Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Ẩn tu gió mát toả gương nga
Tĩnh-thất cài then tụng Pháp-Hoa
Bừng sáng thân tâm hoà ánh nguyệt
Tầm Dương bổng dứt hận Tỳ Bà !
NHƯ Ý : Người Kỹ-Nữ Khải đàn tỳ bà trong đêm khuya, ngồi thuyền đưa khách ở bến Tầm Dương là cảnh thương tâm của một kiếp tài hoa lưu lạc, có thể mượn đây để ví dụ cho sự KHỔ luân hồi chìm nổi của chúng sanh, khi hành giả phiền vọng TẠM lắng yên, thân TÂM và cảnh GIỚI dung hòa trong ánh sáng giác ngộ, tất sự an vui được thể hiện đây là giai đoạn, THẤY bờ giải thoát DỨT hận Tỳ-bà.
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
MỤC LỤC
1. PHẨM “TỰA”
2. PHẨM “PHƯƠNG TIỆN”
3. PHẨM “THÍ DỤ”
4. PHẨM ‘TÍN GIẢI’
5. PHẨM “DƯỢC-THẢO-DỤ”
6. PHẨM “THỌ KÝ”
7. PHẨM “HÓA THÀNH DỤ”
8. PHẨM “NGŨ-BÁ ĐỆ-TỬ THỌ KÝ”
9. PHẨM ‘THỌ-HỌC VÔ- HỌC NHƠN-KÝ’
10. PHẨM “PHÁP SƯ”
11. PHẨM “HIỆN BẢO THÁP”
12. PHẨM “ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA”
13. PHẨM “TRÌ”
14. PHẨM “AN LẠC HẠNH”
15. PHẨM “TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT”
16. PHẨM “NHƯ LAI THỌ LƯỢNG”
17. PHẨM “PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC”
18. PHẨM “TÙY-HỶ CÔNG-ĐỨC”
19. PHẨM “PHÁP-SƯ CÔNG-ĐỨC”
20. PHẨM “THƯỜNG-BẤT-KHINH BỒ-TÁT”
21. PHẨM “NHƯ-LAI THẦN-LỰC”
22. PHẨM “CHÚC LỤY”
23. PHẨM “DƯỢC-VƯƠNG BỔ-TÁT BỒN-SỰ”
24. PHẨM “DIỆU-ÂM BỔ-TÁT”
25. PHẨM “QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ-MÔN”
26. PHẨM “ĐÀ-LA-NI”
27. PHẨM “DIỆU-TRANG-NGHIÊM-VƯƠNG BỒN-SỰ”
28. PHẨM “PHỒ-HIỀN BỔ-TÁT KHUYẾN-PHÁT”
NGHI THỨC SÁM HỐI
TRƯỚC KHI TỤNG KINH
(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô-lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám hối, sám hối tức là làm cho ba nghiệp thanh tịnh)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Chư Phật (1 lạy)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp (1 lạy)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
(Quỳ
tay cầm hương cúng-dường phát nguyện)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng-dường tất cả Phật
Tôn Pháp, các Bồ-Tát,
Vô-biên chúng Thanh-văn
Và cả thảy Thánh-hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô-biên cõi,
Khắp xông các chúng-sanh
Ðều phát lòng bồ-đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
(Cầm hương lạy 1 lạy)
(Ðứng chắp tay xướng) :
Sắc thân Như-Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô-tận
Trí huệ Phật cũng thế,
Tất cả pháp thường-trú
Cho nên con về nương.
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần-sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Quy-y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng-sanh
Ðồng sanh nước An-Lạc.
Án phạ nhựt ra vật (7 lần)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Thường-tịch quang tịnh-độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Pháp-thân mầu thanh-tịnh
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Thật báo trang-nghiêm độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân tướng hải vi-trần
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Phương-tiện thánh cư độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân trang-nghiêm giải-thoát
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân căn giới đại-thừa
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày y-chánh
Khắp pháp-giới Tôn-Pháp (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Quan-Thế-Âm Bồ-Tát
Thân tử-kim muôn ức
Khắp pháp-giới Bồ-Tát (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát
Thân trí sáng vô-biên
Khắp pháp-giới Bồ-Tát (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Thân hai nghiêm : Phước, trí
Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)
(Ðứng chắp tay nguyện) :
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng-sanh
'trong pháp-giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng (1) 'nên
qui mạng (2) sám-hối (3).
(1 lạy, quỳ chắp tay sám hối) :
Chí tâm sám-hối :
Ðệ tử ... và
chúng-sanh trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô-minh che đăy nên
điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen
theo pháp chẳng lành,
rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và
tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba
nghiệp tối-tăm, chẳng thấy chẳng nghe chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong
vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6), trăm
nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. -- Kinh rằng : 'Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải-thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ nay mới chừa bỏ ăn-năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà phát lồ (7) sám-hối, làm cho đệ-tử cùng pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo thanh-tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu-tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-độ, khắp với chúng-sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân
an-lành niệm chánh vững-vàng, xem nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các
Thánh-chúng, tay cầm đài hoa
tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật đạo.
Ðệ-tử sám-hối phát-nguyện rồi quy-mạng đảnh-lễ : Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-bảo. (1 lạy)
NGHI THỨC TRÌ TỤNG
BÀI TÁN
LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng
con kính ngưỡng thiết tha
Ngưỡng mong
chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-mô
Hương-Vân-Cái
Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát (3 lần)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM (7
lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta-bà-ha (3
lần)
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta
phạ bà
phạ thuật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám (3
lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
Án nga
nga nẳng tam
bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3
lần)
BÀI VĂN
PHÁT NGUYỆN
Nam-mô
thập phương thường trụ Tam-Bảo (3
lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Pháp-Hoa
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô
Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3
lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật-pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm
nghìn muôn kiếp khó
tìm cầu
Nay con
nghe thấy
chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như-Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-mô Pháp-hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA
BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, a bát
ra đế, yết đa chiết, chiết nại di. Án, kê di kê di, đát
tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa sơn đính, bát ra đế, ô đát ma đát ma, đát tháp
cát tháp nẫm, mạt ngõa hồng phấn tá-ha (7 lần)
Nam-Mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá- Na Phật (3 lần)
MA HA BÁT NHÃ BA LA
MẬT ĐA TÂM KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A
DI RỊ ĐA TỲ CA
LAN ĐẾ, A
DI RỊ ĐA TỲ CA
LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ
NA, CHỈ
ĐA CA LỆ TA BÀ
HA.
Khể chủ tây phương An-Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Đà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.
A-Di-Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
NAM
MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
Nam mô A-Di Ðà
Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (10
câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (10
câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (10
câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (10
câu)
(Quỳ,
chí tâm đảnh lễ và đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
NHỨT TÂM
QUY MẠNG LỄ:
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT (3
lần 3 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
NAM MÔ VẠN ỨC TỪ KIM THÂN ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
NAM MÔ VÔ BIÊN QUANG TRÍ
THÂN ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT. (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
NAM MÔ PHƯỚC TRÍ NHỊ NGHIÊM THÂN THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI LIÊN TRÌ HẢI HỘI PHẬT BỒ TÁT HIỀN THÁNH CHÚNG CHƯ THƯỢNG THIỆN NHÂN (1 lạy)
Đệ tử chúng đẳng, hiện thị sanh tử phàm phu tội chướng thâm trọng luân hồi lục đạo, khổ bất khả ngôn; kim ngộ tri thức, đắc văn A Di Đà danh hiệu, bổn nguyện công-đức, nhứt tâm xưng niệm cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi bất xả, ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bất thức Phật thân, tướng hảo quang-minh, nguyện Phật thị hiện, linh ngã đắc kiến, cập kiến Quan Ấm Thế Chí Bồ Tát chúng bỉ thế-giới trung, thanh-tịnh trang-nghiêm,
quang-minh diệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến A Di Đà Phật.
Ngã kim trì niệm A-Di-Đà.
Tức phát bồ-đề quảng đại nguyện
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công-đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang-nghiêm
Nguyện cộng chúng-sanh thành Phật đạo.
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại
Diện kiến ngã Phật A-Di-Đà
Tức đắc vãng-sanh Cực-Lạc sát
Ngã ký vãng-sanh Cực-Lạc dĩ
Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện
Nhứt-thiết viên mãn tận vô dư
Lợi lạc nhứt thiết chúng-sanh giới
Ngã Phật chúng hội hàm thanh-tịnh
Ngã thời ư thẳng liên-hoa sanh
Thân đỗ Như-Lai Vô-Lượng-Quang
Hiện tiền thọ ngã bồ-đề ký.
Mong ngã Như-Lai thọ ký dĩ
Hóa thân vô-số bá cúng-dường-chi
Tri lực quảng đại biến thập phương
Phổ lợi nhứt thế chúng-sanh giới.
Chúng-sanh vô-biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật-đạo vô-thượng thệ nguyện thành.
Nguyện sanh tây phương tịnh-độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi-trần phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ-Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức
Trang-nghiêm Phật tịnh-độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát bồ-đề tâm
Tận thử nhứt báo thân
Đồng sanh Cực-Lạc quốc.
Tận thử nhứt báo thân
Đồng sanh An-Dưỡng-Quốc.
NGUYỆN
A-Di-Đà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thinh phân minh, diện phụng Di-Đà, dữ chư thánh-chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ-Tát đạo, quảng độ chúng-sanh đồng thành chủng-trí.
Chí tâm đảnh lễ : Nam-Mô A-Di-Đà Phật Thế-Tôn.
