời ơi! Tôi mới gọi bà mấy chục tiếng như vậy mà bà đã giận như thế,
huống gì mỗi ngày bà gọi tên Đức Thế Tôn hơn cả một tiếng đồng hồ, chắc là Đức
Thế Tôn giận bà lắm.’’ Qua câu chuyện bà Tư, ta biết rõ cái vô ích của sự trì
danh mà không có nội dung. Bởi vậy, trong kinh nói là phải nắm lấy danh hiệu mà
hết lòng. Thực tập chánh niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn là làm thế nào
để trong khi ta niệm Bụt thì tâm ta không nghĩ đến chuyện gì khác. Chỉ nghĩ đến
Bụt mà thôi. Điều đó rất đúng với phép tùy niệm Buddha anusrmti. Niệm Bụt là
một giáo lý nguyên thỉ của Phật giáo. Không phải mình chỉ niệm Bụt, niệm Pháp
và niệm Tăng trước khi vãng sanh. Sau khi vãng sanh, mình vẫn tiếp tục niệm
Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Câu ‘’Nhất tâm bất loạn’’hết sức quan trọng. Niệm
Bụt phải đạt đến nhất tâm bất loạn. Nghĩa là lúc niệm Bụt, tâm ta ngưng tụ vào
danh hiệu của Bụt mà không nghĩ đến bất cứ chuyện gì khác, không nghĩ đến
chuyện nấu cơm, chuyện nấu nước, chuyện thắp đèn, chuyện quá khứ, chuyện tương
lai. Niệm Bụt chỉ để niệm Bụt mà thôi. Thành tựu sự niệm Bụt nhất tâm bất loạn
là một quá trình thực tập. Ban đầu tâm còn tán loạn, nhưng ta đừng mất kiên
nhẫn. Nhiều khi ta niệm mười tiếng, mà chín tiếng lạc vào vọng tưởng, chỉ còn
lại một tiếng có chánh niệm; cũng còn đỡ hơn không có tiếng nào. Ngày mai ta
niệm mười tiếng, thì có thể có được hai tiếng trong chánh niệm. Như vậy đã là
tiến bộ rồi. Niệm Bụt, nên ngồi chung nhiều người để niệm, những người bạn cùng
tu với mình. Niệm Phật Đường là chỗ để niệm Phật. Ta ngồi chung với nhiều người
niệm Bụt như vậy, thì ta có năng lượng nhiều hơn. Ban đầu mình chỉ thành công
được một phần mười, nhưng từ từ niệm và định tăng trưởng
thành hai phần mười,
rồi ba phần mười, bốn phần mười, cho đến một lúc nào đó, mình niệm Bụt mười
tiếng thì có chánh niệm cả mười. Đó là sự thành công lớn.
‘‘Khi nghe danh hiệu
Bụt A Di Đà, thì phải nắm lấy danh hiệu ấy, mà hết lòng thực tập quán niệm theo
phương pháp ‘nhất tâm bất loạn’ hoặc ở trong vòng một ngày, hai ngày, ba ngày,
bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày. Người ấy, đến khi lâm chung sẽ thấy
được Bụt A Di Đà và các vị thánh chúng nước ấy hiện ra trước mặt.’’
Đó là phước đức tối
thiểu mà khi lâm chung ta được nương nhờ, vì giây phút lâm chung là giây phút
hết sức quan trọng và cực kỳ nguy hiểm của đời ta. Lúc ấy ta được dẫn dắt bởi
năng lượng thiện hoặc ác do ta tạo ra trong đời sống. Nếu ta thường niệm Bụt có
chánh niệm thì vào giờ phút lâm chung, tâm thức ta sẽ vững vàng để đưa ta đi về
hướng thiện, và gặp được các bậc ‘‘thượng thiện nhân’’. Còn nếu không được như
vậy thì ta sẽ đi về tam ác đạo. Giờ phút lâm chung ta cần có tăng thân bên cạnh
để hộ niệm cho ta, và ta biết rằng, được hộ niệm như vậy thì tâm ta vững vàng
để hướng về một cảnh giới tốt đẹp. Nếu thực tập giỏi thì ta không phải đợi giờ
phút lâm chung mới đến được Tịnh Độ mà trong mỗi giây phút niệm Bụt ta đã có
Tịnh Độ bên mình. Không phải niệm Bụt thì tới giờ phút lâm chung mới có định.
Hễ có niệm là có định ngay lập tức. Và hễ có niệm và có định thì cõi uế độ đã
bắt đầu chuyển hóa để trở thành cõi Tịnh Độ. Như vậy cõi Tịnh Độ bắt đầu hiện
tiền. Ta không đợi đến khi lâm chung mới đi về Tịnh Độ. Ta về Tịnh Độ ngay khi
ta đang niệm Bụt. Điều này ta phải thấy cho rõ vì nó hết sức quan trọng. Đức
Thế Tôn nói: ‘‘Giáo pháp của Như Lai mầu nhiệm ngay từ lúc bắt đầu’’. Giờ phút
mà ta nắm lấy hơi thở và thực tập trong mỗi bước chân là ta đã bắt đầu thấy có
kết quả. Cho nên Tịnh Độ không những sẽ biểu hiện ra lúc lâm chung, mà còn biểu
hiện ra cho ta lúc ta bắt đầu thực tập niệm Bụt. Sử dụng tâm để niệm Bụt, tâm
ta lúc ấy trở thành tâm của các bậc ‘‘thượng thiện nhân’’. Khi ta bắt đầu niệm
Bụt và niệm cõi Cực Lạc thì tâm ta lúc đó có Bụt và có cõi Cực Lạc. Nếu quý vị
đã ở Làng Mai tu học một tháng, hai tháng hoặc sáu tháng thì quý vị đã có những
hạnh phúc của Làng Mai, và khi quý vị rời Làng Mai thì quý vị mang hạnh phúc ấy
của Làng Mai đi theo về nơi trú xứ của quý vị. Nhiều lúc ở nơi trú xứ của quý
vị, quý vị gặp nhiều khó khăn, nhưng nghĩ đến những hình ảnh và hạnh phúc của
Làng Mai, thì hình ảnh và hạnh phúc ấy
sẽ hiện tiền. Như vậy
lúc đó là Làng Mai đang có mặt trong tâm của quý vị. Tịnh Độ cũng vậy, không
phải ta đi tới Cực Lạc mới có Tịnh Độ, mà Tịnh Độ đi tới với ta, Tịnh Độ có sẵn
trong lòng ta. Dù ta đang đứng ở chỗ trầm luân nhưng nếu ta nghĩ tới Bụt và tới
Tịnh Độ là ta đã thấy khỏe khoắn trong lòng. Những người không có chỗ để hướng
về, để nhớ tưởng, là những người đã đánh mất mình. Ta có chỗ để về, có Bụt để
tưởng nhớ, là ta đã có hạnh phúc lớn, có phước đức lớn. Ta có tăng thân cùng tu
học, có pháp Bụt để hành trì, có môi trường để thực nghiệm, đó là những điều
hết sức quý báu. Ta phải có bổn phận duy trì và phát triển những điều kiện ấy
bất cứ nơi nào ta có mặt. Nếu một người trong giờ phút lâm chung mà an trú được
trong định, nếu người ấy không hề điên đảo và tán loạn thì người ấy sẽ vãng
sanh ngay vào nước Cực Lạc. Điên đảo có nghĩa là chúc đầu ngược lại. Không điên
đảo gọi là chánh trực. Mình biết trời là trời, đất là đất, Bụt là Bụt, ma là
ma, cái biết đó là chánh trí. Nếu tâm ý ta lộn xộn, không ổn định, cho trời là
đất, đất là trời, Phật là ma, ma là Phật thì đến lúc lâm chung, trong tâm trạng
điên đảo đó, ta sẽ rơi vào tam ác đạo. Lúc lâm chung mà ta có định là nhờ ta
thực tập giới, niệm và định trong đời sống hàng ngày. Và vì ta có thực tập
giới, niệm và định, nên ta đã bắt đầu có hạnh phúc ngay trong đời sống hàng
ngày rồi, chứ không phải đợi đến lúc lâm chung ta mới có hạnh phúc. Sở dĩ chúng
ta nói đến lúc lâm chung vì lúc lâm chung là lúc sự tiếc nuối thường phát hiện.
Nếu có niệm Bụt là có hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Mỗi hơi thở, mỗi
bước chân mà ta có niệm Bụt là ta có thể đem Tịnh Độ về cho ta trong giây phút
hiện tại. Điều này là điều chúng ta thấy được trong lúc hành trì.
‘‘Xá Lợi Phất, vì thấy
được điều lợi ích lớn lao này cho nên tôi muốn nói với quý vị rằng, những ai
đang nghe tôi nói đây hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy.’’
Trong giờ phút nói lên
câu này tâm lý Đức Thế Tôn cũng là tâm lý của chúng ta. Chúng ta cần có một
khung cảnh an toàn và hạnh phúc để chuyển hóa khổ đau, nên khi gặp ai đau khổ
là ta giới thiệu khung cảnh an toàn và hạnh phúc ấy cho họ để họ có dịp đến đó
tu học. Kinh A Di Đà là kinh đức Thế Tôn giới thiệu quê hương Tịnh Độ cho chúng
ta. Những đoạn kinh tiếp theo nói về sự hộ niệm của các vị Bụt trong mười phương:
‘‘Này Xá Lợi Phất! Nếu
trong giây phút hiện tại, tôi đang ca ngợi sự lợi ích và công đức không thể
nghĩ bàn của Bụt A Di Đà, thì tại phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương
Bắc, phương Thượng và phương Hạ, các Bụt đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng
đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của quý vị, bao
trùm cả thế giới Tam thiên đại thiên, và thốt lên lời tuyên bố thành thật của
mình: Này toàn thể chúng sanh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà
các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.’’
Trong câu kinh này,
Bụt nói rằng không những ngài đang tán dương cõi Tịnh Độ của Bụt A Di Đà mà
Ngài còn khuyến khích chúng sanh các cõi khác phát nguyện sinh về cõi ấy. Các
vị Bụt khác trong thế giới mười phương, ít nhất là sáu phương, đều đang làm như
Ngài cả. Kinh A Di Đà là một kinh rất mầu nhiệm, cõi A Di Đà là một nơi lý
tưởng để thực tập đời sống giác ngộ, và Bụt A Di Đà là một bậc đạo sư lý tưởng.
Vì vậy tất cả các vị Bụt trong mười phương, vị nào cũng nâng đỡ và yểm trợ cho
nhau. Vị Bụt nào cũng có đạo tràng và có Tịnh Độ cả. Các Ngài có đạo tràng và
có Tịnh Độ để yểm trợ cho chúng sanh tu học, và các ngài cũng yểm trợ cho nhau
trong việc thành tựu lý tưởng giác ngộ. Chúng ta phải biến ngôi chùa của chúng
ta thành đạo tràng tu học, thành một cõi Tịnh Độ nho nhỏ và đồng thời hỗ trợ
cho đạo tràng của các ngôi chùa khác, nhằm mở rộng niềm tin cho hàng Phật tử tu
học. Đọc đoạn kinh này, ta thấy các vị Bụt cư xử với nhau hết sức cao đẹp. Nói
đến Cực Lạc là các đức Thế Tôn ở các quốc độ khác đều đồng thanh khen ngợi rằng
cõi Cực Lạc là cõi rất đẹp, đức Bụt A Di Đà rất giỏi. Các Ngài ca ngợi nhau một
cách hết lòng, chứ không phải khen nhau bằng những từ ngoại giao. Các ngài
không bao giờ nói xấu nhau, như chùa này nói xấu chùa khác. Các Ngài đang ngồi
tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các Ngài. Người có lưỡi
rộng và dài là người nói thật. Cái lưỡi của Bụt dài đến nỗi le ra một cái là
bao trùm được hết tam thiên đại thiên thế giới. Đây là ngôn từ đại thi sĩ. Cái
lưỡi của chúng ta rất ngắn, cái lưỡi của chúng ta rất nhỏ, cho nên ta không thể
dùng lưỡi của chúng ta mà tạo ra được nhiều hạnh phúc, như cái lưỡi của các đức
Thế Tôn. Tướng lưỡi rộng dài là một trong ba mươi hai tướng tốt của đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn nào cũng có ba mươi hai tướng đẹp. Tướng đẹp thứ hai mươi bảy là
tướng lưỡi rộng dài. Và một người có cái lưỡi như vậy thì không thể nói ngang
ngược, nói châm chích, nói hai chiều, nói thêu dệt. Chỉ
có cái lưỡi rộng dài
mới nói ra được những điều vi diệu thôi. Hãy quán tưởng Bụt A Di Đà đang ngồi
trên cõi Cực Lạc mà thấy các Bụt xung quanh đều nói tốt về mình. Điều này Bụt A
Di Đà thấy cũng bình thường thôi, không tự hào tự phụ, vì đã là Bụt, thì vị nào
cũng ủng hộ cho nhau hết lòng cả.
‘‘Này Xá Lợi Phất,
thầy nghĩ sao? Tại sao gọi kinh này là kinh mà tất cả các vị Bụt đều đem hết
lòng xưng tán và hộ niệm? Sở dĩ như thế là vì những người con trai hoặc con gái
nhà lành nào, nghe được vị Bụt A Di Đà, hết lòng hành trì và thực tập theo
phương pháp niệm Bụt, thì những người ấy được tất cả các vị Bụt hộ niệm, và tất
cả đạt tới địa vị cao tột không còn bị thối chuyển. Vì vậy, quý vị hãy tin vào
những lời tôi đang nói và cũng là những lời chư Bụt đang nói.’’
Trong đoạn kinh này,
ta thấy ẩn dấu một hạt minh châu. Phương pháp đó gọi là ‘‘nhất hạnh tam muội’’.
Tam muội này là thiền định theo phương pháp Niệm Phật Tam Muội. Khi thiền tập
đạt được tam muội rồi, thì bấy giờ ta niệm Bụt nào cũng được, miễn là mình niệm
Bụt mà thôi. Ta niệm Bụt A Di Đà cũng được, niệm Bụt Thích Ca cũng được, niệm
Bụt Di Lặc cũng được, ta chỉ cần niệm một vị Bụt thôi, mà nếu đạt đến nhất tâm,
là ta có định. Khi ta đã có định ở nơi một vị Bụt, thì thông qua vị Bụt đó, ta
có thể tiếp xúc được hằng hà sa số chư Bụt, vì một vị Bụt là tất cả các vị Bụt
và tất cả các vị Bụt là một vị Bụt. Cho nên, niệm Bụt A Di Đà cũng là niệm Bụt
Thích Ca, niệm Bụt Thích Ca cũng là niệm Bụt Ca Diếp, niệm Bụt Ca Diếp cũng là
niệm Bụt Tỳ Bà Thi, v.v... Vì vậy, niệm Bụt này cũng là niệm Bụt kia, ta đang
kính lễ Bụt này cũng có nghĩa là ta đang kính lễ Bụt kia, cái thấy đó, cái định
đó được gọi là nhất hạnh tam muội. Đến đây, chúng ta đọc tới một câu kinh khác
rất là huyền diệu:
Đã về đã tới
‘‘Xá Lợi Phất, nếu có
người đã, đang hay sẽ phát nguyện sinh về cõi Bụt A Di Đà, thì người ấy ngay
trong giờ phút phát nguyện, đã đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối
chuyển và đã có mặt ở nước ấy rồi, không kể đến sự kiện là người ấy chưa sanh,
đang sanh hay sẽ sanh về đó.’’
Câu kinh này có nhiều
người dịch khác nhau, nhưng theo cái hiểu của tôi thì dịch như trên mới rõ
nghĩa. Nếu ta tiếp nhận được ý nghĩa của câu kinh này thì ta xúc chạm tới được
bản môn.
‘‘Xá Lợi Phất, nếu có
người đã, đang hay sẽ phát nguyện sanh về cõi Bụt A Di Đà.’’
Ta có muốn sanh về Cực
Lạc hay không? Tất cả đều do ta. Ta có hai hoàn cảnh. Một là hoàn cảnh ta đang
hệ lụy khổ đau và hai là tuy ta đang ở trong hoàn cảnh ấy nhưng ta đã có tâm
muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy. Vì vậy vấn đề là ta có muốn thoát hay không
muốn thoát. Nếu ta muốn thoát, thì ta sẽ thoát được. Và nếu ta không muốn
thoát, thì ta sẽ không bao giờ thoát. Quý vị đã từng bị lâm vào một hoàn cảnh
đau thương và hệ lụy của cuộc đời chưa? Có rồi phải không? Cuộc đời sao mà
nhiều khổ đau quá. Nhìn xung quanh, ta thấy người nào cũng khổ, người nào cũng
trầm luân, người nào cũng hệ lụy. Ta cũng hệ lụy, ta cũng chìm đắm như người
khác. Bấy giờ tự nhiên ta có ý muốn thoát ra, muốn đi tới một chỗ có an toàn,
có giới luật, có chánh niệm, có Tăng thân. Ăn thua là mình đã có ý muốn đó hay
không. Nếu có, thì tuy mình đang ở đó, mà mình đã bắt đầu thoát ra khỏi chỗ đó
rồi. Quý vị có hiểu không? Tại sao? Tại vì tâm mình không còn vướng mắc vào chỗ
khổ đau ấy nữa. Tuy thân của mình đang ở chỗ đó mà tâm của mình đã vượt ra khỏi
chỗ đó và đã đi đến chỗ kia rồi. Nghĩa là ngay lúc tâm mình phát nguyện thì
mình đã có mặt ở Tịnh Độ. Nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sanh về nước
Bụt A Di Đà, thì người ấy ngay trong giờ phút phát nguyện, đã đạt tới quả vị
cao tột, không còn thối chuyển, tức là không còn bị sa đọa. Và tại sao người đó
không bị sa đọa? Là do sự quyết tâm từ bỏ cõi uế độ của người đó. Ngay lúc
quyết tâm đó, tâm của họ đã sanh vào Tịnh Độ, sanh vào địa vị không thối chuyển.
Một khi ta đã sanh
vào địa vị không thối
chuyển, thì ta không còn sa đọa nữa. Nên kinh nói nguyện sanh Tịnh độ là đã
sanh rồi, không kể đến sự kiện là người ấy đã sanh, đang sanh hay sẽ sanh về
nước ấy. Quý vị có thấy câu kinh này mầu nhiệm không? Trong hoàn cảnh hệ lụy
đau thương, mà nếu mình có ý muốn thoát ly là mình có thể thoát ly ngay ở trong
tâm của mình, và ngay trong tâm của mình đã có cõi Tịnh Độ. Như vậy là tuy còn
đứng ngay tại chỗ mà mình đã sanh về Cực Lạc. Và mình có thể quay lại cứu vớt
những người đang bị chìm đắm trong khổ lụy. ‘‘Khổ hải mang mang hồi đầu thị
ngạn.’’ Biển khổ tuy là mênh mông, nhưng mà biết quay đầu lại, thì đã thấy đất
liền. Vậy vấn đề là ta có muốn quay đầu lại hay không? Trong giáo lý Tịnh độ,
tâm nguyện là quan trọng, vì nguyện luôn luôn gắn liền với đức tin. Có nguyện
và có đức tin thì cho dù ta đang ở trong hoàn cảnh khổ đau cùng cực đi nữa, ta
vẫn có nẻo để thoát ra, và nẻo thoát ấy là Tịnh Độ, là Tăng thân đang tu học có
giới, định và tuệ. Nếu có Tín, có Nguyện và có Hạnh thì sanh về Tịnh độ không
phải là chuyện khó đối với ta. Cũng vậy, nếu ta có Tín, có Nguyện và có Hạnh
với Đạo tràng Làng Mai, thì việc đi về với Đạo tràng Làng Mai sẽ không khó đối
với chúng ta. Chỉ một cú điện thoại cũng đủ giúp ta tới Đạo tràng Làng Mai rồi.
Cô thiếu nữ tên là Thục Hiền có ý muốn xuất gia và có quyết tâm xuất gia, thì
trong giờ phút quyết tâm xuất gia đó, cô đã thành tựu được hạt giống xuất gia ở
trong tâm cô rồi. Còn vấn đề cạo đầu, mặc áo chỉ là vấn đề hợp thức hóa thôi. Nhìn
cho sâu sắc là ta phải thấy như vậy. Tín, Nguyện và Hạnh là tinh hoa của việc
tu tập Tịnh Độ. Tín là tin vào một nẻo thoát. Nguyện tức là muốn; muốn một cách
tha thiết. Hạnh là sự thực tập Tịnh Độ hằng ngày. Hễ có Tín, Nguyện và Hạnh là
lập tức ta sanh về Tịnh Độ, không kể đến sự kiện người ấy đã sanh, đang sanh
hay sẽ sanh. Đọc kinh là phải quyết tâm để thấy được chiều sâu của kinh. Phải
đọc kinh bằng trái tim, để khi tiếp xúc với tích môn, mình cũng tiếp xúc được
với bản môn.
Đức Thích Ca dạy tiếp:
‘‘Quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà các Bụt trong vũ trụ đều đem hết
lòng xưng tán và hộ niệm’’. ‘‘Xưng tán’’vì kinh này có công đức vô lượng và có
thể tạo ra nhiều thành tích, nhiều công đức. Và ‘‘hộ niệm’’ là yểm trợ bằng
năng lượng chánh niệm của mình. Như vậy tất cả chư Bụt đều khen ngợi sự thực
tập của kinh này, và hứa sẽ dùng năng lượng chánh niệm của mình để yểm trợ cho
những người nào muốn thực tập. Lý luận có tính cách biện chứng của sự hành trì
này là: khi mình để tâm vào bất cứ một vị Bụt nào, thì qua vị Bụt đó, mình có
thể tiếp xúc
với tất cả các vị Bụt
khác trong vũ trụ. Và vì vậy danh hiệu riêng của từng Ngài không còn là một vấn
đề nữa, vì qua một vị Bụt, mình có thể tiếp xúc với tất cả các vị Bụt trên thế
giới. Cho nên ta niệm Bụt nào cũng được hết, miễn là ta niệm Bụt cho được nhất
tâm. Chính nhờ các vị Bụt trong vũ trụ hộ niệm, mà hành giả sẽ không bị thối
chuyển, tức là không bị sa đọa. Thực tập là được giữ gìn để đi tới, chứ không
phải đi lui.
Nhìn sâu, ta thấy
trong kinh có ý niệm về Tăng thân, và đây là một ý niệm hết sức căn bản và quan
trọng. Tại vì Tịnh Độ là sáng tạo phẩm cộng đồng của Tăng thân. Không phải chỉ
có Tịnh Độ của một vị Bụt. Tất cả các vị Bụt trong vũ trụ đều có Tịnh Độ, và
đều yểm trợ cho các cõi Tịnh Độ. Ở bài kinh này ta học được rằng: chỉ cần để
tâm niệm của mình hướng về một vị Bụt và niệm Bụt đến chỗ nhất tâm thì mình có
cơ hội tham dự vào cõi Tịnh Độ, dù trong lòng mình vẫn đang còn có những hạt
giống khổ đau. Trong ta đang còn có những hạt giống khổ đau, nhưng ta vẫn có
thể tham dự vào cõi Tịnh Độ. Đây là một điều rất hay, vì ở trong giáo lý Tịnh
Độ có ý niệm ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’. ‘‘Đới’’ là mang theo, quẩy theo.
‘‘Nghiệp’’ là những hậu quả khổ đau do những động tác của cơ thể, của tư tưởng
và của lời nói trong quá khứ đem lại. Mình có thể đem những nỗi khổ niềm đau
của mình về tham dự vào Tịnh Độ. ‘‘Vãng sanh’’ là đến tham dự. ‘‘Đới nghiệp
vãng sanh’’ nghĩa là đang quẩy nghiệp theo mà vẫn tham dự được Tịnh Độ. Khi ta
cầm một hòn đá hoặc một viên sõi và liệng xuống dòng sông, thì dầu viên đá hoặc
hòn sõi có nhỏ, có nhẹ đến mấy, nó vẫn chìm xuống sông như thường. Nhưng khi ta
có một chiếc thuyền để chuyên chở thì dù cho ta có đặt mấy trăm ký đá vào
thuyền thì thuyền cũng vẫn không chìm. Đây là một thí dụ rất hay về ‘‘đới
nghiệp vãng sanh’’. Một mình thì chìm nghỉm, nhưng có sức hộ niệm của Tăng
thân, của Bụt và Bồ tát, thì mình sẽ không chìm, mình vẫn nổi, và sự khác nhau
là ta có Tăng thân hay không, có Tịnh Độ hay không. Có Tăng thân và có Tịnh Độ
thì cho dù mình còn có đau khổ trong tâm, mình cũng không bị chìm. Cái hay là ở
chỗ đó. Điều này có thể gọi là tha lực, tức là sức mạnh không phải sức mạnh của
mình mà của người khác. Nhưng tha lực được làm bằng chất liệu của tự lực. Thí
dụ: Tăng thân tuy là tha lực, nhưng tăng thân được làm bằng tự lực. Mỗi người
đều đóng góp năng lượng hạnh phúc và năng lượng an lạc của mình vào Tăng thân,
nên Tăng thân mới có năng lượng của chánh niệm, năng lượng của hạnh phúc, năng
lượng của an lạc. Đem năng lượng đó ra thì tăng thân cứu vớt và chuyên chở được
nỗi khổ niềm đau của người mới
đến. Người mới đến
cũng vậy, sự thực tập chánh niệm của mình cũng có thể đóng góp vào năng lượng
chánh niệm và niềm vui của Tăng thân. Dù mình chỉ mới có chút ít niềm vui thôi,
dù mình chỉ mới có chút ít năng lượng chánh niệm thôi, mình cũng có thể đóng
góp được cho Tăng thân rồi. Cái đó gọi là tha lực. Tha lực được làm bằng tự
lực. Tha lực có sẵn, nên khi mình tham dự và thừa hưởng những hạnh phúc và an
lạc của Tăng thân thì mình phải đóng góp cái tự lực của mình vào cho Tăng thân.
Chúng ta thử nghĩ cõi Tịnh Độ có rất nhiều người mới vãng sanh, trong tâm thức
của họ vẫn còn những hạt giống của tham giận, buồn rầu, sợ hãi, nghi ngờ, do
đó, thỉnh thoảng họ vẫn còn khổ đau. Bởi vì họ là hạng ‘‘đới nghiệp vãng
sanh’’. Cho nên, ta đừng tưởng tượng rằng khi được tham dự vào Tịnh Độ là ta sẽ
không có vấn đề gì nữa hết. Nếu có một cõi mà không phải Tịnh Độ, thì sự gặp gỡ
của chúng ta trong cõi đó sẽ đưa tới sự chất chứa những khổ đau và sẽ tạo thành
địa ngục. Nhưng trái lại, nếu chúng ta được gặp nhau ở cõi Tịnh Độ thì chúng ta
có cơ hội để chuyển hóa khổ đau. Bởi vì ở đó ta có Bụt và các vị bồ tát ‘‘nhất
sanh bổ xứ’’, có nhiều bậc ‘‘thượng thiện nhân’’, cho nên các ngài ôm ấp được
những nỗi khổ niềm đau của người mới vãng sanh, ôm ấp trong tình thương, ôm ấp
trong sự hiểu biết, ôm ấp bằng đức kiên nhẫn và sự hướng dẫn của mình. Do đó
cõi Tịnh Độ có sức chịu đựng những nỗi khổ niềm đau của những người ‘‘đới
nghiệp vãng sanh’’ mới tới, và nghiệp của những người đó sẽ được chuyển hóa từ
từ bởi sự thực tập hàng ngày. Buổi sáng được đi hái hoa, được đi cúng Bụt, buổi
trưa về ăn cơm chánh niệm, được đi thiền hành, nghe pháp thoại do chim nói, do
cây nói, được gần gũi Bụt A Di Đà, được thân cận bậc thiện tri thức, đó là
những điều kiện rất thuận lợi để tu tập, để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau
mà mình đã mang tới từ bên kia. Và vì vậy ở Tịnh Độ là dân chúng phải tu, có
phải vậy không? Ở cõi Tịnh độ tất cả dân chúng đều tu theo phép niệm Bụt, niệm
Pháp và niệm Tăng, nhờ gió, nhờ chim yểm trợ, nhờ Bụt và các vị Bồ tát yểm trợ.
Ta đừng nghĩ rằng qua đó, buổi sáng ta có thể dậy trưa, không đi ngồi thiền rồi
cũng không ra ăn cơm sáng với đại chúng. Không có chuyện đó đâu. Qua bên kia là
thế nào ta cũng sẽ làm đệ nhị thân cho một vị Bồ tát. Vị Bồ tát ấy thế nào cũng
kéo ta dậy đi ngồi thiền chung, và giúp đỡ ta trong lúc khó khăn. Vậy, ‘‘đới
nghiệp vãng sanh’’ là một thực tại, và vì vậy cõi Tịnh Độ có tính chất của một
cõi ‘‘phàm thánh đồng cư’’. Phàm là những người trần tục, và thánh là những
người đã được giải thoát, giải thoát một phần hoặc giải thoát hoàn toàn. Phần
thánh ôm ấp phần phàm, giữ gìn phần phàm đừng cho phần phàm bung ra, và để cho
phần
phàm từ từ chuyển hóa.