Nguyện ngã Tội chưóng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã Thiện căn nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã Thân tâm hàm
thanh-tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc Quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên mãn Bồ tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã Quảng độ chư chúng-sanh (1 lạy)
(Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
Thích Nghĩa Sám Pháp:
(1) : Phiền-não, nghiệp nhơn, quả-báo, ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi : 'ba món chướng'.
(2) : Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng, chính là
nghĩa của hai chữ 'Nam-mô'.
(3) : Nói đủ là Sám-ma hối-quá, 'Sám-ma' là tiếng Phạm, nghĩa là 'hối quá' tức là ăn-năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
(4) : Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý sáu căn và ba
nghiệp thân -
khẩu - ý.
(5) : Giết cha, giết mẹ, giết thánh-nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa-hiệp Tăng, gọi là năm tội nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-gián nên gọi là tội Vô-gián - Ngục Vô-gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.
(6) : A-tu-la, Súc-sanh,
Ngạ-quỉ, Ðịa-ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.
(7) : Bày tỏ tội-lỗi ra trước Chúng Nhơn không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú-tàng (che-giấu), Có phát-lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hôi).
PHÁP HOA KINH
CƯƠNG YẾU
Lời Nói Ðầu
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà
từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người
tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn; phải chăng do kinh này hiệp cơ-duyên với
chúng-sanh đời ngũ-trược, hay là nhờ oai thần ủng-hộ truyền-trì của quí ngài Phổ-Hiền,
Dược-Vương cùng vô-lượng hằng-sa Bồ-tát; hay cũng vì tất cả quần-sanh đều sẵn đủ
tự-tâm Phật-tri-kiến.
Cổ-Ðức đua nhau giải thích kinh này
rất nhiều, nào Huyền-Nghĩa, Văn-Cú, nào Thông-Nghĩa, Cú-Giải v.v... Bộ thời hiển
lý bộ thời giải văn, làm cho kinh Pháp-Hoa đã chói sáng càng thêm chói sáng,
làm cho tiếng Pháp-Hoa đã vang dội càng thêm vang-dội. Người tụng được lợi, người
trì được nghiệm, hoặc hiện tiền thâm nhập tam-muội, hay lai thế siêu thăng
thánh địa, hoặc tiêu tai, hoặc giải nạn v.v... đó là diệu-lực bất-tư-nghì của
kinh, mà cũng là công cổ-võ của Cổ-Ðức.
Tụng-trì kinh Pháp-Hoa có hai môn:
1- SỰ TụNG-TRÌ; 2- LÝ TụNG-TRÌ.
Nếu chỉ một mặt về sự tụng-trì,
nghĩa là chỉ biết đọc tụng kinh văn, hoặc mặt chữ hoặc thuộc lòng, thời dầu phước
đức vô-lượng, nhưng đối với người kiêm cả sự lý tụng-trì, nghĩa là chẳng những
chuyên đọc tụng kinh văn mà cũng rõ thấu chỉ thú của kinh, thời nghìn muôn phần
không kịp một, bởi vì Phật tri-kiến mà được khai-thị, được ngộ-nhập là ở nơi lý
tụng-trì vậy, do đây nên người tụng-trì muốn công-đức viên-mãn phải nghiên tâm
chỉ-thú của kinh.
Trọn bộ kinh -PHÁP-HOA- bảy quyển,
hai mươi tám phẩm trên sáu vạn lời, nghĩa lý đã sâu, văn tự lại quá rộng. Nghĩa
lý đã sâu thời khó hội khó lãnh, văn tự rộng tất khó tóm phăng. Tóm phăng đã
không được tất không thể nắm lấy cương-lãnh của toàn kinh. Ðã không được
cương-lãnh thời có thể nào lãnh hội lý thú, lại thêm trong kinh 'PHÁP-HOA' này
lý-thú rất sâu, rất nhiệm. Ðọc tụng kinh 'PHÁP-HOA' mà không lãnh được lý-thú,
thời huệ-giải không do đâu phát sanh, đại-thiện công-đức không từ đâu thành tựu,
chỉ được phần phước lành hữu lậu cùng là viễn-nhơn Phật-chủng mà thôi.
Tôi từ lâu thường trì-tụng
'PHÁP-HOA' mãi gian lao vì văn rộng nghĩa sâu, đối với kinh vẫn chưa có chút phần
gì đáng gọi là lãnh-hội. Tự mình đã vậy, tất lại có nhiều người cũng thế, hoặc
hiện tại, hoặc tương lai. Nghĩ mình, lo người, nhơn đó mới sưu đông tầm tây,
phóng theo các bổn chú-sở của Cổ-Ðức, gắng gỗ chép quyển Cương-Yếu này lược chỉ
cương-lãnh của kinh-văn, tóm bài yếu-chỉ của phẩm-mục. Ngõ hầu nhơn đây làm trợ-duyên,
người trì-tụng 'PHÁP-HOA' tự phát trí-huệ lãnh-hội lý mầu đạt Phật-tri-kiến,
thành-tựu đại-thiện công-đức.
Trong bộ Cương-Yếu này về phần phán
thuộc phẩm-mục cùng lược giải yếu chỉ là nương theo của ngài Hải-Ấn Ðại-Sư, đem
toàn kinh này phân hiệp bốn phần KHAI, THị, NGộ, NHẬP PHẬT-TRI-KIẾN.
Như đoạn trên đã nói quyển Cương-Yếu
này lược chỉ cương-lãnh của kinh-văn, tóm bày yếu-chỉ của phẩm-mục, thời đủ biết
nội-dung đại-thể của quyển này rồi.
Trong kinh nói: 'Kinh Tạng'
'PHÁP-HOA' này rất sâu xa thầm kín: Lại nói: 'Trí-huệ của chư Phật, rất sâu
vô-lượng môn trí-huệ đó khó hiểu khó-vào'. Rất sâu thầm kín, đó là yếu-chỉ của
kinh này rất sâu xa, phần nhiều ở ngoài lời nói, chẳng phải chỉ dùng tai mắt mà
có thể rõ biết được. Người tụng-trì muốn thâm nhập lý kinh cần phải lóng thân lặng
lòng quan sát kinh văn rỗng thấu thâm ý của đức Phật. Quyển 'Cương-Yếu' này là
một tài-liệu giúp vào công việc đây vậy.
Trông mong người đọc, lãnh ý quên lời,
nếu có sơ sót nhờ các bậc cao minh bổ đính.
Viết tại LIÊN HẢI PHẬT HỌC ÐƯỜNG
Phật
lịch 2492 (1948)
Ngày
an-cư Năm Mău-Tý
HÂN TỊNH TỲ KHEO
THÍCH TRÍ TỊNH
CHƯƠNG THỨ NHỨT
TỔNG TỰ
Ba mươi
tuổi thành-đạo, tám mươi
tuổi nhập Niết-Bàn, ngót năm mươi
năm, đức Phật trải qua hơn
ba trăm hội, từ hội thứ nhất nơi
Bồ-đề đạo-tràng, đến hội rốt sau nơi
rừng Ta-La, thuận theo cơ
sai khác của chúng-sanh mà nói pháp
giáo-hóa, tất cả đều chỉ mục-đích lợi-sanh, một mục đích tối cao-thượng.
Còn gì cao-thượng bằng
khắn khín một lòng cố làm sao cho tất cả chúng đều được
dứt hẳn sanh tử khổ, thành tựu quả-vị viên-mãn-giác hoàn toàn giải-thoát an vui như
đức Phật đã được.
Trong kinh
đức Phật tự nói:- 'Ta hằng nghĩ thế này: làm sao cho
chúng-sanh đặng vào huệ vô-thượng,
mau thành-tựu Phật thân'. Ðức Phật lại nói:- 'Ta trước
lập thệ rằng: muốn cho tất cả chúng đồng như
ta không khác'. Lại
nói:- 'Bổn-nguyện của các Phật, khắp muốn cho chúng-sanh cũng đồng đặng Phật-đạo, như
của Phật tu-hành'.
Cao quý
thay! Tôn trọng thay! Nếu không phải một đấng đã cứu-cánh lòng đại từ-bi, đại bình-đẳng, tất không thể có bổn-nguyện cao-thượng
ấy.
Vì bổn-nguyện Vô-thượng
bình-đẳng, sau khi chứng quả đại-bồ-đề, đức Phật liền diễn nói kinh Hoa-Nghiêm phô bầy pháp-giới duyên-khởi viên-dung quả-hải, đó là thiệt-giáo (Phật thừa chơn
thật). Trong hội Hoa-Nghiêm, vô-lượng
chúng, hạn căn tánh viên thừa, siêu nhập Phật-huệ, ngoài ra hạng người
căn-tánh chậm lụt hẹp nhỏ, chướng
sâu, nghiệp nặng, khó lòng đảm nhận được
giáo-lý tối-thâm tối-thượng,
đến như
các hàng tiểu-thánh đại-đức Thanh-văn, chính thân dự đại-hội mà còn như
đui như
điếc, huống nữa là phàm-phu.
Muốn độ hạng người
này, đức Phật phải hạ thấp mình chìu theo chúng chỉ dạy lần lần, nào nói pháp tứ-đế, nào nói pháp nhơn-duyên,
hoặc tướng,
hoặc tánh, lúc ức, lúc dương,
khi hiển có, lúc hiển không, song khiển v.v... dắt dìu chúng từ thấp lần lên cao, từ cạn lần vào sâu đó là quyền-giáo (tam thừa phương-tiện).