Cái hay của Tịnh Độ là không phải không có phần phàm, nhưng cái phần phàm được
ôm ấp, nâng niu và chăm sóc bởi phần thánh. Chúng ta hãy quán tưởng đây là vòng
tay của Bụt và của các vị Bồ tát đang ôm lấy tất cả chúng ta trong nguồn năng
lượng thánh thiện của các ngài. Nguồn năng lượng thánh thiện này là nguồn năng
lượng của chánh niệm. Và đây là những chúng sanh vừa mới vãng sanh, có rất
nhiều chất phàm trong họ. Nhờ có nhiều bậc ‘‘thượng thiện nhân’’ tụ tập lại một
chỗ, cho nên họ mới có đủ năng lượng thực tập chánh niệm để tự ôm ấp được những
phần phàm đó của họ. Mỗi cá nhân đều có phần phàm trong tự thân, nhưng mỗi cá
nhân cũng có phần thánh trong họ. Tuy mình là người phàm, nhưng vì mình đang tu
tập chánh niệm, nên phần thánh đã bắt đầu có mặt. Do đó chất thánh không phải
chỉ có ở nơi người khác mà cũng có nơi chính mình. Mỗi bước chân có chánh niệm,
mỗi hơi thở có chánh niệm đều có thể chế tác ra được phần thánh của mình để
mình có thể ôm lấy phần phàm của mình, và nếu chưa đủ, mình mượn phần thánh của
chư Bụt và của các bậc Bồ tát ‘‘nhất sanh bổ xứ’’ hoặc các bậc ‘‘thượng thiện
nhân’’ để ôm ấp và chuyển hóa phần phàm ở nơi mình. Lý do tồn tại của Tăng thân
là sự có tu và có học. Tới với Tăng thân là để tu và để học, vì vậy, mỗi ngày
mình chế tác được chất ‘‘thánh’’thêm một chút để ôm ấp lấy chất ‘‘phàm’’trong
mình và để chuyển hóa chúng. Ta hãy nhìn vào Tăng thân của ta để thấy rằng Tăng
thân của ta cũng là một cọng đồng phàm thánh đồng cư. Chất thánh trong chúng ta
mặc dù đang có, nhưng không thể nào so với chất thánh của chư Bụt và Bồ tát. Và
trong chúng ta có người có chất ‘‘thánh’’ nhiều hơn chất ‘‘phàm’’, nhưng cũng
có người có chất phàm nhiều hơn chất thánh. Mỗi chúng ta đều có cả hai chất
liệu ấy, nhưng chất lượng phàm và thánh ở trong mỗi chúng ta đều khác
nhau.
Hoa sen chín phẩm
Người ta nghĩ rằng ở
cõi Tịnh Độ sen được chia thành chín bậc. Những người vãng sanh sang bên đó có
nhiều trình độ và tùy theo trình độ đó mà người ta có chất thánh nhiều hay ít,
và chỗ ngồi của họ được tượng trưng bằng hoa sen ‘‘chín phẩm’’. Khi còn ở trong
cõi Ta bà này, trong giờ phút hiện tại, mỗi khi quý vị niệm câu ‘‘Nam mô Bụt A
Di Đà’’ với tâm thành khẩn, chuyên nhất, thì chất liệu của chánh niệm được phát
sinh, và tự nhiên ở bên cõi Tịnh Độ một bông sen búp được tượng hình. Đó là một
hình ảnh rất đẹp, rất thi ca. Hãy khoan xem đó là một sự thật khách quan. Hãy
xem đó trước hết là một hình ảnh thi ca rất đẹp. Mặc dầu nó là một búp sen nhỏ
xíu nhưng mà nó đã có mặt. Tôi vẽ trên bảng, chia bảng thành hai phần. Phần này
là cõi Ta bà. Phần kia là Tây phương Tịnh Độ. Mình là một chúng sanh đang ở bên
này, tức là ở cõi Ta bà. Mình niệm Bụt một câu. Ở bên phần kia, một bông sen
tượng hình. Đây là hình ảnh mà người ta hay sử dụng để thực tập. Tùy theo công
phu thực tập mà bông sen bên kia lớn nhanh hay lớn chậm. Bông sen ấy là để dành
cho mình. Mình sẽ sinh ra trong bông sen ấy. Khi bông sen lớn và già giặn rồi
thì nó nở ra. Ngay lúc đó ta được sinh ra. Ta xuất hiện từ bông sen. Ta được
sinh ra từ một bông sen (chứ không phải từ một bắp cải).
Ở cõi Tịnh Độ có chín
phẩm sen. Theo ‘‘Quán A Di Đà Phật Kinh’’ thì chín phẩm chia làm ba trình độ,
mỗi trình độ có ba phẩm và khi mình sinh sang cõi đó mà sinh vào phẩm thấp nhất
là "hạ phẩm hạ sanh". Nếu là thượng căn thượng trí thì ta sanh ở phẩm
‘‘thượng phẩm thượng sanh’’.
Ba trình độ được sinh
làm chín phẩm như sau:
• Thượng phẩm thượng
sanh • Thượng phẩm trung sanh
• Thượng phẩm hạ sanh
• Trung phẩm thượng
sanh • Trung phẩm trung sanh
• Trung phẩm hạ sanh
• Hạ phẩm thượng
sanh
• Hạ phẩm trung sanh •
Hạ phẩm hạ sanh
Mới nghe, ta có cảm
nghĩ bên cõi Cực Lạc mà cũng có giai cấp xã hội và có sự kỳ thị giai cấp. Nhưng
ta hãy coi chừng. Ta phải học với sự thông minh của ta. Khi ta sinh ra ở Tịnh
Độ với tư cách hạ phẩm hạ sanh thì tuy ta đã qua được bên đó nhưng ta vẫn còn
mang theo rất nhiều khổ đau. Có phải vậy không? Ta rất cần tới Tăng thân bên đó
ôm ấp và nâng đỡ để chuyển hóa. Vì còn khổ đau nên mặc dầu đã ở Tịnh Độ mà ta
không hưởng được hết một trăm phần trăm niềm vui của Tịnh Độ. Ta chỉ hưởng được
năm phần trăm của niềm vui đó thôi, hay có khi còn ít hơn. Nhưng sự kiện ta
đang ở Tịnh Độ là một điều mầu nhiệm lắm rồi, mặc dù ta còn đau khổ, còn nghi
ngờ, mặc dầu thỉnh thoảng ta còn muốn bỏ đi. Đã ở Tịnh Độ rồi, nhưng ta vẫn còn
trồi lên sụp xuống rất nhiều. Cho nên ta phải cần đến Tăng thân. Chúng ta cần
phải bám lấy Tăng thân. Tịnh Độ là vậy. Ở bên kia, có những người hạnh phúc rất
lớn, vì họ được sinh ra trên những bông sen thượng phẩm thượng sanh. Nhưng cũng
có người còn khổ đau.
Đôi khi mình tự hỏi:
Tại sao cùng sống trong một môi trường mà người kia nhiều hạnh phúc như vậy? Họ
cười vui suốt ngày. Còn ta, ta cũng muốn cười lắm chứ. Thấy họ cười vui, ta
cũng ráng cười theo, nhưng nhìn vào gương ta thấy nụ cười ta méo xẹo.
Nếu muốn hiểu về Tịnh
Độ, ta phải nhìn thực tế vào Tăng thân trong đó ta đang sinh hoạt, lúc đó ta sẽ
biết Tịnh Độ là gì và biết mình đang ngồi trên loại sen nào; sen thương phẩm,
sen trung phẩm hay là sen hạ phẩm.
Tại sao trong cùng một
Tăng thân, cùng trong một hoàn cảnh, cùng một Thầy, cùng những người bạn tu,
nhưng có người thì hạnh phúc quá chừng, thảnh thơi quá chừng, còn mình thì vẫn
cảm thấy đau khổ, cảm thấy cô đơn. Mình còn có cảm tưởng rằng mình là công dân
hạng bét của tăng thân nữa là khác.
Hãy lấy một ví dụ.
Tăng thân Làng Mai đang đi thiền hành với Thầy. Cũng Thầy đó, cũng những sư anh
đó, những sư chị đó, cũng những sư em đó, cũng đi trên con đường đó, cũng thấy
những hàng cây và nghe những tiếng chim đó. Nhưng tại sao có người đi thiền
hành thì đạt được rất nhiều hạnh phúc, nhưng cũng có người không đạt được hạnh
phúc bao nhiêu. Đó có
phải là tại vì ngoại
cảnh hay tại vì tâm tư riêng của mình? Câu trả lời thật dễ dàng. Cái đó không
phải do ngoại cảnh, mà là do tâm, bởi vì tất cả ngoại cảnh đều do tâm biểu
hiện.
Cũng bước đi từng bước
như vậy, nhưng tại sao người ta thì lại thảnh thơi, vững chãi. Còn mình thì lại
xụt xùi, vướng víu bên này, bên nọ. Vậy thì vấn đề đâu phải là ngoại cảnh.
Chúng ta đừng tưởng rằng được vãng sanh qua cõi Tịnh Độ thì hết vấn đề và ta
khỏi cần phải tu tập gì thêm. Nghĩ như vậy thì quá sai lầm. Tại vì được vãng
sanh sang bên đó cũng giống như đã thi đậu vào trường đại học. Mà tại trường
đại học thì ta phải học rất nhiều ‘‘cua’’. Cho nên ta không thể cúp ‘‘cua’’
được, ta phải đi học cho đều, phải đi công khóa cho đều.
Bụt A Di Đà tuy rất
hiền, nhưng Ngài rất muốn chúng ta tu học và thương yêu nhau như là con một
nhà. Đó là tại vì mình muốn Bụt A Di Đà là từ phụ, là đấng cha lành, nghĩa là
người cha chỉ thương yêu, dạy dỗ, mà không rầy rà, không la mắng.
Chúng ta hãy nhìn vào
Tăng thân của chúng ta để quán chiếu. Ban đầu chúng ta đã nhờ một cơ duyên nào
đó mà đi tới được với Tăng thân này. Thật sự là ta đang ở với Tăng thân. Nhưng
cái sự thật ta đang ở trong Tăng thân không có nghĩa là ta không còn có vấn đề
gì nữa. Ta đã gia nhập tăng thân với những nỗi khổ và niềm đau còn lại của ta.
Nhưng ta đã rứt ra được hoàn cảnh ngày xưa, và ta đã tới được với Tăng thân: đó
là đã một thành tựu lớn. Và vì vậy ta phải biết thực tập, tức là phải đưa nỗi
khổ niềm đau ra để cầu xin Tăng thân ôm ấp nó cho ta, và ta cũng phải thực tập
để tự ôm ấp nỗi khổ niềm đau ấy để chuyển hóa chúng.
Chúng ta phải biết
nương tựa Tăng thân, phải hoàn toàn phó thác thân mạng mình cho Tăng thân. Tại
vì Tăng thân là cơ hội duy nhất để giúp ta ôm ấp và chuyển hóa nỗi khổ niềm đau
của ta. Có thể là ta đã qua tới cõi Tịnh Độ rồi, nhưng vẫn chưa ngồi chưa yên
và hoa sen trên đó mình ngồi chưa hẳn là hoa sen. Mình nói rằng Tịnh Độ này
không phải của tôi. Đó là tâm trạng của chúng sanh. Có khi đến một hoặc hai năm
sau thì cái suy nghĩ ấy mới không còn. Hạt giống muốn bỏ nhà ra đi, người nào
trong chúng ta cũng có. Tất cả mọi đứa trẻ đều có một lần muốn bỏ nhà ra đi do
giận cha, giận mẹ, giận anh hoặc giận chị. Có phải vậy không? Hạt giống ấy
không phải tự mình làm ra mà đã được trao truyền từ nhiều đời. Cho nên qua tới
Tịnh Độ
rồi mà thỉnh thoảng ta
vẫn muốn bỏ Tịnh Độ mà đi. Cái đó là chuyện rất thường thôi bởi vì hạt giống bỏ
nhà ra đi ấy trong ta vẫn còn chưa được chuyển hóa.
Các thầy, các sư cô,
các sư chú và các Phật tử ở đây ai cũng biết rất rõ chuyện này. Nếu có phước
đức của tổ tiên, chúng ta sẽ không bỏ đi. Kiên trì ở lại được vài ba năm thì ta
thấy gốc rễ ta vững mạnh và ta bắt đầu có thế di lên rất vững chãi. Điều đó đòi
hỏi một niềm tin nơi Tăng thân, một niềm tin nơi cõi Tịnh Độ mới được.
Bụt A Di Đà luôn luôn
có mặt đó để ôm ấp ta, các bậc thượng thiện nhân cũng luôn luôn có mặt để ôm ấp
ta. Nhưng vì quá đau khổ, thành thử ta không hưởng được cái hạnh phúc mà Bụt A
Di Đà hay những bậc thượng thiện nhân thương tưởng và trao truyền. Đôi khi nhìn
mặt Bụt A Di Đà, có thể ta thấy ngài không dễ thương mấy. Tại vì ta không thảnh
thơi và tự tại để có thể nhìn được rõ. Nhìn cái gì ta cũng thấy bị bóp méo, vì
ta đang bị vô minh che lấp tâm tánh. Muốn nhìn thấy Bụt A Di Đà trong tự thân
của Ngài, ta phải có sự tĩnh lặng, sự tự do. Còn nếu nhìn qua cặp mắt kính của
hờn giận và của ganh tức thì chúng ta chưa thể thấy được Bụt A Di Đà.
Sự thật là như vậy.
Cho nên diễn tả Tịnh Độ bằng chín phẩm hoa sen tuy là đúng sự thật, nhưng cũng
rất nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ ta có thể nghĩ: Ở cõi Tịnh Độ mà cũng còn giai
cấp, sang bên này rồi mà mình cũng còn phải làm công dân hạng thứ chín chứ
không phải hạng thứ nhì, và suy nghĩ như thế, mình sanh tâm ganh tức những
người kia. Nhưng sự thật không phải như vậy. Những người kia sở dĩ họ có hạnh
phúc không phải vì họ được Bụt A Di Đà thương yêu và biệt đãi hơn đâu. Bụt đâu
có tâm kỳ thị chúng ta. Vì tâm của ta còn nhiều vô minh và đau khổ cho nên ta
nghĩ rằng ta đang bị bạc đãi, ta đang bị kỳ thị, ta đang làm công dân hạng nhì,
hạng ba hay hạng chín. Tất cả những mặc cảm đó là do mình mà ra. Đi sang cõi
Tịnh độ rồi mà hạt giống của Ta bà khổ đau vẫn còn và vẫn hiện khởi, cho nên ta
không hưởng được trọn vẹn cái vui của Cực Lạc. Trong khi đó những người khác
lại hạnh phúc quá chừng. Điều này ta đâu phải cần đi qua bên đó nhìn tận mắt
mới thấy. Ngồi đây, ở trong Tăng thân này, mình cũng có thể thấy được rồi. Ở
trong Tăng thân mình cũng thấy có chín phẩm. Có những người cảm thấy rất thoải
mái, rất hạnh phúc, nhưng cũng có những người vẫn còn nhảy nhỗm, vẫn còn muốn
bỏ đi, vẫn còn giận hờn, vẫn còn cảm tưởng bị kỳ thị.
Điểm này trên bảng chỉ
cho cõi Ta bà, còn điểm bên kia chỉ cho cõi Tịnh Độ. Điểm này là điểm bây giờ,
và điểm kia là điểm lúc đó - lúc đó là lúc sau khi mình chết và được sanh sang
cõi Tịnh Độ. Đây là điều chúng ta cần phải để ý. Bởi vì ta đang thực tập theo
nguyên tắc ‘‘bây giờ và ở đây’’. Và ta có thể nghĩ rằng ta thực tập là để đạt
được một kết quả trong tương lai, nghĩa là sẽ được sinh ra ở điểm bên kia.
Trong lúc thực tập, đôi khi ta cũng sinh tâm chán bỏ, chán ghét bên này. Chán
ghét bên này mà đi tìm bên kia, chán ghét bây giờ để đi tìm một cái gì trong
tương lai. Đây là tâm lý của chúng sanh, rất có tính cách phổ biến.
Tâm niệm của chúng
sanh thường chán ghét hiện tại và nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có thể có mặt trong
tương lai. Mình chán ghét cái ở đây và mình đi tìm một cái ở nơi khác. Vì vậy,
Bụt mới xót thương và mới nói rằng có một cõi Tịnh Độ ở phương Tây. Điều này
nghe như một lời hứa hẹn. Đây là một điều rất quan trọng cần phải quán chiếu.
Nếu muốn thật sự hiểu được kinh, ta cần phải quán chiếu cho sâu sắc.
Đối tượng sự ước muốn
và sự thờ phụng của mình ban đầu thường nằm ở ngoài mình, như Thượng đế, như
Ky-tô, như Bụt, như Tịnh Độ, như nước Chúa, v.v... Lúc đó mình có cảm tưởng ở
đây và bây giờ không có gì hết, chỉ có khổ đau, chỉ có tàn hoại, chỉ có héo
hắt, chỉ có sầu não thôi. Chính vì thế mình mới cần bám vào một cái gì ở nơi
khác và ở trong tương lai. Đó là nước Chúa, là Tịnh Độ, là Niết Bàn, là Bụt, là
Bồ tát, là Ky-tô. Tâm chúng sanh thường nghĩ như vậy. Sự suy nghĩ này bắt đầu
từ một mặc cảm mình là một con số không. Mình đi tìm một cái gì bên ngoài mình.
Mình không biết rằng những gì bên ngoài ấy đều là những điều do tâm mình phóng
chiếu ra cả.
Khi mình tạo ra một
bức tượng để thờ, dù là tượng Phật hay tượng Chúa, tượng điêu khắc hay tượng
vẽ, thì bức tượng ấy cũng từ trong tâm mình mà đi ra. Cái tượng ấy nếu không
phải từ trong tâm mình đi ra thì nó từ đâu tới? Tâm mình thảnh thơi, nhẹ nhàng
thì nét mặt trên tượng sẽ thảnh thơi, nhẹ nhàng. Tâm mình nặng trĩu buồn đau
thì mình khó mà tạo ra cho được một pho tượng có khuôn mặt thảnh thơi.
Do đó, tất cả những
hình ảnh của Thượng đế, của nước Chúa, của Tịnh Độ, đều là những sáng tạo của
tâm. Và đó mới là những hình ảnh chứ chưa phải là những thực tại.
Khi ta tạc ra một pho
tượng Bụt để thờ, và thấy pho tượng không được đẹp cho mấy, ta không dám bỏ đi,
không dám đập vỡ, cứ nghĩ rằng đập vỡ thì mang tội. Nhưng tượng đó là do tâm
làm ra, chứ đâu phải ở ngoài đi tới. Tri giác sai lầm căn bản là ở chỗ chúng ta
có mặc cảm rằng chúng ta không là gì hết, chúng ta chỉ là khổ đau và tiều tụy.
Vì vậy chúng ta mới đi tìm kiếm một cái gì có giá trị ở bên ngoài. Những khi ta
chắp tay cầu nguyện, ước mơ, hoặc quán tưởng thì tự nhiên trong tâm có sự bình
yên trở lại. Có niềm tin, tâm từ từ tĩnh lặng. Có tĩnh lặng thì bắt đầu có trí
tuệ, từ từ ta thấy được rằng cái mà ta tưởng rằng ở ngoài, nó thực sự đang ở
trong ta.
Ban đầu ta thấy Bụt là
một thực tại ở ngoài ta. Sau một thời gian tu tập và giác ngộ, ta thấy Bụt là
một thực tại ở trong ta. Và nếu ta tu tập tinh tấn, thì ta thấy Bụt không phải
ở trong cũng không phải ở ngoài. Tại vì ở ngoài và ở trong chỉ là hai ý niệm,
trong khi sự thật vượt thoát các ý niệm ở trong và ở ngoài. Ta thử hỏi: Ở trong
là ở nơi nào? Nơi lá phổi hay nơi lá lách, hay nơi trái tim? Có một chỗ nào
nhất định không? Chính vì thế, các ý niệm ở trong và ở ngoài đều chỉ là những ý
niệm. Nói rằng Bụt, Niết Bàn, Tịnh Độ và nước Chúa không thể được gọi là ở
ngoài, ở trong hay ở chặng giữa được. Tại vì những ý niệm kia đều chỉ là những
phạm trù của tư tưởng mà thôi. Điều này rất là quan trọng để cho mình hiểu được
kinh. Và như vậy, đi tìm Tịnh Độ hay đi tìm Bụt có nghĩa là đi tìm tự thân của
chúng ta. ‘‘Con đã tìm ra Thế Tôn, con đã tìm ra con.’’ Hai câu đó của bài thơ
Tìm Nhau chỉ có nghĩa như vậy. Ban đầu thì ta đi tìm Thế Tôn như một thực tại ở
ngoài, nhưng khi tìm ra được Thế Tôn rồi thì ta thấy rằng Ngài không phải là
một thực tại bên ngoài. Tìm thấy Thế Tôn đồng thời cũng là tìm thấy được tự
thân, và ta thấy được rằng Thế Tôn và ta không phải là hai thực tại riêng biệt.
Khi ta niệm một câu
‘‘Nam mô Bụt A Di Đà’’ thì một búp sen nhỏ được tượng hình ở trong đất Bụt.
Niệm thêm một tiếng nữa thì bông sen lớn lên thêm một chút. Cùng với công phu
niệm Bụt ấy mà đóa hoa sen lớn lên từ từ. Đóa sen đó là đóa sen của ta. Khi
thành công rồi, thì ta sẽ được sinh ra từ đóa sen đó. Đóa sen đó có thể là hạ
phẩm, trung phẩm hay là thượng phẩm, điều này tùy thuộc vào công phu tu tập của
chúng ta. Đóa sen đó nằm ở bên kia, nó được để dành cho những ai có tâm tu tập,
dù là thời gian này hay thời gian khác, dù thực tập nhiều hay ít. Nó bắt đầu
tượng hình ở
bên kia nhưng đồng
thời nó cũng đang được tượng hình ngay trong lòng mình. Có phải vậy không?
Điều này là một điều
rất khoa học. Khi sư chú thở vào một hơi thở có chánh niệm và biết mỉm cười,
thì búp sen của sự an lạc và của hạnh phúc đã tượng hình trong người của sư
chú, đã nở trong trái tim của sư chú. Một đóa hoa an lạc của tình thương và của
tĩnh lặng. Ta dùng hình ảnh của một hoa sen để tượng trưng cho sự an lạc và
tĩnh lặng ấy. Tại sao phải đợi đến tương lai mới được hưởng bông sen kia? Tại
sao ta phải đợi qua Tây phương rồi mới được hưởng bông sen kia? Chỉ cần một câu
niệm Bụt thành khẩn, chỉ cần một hơi thở có chánh niệm là chúng ta có thể hưởng
được bông sen của sự an lạc và của thảnh thơi ngay bây giờ và ở đây. Và Tịnh Độ
nằm ngay ở đây và bây giờ chứ không phải đâu xa. Đây là điều mà mình phải thấy.
Đây là cách nhìn Tịnh Độ bằng con mắt của các nhà thiền quán. Thiền đây không
hẳn là thiền Tổ sư hoặc thiền Như Lai mà là thiền nguyên thỉ, nghĩa là thiền mà
chính Bụt và các thầy, các sư cô thực tập cách đây hai ngàn sáu trăm năm, như
thiền Niệm Xứ, thiền Quán Niệm Hơi Thở, thiền Hiện Pháp Lạc Trú. Chúng ta thường
hay quên rằng đức Thế Tôn đã từng dạy chúng ta pháp môn ‘‘Hiện Pháp Lạc Trú’’,
sống an lạc ngay trong giờ phút hiện tại.
Thiền tịnh không hai
Hiện Pháp là những gì
đang xẩy ra bây giờ và ngay ở đây. Lạc là hạnh phúc, và Trú là an trú, là sống.
Đây là giáo lý mà đức
Thế Tôn thường nhắc đi nhắc lại. Tại sao chúng ta phải đợi tới tương lai mới có
an lạc? Ta có thể có an lạc ngay trong ngày hôm nay. Giáo pháp của đức Thế Tôn
là giáo pháp đẹp đẽ và mầu nhiệm, có thể đem lại an lạc ngay lúc bắt đầu thực
tập.
Khi ta bắt đầu ‘‘thở
vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười’’ và bước những bước chân thanh thản
và nhẹ nhàng thì lúc đó ta đã có an lạc rồi. Đâu phải cần tám năm sau mới có an
lạc? Tám năm sau chắc chắn là có an lạc, nhưng bây giờ và ở đây cũng đã có an
lạc.
Vì vậy cái búp sen kia
ta có thể làm cho phát sinh và nở bất cứ lúc nào. Bằng mỗi nụ cười, mỗi hơi
thở, mỗi bước chân, ta làm cho búp sen lớn lên, nở ra. Ta không cần đợi đến
tương lai. Và ta có thể gom những bài giảng này về kinh A Di Đà và làm thành
một cuốn sách, gọi là A Di Đà Kinh Thiền Giải. Không phải là Tổ sư thiền, Như
Lai thiền hay là Như Lai thượng thượng thiền. Không phải thiền Công Án hay
thiền Mặc Chiếu. Thiền này là thiền của đạo Bụt nguyên thỉ. Thiền của kinh Quán
Niệm Hơi Thở, của kinh Niệm Xứ, của kinh Người Bắt Rắn, của kinh Người Biết
Sống Một Mình. Theo các kinh này, Bụt dạy rằng hạnh phúc có thể có ngay bây
giờ, và Tịnh Độ có thể có ngay bây giờ trong khung cảnh này. Ta có thể đưa
Thiền và Tịnh tới với nhau.
Ngày xưa, có nhiều
người nói: Tu thiền thì khó thành, tu Tịnh độ thì dễ thành. Thực ra theo cái
nhìn của chúng ta thì Tịnh độ là một loại thiền tập, Tịnh độ mà không có thiền
tập thì đó chỉ là một sự đầu tư vào tương lai mà thôi. Còn nếu có thiền trong
Tịnh độ thì ta có Tịnh Độ ngay bây giờ. Và giáo nghĩa Tịnh độ đi rất đúng vào
tinh thần của đạo Bụt nguyên thỉ. Mỗi chúng ta đều đã có hoa sen, ta không cần
phải đi qua bên cõi Tây phương để xem, hoặc nhờ người đem cái máy vidéo sang đó
để thâu hình, xem thử nó đã lớn được chừng nào. Tại vì hoa sen ấy đang có mặt
trong ta, cho nên
búp sen lớn chừng nào
thì ta phải biết chứ, phải không? Bông sen của mình mà mình không tự thấy thì
uổng biết mấy.
Ta có thể đem đóa sen
ấy trở về với ta. Trong kinh Pháp Cú, Bụt dạy: Trong tất cả các pháp, tâm là
chủ. Trong kinh Hoa Nghiêm, Bụt dạy: Tất cả đều do tâm, ‘‘Tâm như họa sư, năng
họa nhất thiết hình tượng.’’
Bài kệ kinh Hoa Nghiêm
như sau:
“Nhược nhơn dục liễu
tri Tam thế nhất thiết Phật Ưng quán pháp giới tánh Nhất thiết duy tâm tạo.”
Nếu người nào muốn
thấy và muốn hiểu được tất cả các đức Bụt trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị
lai thì người ấy nên quán chiếu rằng: trong bản chất của pháp giới, tất cả đều
do tâm của mình tạo ra. Vì vậy, Tịnh Độ cũng là một sáng tạo của tâm thức, tâm
thức của chư Bụt cũng như tâm thức của chúng ta. Cũng như đạo tràng Mai Thôn và
tăng thân này cũng là một sáng tạo phẩm của tâm thức; chúng ta đã cùng nhau cọng
tác để tạo ra tăng thân và đạo tràng này. Nó từ tâm ta mà ra, do lòng ước muốn
nương tựa vào nhau để tu học.
Đóa sen ở trong tim
mình cũng là do tâm tạo ra. Đóa sen biểu tượng được cảnh Tịnh Độ. Tịnh Độ cũng
do tâm mà địa ngục cũng do tâm. Chúng ta ai cũng biết địa ngục nóng như thế nào
rồi. Chúng ta đã từng ở địa ngục, đã từng bị lửa giận, lửa phiền não, lửa tuyệt
vọng đốt cháy. Chúng ta cũng đã biết rằng tất cả những đau khổ của địa ngục đều
từ ở trong tâm mình đi ra chứ không phải từ ở ngoài đi vào. Tịnh Độ cũng vậy.
Chúng ta có khả năng chế tác ra Tịnh Độ, chế tác bằng hơi thở, bằng bước chân,
bằng câu niệm Bụt. Và nếu ta muốn cho búp sen tượng hình là nó tượng hình, ta
muốn búp sen lớn thì nó lớn. Và khi bông sen ở trong trái tim ta lớn rồi thì ta
bước đi tới đâu là Tịnh Độ hiện ra ở đó. Nó tự trình bày ra, chứ mình không cần
phải đi qua phương Tây mới có được. Khi Bụt nói đến phương Tây thì đó chỉ là
một cách nói mà thôi.
Với bông sen trong ta,
ta có thể nhận rằng thật ra những bậc gọi là thượng thiện nhân, và bồ tát nhất
sanh bổ xứ, họ có ở xa đâu. Họ đang có mặt xung
quanh ta. Tại ta mê mờ
nên ta khổ đau; tại ta ganh tỵ nên ta không nhận ra được họ thôi. Đức Thích Ca
Mâu Ni đã không chọn một chỗ nào khác, mà chọn ngay chỗ này. Ngài cũng thành
Phật ngay cõi này.
Trong kinh Pháp Hoa có
phẩm ‘‘Tùng Địa Dõng Xuất’’, (từ dưới đất mà đi lên).Từ trái đất này vô số Bồ
tát đã từ dưới đất xuất hiện. Bụt Thích Ca nói với các vị Bồ tát đã đến từ mười
phương: Các vị Bồ tát này đều là những người học trò của tôi. Nghe vậy, các
thầy Ca Diếp và A Nan quá đỗi ngạc nhiên. Thầy Ca Diếp và thầy A Nan cùng một
số đệ tử của Bụt nói: ‘‘Chúng con không ngờ rằng đức Thế Tôn mới hành đạo bốn
mươi lăm năm trên trái đất mà đã có nhiều học trò như vậy.’’ Tại vì các thầy
chưa biết nhìn bằng con mắt của các vị Bồ tát cho nên chưa thấy đó mà thôi.
Khi các vị Bồ tát từ
mười phương đến nói rằng: ‘‘Đức Thế Tôn cho phép chúng con ở lại đây để giúp
đức Thế Tôn hành đạo trong cõi Ta bà ác trược này’’ thì đức Thế Tôn mỉm cười, nói:
‘‘Xin cám ơn quý vị, ở trái đất chúng tôi cũng có đủ người hành đạo rồi.’’Và
Ngài cho họ thấy sự có mặt của các vị Bồ tát tùng địa dõng xuất ấy.