Trong kinh
đức Phật nói:- 'Nếu ta gặp chúng-sanh, đều đem Phật-đạo dạy, kẻ vô-trí rối-lầm, mê tối không lãnh thọ'. Lại nói:- 'Ta biết các chúng-sanh, chưa
từng tu cội lành, ham miết theo ngũ dục ... Chấp chặc pháp hư-vọng, bền giữ không bỏ được,
ngả mạn tự khoe cao, dua dối tâm không thiệt ... Người
như
thế khó độ, cho nên, Xá-Lợi-Phất! ta bày chước
phương-tiện nói đạo pháp dứt khổ, chỉ cho kia Niết-bàn, ta dầu nói Niết-bàn, cũng chẳng phải thiệt-diệt ... Ta có sức phương-tiện chỉ bày pháp tam-thừa ...'
Trong các
đoạn kinh văn dẫn trên đây, trước
nói duyên do ẩn thiệt, kế bày căn-tánh chúng-sanh,
cuối sau chỉ đầu mối có quyền thừa. Xem đây thấy rõ quyền-giáo không phải chính bổn-ý của đức Phật, mà là những phương-tiện bất đắc dĩ phải tạm dùng để dụ dẫn chúng-sanh thôi. Quyền-giáo là gì ? Là những giáo-lý ngoài việc chỉ thẳng đến Phật-huệ, ngay về Phật-tri-kiến, chứng vào cảnh-giới cứu-cánh Phật-quả, mà đức Phật chìu theo căn-tánh
chúng-sanh tạm thời dùng để dìu-dắt uốn nắn. Dìu dắt hạng căn-tánh thấp hèn lần lên bậc cao thắng, uốn nắn cơ
quyền-thừa trở thành pháp-khí viên-thiệt. Vì thế nên sau hội Hoa-Nghiêm, từ vườn
Lộc nói pháp tứ-đế độ bọn ông Kiều-Trần-Như
nhẫn lại, trên bốn mươi
năm, là thời kỳ uốn nắn dắt dìu của đức Phật.
Như
trên đã nói bổn-nguyện của đức Phật chỉ một mục đích duy nhất là muốn cho tất cả chúng đều được
như
Phật, đều đồng với Phật. Chúng-sanh được
đồng với Phật tức là đồng một trí-huệ cứu-cánh hoàn-toàn của Phật. Muốn chúng-sanh đủ trí-huệ đó thời phải dạy ngay con đường
chơn
thật cho chúng-sanh vào, đức Phật đã sẵn sàng, chỉ còn chờ chúng-sanh có đủ tư-cách,
đủ năng-lực đi vào con đường
ấy.
Nhờ trải qua một thời-gian dài dắt-dìu uốn-nắn, một số lớn trong chúng hiện-tại, dưới
sự dạy dỗ của đức Phật, đã có đủ tư-cách
cùng năng lực đi vào con đường
chơn
thật, kham lãnh giáo-pháp thẳng đến trí-huệ cứu-cánh, đức Phật liền nói kinh Pháp-Hoa.
Trong kinh
đức Phật nói: - ' Các đức Phật Thế-Tôn chỉ vì một đại sự nhơn-duyên
mà hiện ra trong đời. Xá-Lợi-Phất! Thế nào gọi là các đức Phật Thế-Tôn hiện ra trong đời chỉ vì một đại sự nhân-duyên ư
?
Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng-sanh khai-hiển Phật-tri-kiến để được
thanh-tịnh mà hiện ra trong đời. Vì muốn chỉ thị Phật-tri-kiến cho chúng-sanh mà hiện ra trong đời. Vì muốn làm cho chúng-sanh tỏ ngộ Phật-tri-kiến mà hiện ra trong đời. Vì muốn làm cho chúng-sanh chứng nhập Phật-tri-kiến mà hiện ra trong đời. Xá-Lợi-Phất! Ðó là các đức Phật Thế-Tôn vì một đại sự nhơn-duyên
mà hiện ra trong đời vậy'.
Xem lời đức Phật dạy, thời rõ ràng tất cả các đức Phật Thế-Tôn ra đời chỉ vì muốn cho chúng-sanh khai thị ngộ nhập Phật-tri-kiến. Chúng-sanh được
khai-thị ngộ nhập Phật-tri-kiến, lòng của đức Phật mới hả, nguyện của đức Phật mới hoàn-toàn đại sự nhơn-duyên
ra đời của đức Phật mới xong. Lòng hả, nguyện hoàn toàn, duyên xong,
chính là hoàn xong khi mãn hội
Pháp-Hoa vậy. Nhơn
đây cũng có thể dự rõ được
một vài phần đại-ý nội dung của kinh Pháp-Hoa, tức là không ngoài ý thú:
Khai bầy Phật-tri-kiến.
Chỉ thị Phật-tri-kiến.
Tỏ ngộ Phật-tri-kiến.
Chứng nhập Phật-tri-kiến.
Chỉ có nhứt-chơn
Phật-thừa không hai cũng không ba.
CHƯƠNG THỨ HAI
ÐỀ KINH
Phàm đầu đề của kinh tức là cương-lãnh
của toàn bộ, như
giềng lưới,
như
bâu áo, nắm cương
lãnh mà phăng, thời
chi tiết lần lần tuần-tự theo về.
Ta quen gọi 'Pháp-Hoa' đó là gọi tắt của bốn chữ 'Diệu-Pháp-Liên-Hoa'. Diệu-Pháp thuộc về pháp, Liên-Hoa là dụ dùng 'dụ' để hiển 'Pháp'.
Diệu-Pháp là gì ? Chính là Phật-tri-kiến đã nói ở đoạn trên vậy. Phật-tri-kiến chính là bổn-giác diệu-tâm. Tâm vi-diệu linh-giác này là bổn-tánh chơn-thường
bình-đẳng của tất cả Thánh, phàm, của cả pháp-giới, Phật cùng chúng-sanh bổn lai vẫn đồng một tâm-thể vẫn không hai tánh. Thể tánh dầu đồng, nhưng
mê thể-tánh đó là chúng-sanh, còn
ngộ thể-tánh đó là Phật. Ngộ thời thuận tánh, thuận tánh thời hưởng
dụng thường-lạc, ngã, tịnh bốn đức chơn
thường
an vui, vì tánh là thể
chơn-thật viên-thường
vậy. Mê thời xa tánh theo trần, theo trần thời sanh-tử luân-hồi đảo-điên khổ-sở, vì trần-lao là cảnh hư-vọng vô-thường
vậy.
Vì lòng đại-bi thương
xót quần-sanh, đức Phật ra đời dùng đủ cách phương-tiện để điêu-luyện ngự phục tâm mê-vọng của quần-sanh, để đưa
chúng-sanh đến trí-huệ cứu-cánh của đức Phật, đó là mục-đích duy-nhứt của đức Phật ra đời.
Trong kinh
đức Phật nói: - 'Ta lập phương-tiện đó khiến đặng vào Phật huệ'.- 'Sở dĩ Phật ra đời vì nói huệ vậy, nay chính đã phải thời'.
Ðức Phật lại nói:- 'Chưa
từng nói các ông sẽ đặng thành Phật-đạo, sở dĩ chưa
từng nói vì chưa
phải lúc nói, nay chính đã phải lúc quyết định nói đại-thừa'.
Phải lúc, phải thời, tức là thời kỳ nói kinh Pháp-Hoa. Ðại-thừa đây tức là Phật-huệ, là Phật-tri-kiến, là tâm thể của tất cả chúng-sanh, là chơn-tánh
của Pháp-giới, cũng gọi là diệu-pháp. Vì diệu-pháp này là tự tâm sẵn đủ của chúng-sanh, nên đức Phật nói kinh này để làm cho chúng-sanh được
khai-thị ngộ-nhập tự tâm ấy mà đổi phàm thành Thánh, như
trong kinh đức Phật nói: 'Nếu có người
nào nghe 'Pháp', không một
ai chẳng thành Phật'. Pháp nghĩa là dường
ấy há lại không phải 'Diệu' ư!
Bực đại-căn nghe 'Diệu-pháp' liền ngộ tự-tâm, liễu giải 'tự-tánh pháp-hoa tam muội'. Những hàng trung hạ không thể lãnh hội ngay 'Diệu-pháp' nên mượn
Liên-Hoa để tỉ-dụ diệu-lý thanh-tịnh, nhơn
dụ mà trực nhận bổn-tâm diệu-pháp, chính cũng là ý
tam-căn kiêm lợi vậy.
Hoa sen đại khái có hai phần: cánh nhị là hoa thuộc nhơn,
gương
hột là quả. Có cánh nhị là có gương
hột, đó là lý nhơn
cùng quả đồng thời, quả không ngoài nhơn,
nhơn
không ngoài quả, quả tức là nhơn,
nhơn
tức là quả, nên gọi Liên-Hoa, Tự-tánh bổn-tâm cũng thế, trong khi tu nhơn
vẫn tự viên-mãn cụ-túc, nên gọi là giác-tâm bổn-cụ. Như
thế thời tất cả chúng-sanh hiện tiền đã tự đủ tự-tánh quả-giác như
Phật không khác, nhưng
ngặt vì mê bỏ không tự nhận, nên không tự thọ dụng được,
vì đó mà đức Phật phải ra đời - Kinh nói -: 'Vì muốn cho chúng-sanh khai Phật-tri-kiến để được
thanh-tịnh nên Phật Thế-Tôn hiện ra nơi
đời'. Phật-tri-kiến chính là tự-tánh quả-giác sẵn có của chúng-sanh vậy.
Lại hoa để dụ quyền giáo, quả dùng chỉ chơn-thừa có ba nghĩa:
1.- Hàng
trung hạ căn-tánh ám độn không kham lãnh chơn-thừa, nên phải quyền lập tam-thừa để dụ dẫn. Như
trong kinh nói:- 'Chúng-sanh căn-tánh độn làm thế
nào đặng-độ. Ta nay đã đắc đạo nên vì nói 'tam-thừa'. Lập tam-thừa chính là phương
tiện để đem về nhất-thừa, đó là vì chơn-thừa mà lập quyền-giáo vậy. Trong kinh nói: 'Dầu nói trăm ngàn ức vô-số các pháp-môn, kỳ thật vì nhất-thừa'. Như
hoa sen, vì gương hột
mà sanh hoa vậy.