Vì vậy ta đừng nói
rằng cõi này không có ai. Những vị như Bồ tát Trì Địa, Bồ tát Thường Bất Khinh,
Bồ tát Quán Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, v.v... đang có mặt rất nhiều chung quanh
ta. Họ đều là những đứa con của trái đất.
Trong giáo lý Tịnh Độ,
ta nghe nói rằng đứng bên tay phải Bụt A Di Đà là Bồ tát Quan Thế Âm, và đứng
bên tay trái Ngài là Bồ tát Đại Thế Chí. Nếu tâm trí hẹp hòi, nghe thế chúng ta
sẽ buồn. Ta tưởng là Bồ tát Quan Thế Âm đang ở biển Nam Hải, không ngờ Ngài lại
đang ở bên đó. Nhưng thực sự Tịnh Độ và Ta Bà chỉ là một mà thôi. Những nhà
khoa học vật lý nói rằng một điện tử vừa có mặt ở đây mà cũng vừa có mặt ở bên
kia. Đó là một lời tuyên bố căn cứ trên sự thực nghiệm. Một điện tử vừa có thể
có mặt ở đây và vừa có mặt ở bên kia, vừa có thể là một làn sóng vừa có thể là
một chất điểm. Trí óc thông thường của ta cho rằng nếu là làn sóng thì chỉ có thể
là làn sóng thôi chứ không thể vừa là làn sóng mà cũng vừa là chất điểm. Nhưng
ở đây, khoa học có thể chứng nghiệm rằng nó có thể là cả hai và nó đồng thời
vừa ở đây mà cũng vừa ở bên kia. Vì vậy mình có thể thấy được đức Quan Thế Âm
cũng đang có mặt ngay tại đây. Đức Quan Thế Âm là một người con của trái đất,
do trái đất sinh ra. Mình cũng vậy. Cố nhiên Bồ tát Quan Thế Âm muốn ở lại phục
vụ cho những loài chúng sanh đang chịu
khổ ở đây, thì ta cũng
vậy. Ở chung quanh ta có bao nhiêu bậc đại nhân và bao nhiêu vị Bồ tát. Nếu ta
không bị vô minh che lấp, nếu ta không có tâm ganh tỵ và tâm hận thù thì ta có
thể nhận diện được các vị một cách rất rõ ràng. Ngay trong tăng thân của chúng
ta đây cũng có những vị Bồ tát, những vị Bồ tát lớn tuổi và trẻ tuổi. Bồ tát
xuất gia hay Bồ tát tại gia đều có mặt. Nói đúng hơn ở trong mỗi chúng ta, ai
cũng có một vị Bồ tát, nhưng cơ hội biểu hiện chưa có, nên ta chưa phải là Bồ
tát đích thực và toàn thời gian full time bodhisattva mà thôi.
Cách đây chừng mười
lăm năm, dạy ở tu viện Kim Sơn về Thiền và Tịnh trong một bài pháp thoại, tôi
có nói:
‘‘Tịnh độ mà không
thiền Tịnh độ của tương lai Tâm ta là đất tịnh
Thiền với Tịnh không
hai.’’
Bài thơ này đã giúp
cho thiền sinh khóa ấy khá nhiều. Đem con mắt của thiền tập mà quán chiếu vào
giáo lý Tịnh độ, ta hiểu sâu được giáo lý Tịnh độ. Giáo lý Tịnh độ có thể thực
tập để Tịnh Độ hiển bày ra ngay bây giờ và ở đây. Các thầy ngày xưa đã từng
dạy: ‘‘Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ’’, tức là Tịnh Độ nằm trong tâm và Di Đà
là tự tánh. Biết bao nhiêu nhà chú thuật, biết bao nhiêu nhà bình giải, biết
bao nhiêu nhà trước thuật đã nói tới giáo lý duy tâm Tịnh độ. Búp sen kia đang
nằm trong trái tim mình. Mình phải làm cho nó lớn lên mỗi ngày. Chính bông sen
đó sẽ làm cho Tịnh Độ được biểu hiện trong đời sống hàng ngày của mình để mình
được thừa hưởng và để cho những người bạn tu của mình được thừa hưởng. Bông sen
càng lớn chừng nào, thì cái hỏa lò càng nhỏ chừng đó. Hỏa lò tức là địa ngục
trong lòng mình.
Lấy con mắt của thiền
quán mà nhìn Tịnh độ như thế thì Tịnh độ không còn là một mơ ước viễn vông,
không còn là một điều mê tín mà là một giáo lý rất thực tiễn. Tịnh độ là những
gì mà ta sống trong đời sống hàng ngày và ta thấy ta có liên hệ đến Tịnh độ một
cách rất mật thiết. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi lời nói, mỗi cái nhìn đều
phải có tác dụng tạo ra Tịnh Độ. Sự thực tập xây dựng Tăng thân của ta được
đồng nhất với sự thực tập xây dựng Tịnh Độ. Có một thầy tuyên bố là thầy ấy chỉ
có thể chấp nhận cái lý của Tịnh Độ mà không thể chấp nhận cái sự của Tịnh Độ.
Lý tức là lý
thuyết. Lý của Tịnh Độ
là Tịnh Độ duy tâm, Di Đà tự tánh. Nhưng còn chuyện có một cõi Tịnh Độ ở Tây
phương và chỉ cần niệm Bụt đến bất thối chuyển để sau khi mạng chung được sanh
sang cõi đó, thì Thầy không chấp nhận. Thầy ấy chấp nhận lý mà không chấp nhận
sự. Nhưng nói như vậy chưa ổn, vì lý mà không đi đôi được với sự, lý đó chưa
phải là chân lý và sự không đi đôi với lý thì sự đó chưa phải là chân sự. Ở
đây, sự và lý, cả hai đều phải có mặt trong nhau và không thể tách rời nhau. Sở
dĩ ta thấy hai cái không đi đôi với nhau là vì trong hai cái mà ta thấy, chưa
có cái nào chín cả. Cái thấy về lý cũng chưa chín mà cái thấy về sự cũng chưa
chín. Nếu quả thật cái thấy về sự và về lý đã thuần thục rồi, thì chúng sẽ luôn
luôn đi đôi với nhau và dung hòa nhau. Niệm Bụt và làm cho bông sen lớn lên và
nở ra trong đời sống hàng ngày đó là sự. Thực tập không phải là lý nhưng tất cả
những lý mà chúng ta đã nêu lên để thực tập đều phù hợp một cách tuyệt đối với
sự. Sự thực tập về Tịnh Độ là sự thực tập hàng ngày và cái hưởng thụ cũng là
cái hưởng thụ hàng ngày, ta không phải đợi đến chết mới bắt đầu có sự hưởng
thụ. Cách đây chừng mười lăm năm, giảng tại một nhà thờ Thiên Chúa giáo ở
Philadelphia, tôi có tuyên bố một câu: ‘‘Anh đâu cần phải chết mới được đi vào
nước Chúa.’’ Nếu anh có niệm, có định, có tuệ, thì anh có thể mở trái tim của
anh ra và nước Chúa sẽ biểu hiện và anh có thể đi vào nước Chúa trong giây phút
hiện tại.
Ở Đạo tràng Mai Thôn,
chúng ta tập đi thiền hành như thế nào để mỗi bước chân của chúng ta dẫm lên
được Tịnh Độ. ‘‘Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ.’’Đó là sự thực tập của chúng ta.
Trong sự thực tập ấy, sự và lý đạt được đến mức tuyệt hảo. Nếu sự và lý chưa
thực sự đi đôi với nhau là vì Sự chưa được chín muồi, Lý cũng chưa được chín
muồi. Nói khác hơn, hai cái chưa dung thông được với nhau, chưa quyện được vào
nhau.
Gạn đục khơi trong
Trong kinh A Di Đà,
đức Thế Tôn nói: ‘‘Xá Lợi Phất, trong khi tôi đang ca ngợi công đức không thể
nghĩ bàn của chư Bụt thì chư Bụt cũng xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của
tôi’’.
Ở đây, ta thấy các đức
Như Lai luôn luôn yểm trợ nhau, liên đới yểm trợ nhau trên con đường hoằng hóa.
Công đức không thể nghĩ bàn tức là đối với những thực hiện của một bậc giác
ngộ, ta không thể dùng tư tưởng mà hiểu thấu được, không thể dùng ngôn từ mà
diễn tả được. Không thể nghĩ bàn, tiếng Hán là ‘‘bất khả tư nghị’’. Tư có nghĩa
là nghĩ, nghị có nghĩa là bàn luận.
‘‘Bụt Thích Ca Mâu Ni
thật là hiếm có. Ngay trong cõi Ta bà đầy năm yếu tố ô nhiễm là kiếp trược,
phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược và mạn trược mà ngài có thể chứng
đắc được quả vị giác ngộ vô thượng và còn tuyên thuyết được cho chúng sanh
những pháp môn mà bất kỳ ở đâu, mới nghe qua người ta cũng rất khó mà phát sinh
niềm tin.’’
Có những pháp môn khi
thuyết ra thì được người ta tin ngay nhưng cũng có những pháp môn khi thuyết ra
người ta thấy rất khó tin. Pháp môn Tịnh độ chủ trương có một cõi ở Tây phương
tên là ‘‘cõi Cực Lạc’’ và một vị Bụt tên A Di Đà đang thuyết pháp và trong cõi
đó có vô lượng vô số người đang sinh hoạt với nhau một cách rất là hạnh phúc,
là một pháp môn khó tin. Nhưng giáo lý Tịnh độ không phải là giáo lý khó tin
duy nhất. Nhiều giáo lý khác của đức Thích Ca, kể cả những giáo lý căn bản,
cũng rất khó tin. Ví dụ giáo lý vô ngã. Tất cả mọi người đang tin rằng họ có
một cái ngã. Vậy mà đức Thế Tôn nói rằng làm gì có cái ngã đó. Giáo lý vô ngã
đi ngược lại với nhận thức thông thường của cả một xã hội. Niềm tin của Ấn Độ
giáo lúc bấy giờ là thần ngã. Không những dân Ấn Độ giáo mới tin thần ngã mà
mỗi chúng sinh đều có ý niệm về ngã, khi sinh ra đã có sẵn ý niệm về ngã, cho
nên ta mới gọi đó là câu sanh ngã chấp, nghĩa là ý niệm về ngã ấy đã sinh ra
cùng với thân thể của ta. Đức Thích Ca Mâu Ni nói rằng không có một cái ngã
đích thực. Vì vậy, giáo lý vô ngã ngay từ đó là một giáo lý khó tin. Giáo lý về
‘‘không’’ cũng vậy. Bông hoa này, cái bàn này và con người này đều
được diễn bày là
‘‘không’’. Điều đó cũng khó tin. Mỗi pháp đều có hình tướng mà đức Thế Tôn lại
nói rằng thực tại là vô tướng, điều đó cũng là điều khó tin. Giáo lý ‘‘vô
tác’’cũng vậy, cũng là một giáo lý khó tin. Vô tác có nghĩa là ta khỏi phải đeo
đuổi theo một dự án nào hết, khỏi phải thực hiện gì hết, tất cả đều đã được
thành tựu rồi.
Cho nên không phải chỉ
có giáo lý Tịnh độ mới khó tin mà cả những giáo lý căn bản do đức Thế Tôn
thuyết ra đều là khó tin cả. Nếu không chịu quán chiếu sâu sắc thì làm sao ta
có được niềm tin. Niềm tin có được là nhờ sự quán chiếu sâu sắc. Mới nghe qua
mà tin liền thì chuyện đó khó mà xẩy ra, nên ta mới gọi giáo lý này là giáo lý
khó tin. Chư Bụt trong mười phương đã khen ngợi đức Thích Ca Mâu Ni trong hai
điểm:
• Điểm thứ nhất: Ở
ngay trong hoàn cảnh khó khăn này mà thành Phật được và giáo hóa được.
• Điểm thứ hai: Những
giáo lý rất khó tin mà đức Thích Ca Mâu Ni đã tuyên thuyết được và thuyết phục
được con người tin theo.
‘‘Xá Lợi Phất, thầy
nên hiểu cho rằng, cư trú trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt tới
quả vị giác ngộ vô thượng và còn diễn giải được cho mọi giới những pháp môn rất
khó tin như pháp môn này, đó là việc làm quả là cực kỳ khó khăn.’’
Chúng ta thấy được đức
Thích Ca Mâu Ni là một con người, một mình một ngựa đi trong chiến trận đầy dẫy
bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu nghi ngờ. Ngài đã một mình đánh phá và tiêu diệt
được bao nhiêu chướng ngại của mê tín, của huyền đàm để đưa ra những chân lý mà
lúc ban đầu thuyết ra, người ta thấy khó mà có thể tin được. Vậy mà đức Thế Tôn
đã thành công.
Đoạn kinh trên cũng
nói tới năm loại ô nhiễm và năm loại ô nhiễm đó được gọi là năm loại ô trược.
‘‘Trược’’ tiếng Bắc gọi là ‘‘trọc’’ có nghĩa vẩn đục, không trong sáng. Năm yếu
tố ấy làm khổ. Năm yếu tố vẩn đục ấy là:
Kiếp trược: Kiếp có
nghĩa là một khoảng thời gian, khoảng thời gian ấy có thể là năm mươi năm, bảy
mươi năm hay một trăm năm... Khi ngắn thì gọi là tiểu kiếp, khi vừa vừa gọi là
trung kiếp và khi dài gọi là đại kiếp.
Sở dĩ thời gian đó gọi
là vẩn đục tại vì nó quá ngắn ngủi, nó đầy dẫy vô thường, nó không có sự ổn
định và vững chãi. Vì vậy chúng ta khó mà có được hạnh phúc. Thời gian quá ngắn
ngủi, sống trong cuộc đời, chúng ta không đủ không gian và thời gian để thực
hiện những ước muốn thâm sâu của mình. Chúng ta có thể có ảo tưởng rằng chúng
ta có rất nhiều thời gian và không gian để thực hiện những ước muốn của chúng
ta, nhưng thực sự thì cuộc sống rất vô thường, rất bấp bênh, không có sự ổn
định, tai nạn hay xẩy ra tới tấp và chận đứng đà tiến triển của chúng ta. Chúng
làm cho quá trình thực hiện lý tưởng của ta bị chận đứng lại nên gọi là kiếp
trược.
Tình trạng chính trị
không có sự ổn định, xã hội nhiều tai nạn, tật bệnh và nghèo đói, khó cho xã
hội tiến triển, đó gọi là kiếp trược.
Ngược lại với kiếp
trược là sự ổn định mà chúng ta đạt được do thiền quán. Sống trong thế giới vẩn
đục mà đức Thích Ca đã thành công. Ở thế giới Cực Lạc, người ta vượt khỏi kiếp
trược và thiết lập được ổn định trong đời sống hàng ngày. Ở đó không có tai nạn
xẩy ra. Vì vậy đặc tính đầu tiên mà mọi người trong cõi Cực Lạc phải thực hiện,
đó là sự ‘‘ổn định’’. Sự ổn định giúp cho người tu tập thành công viên mãn đối
với công trình giải thoát và giác ngộ.
Nhìn vào một Tăng thân
có tu học, ta thấy rằng trong Tăng thân có nhiều yếu tố ổn định. Có người chỉ mới
thọ trì năm giới, giới Tiếp Hiện tại gia hay giới Bồ tát tại gia. Họ sẽ trở về
với gia đình họ, với khung cảnh hàng ngày của họ để sống và để thực tập. Họ
biết rằng hoàn cảnh địa phương không được ổn định như ở trong Tăng thân. Trong
hoàn cảnh đó, họ thực tập không được đều đặn và việc thực tập thường bị cắt đứt
bởi những biến cố của xã hội. Cái đó gọi là kiếp trược. Nhưng khi ta có điều
kiện ở lại với Tăng thân một năm, hai năm, ba năm hay mười năm, ta thấy rằng
Tăng thân có yếu tố ổn định nhiều hơn trong thế giới bình thường ở ngoài đời.
Vì vậy tăng thân rất gần với cõi Cực Lạc.
Tăng thân có yếu tố ổn
định. Tăng thân hiến tặng cho chúng ta thời gian và sự tiếp nối để chúng ta
thực tập. Vì vậy quay về nương tựa Tăng là để hưởng được yếu tố đầu tiên của
Tịnh Độ, đó là sự vững chãi, sự liên tục, sự ổn định của thời thế và của tình
thế.
Một bên là đục, một
bên là trong, một bên là trược, một bên thanh. Đối với danh từ ngũ trược, ta có
danh từ ngũ thanh. Ở Tịnh Độ có ngũ thanh thì Ta bà có ngũ trược. Sống trong
thế gian, ta bị lôi kéo bởi năm thứ vẩn đục nhưng sống trong Tăng thân, ta có
thể thấy được năm sự trong sáng. Ở đây, sự trong sáng đầu tiên là sự ổn định.
Người nào đã từng rời Tăng thân là đã tự mình đánh mất sự ổn định nơi tự thân
mình. Là người xuất gia hay người tại gia cũng vậy, khi chúng ta đã đánh mất
Tăng thân, trở về với khung cảnh hệ lụy của ta ngày trước, thì ta thấy rằng ta
đã đánh mất một cái gì rất quý báu trong tự thân, đó là sự ổn định.
Yếu tố vẩn đục thứ hai
là kiến trược. Kiến tức là những cái thấy sai lầm, nói đủ là tà kiến. Ví dụ như
sự vật là vô thường mà ta cho là thường còn. Người thương của ta có thể ngày
mai không còn nữa, thế mà ta nghĩ rằng, họ sẽ có mặt với ta suốt đời, hàng ngàn
năm. Thân này không phải là ngã của ta, mà ta cứ cho đó là cái ngã của ta.
Những cái thấy như vậy được gọi là tà kiến.
Tà kiến lại có năm
loại căn bản:
Thân kiến: Cho rằng ta
là thân này, ta đồng nhất ta với thân này. Nếu có cái nhìn như vậy, thì ta đau
khổ lắm. Nhất là khi sắp chết, ta rụng rời, lo sợ. Ta cứ nghĩ rằng khi thân thể
ta tan rã, thì mọi sự nghiệp sẽ cùng với thân thể ta tan rã luôn. Từ có ta trở
thành không, điều này làm cho ta sợ hãi. Sợ hãi hư vô. Thân kiến là cái thấy
dại dột như vậy đó. Chính vì thế ta phải giúp cho người đang hấp hối thấy rõ
dược rằng thân này không phải là họ.
‘‘Thân này không phải
là tôi Tôi không bị kẹt vào thân ấy Tôi là sự sống thênh thang Tôi chưa bao giờ
từng sanh
Mà cũng chưa bao giờ
từng diệt.’’
Điều này, trong đời
sống hàng ngày, ta phải tập quán chiếu để thấy cho được, có như vậy thì trong
phút giây lâm chung, ta mới buông bỏ thân này một cách dễ dàng.
Biên kiến: Vướng vào
một bên, một thái cực. Bên này là một bên, và kia là một bên, đó là những cặp
đối nghịch với nhau, như có - không, thường -đoạn, một - nhiều, tới - lui. Tin
vào ý niệm ‘‘một’’ là một biên kiến, tin vào
ý niệm ‘‘nhiều’’ là
một biên kiến khác. Kẹt vào bên này cũng là biên kiến, kẹt vào bên kia cũng là
biên kiến. Tin rằng có sanh cũng là biên kiến, tin rằng có diệt cũng là biên
kiến. Kẹt vào những cặp đối nghịch nhau là biên kiến.
Ví dụ trên một dòng
sông có một khúc củi đang trôi. Có thể khúc củi sẽ bị kẹt vào bờ này hay bờ bên
kia và không trôi ra được biển cả. Tin rằng ta là một cái gì thường hằng, niềm
tin ấy là một biên kiến. Tin rằng sau khi chết ta hoàn toàn đoạn diệt, đó cũng
là một biên kiến khác.
Tà kiến: Những cái
thấy đảo ngược. Ví dụ khổ đau mà ta cho là hạnh phúc, hệ lụy mà tin là tự do,
trắng mà ta nghĩ là đen, ác mà ta cho là thiện...
Ta phải quán chiếu sâu
sắc các hiện tượng vẩn đục ở cõi Ta bà để trong ta có thể sinh khởi hai chất
liệu - Yếm và Hân. Yếm là chán, Hân là thích. Chán là chán những gì vẩn đục ở
nơi cõi Ta bà và Thích là thích sự yên vui, thanh thoát ở cõi Tịnh Độ. Chán là
chán cái tâm trạng chạy theo danh lợi, tài sắc. Vì chúng đưa lại quá nhiều khổ
đau, nên bây giờ ta quyết định buông bỏ chúng.
‘‘Tôi không còn muốn
cái đó, tôi chán cái đó lắm rồi.’’ Đối với cái đó, lòng tôi lạnh như tro tàn.
Cái đó gọi là yếm. Trong khi đó, trong ta tự nhiên có một cái ước muốn mới: ước
muốn xa lìa cái cảnh hệ lụy chán chường này để đi tìm tới một khung cảnh có sự
an toàn, có sự thương yêu, có sự an lạc, để mà thực tập. Khung cảnh ấy là Tăng
thân. Ta sẽ đóng góp phần ta cho Tăng thân ấy. Khi tới đó, ta tới với bản
nguyện, nghĩa là ta biết ta tới đó để đóng góp phần của ta vào với Tịnh Độ và
Tăng thân chứ không phải tới chỉ để hưởng thụ. Cũng như Sư em Chân Uy Nghiêm ở
tu viện Rừng Phong. Trước khi xuất gia, Sư em có đọc sách, đọc kinh và Sư em đã
đọc được lời nguyện của đức Địa Tạng. Đức Địa Tạng nói: ‘‘Địa ngục mà chưa
trống không, thì tôi vẫn phải còn làm việc và chưa muốn thành Phật.’’ Khi đọc
câu đó, Sư em đã thấy rung động trong trái tim. Sư em nói rằng: ‘‘Con cảm động
quá và con muốn giúp Ngài một tay (I am so moved, and I want to give him a
helping hand). Khi nói lên như vậy, Sư em đã bắt đầu phát khởi năng lượng của
bản nguyện ấy rồi. Ta tới với Tịnh Độ không phải chỉ là để hưởng thụ mà còn để
giúp Bụt A Di Đà một tay nữa. Tới với Tăng thân cũng vậy, không phải ta chỉ
được thừa hưởng sự an toàn của Tăng thân mà còn để giúp Tăng thân một tay. Đến
với bản nguyện là trong ta đã có đức A
Di Đà. Đức A Di Đà có
ngay trong lòng ta. Và chừng nào ta còn niềm tin, chừng nào ước nguyện ta còn
mạnh thì chừng đó ta vẫn còn là ta và ta sẽ không tự đánh mất ta trong những
trạng huống hệ lụy và khổ đau nữa. Dù mình đang đứng trong hoàn cảnh hệ lụy
hoặc đau khổ, nhưng nếu có tín và nguyện thì mình đã có diều kiện để thoát ra.
Tại vì trong ta, năng lượng của tín, của hạnh và của nguyện đã bắt đầu có mặt.
Tịnh Độ không phải chỉ là Tịnh Độ của Đức Bụt A Di Đà. Đức Thế Tôn nào cũng
muốn thành lập Tịnh Độ. Bất cứ một vị Bồ tát nào, dù lớn hay nhỏ, cũng đều muốn
thành lập Tịnh Độ. Nếu ở Tây Phương có cõi Cực Lạc (Sukhāvatī), thì ở cõi Đông
Phương lại có cõi Diệu Hỷ (Abhirata)... Ở cõi Diệu Hỷ ấy có đức Bụt A Súc Bệ
(Bất Động). Đó là đức Thế Tôn của sự vững chãi (Aksobhya). Cõi của Ngài là cõi
Diệu Hỷ, trong đó có nhiều niềm vui. Ở cõi Diệu Hỷ không có ai bị giận hờn đốt
cháy, nên cõi đó là một cõi rất mát mẻ. Các kinh đầu của hệ Bát Nhã có đề cập
đến danh hiệu của Đức Bụt A Súc Bệ. Kinh Pháp Hoa cũng như kinh Bảo Tích đều có
nói tên của Ngài. A Súc là một vị Đạo sư đang giảng dạy ở phương Đông. Ngài
ngồi trên một bông sen. Tay trái Ngài nâng chéo áo, tay phải Ngài sờ xuống chấm
vào mặt đất trong tư thế địa xúc. Có rất nhiều cõi Tịnh Độ, nhưng vì một nguyên
do nào đó mà chúng sanh ở cõi Ta bà thường hướng về Tịnh Độ của Bụt A Di Đà. Vì
những điều kiện để được sinh sang cõi Tịnh Độ của Bụt A Di Đà hết sức đơn giản.
Còn muốn sanh sang Tịnh Độ Diệu Hỷ của Bụt A Súc Bệ thì phải cố gắng nhiều hơn
một chút. Bản tánh của chúng ta ở cõi Ta Bà là làm biếng. Cho nên cõi Tịnh Độ
của đức Bụt A Di Đà được ta chọn lựa nhiều hơn và Ngài biết phần lớn chúng ta
là những người hay sợ hãi khó khăn. Tịnh Độ cũng có thể có mặt trong hình thức
một Tăng thân. Tăng thân có mặt khắp nơi, do đó nếu chú ý một tý là ta có thể
tìm ra địa chỉ của một Tăng thân và khi ta tới được với Tăng thân ấy rồi thì
tức khắc ta được hưởng khung cảnh an ninh và hoàn cảnh thuận lợi cho sự tu học
của nó. Nếu muốn biết đó có phải là một Tịnh Độ đích thật hay không thì ta có
thể căn cứ trên tiêu chuẩn thanh và trược. Ở đâu mà có quá nhiều chất liệu vẩn
đục, thì ở đó chỉ có Ta Bà mà không có Tịnh Độ. Và ở đâu chất liệu vẩn đục rất
ít mà chất liệu của sự trong sáng như là ổn định, trí tuệ, an lạc, tình thương,
bình đẳng và đại nguyện có nhiều thì ta biết đó là Tịnh Độ. Ta có thể tham dự
và cọng tác để xây dựng thêm cho Tịnh Độ ấy. Tín và Nguyện là hai nguồn năng
lượng có khả năng làm cho ta bớt khổ ngay trong giờ phút hiện tại. Trong trạng
thái chán chường và tuyệt vọng của cõi Ta Bà, ta đau khổ rất nhiều. Nhưng đứng
trong cõi Ta Bà mà có năng lượng của Tín và Nguyện, thì ta cảm thấy nhẹ
nhàng ra và sẽ hết
khổ. Tín và Nguyện là năng lượng đưa ta tới Tịnh Độ, đưa ta tới với Tăng thân
mà ta cần nương tựa. Thứ ba là năng lượng Hành. Hành hay là Hạnh. Hành là thực
tập, là cái biểu hiện cụ thể. Chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta chỉ hành trước
khi đi về Tịnh Độ và về Tịnh Độ rồi thì khỏi cần hành. Nghĩ như vậy là ngược
lại với lời kinh dạy. Chúng ta đã đọc kinh A Di Đà và thấy rất rõ rằng ở tại
cõi Tịnh Độ, ngày nào dân chúng cũng thực tập niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và
thực tập Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo phần. Các chi tiết
này cho ta thấy rằng tới Tịnh Độ rồi ta cũng phải thực tập, nếu không thực tập
thì mất Tịnh Độ. Vì vậy mỗi bước chân phải đi trong chánh niệm, mỗi hơi thở
phải thở trong chánh niệm, mỗi buổi ăn phải ăn trong chánh niệm thì Tịnh Độ mới
tiếp tục hiện tiền. Cũng như trong khi hành xử, nếu ta đánh mất chánh niệm là
ta đánh mất Tịnh Độ. Xây dựng Tịnh Độ không phải là tổ chức cho giỏi, mà chủ
yếu là sống cho có chánh niệm. Tịnh Độ là vấn đề hành trì. Hành thì ‘‘bất lao
đàn chỉ đáo Tây phương’’, nghĩa là không cần một tích tắc nào cũng vẫn tới Tây
phương được. Nếu thiết lập được thân tâm trong giây phút hiện tại, an trú được
trong chánh niệm, thì mình có được Tăng thân, có được Tịnh Độ ngay tại chỗ. Và
cách sống hằng ngày của mình là tự đặt mình trong Tịnh Độ và duy trì Tịnh Độ,
đừng để cho Tịnh Độ biến mất. Chữ hành ở đây có nghĩa như vậy. Hành là action,
là practice. Hành làm cho Tịnh Độ được biểu hiện và được duy trì. Năng lượng
của tín và của nguyện đủ để giúp cho ta không chìm đắm vào biển khổ sông mê.
Năng lượng của hành có khả năng duy trì cõi Tịnh Độ. Nó có khả năng gìn giữ
mình trong cõi Tịnh Độ để cho mình đừng đánh mất Tịnh Độ. Hành ở đây có thể là
sự niệm Bụt thường xuyên. Mà niệm Bụt là gì? Niệm Bụt là duy trì sự tỉnh thức.
Bụt là tỉnh thức, là chánh niệm, và vì vậy niệm Bụt là duy trì tỉnh thức và
chánh niệm. Thực tập chánh niệm cũng là niệm Bụt. Niệm Bụt cũng là thực tập
chánh niệm. Thực tập chánh niệm có công năng làm hiển lộ Tịnh Độ và xây dựng
Tăng thân trong mỗi bước chân của mình. Nó có công năng duy trì Tịnh Độ cho chính
mình. Tịnh Độ không phải là chỉ có mặt cho bây giờ mà Tịnh Độ còn có mặt cho
tương lai nữa. Nếu giờ phút này là Tịnh Độ, thì giờ phút kế cũng sẽ là Tịnh Độ.
Thành ra mỗi bước chân, mỗi hơi thở và mỗi cử chỉ trong đời sống hằng ngày của
ta đều có khả năng phát hiện và duy trì Tịnh Độ.
Cái vô thường mà cho
là cái thường, cái thường mà cho là cái vô thường, khổ mà cho là lạc, lạc mà
cho là khổ, cái không phải ngã mà cho là ngã, cái
ngã mà cho là không
ngã, cái an tịnh mà cho là không an tịnh, cái không phải an tịnh mà cho là an
tịnh, v.v... Những cái thấy ngược như vậy gọi là tà kiến.