2.- Dụ dẫn đã lâu, căn tánh đã thuần, liền chỉ ngay quyền-giáo phương-tiện trước
kia đều là nhứt-thừa chơn-thật. Trong kinh nói:- 'Hạnh của quí ngài tu là đạo của Bồ-tát, đều sẽ đặng thành Phật'. Ðó là điểm thị hạnh tu quyền-giáo chính là thành Phật chơn-thừa. Kinh lại nói: 'Các ngài nên biết, đây là con ta'. Gả cùng-tử làm thuê chính thật đích-tử của Phật. Ðó là khai bày quyền-giáo hiển-lộ thật-thừa. Như
hoa sen, hoa nở đặng thấy gương
hột.
3.- Chúng
đã thành đại-căn, Phật liền phế bỏ danh tự quyền-giáo giả nói trước,
chỉ nói thẳng giáo-lý Nhứt-thừa chơn-thật vô-thượng-đạo, để chúng được
tự-trụ. Như
kinh nói: 'Chính lúc bỏ
phương-tiện chỉ nói đạo vô-thượng,
khắp mười
phương
cõi Phật, chỉ có một Phật-thừa, không hai cũng không
ba'. Ðó là phế quyền tồn thật. Như
hoa-sen, cánh nhụy
rụng sạch chỉ còn gương
hột.
Ba nghĩa
trên là ước
về căn-cơ
của chúng mà thi-thiết quyền và thật, nếu ước
nơi
giáo-chủ là Phật mà luận, thời hoa dùng lệ đức Phật, thị hiện tích-môn còn quả lệ bổn-môn của đức Phật, tích và bổn đây cũng có ba nghĩa:
1.- Vì bổn-thật mà thi-thiết quyền-tích. Kinh nói: 'Ta lúc
nhỏ xuất-gia chứng đặng quả Vô-thượng
Chính-đẳng Chính-giác'. Như
gì gương
hột mà có hoa sen.
2.- Khai
bày quyền-tích hiển-lộ bổn-thật. Kinh nói: 'Thiệt từ khi ta thành Phật đến nay, thọ mạng vô-lượng
vô-số kiếp'. Như
hoa nở lộ bày gương
hột.
3.- Bỏ tích tồn bồn. Kinh nói: 'Vì độ chúng-sanh vậy, hiện có diệt-độ không diệt-độ, thiệt thời chẳng diệt-độ, thường
ở tại đây nói pháp'. Như
hoa rụng chỉ còn gương
hột.
Ðủ các nghĩa như trên, cả pháp lẫn dụ, nên gọi là 'Diệu-Pháp-Liên-Hoa'. Bực lợi căn nghe đề kinh bốn chữ ấy, liền chứng ngộ 'Diệu-lý Pháp-hoa tam-muội', không cần giải-dụ. Hàng độn tánh không thể nghe danh ngộ-lý, cần phải suy dụ để hiểu pháp, từ hoa sen thường mà thể ngộ 'Diệu-lý Pháp-hoa', nên gọi là 'Tam căn kiêm lợi' vậy.
CHƯƠNG THỨ BA
TỔNG PHÁN PHẨM MỤC
Như
ở trong chương
tổng-tự đã lược
chỉ nội dung của toàn kinh Pháp-Hoa không
ngoài lý-thú 'khai-bày, chỉ-thị tỏ-ngộ, chứng nhập Phật-tri-kiến'. Toàn kinh là 23 phẩm, như
thế 28 phẩm liệt bày để cùng hiển-lộ lý-thú 'khai, thị, ngộ, nhập' vậy.
Ngài Hải-Ấn đại-sư
y theo ý này mà phán thuộc
các phẩm phẩm 'tự' là tổng hiển sự tướng
của pháp-giới; 'phương-tiện, thí-dụ, tín-giải, dược-thảo thọ-ký, hóa-thành, ngũ-bá-đệ-tử, học vô-học nhơn,
pháp-sư',
cả thảy chín phẩm là khai Phật-tri-kiến, Phẩm 'Ðề-Bà-Ðạt-Ða, tri-phẩm, an-lạc-hạnh, dũng-xuất, thọ-lượng,
năm phẩm là ngộ Phật-tri-kiến, cùng sáu phẩm kế 'phân-biệt, tùy-hỉ Pháp-Sư
công-đức, Thường-Bất-Kinh, thần-lực, chúc-lụy', là diệu ngộ cùng-cực, hiệp chung lại thời về phần ngộ Phật-tri-kiến có 11 phẩm. Kế đến sáu phẩm 'Dược-Vương,
Diệu-Âm, Quán-Âm, Ðà-la-ni, Diệu-Trang-Nghiêm, Phổ-Hiền', là nhập Phật-tri-kiến. Cuối phẩm Phổ-Hiền từ câu: 'Phật thuyết thị kinh thời' đến câu 'tác lễ nhi khứ' là phần lưu
thông.
Ðã tổng phán toàn kinh trước
sau tuần thứ xâu suốt bốn môn 'khai, thị, ngộ, nhập Phật-tri-kiến', người
thọ trì kinh nhơn
đây dư
rõ bổn-ý của đức Phật vì một đại-sự nhơn-duyên
mà hiện ra nơi
đời, nhơn
đây mà khi trì kinh cảnh-giới nhứt chơn-pháp-giới, hiện-bày trước
mặt, nếu người
trì kinh chuyên chu tư-duy để quán.
CHƯƠNG
THỨ TƯ
ÐẠI Ý MỖI PHẨM
TỰ PHẨM
PHẦN TỔNG HIỂN
Trong phẩm này tổng hiển nhứt-chơn
bình-đằng pháp-giới, nhứt-chơn
pháp-giới chính là bổn-giác diệu-tâm bình-đẳng của Thánh-phàm, của tất cả. Tổng hiển nhứt-chơn
pháp-giới để chỉ rõ đức Phật hiện ra nơi
đời từ trước
đến sau vẫn không ngoài 'Phổ quang-minh trí sát-na-tế tam-muội'. Trước
chính là hội Hoa-Nghiêm nơi
Bồ-Ðề đạo-tràng, sau là hội Pháp-Hoa nơi
Linh-Thứu sơn
này. Trước
sau đức Phật vẫn trụ tam-muội đó mà chuyển pháp độ sanh. 'Phổ-quang-minh-trí' tức là 'Phật-tri-kiến' vậy. Chẳng những đức Phật tự trụ mà cũng muốn cho chúng-sanh liễu-ngộ chơn-cảnh thật tướng
này, nên trong kinh nói: 'Vì muốn
cho chúng-sanh khi thị
ngộ nhập Phật-tri-kiến mà đức Phật hiện ra trong đời', liễu-ngộ chơn-cảnh thật-tướng
này để làm chánh-nhơn
chơn-thật thành-tựu Phật-quả.
Trước
khi chỉ bày Phật-tri-kiến, đức Phật nói kinh 'Vô-lượng-nghĩa',
rồi tự nhập 'Vô-lượng-nghĩa-xứ tam-muội' đó là ý gì ? Chính để chỉ rõ ràng tất cả những sự đi đứng nói nin v.v... của đức Phật không phải cảnh-giới tâm-thức tư-lương
của phàm tình. Không thể dùng tâm-thức tư-lương
mà suy bàn đến được.
Ðức Phật tự trụ trong tam-muội mà trời rưới
bốn thứ hoa, đất lay sáu điệu. Ðó là chỉ rõ sức 'vô-tác-diệu-lực' của đức Phật chấn động hang sâu vô-minh mê tối của chúng-sanh, suốt trừ tất cả sự chướng-ngại của bốn đại sáu căn vậy. Tướng
lông trắng phóng hào-quang chiếu thấu một vạn tám nghìn thế giới ở phương
đông đó, chính chỉ
rằng: căn, trần, thức động loạn của chúng-sanh không rời Phổ-quang-minh-trí. Phương
đông là nguồn động-hóa, 18 nghìn thế-giới là lệ 6 căn, 6 trần, 6 thức: '18 giới đây không ngoài Phổ-quang-minh-trí, cũng như
18 nghìn thế-giới lộ ra trong bạch-hào-tướng-quang
của đức Phật. Trong quang-minh hiện ra sự tướng
của pháp-giới, dưới
thấu địa-ngục A-tỳ, trên suốt cõi trời Hữu-Ðảnh; nào Phật ra đời, thuyết pháp. Niết-bàn, nào Bồ-tát tu tập đạo-hạnh; y-báo chánh-báo đồng-hiện, cả Thánh lẫn phàm chung bày, đó là gì
? Là Phật cùng chúng-sanh, tất cả đồng một tánh-thể không hai không khác. Chỉ khác là đức Phật chứng ngộ nơi
đó, an trụ nơi
đó, tự tại giải thoát, thuyết pháp độ sanh, còn chúng-sanh, mê nơi
đó, dầu rằng không bao giờ rời được
đó, nhưng
không tự nhận mà phải lưu-chuyển. Dầu lưu-chuyển nhưng
vẫn không một phút xa rời nên chính cảnh-giới thường
ngày trước
mắt chúng-sanh là thật tướng
chân cảnh, nếu có thể phản tỉnh xoay về, liễu ngộ tánh-thể thật-tướng
này thời đó là chánh-nhơn
thành Phật mà Phật-quả không xa vậy. Ðức Như-Lai
hiện ra đời chính là vì việc này đó là đại-sự nhơn-duyên,
đó là nhứt-thừa chơn-thật. Trên 40 năm thuyết-pháp vẫn nói không hết những việc nhứt thời hiện ra trong bạch-hào quang-minh. Trên 40
năm qua, đức Phật chưa
từng hiển phát cảnh-giới này là vì căn-cơ
của chúng-sanh chưa
thuần thục còn phải đợi thời tiết, đến nay đã phải lúc nên đức Phật hiển phát.
Ngài Di-Lặc Bồ-tát sanh lòng nghi không
quyết, phải hỏi Ngài Văn-Thù Bồ-tát, đó là ý chỉ rằng cảnh-giới thật tướng
này không phải tâm thức có thể biết thấu đáo được,
phải dùng chơn-trí
mới tương-ưng.
Ðại-trí Văn-Thù dẫn việc sau trước
của Cổ-Phật Nhựt-Nguyệt Ðăng-Minh, chứng thoại-tướng
hôm nay cũng thế,
để rõ rằng Phật Phật dạo đồng, xưa
cùng nay vẫn một lý thôi.
Do những nghĩa trên nên phẩm 'tự' này là tổng hiển cảnh tượng
một đại-sự nhơn-duyên
vì đó mà đức Phật hiện ra trong đời vậy.
I.- PHẦN KHAI PHẬT TRI-KIẾN
2.- PHƯƠNG TIỆN PHẨM
Vừa rồi, đức Phật nhập Vô-lượng-nghĩa-xứ tam-muội, phóng bạch-hào quang-minh hiện chơn-cảnh diệu-minh ý muốn chúng-hội dương-cơ,
hiện tiền mục-kích, khế-ngộ biểu-tượng
chơn-ti
uyên, khỏi cần phải nói phô bày vẽ.
Nhưng
ngặt vì cơ-liệt, mắt chậm, trí mờ, không thấu được
đạo tịch-diệt ly-ngôn, chẳng đạt được
thể-tánh chơn
vô-niệm, nên đức Phật từ tam-muội dậy, lại phải dùng lời nói phô bày, tự-tán tự-dương,
trước
khích động sau chỉ bày, mở mối tri kiến, gọi là phương
tiện, vì phàm hễ xen vào vòng nói-năng tức là phương-tiện vậy.
Cứ theo trong lời sớ kinh Hoa-Nghiêm về phương-tiện có 2:
1.- Viễn phương-tiện.
2.- Cận phương-tiện.
Suy cùng về trước,
các kinh của đức Phật tuyên nói trong hơn
40 năm, đều là phương-tiện của kinh Pháp-Hoa. Kinh nói:
'Dầu là chỉ bày các đạo-hạnh, nhưng
chính thật vì một Phật-thừa', đó là viễn phương-tiện. Còn luận về hiện tại, thời tất cả các việc, như
nhập-định, phóng quang, động địa, khai phát v.v... đều là phương-tiện của đương
hội. Kinh nói: 'Nay đức Phật phóng quang-minh để trợ phát nghĩa thật tướng',
đó là cận phương-tiện.
Bởi từ trước,
vì căn cơ
của chúng-sanh chưa
thuần, nên mục đích hiện ra nơi
đời, đức Phật chưa
từng thổ lộ.
Hiện nay khí-tánh của chúng đã thuần thục, đã phải lúc phải thời, đức Phật cùng tận phô bày chủ ý ra đời, phế ba-thừa quyền-giáo để hiển nhứt-thừa chơn-thật. Do đó mà sau khi xuất định, đức Phật cùng cực khen ngợi Trí-huệ rộng sâu của Phật, ngoài Phật cùng Phật ra, không một ai có thể suy lường
thấu đáo được,
để làm cho chúng hội sanh lòng hâm-mộ. Kinh nói: 'Trí-huệ của Phật rất sâu vô-lượng,
môn Trí-huệ đó khó hiểu khó vào'. Lại nói: 'Tri-kiến của Như-Lai
rất rộng lớn sâu xa, vô-lượng
cũng vô-ngại, thập lực, tứ vô-úy, thiền-định, giải-thoát, tam-muội đều sâu xa không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp vị-tằng-hữu'. Lại nói: Pháp ít có thứ nhứt khó hiểu của đức Phật trọn thành. Chỉ có Phật cùng Phật mới có thể rõ thấu cùng tận thiệt tướng
của các pháp'.
Sau khi
tán-thán công-đức
Trí-huệ của Phật, đức Phật còn chưa
vội chỉ thị thật bày, vì e rằng trong chúng bỗng nhiên nghe pháp chơn-thừa cao sâu, khó nổi sanh lòng kinh hãi. Ðức Phật đợi ngài Xá-Lợi-Phất thay mặt chúng-hội ba phen thưa
thỉnh, lòng cầu khẩn đã thiết, ý-khí đã thuận tùng, rồi sau mới nói. Ðức Phật nói những gì ? Ðức Phật thận trọng dạy rằng: 'Mọi người
rồi sẽ thành Phật cả'. Kinh nói: 'Nếu có loài chúng-sanh, gặp các Phật quá-khứ, hoặc nghe pháp, bố-thí, hoặc trì-giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-trí thảy, tu các món phước-huệ, tất cả hạng người
đó đều đã thành Phật-đạo. Những người
xây tháp Phật, người
đắp tượng,
dựng chùa, cho đến đồng tử chơi,
vun cát làm tháp Phật,
các hạng người
như
thế đều đã thành Phật-đạo ... Hoặc người
lòng vui mừng ca ngâm khen đức Phật ... cho đến đem một bông cúng-dường
nơi
tượng
vẽ ... Hoặc có người
lễ bái, hoặc lại chỉ chắp tay, dơ
tay cùng cúi đầu, để cúng-dường
tượng
Phật, lần thấy vô-lượng
Phật tự thành đạo vô-thượng
... Nếu có người
nghe pháp, không một
ai chẳng thành Phật...'
Ðức Phật thuật lại ngày trước,
khi đức Phật mới thành đạo, trong 21 ngày suy nghĩ
phương
thế độ đời, độ mọi loài trong đời đều thành Phật như
Phật. Dầu bổn nguyện của đức Phật muốn khắp cả chúng-sanh thẳng vào Phật-huệ, song vì căn-trí chúng-sanh
ám-độn, nên đức Phật phải chiều theo, dùng phương-tiện quyền-xảo dẫn dắt dụ-dỗ lần lần. Kinh nói: 'Lúc ta ngồi đạo tràng, xem cây cùng
kinh-hành, trong khoảng
hăm mốt (21) ngày suy nghĩ việc như
vầy: 'Trí-huệ của ta đặng, vi-diệu tột thứ nhứt, chúng-sanh các căn độn, bị tham si làm mù, các hạng người
thế này, làm sao độ đặng đó ... ngày nay ta đặng đạo, cũng nên nói ba thừa'. Mười
phương
chư
Phật cũng nói: ... 'Chúng ta
cũng đều đặng pháp thứ nhứt rất mầu, vì các hạng chúng-sanh phân biệt nói ba thừa, Trí hèn ưa
pháp nhỏ, chẳng tin mình làm Phật, nên Phật dùng phương-tiện, phân biệt nói các quả, dầu lại nói ba thừa chỉ để dạy Bồ-tát'. Kinh lại nói: 'Ta lại nghĩ như
vầy: Ta hiện ra nơi
đời ác trược,
cũng nên tùy thuận
làm theo như lời
của các đức Phật ở mười
phương
vừa nói.'
Như
thế ba thừa là quyền giả, gốc từ nhứt-thừa mà ra, như
kinh nói: 'Chư Phật
dùng sức phương-tiện nơi
một Phật-thừa, phân biệt nói thành ba'.
Mặc dầu là phương-tiện dẫn dụ, nhưng
kỳ thật là đưa
đến con đường
chơn-thật-đạo, con đường
thẳng đến quả vô-thượng.
Trong kinh nói: 'Sở
dĩ Phật ra đời vì để nói Phật-huệ, nay chính đã đến giờ ... Nay Ta vui mừng không lo sợ, ở nơi
trong chúng hội Bồ-tát, bỏ phương-tiện trước,
chánh-trực tuyên bày, chỉ nói đạo giáo nhứt-thừa vô-thượng
... nghìn hai trăm La-Hán, cũng đều sẽ
làm Phật, sanh lòng rất vui mừng tự biết sẽ làm Phật'.
Bắt đầu từ phẩm 'phương-tiện thứ 2' này đến phẩm 'pháp-sư
thứ 10', chính là khai hiển chơn-tri-kiến của Như-Lai,
nên thuộc về phần 'khai Phật-tri-kiến'.
3.- THÍ-DỤ PHẨM
Nhơn
vì trong phẩm phương-tiện trước,
đức Thế-Tôn thẳng một mực thổ lộ chơn-thừa, mục đích duy nhứt của đức Phật hiện ra nơi
đời, ngài Xá-Lợi-Phất, bực trí-huệ thượng-thủ trong chúng-hội Thinh-văn, nghe pháp chơn-thừa liền lãnh hội tỏ ngộ trước
nhứt, nghĩ nhớ lại từ trước
mê lầm không tự nhận, nên tự trách tự hờn, đến nay mới tin chắc rằng sẽ đặng làm Phật không còn nghi ngờ. Kinh nói: 'Nhưng
vì chúng con không hiểu
rằng Phật phương-tiện tùy cơ-nghi
nói pháp, vừa nghe Phật nói pháp liền tin nhận nghĩ suy chứng quả.