Thứ tư là Kiến thủ
kiến: kẹt vào một ý tưởng, một quan điểm. Chữ ‘‘thủ’’ở đây có nghĩa là bám víu,
là kẹt vào. Chữ ‘‘kiến’’ ở đây là kiến thức, ý niệm, nhận thức. Khi ta có một
nhận thức rồi thì ta có khuynh hướng cho nhận thức đó là chân lý tuyệt đối. Kẹt
vào cái đó và không buông nó ra được nữa thì gọi là kiến thủ kiến. Ví dụ anh
học được cách làm đậu hủ và anh nghĩ rằng cách làm đậu hủ của anh là duy nhất
hoặc hay nhất trên thế giới. Anh không thấy có nhiều người làm đậu hủ hay hơn
và đậu hủ của họ ngon hơn. Đó là kiến thủ. Hay là mình được nghe một ý thức hệ
hoặc một giáo điều nào đó rồi mình cho đó là chân lý tuyệt đối và mình nói
người nào không theo cái ấy là người đó đi lầm đường, người đó không có trí
tuệ. Bị kẹt vào trong ý thức hệ đó, mình cho tất cả nhận thức khác, các lý
thuyết khác là sai lầm và mình trở thành cuồng tín. Cái đó gọi là kiến thủ
kiến. Kiến thủ là bị kẹt vào trong một kiến thức, kẹt vào trong một nhận thức.
Mình học được một pháp tu, mình nói phương pháp tu của mình là nhất, không có
phương pháp nào hay hơn và mình không chịu mở lòng ra để học hỏi thêm. Đó là
kiến thủ kiến. Hoặc mình nghĩ rằng mình sẽ có hạnh phúc lớn nếu mình nắm được
cái này, nắm được cái kia, có cái bằng cấp này, có cái chức vụ kia, làm chủ
được cái chùa này hay làm hội trưởng được cái hội kia. Và khi không đạt được
những cái đó thì mình đau khổ suốt đời. Cái đó cũng là kiến, và kẹt vào ý niệm
đó là mình sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Nếu buông bỏ được những cái kiến đó
thì mình sẽ được tự do, mình sẽ có những cái thấy sâu sắc hơn. Có nhiều người
đau khổ từ năm này sang năm khác là vì họ đang bị kẹt vào những ý niệm và những
cái thấy của họ. Ví dụ mình tin chắc rằng có một người đang ghét mình, muốn trả
thù mình, muốn tiêu diệt mình. Có ý niệm ấy thì họ khổ suốt đời. Trong kinh
Bách Dụ, đức Thích Ca có kể một câu chuyện rất hay về kiến thủ kiến. Có một nhà
buôn trong khi đi vắng, ăn cướp vào đốt làng và bắt cóc đứa con bốn tuổi của
ông đi. Khi trở về, ông thấy nhà mình cháy tan và bên trong nhà lại có tử thi
của một em bé cháy đen. Trong tâm trạng hoảng hốt đó, ông tin rằng em bé cháy
thành than đó là con của mình. Ông ta đau khổ vô cùng. Ông ta làm lễ hỏa thiêu
thân xác em bé. Thương con quá, ông ta giữ tro trong một cái túi bằng gấm và
mang theo bên mình. Suốt ngày, ăn cơm, làm việc, đi ngủ, ông đều ôm theo cái
túi tro của đứa con. Một hôm, đứa con thoát khỏi tay bọn
ăn cướp và tìm được về
làng. Về tới nhà mới của ông ta, nó gõ cửa vào lúc hai giờ khuya. Lúc đó ông ta
còn đang ôm cái túi tro, tin tưởng rằng đứa con mình đã chết và nước mắt đang
chảy ròng ròng. Nghe tiếng gõ cửa, ông hỏi: Ai đấy? Đứa bé nói: Con đây, con là
con của ba đây. Ông ta nổi giận la lên: Con của tao đã chết rồi. Mày là đứa nào
mà quá nửa đêm còn tới đây để phá phách chòng ghẹo? Và cuối cùng đứa bé phải bỏ
đi. Đây là một câu chuyện rất hay. Đức Thế Tôn muốn dạy rằng có nhiều khi ta ôm
ấp một tri kiến sai lầm mà tin tưởng đó là chân lý, cho đến nỗi khi tự thân
chân lý tới gõ cửa mà ta cũng không chịu mở. Thường thường người ta đi tìm chân
lý. Ở đây, đích thân chân lý tới gõ cửa mà mình vẫn không mở. Cái đó gọi là
kiến thủ kiến.
Thứ năm là Giới cấm
thủ kiến. Giới đây là những kiêng cử, những cấm kỵ, những hình thức nghi lễ,
những giáo điều hoặc những tín điều mà mình bị kẹt vào. Ví dụ mình tin rằng con
bò là vật linh thiêng và mình không dám động tới nó. Hoặc tin rằng ông táo hay
bình vôi là những vật thiêng liêng. Hoặc mình tin rằng tổ tiên mình là cây cau,
mình không dám động tới cây cau. Xứ nào, dân tộc nào cũng có những niềm tin
phát sinh do sự tưởng tượng hay do sự sợ hãi của con người xứ đó. Nghi lễ được
đặt ra là để nhắm tới bảo vệ và làm cho mình an tâm. Nhưng rút cuộc mình bị kẹt
vào trong nghi lễ. Giới cấm thủ kiến là sự bị kẹt vào các hình thức nghi lễ,
giáo điều và tín điều không phù hợp và không có lợi ích gì cho việc thực tập
chuyển hóa.
Phiền não trược là
những thứ làm cho tâm ta bị vẩn đục như tham lam, sân hận, si mê, hiếu danh,
kiêu mạn... Ở cõi Cực Lạc, không có những thứ phiền não ấy, hoặc có rất ít.
Trong Tăng thân cũng vậy, nhờ có sự tu tập nên những thứ phiền não làm vẩn đục
tâm mình ít phát hiện hơn ở ngoài thế gian.
Chúng sanh trược tức
là những lỗi lầm tội ác của chúng sinh như bất hiếu, không chịu giữ giới, ganh
tỵ lẫn nhau, không hành xử bình đẳng, phân chia thành từng giai cấp để bóc lột
lẫn nhau, cấu xé lẫn nhau. Trong xã hội, người ta chia ra nhau thành nhiều giai
cấp, giai cấp này bóc lột giai cấp khác, giai cấp này đè nén giai cấp khác. Họ
sống không có lý tưởng, họ làm khổ nhau. Ở cõi Tịnh Độ không có chúng sanh
trược, vì ở Tịnh Độ có Bụt, và ta được sống chung với các bậc thượng thiện nhân
và các vị bồ tát nhất
sinh bổ xứ. Các chất
vẩn đục và nhơ bẩn không còn lại bao nhiêu, do đó không còn chúng sanh trược.
Nhìn vào Tăng thân, ta thấy rằng chất vẩn đục trong Tăng thân tương đối ít hơn
ở những tổ chức ngoài đời nhiều và sự tu học hằng ngày của chúng ta là để cho
sự vẩn đục này tiếp tục giảm bớt. Hạnh phúc của chúng ta là ở chỗ đó. Nhờ sự
thực tập mà các chất vẩn đục của chúng sanh trược nơi ta mỗi ngày mỗi được
chuyển hóa và tiêu diệt.
Cuối cùng là mạng
trược. Mạng trược ở đây tức là sự đi vòng quanh, là sự chìm đắm ở trong sanh tử
luân hồi. Ở cõi Ta bà, người ta ít có một hướng đi cao thượng. Người ta chỉ đi
vòng quanh để tìm kiếm danh lợi. Người ta sống không có mục đích nào khác, ngoài
năm dục. Người ta sanh ra rồi chết đi, chết đi rồi sanh ra trở lại là chỉ để đi
vòng quanh và theo đuổi danh lợi mà thôi. Chính điều đó là sự vẩn đục ở cõi Ta
Bà. Còn ở Tịnh Độ thì mọi người đều có một hướng đi và đều hướng đến quả vị Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếp sống của con người nơi cõi Tịnh Độ có một mục
đích và một lý tưởng. Lý tưởng đó được chia sẻ với các vị bồ tát nhất sanh bổ
xứ, với các bậc thượng thiện nhân chung sống với mình. Vì vậy, cõi Tịnh Độ là
một cõi trong sáng. Ở trong Tăng thân cũng vậy, mình không đi vòng quanh, mình
biết rằng mình gia nhập tăng thân là để chấm dứt sự đi vòng quanh. Mình tham dự
vào một con đường hướng thượng và nhắm tới sự giải thoát và giác ngộ, cứu giúp
cho những loài chúng sanh đang chìm đắm. Vì thế, trong một Tăng thân thanh
tịnh, không có những chất liệu đục ngầu, gọi là cái đi tìm danh lợi theo mạng
trược. Vậy muốn sanh về cõi Tịnh Độ, chúng ta cần phải gạn lọc, cần phải làm
cho những chất liệu đục ngầu kia lắng lại và làm cho những chất liệu trong sáng
phát hiện. Chúng ta biết rằng cái đục có thể hàm chứa đựng cái thanh trong lòng
nó, và nếu chúng ta biết cách thì chúng ta có thể biến đục thành trong, gạn đục
khơi trong. Có một ly nước đục trên sa mạc khô cháy mà liệng ly nước đục đó đi
thì làm sao có ly nước trong để uống. Vì vậy, ta phải giữ ly nước đục đó và từ
ly nước đục đó làm cho nó trong lại. Cũng như thế, ngũ thanh nằm trong ngũ
trược và Tịnh Độ nằm ngay trong Ta Bà. Ta Bà là Tịnh Độ. Như hoa nằm trong rác,
nếu chúng ta biết cách quản lý rác thì ta có thể chế tác ra được hoa, điều này
rất rõ. Đức Thích Ca là một bậc có khả năng chuyển rác thành hoa, vì vậy cho
nên ở trong cuộc đời ngũ trược mà ngài đã tạo dựng được Phật Độ.
Nếu ta gọi yếu tố kiếp
trược là thuộc tính của cõi Ta bà, thì ở cõi Tịnh Độ thuộc tính kiếp trược này
đã được chuyển hóa thành yếu tố ổn định hay
thanh tịnh, gọi là
‘‘chúng biển lớn thanh tịnh’’ (thanh tịnh đại hải chúng). Yếu tố kiến trược là
sự vẩn đục của nhận thức, là một thuộc tính của cõi Ta bà. Ở cõi Tịnh Độ thuộc
tính kiến trược này đã được chuyển hóa thành yếu tố Chánh kiến hay Trí tuệ. Nó
đã được chuyển hóa thành biển hội liên trì (liên trì hải hội). Nghĩa là chúng
hội của những hồ sen trên biển cả bình lặng, xanh tươi và trong mát. Cái vẩn
đục kia đã được chuyển hóa thành chất liệu ‘‘vô lượng quang’’, nghĩa là ánh
sáng vô lượng. Yếu tố phiền não trược, tức là tâm hồn dơ bẩn, là một thuộc tính
của cõi Ta Bà. Ở cõi Tịnh Độ, thuộc tính phiền não trược này đã được chuyển hóa
thành tâm bồ đề tức là tâm tính giác ngộ. Tâm tính giác ngộ là tâm tính hạnh
phúc, an lạc, không còn hờn giận, tham lam, ganh tỵ, ích kỷ, tuyệt vọng. Yếu tố
chúng sanh trược tức là sự vẩn đục trong đời sống của chúng sanh, là một thuộc
tính khác của cõi Ta bà, đã được chuyển hóa ở đây thành ‘‘tự tánh thanh tịnh
bình đẳng’’, do đó ở cõi Tịnh Độ không còn có sự kỳ thị giữa loài này với loài
khác, không còn sự kỳ thị giữa người này với người khác, không còn sự phân biệt
về giới tính mà chỉ có Từ bi. Yếu tố mạng trược, tức là sự vẩn đục về thọ mạng,
nghĩa là sinh mạng đi vòng quanh trong sinh tử, là một thuộc tính của cõi Ta
bà. Nay ở cõi Tịnh Độ thuộc tính mạng trược này đã được chuyển hóa thành ‘‘thọ
mạng vô lượng’’, nghĩa là thọ mạng vượt ra ngoài không gian, trạm nhiên, tự tại
và giải thoát. Nó được biểu hiện từ đại nguyện chứ không phải do nghiệp duyên.
Do đó, sanh về Tịnh Độ là do ta có lý tưởng của bản nguyện. Không những trong
kiếp này mà trong vô lượng kiếp về sau, ta vẫn được tiếp tục đi trên con đường
của lý tưởng bản nguyện ấy để tu tập và hành đạo.
Cái khác của Ta Bà và
Tịnh Độ là một bên có năm sự vẩn đục và một bên có năm sự thanh trong.
Ba nguồn năng lượng
Chúng ta đi tới cõi
Tịnh Độ và thiết lập cõi Tịnh Độ bằng cách nào? Muốn đi tới cõi Tịnh Độ hay
thiết lập cõi Tịnh Độ của Tăng thân, chúng ta phải hội đủ ba yếu tố hay ba
nguồn năng lượng.
Nguồn năng lượng thứ
nhất là niềm tin. Ta tin tưởng rằng khổ đau của ta có thể được chuyển hóa bằng
những con đường thoát ly sanh tử. Tịnh Độ là một trong những con đường ấy. Niềm
tin này hoàn toàn không phải là những ý niệm, căn cứ trên những suy nghĩ vu vơ,
mà được căn cứ trên nền tảng của lý trí và sự chiêm nghiệm của chính mình. Niềm
tin đó gọi là chánh tín, chứ không phải là mê tín. Chúng ta đang ở trong một
hoàn cảnh bi đát tuyệt vọng, nhiều hệ lụy và khổ đau, và cũng từ nơi chính ta,
khởi dậy niềm tin và ý chí muốn thoát ly những hệ lụy khổ đau ấy. Do đó mà niềm
tin Tịnh Độ bắt đầu có mặt ở nơi ta và ta bắt đầu đi tìm kiếm con đường xây
dựng Tịnh Độ hay con đường xây dựng Tăng thân để nương náu, vui sống, tin tưởng
và thực tập.
Nguồn năng lượng thứ
hai là bản nguyện. Bất cứ một bậc Đại nhân hay một vị cao tăng nào cũng đều có
bản nguyện trong sự tu tập. Và do có bản nguyện, các Ngài mới thiết lập được
một cõi Tịnh Độ hay một Tăng thân để cùng nhau nương tựa và tu tập.
Chư Bụt và Bồ tát cũng
vậy, vị nào cũng đều có đại nguyện muốn thiết lập một cõi Tịnh Độ hay một Tăng
thân để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự tu tập. Tăng thân cũng có khi
còn gọi là Tịnh Độ. Đã là Tăng thân, thì dù Tăng thân lớn hay nhỏ cũng đều có
những chất liệu như nhau. Đã là Tịnh Độ thì dù cõi Tịnh Độ lớn hay cõi Tịnh Độ
nhỏ cũng đều phải có những chất liệu như nhau, đó là niềm tin, bản nguyện và sự
thực tập.