Thế-Tôn! con từ trước
đến nay trọn ngày mãn đêm thường
tự khắc trách... Ngày nay mới biết mình thật là Phật-tử, từ miệng Phật nói mà sanh ra, từ pháp hóa-sanh, đặng phần Phật-pháp... Lòng con rất vui mừng, nghi hối đã trừ hẳn, an trụ trong Phật-trí. Con quyết sẽ làm Phật, được
trời người
cung kính, chuyển
pháp-luân vô-thượng, giáo hóa các Bồ-tát'. Vì ngài Xá-Lợi-Phất đã tự tin nhận làm Phật, đã lãnh-hội chơn-thừa, nên liền đặng đức Thế-Tôn thọ ký, sẽ thành Phật hiệu Hoa-Quang ở cõi nước
Ly-cấu rộng độ vô-lượng
chúng. Hàng Thinh-văn từ
lâu trầm trệ nơi
quyền-thừa, nay một phen nghe thật-giáo sanh tín tâm liền đặng thọ ký, đó chính làm 'Rõ tất cả pháp tức tâm tự tánh' thành tựu huệ-thân, tỏ ngộ chẳng phải do người
khác'. Dầu vậy, song còn phải trải qua nhiều kiếp số tu hành mới đặng thành, vì vô-minh chưa
hết hẳn, mới thiệt chứng Phật-quả. Thọ-ký, ý nghĩa đại khái như
thế.
Trong
chúng-hội tiểu-thừa, từ trước
tình chấp sâu nặng nghi ngờ không tin, mỗi người
đều tự cho rằng: mình quyết không đặng dự phần làm Phật, cũng không có chí mong cầu. Nay chính tai nghe, tận mắt thấy ngài Xá-Lợi-Phất được
đức Thế-Tôn thọ ký sẽ làm Phật. Ngài Xá-Lợi-Phất đã vậy, chắc mình cũng thế, nên cả thảy đều sanh lòng rất vui mừng, đều cởi y tung lên cúng-dường
đức Thế-Tôn, để tiêu biểu ý hướng-thượng
muốn giải-thoát. Kinh nói: 'Thế-Tôn nói pháp đó, chúng con
đều tùy-hỉ, đại-trí Xá-Lợi-Phất, nay đặng Phật thọ ký, chúng con như
thế, quyết sẽ đặng làm Phật, trong tất cả thế-gian, rất tôn quí vô-thượng'.
Dầu tự mình đã quyết định tin chắc nhưng
còn lo trong chúng hội
chỗ tin nhận chưa
hoàn-toàn thấu-đáo, nên ngài Xá-Lợi-Phất, lại ân cầu thỉnh đức Thế-Tôn vì tứ chúng mà nói rõ: sở nhơn
vì sao thuở trước
Phật lại nói quyền nay lại bỏ quyền nói thật, để dứt hẳn lòng nghi của toàn chúng-hội.
Ðức Thế-Tôn nói nhà lửa để tỷ-dụ.
Tả cảnh nhà cửa hư
sụp nguy hiểm, đầy những ác quỷ, trùng độc, thú dữ, lại thêm lửa dậy tư
bề, để lệ vòng sanh-tử khốn khổ trong tam-giới.
Các con ngu
dại, tự thân ở trong chỗ hiểm-nguy họa diệt-vong ập đến, mà vẫn mê say vui đùa không hay
không biết, để lệ sự mê lầm tham chấp của chúng-sanh.
Trưởng-giả vì cứu con mà phải tự mình vào nhà lửa, đôi ba phen kiệt tâm-tư
tìm phương
dụ dẫn để đem các con ra khỏi nạn chết: trước
nói thật trạng hiểm-nguy, mà các con không hiểu, không nghe theo, sau cực chẳng đã phải quyền nói hứa cho ba thứ xe để ngoài cửa. Trúng tâm bịnh, các con ham xe mà ra khỏi nhà lửa. Ðể lệ đức Thế-Tôn lòng từ tha-thiết vì độ quần-sanh mà phải vào trong đời ác trược
khốn nguy, phải kiệt tâm-tư
suy tầm phương
thế cứu vớt, nói thật không hiểu, không tin, bất đắc dĩ phải nói quyền-giáo ba-thừa để dụ dẫn.
Trước
hứa ba xe, mà lúc sau, khi
các con đã ra khỏi
chốn khổ nguy, đồng ban cho một thứ xe trân báu cao rộng đẹp nhất trong đời. Chính chỉ rõ ý nghĩa ngày nay Ðức Phật thật-giáo phế quyền-thừa, mọi người
sẽ đặng cứu-cánh Phật-quả.
Kinh nói:
'Xá-Lợi-Phất! Như
ông Trưởng-giả đó, ban đầu dùng ba thứ xe để dụ dẫn các con, nhưng
về sau chỉ cho đồng một thứ xe lớn vật báo trang-nghiêm an ổn hạng nhứt, mà ông Trưởng-giả đó không có lỗi hư-vọng. Ðức Như-Lai
cũng lại như
thế, không có hư-vọng ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng-sanh, về sau chỉ dùng đại-thừa mà độ thoát đó. Bởi vì sao ? Vì Ðức Như-Lai
có vô-lượng
trí-huệ, thập-lực, tứ vô-sở-úy tạng các pháp mầu, có thể ban cho tất cả chúng-sanh pháp đại-thừa, chỉ vì chúng-sanh không thể lãnh thọ được
hết. Xá-Lợi-Phất! Do vì nhơn-duyên
đó, nên phải biết rằng các Ðức Phật, dùng sức phương-tiện nơi
một Phật-thừa phân biệt nói ba'.
4. TÍN GIẢI PHẨM
Ngài Ma-Ha
Ca-Diếp v.v.. bốn vị đại đệ tử, nhơn
thấy ngài Xá-Lợi-Phất đã lãnh hội tỏ ngộ, được
thọ ký thành Phật, lại nhơn
nghe lời thí-dụ vừa rồi của Ðức Thế-Tôn: 'Phương-tiện nói ba-thừa hội qui về một Phật-thừa', cho nên sanh lòng vui mừng vô-lượng,
hiểu rõ quả-vị của mình đã chứng trước
kia là quyền, tin chắc Phật-thừa được
nghe hôm nay là chơn; hối hận ngày xưa
si mê, vừa được
tiểu quả Thanh-Văn thoát ly tam giới đã tự lấy làm đủ, không lập chí hướng-thượng,
không mong cầu đại quả, như
kinh nói: 'Chúng con ở
đầu hàng chúng tăng, tuổi đều già suy tự cho rằng đã đặng Niết-bàn không còn kham nhiệm tu pháp đại-thừa, nên chẳng tấn cầu đạo Vô-thượng
Chính-đẳng Chính-giác'. Hôm nay
nghe đức Phật thọ ký cho Thanh-Văn thành Phật, từ lâu tưởng
rằng: đối với Phật-thừa mình đã tuyệt phần, nay bỗng nhiên lại đặng, mừng này còn mừng nào hơn,
như
Kinh: 'Nay chúng con ở
trước
Phật nghe thọ ký đạo vô-thượng
cho Thanh-Văn, lòng chúng con rất
vui mừng đặng điều từ hồi nào chưa
từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên đặng nghe pháp mầu hi-hữu, mừng rỡ chẳng xiết, đặng lợi lành lớn, vô-lượng
trân-bửu chẳng cầu mà đặng.
Rồi bốn ngài ở trước
Ðức Phật tự nói dụ: 'cùng-tử' nào bỏ cha chốn đi, nào gặp cha không nhận mà trở lại sợ, nào chỉ ham hốt rửa phân nhơ
để được
tiền công từng ngày, cho đến trên mấy mươi
năm sau, một ngày kia bỗng nhiên được
hưởng
cả gia-tài to lớn của cha. Bốn ngài mượn
việc của cùng-tử để lệ cảnh huống của mình, mà cũng là của mọi người,
thơ
ngây xa Phật lưu
lạc trong luân hồi, nổi trôi trong sanh tử; đến ngày gặp đặng Phật lại không biết là chính cha lành mà trở lại sợ, nhờ Phật phương-tiện cho ở quả vị tiểu-thừa, tự an phần nơi
đó, không tin mình chính là con của Phật,
có phần ở Phật-đạo, sợ hãi pháp chơn-thừa, mãi đến ngày nay mới tự hiểu tự tin. Kinh nói: 'Thế-Tôn! chúng con vì ba món
khổ ở trong sanh tử bị các nhiệt-não, mê lầm không biết, ham ưa
pháp nhỏ, ngày nay Thế-Tôn bảo chúng con suy nghĩ dứt trừ phấn nhơ
hí-luận của các pháp. Chúng con ở trong pháp đó siêng-năng
tinh-tấn, đặng đến Niết-bàn tiền công một ngày. Ðã đặng đó rồi lòng rất vui mừng tự cho đó đã đủ.
Chúng con từ xưa
nhẫn lại chính thật là Phật-tử, mà chỉ ưa
pháp tiểu-thừa, nếu chúng con có lòng ưa
mến pháp đại-thừa thời Ðức Phật vì chúng con nói pháp đại-thừa, ở nơi
hội nói kinh Pháp-Hoa này, Ðức Phật chỉ nói pháp nhứt-thừa ... Cho nên chúng con nói
từ trước
không lòng mong cầu,
hôm nay Pháp-Vương đại-bảo tự nhiên mà đến ...'
Hiểu trước
quyền, tin nay thật nên gọi phẩm này là 'TÍN GIẢI'.
5. DƯỢC THẢO DỤ PHẨM
Nhơn
vì vừa rồi bốn vị đại đệ-tử đã tín-giải, lập dụ để tự trần đã hiểu nơi
quyền tin nơi
thật của mình, Ðức Thế-Tôn liền ứng chứng cho. Song do vì còn chưa
có thể biết thấu sức trí-kiến bình-đẳng thâm-diệu của Ðức Như-Lai,
hoặc giả những hàng chấp tướng
lại cho rằng: Ðức Như-Lai
thiệt có tác ý tùy cơ,
do Ðức Như-Lai
tác ý tùy cơ nói ba thừa
sai khác, và thiệt
có quả vị nói ba-thừa nên chứng và đáng được.
Nếu chấp cho như
thế thời thành có thiệt Niết-bàn cùng thiệt pháp. Niệm Niết-bàn cùng chấp pháp không tiêu thời có thể nào triệt suốt nguồn đáy của các pháp, đáy nguồn của các pháp không triệt thời tất là PHẬT-TRI-KIẾN khó khai hiển được.
Dầu Ðức Như-Lai
nói pháp ba-thừa, nói quả-vị, nói Niết-bàn, nhưng
kỳ thật Ðức Như-Lai
bao giờ cũng vẫn vô tâm hành bình-đẳng thuyết pháp, viên-âm nhứt vị vang khắp, chỉ vì chúng-sanh chủng-tánh không đồng, nên theo căn, tùy theo
tánh, tùy theo loại
mà tự thành lãnh thọ sai khác thôi.
Vì muốn giải quyết nghĩa bình-đẳng thuyết-pháp để ngừa sự nhận lầm, nên đức Như-Lai
nói dụ 'DƯợC
THẢO': mây đầy khắp trời che trùm muôn vật, đồng một loạt mưa
xuống chỉ rưới
một thứ nước,
cũng không chỗ ít nhiều. Mặc dầu một trận mưa
không mảy mún riêng tư,
nhưng
ba thứ cỏ cùng hai loại cây tùy phận được
đượm
nhuần mỗi mỗi riêng khác. Cứ xem nơi
cỏ cây thời thấy sự hấp thụ không đồng, nhưng
không đồng là tự nơi
cỏ cây giống loại sai khác, chớ nước
mưa
chỉ một vị thôi.
Ðức Như-Lai
thuyết pháp cũng thế, lòng từ rộng lớn bao bọc cả quần-sanh, dùng viên âm ban
cho phép nhứt-vị bình đẳng. Pháp của Như-Lai
vốn không sai khác, mà có sai
khác là tự ở nơi
cơ
của chúng không đồng. Do đây mà thấy rõ ý thú 'chỉ có một Phật-thừa, không hai cũng không
ba'. Làm cho người nghe xong dụ 'Dược-thảo', liền trừ chắp kiến, có thể sâu vào pháp-huệ bình đẳng của Như-Lai,
chính là khai triển
'PHẬT-TRI-KIẾN' vậy.
Kinh nói:
'Ðức Như-Lai
làm vua trong các pháp, nơi tất cả pháp dùng trí phương-tiện mà diễn nói ra đó thảy đều đến bực nhứt-thiết-trí'.
Kinh lại nói: 'Mây kia tuông ra nước
thuần một vị, cỏ cây lùm rừng tùy phận thọ nhuần. Tất có các cây hạng lớn, vừa, nhỏ, xứng theo lớn nhỏ đều đặng sanh trưởng,
gốc, thân, nhánh, lá, bông,
trái tươi
sáng, một trận mưa
rưới
đến đều đặng tốt tươi.
Xứng như
thể tướng
của cỏ cây kia, tánh loại chia ra lớn nhỏ, mưa
nhuần vẫn một vị mà mỗi thứ đều sum-sê. Ðức Phật cũng thế, hiện ra nơi
đời ví như
mây lớn khắp che cả. Ta là đấng tôn trọng nhất trong đời không ai có thể sánh bằng, vì muốn làm cho chúng-sanh được
an ổn mà hiện ra đời, vì hàng đại chúng nói pháp cam lồ thanh-tịnh, pháp đó thuần một vị giải thoát Niết-bàn. Dùng một thứ diệu âm diễn thông nghĩa đó, thường
vì đại-thừa mà làm nhơn
duyên. Ta đều bình đẳng khắp xem chúng-sanh không có
lòng bỉ thử ưa
ghét, ta không tham chấp,
cũng không hạn cuộc trệ ngại, hàng vì tất cả chúng-sanh mà bình đẳng nói pháp ... Tất cả chúng-sanh nghe ta nói
pháp, tùy theo sức
mình mà lãnh thọ
an trụ nơi
các địa vị hoặc ở nơi
nhơn,
thiên, vua Chuyển-Luân
Thánh-Vương,
Ðế-Thích, Phạm-Vương,
như
giống cỏ thuốc nhỏ. Hoặc đặng Niết-bàn, chứng quả Duyên-giác như
cỏ thuốc bực trung. Hoặc hạng cầu quả Phật, ta sẽ làm Phật, là cỏ thuốc lớn. Lại có các Phật-tử chuyên lòng cầu Phật-đạo, thường
hành đạo từ-bi tự biết mình làm Phật quyết định không nghi, đó gọi là hạng cây nhỏ. Bậc an trụ thần thông chuyển pháp-luân bất thối, độ vô-lượng
ức trăm nghìn chúng-sanh Bồ-tát như
thế gọi là đại-thọ. Ðức Phật bình đẳng nói pháp như
mưa
một vị, tùy nơi
tánh chúng-sanh mà tự
bẩm thọ không đồng ... Ðạo hạnh của các ông tu chính là đạo đại-thừa Bồ-tát, lần lần tu học đều sẽ thành Phật.
6. THỌ KÝ PHẨM
Do ngài
Ma-Ha Ca-Diếp v.v... bốn vị đệ-tử trong phẩm trước
lãnh ngộ ý-chỉ bình đẳng nhứt vị, đã hiểu ba-thừa vốn không thiệt. Phật tri kiến bổn hữu khai-hiển, thời chánh-nhơn
chơn-thật thành Phật đã đủ, nên Ðức Thế-Tôn tuần tự thọ-ký cho bốn ngài.
7. HÓA THÀNH DỤ PHẨM
Nghe
'pháp-thuyết' khai quyền hiểu thật, ngài Xá-Lợi-Phất đã sớm lãnh ngộ chơn
thừa. 'Dụ-THUYẾT' vừa tuyên bài, bốn vị đại đệ tử tin sâu hiểu chắc, mà đều được
thọ-ký.
Trong pháp
hội còn có một loại Thanh-Văn căn chậm lụt, từ lâu cho rằng quả vị đại-giác của Phật, không phải trí phần của mình, không thể đến, không thể chứng. Ðến nay thói quen kém hèn vẫn chưa
dứt, hoặc giả toan cho rằng: Năm ngài là bậc đệ tử của Phật, là bậc đạo thủ trong chúng, nên đáng đặng thọ-ký, còn chúng ta chắc khó đặng dự phần. Nhơn
thế nên vẫn còn ôm lòng tuyệt phận.
Ðức Thế-Tôn dự biết lòng chúng, bèn dẫn việc mười
sáu vị Vương-tử giáo-hóa vô-lượng
chúng, trong thời
kỳ Phật Ðại-Thông Trí-Thắng, trải qua vi trần số kiếp về trước,
để cho chúng-hội biết rằng: Ðức Phật với đại chúng đã cùng kết thiện duyên với nhau từ lâu xa. Vi trần số kiếp trước,
Ðức Phật, vị Vương-tử thứ mười
sáu, đã từng gieo duyên chủng Pháp-Hoa nhứt-thừa vào tâm điền của đại-chúng rồi. Từ đó về sau, đời đời vẫn không rời Phật, đều được
Ðức Phật tiếp-tục giáo-hóa. Nay cơ-duyên
đã thuần-thục chính đã đến lúc ấn hứa làm Phật để phá nghi tính chấp trước
của đại-chúng, làm cho chúng phát
khởi lòng hâm mộ đại-thừa, quyết định Phật-tri-kiến. Ðức Phật nhắc việc Ðại-Thông Trí-Thắng thuở xưa,
dẫn việc mười
sáu vị Vương-Tử giảng Pháp-Hoa kinh ngày trước,
để hiển rõ duyên nhơn
Phật tánh. Phật-tri-kiến đã sẵn, duyên nhơn
Phật-tánh lại đã đủ, thời liễu-nhơn
tự thành.
Bổn ý của Ðức Phật bao giờ cũng muốn đưa
toàn chúng thẳng một đường
đến quả vị giác-mãn của Phật, ngặt vì chúng sức kém, chí chúng lụt, tánh chúng chậm, nguyện chúng yếu, ngó quả cao xa sanh lòng chán nản sợ sệt, bất đắc dĩ đức Phật phải quyền lập tam-thừa Niết-bàn để cho chúng tạm thời an nghỉ, để cho lòng chúng hết sợ hết nhàm. Lòng sợ nhàm đã hết, đức Phật liền dắt chúng thẳng bước
đến mục đích chánh của Phật đã định.
Muốn hiểu rõ nghĩa tam-thừa Niết-bàn rốt-ráo là quyền tạm lập ra chỉ để trừ lòng chán nản sợ sệt của chúng mà thôi, nên Ðức Phật nói dụ 'HÓA THÀNH'. Ðức Phật là vị Ðạo-Sư
tài-trí, dẫn đường,
đưa
chúng vượt
qua con đường hiểm
trở dài xa vô-minh hoặc chướng,
để đến bảo-sở chơn-thường.
Nửa đường
chúng mệt, chúng sợ, chúng muốn trở lại. Ðạo-Sư
phải dùng thần-lực hóa ra thành-trì để cho chúng có chỗ tạm nghỉ khỏi phải trở lui. Thành-trì do thần-lực biến hóa ra chớ nào phải thật. Chúng hết mệt hết sợ. Ðạo-Sư
liền nhiếp thần-lực diệt hóa-thành, lại đưa
chúng tiến lên con đường
thẳng đến bảo-sở, trước
sau cũng chỉ là một con đường
phải noi theo để đến bảo sở thôi.