Bản nguyện nào cũng
được tạo ra từ hai chất liệu. Chất liệu thứ nhất là ‘‘buông bỏ’’. Buông bỏ hệ
lụy khổ đau. Buông bỏ mọi sự vẩn đục trong đời sống. Và chất liệu thứ hai của
bản nguyện là ‘‘hân thích’’. Hân thích là mong muốn đi tới sự an lạc, với hạnh
phúc, với năm chất liệu thanh trong của Tịnh Độ.
Nguồn năng lượng thứ
ba là sự thực hành. Thực hành Tịnh Độ tức là biến niềm tin và bản nguyện Tịnh
Độ trở thành hiện thực trong đời sống hàng ngày, bằng cách niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, nghĩa là luôn luôn nuôi dưỡng chánh niệm trong từng giây từng phút,
để các vọng tâm không có điều kiện sinh khởi. Mỗi khi thực hành đời sống Tịnh
Độ, đạt tới nhất tâm bất loạn, thì Tịnh Độ hiện tiền. Bấy giờ dầu ta không cầu
sinh Tịnh Độ mà Tịnh Độ vẫn hiện bày trong đời sống của ta. Tịnh Độ chỉ là sự
chuyển hóa năm thuộc tính vẩn đục của Ta bà thành năm chất thanh trong của Tịnh
Độ. Mỗi ngày, trong ta, chất vẩn đục được gạn lọc bao nhiêu, thì chất liệu Tịnh
Độ trong ta được lưu xuất bấy nhiêu. Do đó, mỗi tiếng niệm Bụt, mỗi tiếng niệm
Pháp, mỗi tiếng niệm Tăng đều có công năng tạo ra nguồn năng lượng hóa giải
những yếu tố vẩn đục trong ta, tháo gỡ những hệ lụy khổ đau trong ta, đưa ta đi
tới với tự do, với hạnh phúc, với an lạc. Hay nói cách khác, mỗi tiếng niệm Bụt
của ta là nguồn năng lượng đưa ta đi tới với Tịnh Độ và với Tăng thân. Bởi vậy,
Tín, Nguyện và Hạnh là ba yếu tố căn bản để dựng nên Tịnh Độ, nơi nương náu cho
ta và cho biết bao nhiêu kẻ khác.
KinhADi Đà
Đây là những điều tôi
đã được nghe Bụt nói vào một thời người còn cư trú ở tu viện Cấp Cô Độc trong
vườn cây của thái tử Kỳ Đà. Hồi đó cùng ở bên Bụt có một ngàn hai trăm năm mươi
vị khất sĩ, trong đó có những vị A La Hán đệ tử lớn của Bụt mà ai cũng biết đến
như các thầy Xá Lợi Phất, Mục Kiện Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Câu Hy La, Ly
Bà Đà, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân
Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lư Đà Di, Kiếp Tân Na, Bạt Câu La và A Nậu Lâu Đà. Lại
cũng có mặt các vị Bồ Tát đại nhân như Văn Thù, A Dật Đà, Càn Đà Ha Đề, Thường
Tinh Tấn, và rất nhiều các vị Bồ Tát lớn như thế, cùng với chư thiên Thích Đề
Hoàn Nhân, nhiều đến vô lượng, đều cùng có mặt.
Lúc bấy giờ Bụt gọi
thầy Xá Lợi Phất và bảo: "Từ đây đi qua phương Tây, cách khoảng mười vạn
ức cõi Bụt, có một thế giới gọi là Cực Lạc, trong cõi ấy có một vị Bụt tên là A
Di Đà, hiện đang thuyết pháp.
"Này Xá Lợi Phất,
đất nước ấy vì sao tên là Cực Lạc? Bởi vì dân chúng trong nước ấy không biết
khổ là gì, chỉ hưởng thụ mọi thứ an lạc, cho nên cõi ấy được gọi là Cực Lạc.
"Này nữa, Xá Lợi
Phất, ở nước Cực Lạc, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây,
tất cả đều được làm bằng bốn thứ châu bảo, bao quanh giáp vòng, vì vậy cõi ấy
được gọi là Cực Lạc.
"Này nữa, Xá Lợi
Phất, ở nước Cực Lạc có rất nhiều hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám công
đức, dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những lối đi làm bằng vàng,
bạc, lưu ly và pha lê; phía trên các con đường ấy lại có vô số lâu đài, cũng
được xây dựng và trang trí bằng các chất liệu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
xích châu và mã não. Sen trong các hồ lớn như những chiếc bánh xe, sen xanh
chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ,
sen trắng chiếu hào quang trắng, hương sen tỏa ra vi diệu và tinh khiết.
"Xá Lợi Phất!
Nước Cực Lạc được tô điểm bằng những cái đẹp như thế.
"Này nữa, Xá Lợi
Phất! Ở nước Bụt ấy, người ta thường được nghe nhạc từ hư không vọng xuống. Đất
được làm bằng vàng ròng. Mỗi ngày sáu lần có mưa hoa mạn đà la rơi xuống. Dân
chúng nước ấy có thói quen buổi sáng lấy lẵng hứng đầy các bông hoa mầu nhiệm
ấy để đem đi cúng dường các vị Bụt đang cư trú ở vô số các cõi Bụt khác. Đến
giờ cơm trưa, mọi người đều về kịp nước mình để ăn cơm rồi đi kinh hành. Xá Lợi
Phất, nước Cực Lạc đẹp tuyệt vời như thế đấy.
"Này nữa, Xá Lợi
Phất! Ở nước Cực Lạc kia, thường có nhiều loại chim đủ màu rất kỳ diệu như Hạc
trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá lợi, Ca lăng tần già và Cọng mạng... Những con
chim ấy, sáu buổi mỗi ngày, thường hót lên những thanh âm hòa nhã: trong giọng
hót của chúng, người ta nghe được tiếng diễn xướng các pháp môn ngũ căn, ngũ
lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần... Dân chúng trong nước nghe được
những pháp âm như thế đều nhiếp tâm trở về thực tập niệm Bụt, niệm Pháp và niệm
Tăng.
"Xá Lợi Phất,
thầy đừng tưởng rằng các loài chim ấy đã được sinh ra trên căn bản nghiệp báo.
Tại sao? Tại vì ở nước Bụt kia không có ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ
quỷ và súc sanh. Xá Lợi Phất! Ở nước ấy danh từ ác đạo mà còn không có, huống
hồ là sự thực về ác đạo. Những con chim kia đã được Bụt A Di Đà biến hóa ra với
mục đích là làm cho pháp âm được tuyên lưu rộng rãi trong xứ của ngài.
"Xá Lợi Phất, ở
nước Bụt ấy, mỗi khi có gió nhẹ xao động các hàng cây và các màn lưới châu báu
thì người ta được nghe những âm thanh vi diệu, giống như là có trăm ngàn nhạc
khí cùng được tấu lên một lần. Người dân nước ấy mỗi khi nghe các âm thanh kia
thì đều nhiếp tâm niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Xá Lợi Phất, nước Cực Lạc
đẹp tuyệt vời như thế đấy.
"Xá Lợi Phất!
Thầy nghĩ sao? Đức Bụt kia tại sao có tên là A Di Đà? Xá Lợi Phất! Tại vì đức
Bụt ấy là ánh sáng vô lượng có thể chiếu soi được tất cả các cõi nước trong
mười phương mà ánh sáng ấy không hề bị ngăn cách. Vì vậy nên ngài được gọi là A
Di Đà.
"Hơn nữa, Xá Lợi
Phất! Thọ mạng của đức Bụt ấy cũng như của dân chúng trong nước ngài là thọ
mạng vô lượng kéo dài tới vô lượng vô biên kiếp A Tăng Kỳ, vì vậy cho nên danh
hiệu của ngài là A Di Đà.
"Xá Lợi Phất! Từ
khi Bụt A Di Đà thành đạo đến nay tính ra là đã mười kiếp. Này nữa, Xá Lợi
Phất! Số đệ tử thanh văn đã đắc quả A La Hán của đức Bụt ấy nhiều vô lượng,
không thể đếm được bằng toán học, số đệ tử Bồ Tát của ngài cũng đông đảo như
thế.
"Này Xá Lợi Phất!
Nước Bụt kia đã được xây dựng bằng những công đức đẹp đẽ như thế.
"Này nữa Xá Lợi
Phất! Tất cả những ai sinh về nước Cực Lạc đều có tư cách bất thối chuyển,
trong số ấy có nhiều vị đã là Bồ Tát nhất sinh bổ xứ. Số lượng của các vị này
đông đảo vô cùng, không thể dùng toán học mà kiểm đếm được, ta chỉ có thể dùng
danh từ vô số A Tăng Kỳ để diễn tả mà thôi.
"Xá Lợi Phất!
Chúng sinh mọi nơi khi nghe nói tới nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về
nước ấy. Tại sao? Tại vì sanh về nước ấy thì sẽ được sống chung và gần gũi với
rất nhiều các bậc thiện nhân cao đức.
"Xá Lợi Phất!
Những kẻ thiếu phúc đức và căn lành thì ít hy vọng được sinh về cõi ấy. Vì vậy,
Xá Lợi Phất, người con trai lành hay người con gái lành nào muốn sinh về cõi ấy
thì khi nghe đến danh hiệu Bụt A Di Đà phải nắm lấy danh hiệu ấy mà hết lòng
thực tập quán niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn, hoặc trong vòng một
ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày. Người ấy,
đến khi lâm chung, sẽ được thấy Bụt A Di Đà và các vị thánh chúng nước ấy hiện
ra trước mặt. Trong giờ phút ấy, tâm ý người kia sẽ an trú trong định, không hề
điên đảo và tán loạn, do đó người ấy được vãng sinh ngay về nước Cực Lạc.
"Xá Lợi Phất! Vì
thấy được cái lợi ích lớn lao này cho nên tôi muốn nói với quý vị rằng những ai
đang nghe tôi nói đây hãy nên phát nguyện sinh về nước ấy.
"Xá Lợi Phất, nếu
trong giờ phút hiện tại tôi đang ca ngợi những lợi ích và công đức không thể
nghĩ bàn của Bụt A Di Đà thì tại phương Đông có các vị Bụt A Súc Bệ, Bụt Tu Di
Tướng, Bụt Đại Tu Di, Bụt Tu Di Quang, Bụt Diệu Âm và các vị Bụt khác đông như
số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng
lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên
lời tuyên bố thành thật của mình:
'Này toàn thể chúng
sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ
trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'
"Xá Lợi Phất, tại
phương Nam có các vị Bụt Nhựt Nguyệt Đăng, Bụt Danh Văn Quang, Bụt Đại Diệm
Kiên, Bụt Tu Di Đăng, Bụt Vô Lượng Tinh Tấn và các vị Bụt khác đông như số cát
sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng
dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên
bố thành thật của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin
vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và
hộ niệm.'
"Xá Lợi Phất, tại
phương Tây có các vị Bụt Vô Lượng Thọ, Bụt Vô Lượng Tướng, Bụt Vô Lượng Tràng,
Bụt Đại Quang, Bụt Đại Minh, Bụt Bảo Tướng, Bụt Tịnh Quang và các vị Bụt khác
đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ
tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và
thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi,
quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem
hết lòng xưng tán và hộ niệm.'
"Xá Lợi Phất, tại
phương Bắc có các vị Bụt Diệm Kiên, Bụt Tối Thắng Âm, Bụt Nan Trở, Bụt Nhựt
Sanh, Bụt Võng Minh và các vị Bụt khác đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng
đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao
trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của
mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh
mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'
"Xá Lợi Phất, tại
phương Hạ có các vị Bụt Sư Tử, Bụt Danh Văn, Bụt Danh Quang, Bụt Đạt Ma, Bụt
Pháp Tràng, Bụt Trì Pháp và các vị Bụt khác đông như số cát sông Hằng, vị nào
cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị,
bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật
của mình: 'Này toàn thể chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này,
kinh mà tất cả các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'
"Xá Lợi Phất, tại
phương Thượng có các vị Bụt Phạm Âm, Bụt Tú Vương, Bụt Hương Thượng, Bụt Hương
Quang, Bụt Đại Diệm Kiên, Bụt Tạp Sắc
Bảo Hoa Nghiêm Thân,
Bụt Ta La Thọ Vương, Bụt Bảo Hoa Đức, Bụt Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Bụt Như Tu Di
Sơn và các vị Bụt đông khác như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại
quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới
tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: 'Này toàn thể
chúng sinh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà tất cả các Bụt
trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.'
"Xá Lợi Phất!
Thầy nghĩ sao? Tại sao gọi kinh này là kinh mà tất cả các Bụt đều đem hết lòng
xưng tán và hộ niệm?
"Sở dĩ như thế,
là vì những người con trai hoặc con gái nhà lành nào nghe được kinh này và nghe
được danh hiệu Bụt A Di Đà, hết lòng hành trì và thực tập theo phép niệm Bụt
thì những vị ấy sẽ được tất cả các vị Bụt hộ niệm, và tất cả sẽ đạt tới quả vị
giác ngộ cao tột, không còn bị thối chuyển. Vì vậy cho nên quý vị hãy tin vào
lời tôi đang nói, và cũng là lời chư Bụt đang nói.
"Xá Lợi Phất, nếu
có người đã, đang, hay sẽ phát nguyện sinh về nước Bụt A Di Đà, thì người ấy
ngay trong giờ phát nguyện đã đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối
chuyển và đã có mặt tại cõi nước ấy rồi, không kể đến sự kiện là người ấy đã
sinh, đang sinh, hay sẽ sinh về đó.
"Xá Lợi Phất,
trong khi tôi đang ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Bụt, thì chư Bụt
cũng đang xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của tôi, và nói: 'Bụt Thích Ca
Mâu Ni thật là hiếm có. Ngay trong cõi ta bà đầy dẫy năm yếu tố ô nhiễm là kiếp
trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược mà ngài có
thể chứng đắc được quả vị giác ngộ vô thượng và còn tuyên thuyết được cho chúng
sinh những pháp môn mà bất kỳ ở đâu, mới nghe qua người ta cũng rất khó mà phát
sinh niềm tin.'
"Xá Lợi Phất!
Thầy nên hiểu cho rằng cư trú trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt
tới được quả vị giác ngộ vô thượng và còn diễn giải được cho mọi giới những
pháp môn rất khó tin như pháp môn này, đó là một việc làm quả là cực kỳ khó
khăn.”
Nghe Bụt nói kinh này,
thầy Xá Lợi Phất, tất cả các vị khất sĩ, và mọi giới Thiên, Nhân, A Tu La,
v.v... ai cũng phát lòng tin tưởng, tiếp nhận, làm lễ
Bụt và lui về trú sở
của mình.
Thầy Nhất Hạnh dịch từ
Hán Văn
(Sukhāvatī-vyūha
Sūtra)
Table of Contents
Bụt tại mười phương
Tịnh nhiễm do tâm
Khổ vui tương tức
Diệu dụng pháp thân
Tích môn bản môn
Đạo tràng lý tưởng
Gió chim thuyết pháp
Tạo lập Tịnh Độ
Nắm lấy danh hiệu
Đã về đã tới
Hoa sen chín phẩm
Thiền tịnh không hai
Gạn đục khơi trong
Ba nguồn năng lượng
Kinh A Di Đà
Comments
Post a Comment