Tam-thừa Niết-bàn nào khác hóa-thành, tạm thời trụ nơi
đó rồi lại phải rời ra mà thẳng đến trước,
vì nào phải là cơ-sở chơn-thật mà ở mãi được,
thỉ chung rồi cũng chỉ một Phật-thừa là chơn
thật, một con đường
duy nhất đến quả vô-thượng
chánh-giác.
Kinh nói:
'Các vị sa-di đó .... mỗi vị ngồi pháp tòa nói kinh đại-thừa này ... mỗi vị sa-di đó độ các hàng chúng-sanh có sáu
trăm muôn ức hằng-sa các chúng... Chúng được
nghe pháp do nơi trong các cõi Phật thường cùng thầy sanh chúng ... Ta trong số mười
sáu, cùng từng vì các ông nói kinh
Pháp-Hoa cho nên dùng phương-tiện dẫn các ông đến Phật-huệ, do nhơn-duyên
trước
đó nên nay lại nói kinh Pháp-Hoa đưa
các ông vào Phật-đạo, cẩn thận chớ sanh lòng kinh sợ...
Mọi người
đều mỏi mệt mà thưa
cùng Ðạo-Sư
rằng: nay chúng tôi mỏi mệt, nơi
đây muốn trở lại mà đành mất trân bảo lớn. Liền nghĩ chước
phương-tiện, nên dùng sức thần-thông hóa làm thành quách
lớn các nhà cửa trang-nghiêm ... Hóa xong
rồi bảo chúng: chớ sợ, các ngươi
vào thành này đều
đặng tùy ý ưa
muốn ... Vị Ðạo-Sư
biết chúng nghỉ ngơi
xong bèn nhóm chúng mà bảo
rằng: đây là thành-quách biến-hóa thôi, các người
nên đi đến trước,
đồng nhau đến bảo-sở.
Ta cũng lại như
thế, là Ðạo-Sư
của tất cả, thấy những người
cầu đạo giữa đường
mà trễ bỏ, chẳng có thể vượt
qua các đường hiểm
sanh-tử phiền-não, ta dùng sức phương-tiện nói Niết-bàn để chúng nghỉ-ngơi:
Biết đã đến Niết-bàn đều đặng A-La-Hán, bèn nhóm chúng
lại vì đó nói pháp chơn
thật. Các đức Phật có sức phương-tiện phân-biệt nói ba-thừa, vì để nghỉ nên nói hai, kỳ thật chỉ có một Phật-thừa ...'
8. NGŨ BÁ ÐỆ-TỬ THỌ-KÝ PHẨM
Năm trăm vị đệ-tử trước
kia nghe năm trăm vị
thượng-thủ được
thọ-ký, vừa rồi lại được
nghe việc nhơn-duyên
đời trước,
đốn ngộ tích-nhơn,
mới biết rằng Ðức Phật dùng vô-lượng
thần-thông phương-tiện dẫn dắt chúng-sanh, tự tin chắc mình quyết định thành Phật. Lòng nghi ngờ đã dứt, mối lo lắng đã tan cho nên nói rằng: 'tâm tịnh', chí hâm mộ được
đức Phật thọ-ký nên nói rằng: 'dũng bước',
tự biết đã kham đảm đương
gia nghiệp Phật-thừa, cho nên nói rằng: 'Chỉ có Ðức Phật Thế-Tôn biết rõ được
thâm tâm bổn nguyện chúng ta'. Phật-huệ đã hiển, tri-kiến đã khai, nên Ðức Thế-Tôn tuần tự thọ-ký cho cả.
Ðược
thọ-ký xong, năm trăm vị nói dụ 'hệ châu', để tỏ chỗ mê lầm của mình ngày trước,
bày ý ngộ túc nhơn
ngày nay, từ lâu không hề rời Phật-thừa nửa bước
mà trước
không tự nhận, đến nay mới tin chắc.
9.- THỌ HỌC VÔ-HỌC NHƠN KÝ PHẨM
Do vì từ trước,
đức Thế-Tôn nhiều lần khai thị nào 'pháp', nào 'dụ', nào 'nhơn-duyên'
ba phen nói bày đã cùng, đã khắp,
mọi người
trong pháp hội đều tin, ở nơi
lời Phật dạy, chẳng còn nghi ngờ đều đã nhận thiệt, cho nên các vị đại đệ-tử từ bực thượng-thủ, năm trăm đệ tử nhẫn đến cả một nghìn hai trăm A-La-Hán đều được
thọ-ký. Như
thế là đã an ủi lòng đại-chúng rồi. Nhưng
còn hàng tân học Thinh-Văn, như
các ngài A-Nan, La-Hầu-La
v.v... đều muốn được
thọ-ký để toại lòng trông mong của chúng mà cũng là chủ ý để thấy rằng Phật-pháp không hề thừa sót. Nhơn
đó mà đức Phật đều thọ-ký cho.
Luận về Phật-tánh, có ba thứ nhơn,
tức là: 'chánh nhơn',
'duyên nhơn' và 'liễu
nhơn'.
Ba nhơn
nếu đầy đủ thời quyết định thành Phật không nghi vậy. Tự-tánh Phật mọi người
đều sẵn đủ đó là 'chánh-nhơn
Phật-tánh'. Cần phải nhờ giáo pháp của Phật, các thiện-tri-thức v.v... trợ giúp cho khai phát, đó là
'duyên-nhơn Phật-tánh'.
Còn tự-tin liễu ngộ đó là 'liễu-nhơn
Phật-tánh', các ngài Xá-Lợi-Phất v.v... mau tỏ ngộ đó chính vì 'chánh-nhơn
Phật-tánh' thâm hậu vậy.
Với năm trăm vị A-La-Hán, đức Phật rộng dẫn duyên xưa
để thấy rằng các vị đã được
Ðức Phật giáo hóa từ lâu xa, đó là duyên-nhơn
Phật-tánh đặng thuần-thục vậy. Trong duyên-nhơn
lại có hai phần, tức là thân-duyên cùng sơ-duyên.
Các bực học, vô học gần kề bên Ðức Phật, dự pháp hội của Phật đó là thân duyên, vả lại A-Nan là em, La-Hầu-La là con, thời lại là tối thân trong thân-duyên, có
lý nào không đặng độ, nên đều được
thọ-ký cả. Mới thấy rõ rằng lòng từ-bi của Ðức Phật thật là rốt ráo bình-đẳng vậy.
10.- PHÁP-SƯ PHẨM
Do vì về trước
Ðức Thế-Tôn cùng cực rộng khen pháp nhứt-thừa nhiệm-mầu rất sâu, người
nào có thể tin được
liền đặng thành Phật, các đại-đệ tử đã tin, đã nhận, nên đều đã đặng thọ-ký làm Phật ở tương-lai.
Pháp nhứt-thừa này chính là chánh-nhơn
Phật-tánh bổn lai sẵn đủ của tất cả chúng-sanh. Nay nhờ Ðức Như-Lai
lòng từ bình đẳng khai thị phương-tiện, nói Diệu-Pháp Liên-Hoa này, để làm duyên-nhơn
trợ giúp cho chánh-nhơn
hiển phát, Ðức Phật là duyên thân nhứt, Diệu-Pháp là duyên thẳng nhứt, được
gặp duyên-nhơn
thân thắng, không một ai là không liễu-ngộ trọn thành liễu-nhơn
Phật-tánh, ba nhơn
đã đủ bèn có thể kham đảm-đương
sự nghiệp nhà Phật.
Xem kết quả của chúng hội hiện nay, chứng rõ việc gieo mầm trong vi-trần số kiếp trước,
dầu lâu xa, thay đổi nhiều thân, trải qua nhiều đời, nhưng
chỉ càng tăng trưởng
nẩy nở, vẫn không một mảy bớt hao.
Ðã biết rõ bổn-nhơn
của Ðức Phật thuở Ðức Ðại-Thông Trí-Thắng Như-Lai,
trong tâm điền một phen đã huân nạp thắng-pháp, thời rốt ráo thuần-thục ở pháp-hội ngày nay.
Suy quá-khứ, chứng hiện-tại. Xưa
đã thế thời nay cũng thế. Một hội pháp-duyên hiện nay lại là một chủng-tử thắng diệu vô tận mãi mãi, để rồi sẽ rốt-ráo thuần-tục ở tương
lai đó chính là 'nếu
có người
nào nghe pháp không một
ai chẳng thành Phật': nhẫn đến 'chỉ một niệm vui theo thời cũng nên Phật quả': vì thế nên dùng hai chữ 'Pháp sư'
nêu tên phẩm này. Ðây là chú ý rằng chánh nhơn
Pháp-Hoa ngày nay, cần
nhờ các vị Pháp-sư
để khai hiển, để truyền đăng làm thắng duyên vô tận cùng kiếp vị-lai. Dầu rằng tất cả chúng-sanh, đều có chánh-nhơn
Phật-tánh, nhưng
nếu không có 'diệu-pháp' để làm thắng-duyên giúp cho phát lộ, thời tất khó mong chứng thành giác quả. Vì có 'nhơn'
mà không có 'duyên' thời
tất cả không sanh 'liễu', liễu-nhơn
đã không, làm thế
nào đặng cứu cánh. Do các nghĩa như
thế, nên chủng tử Phật-tánh cần phải nhờ 'duyên' huân khởi. 'Duyên' huân có hai phần: 'tân huân' và 'cựu huân'. Thuở Phật Ðại-Thông Trí-Thắng, mười
sáu vị Vương-Tử khai hóa đó là 'cựu huân'. Hiện pháp hội hôm nay là 'tân huân' vậy.
Pháp-sư
có 5 hạng: 1.- Tùy hỉ Pháp-sư
2.- Ðọc tụng Pháp-sư
3.- Thọ-trì Pháp-sư
4.- Thơ
tả Pháp-sư
5.- Giảng-thuyết Pháp-sư.
Trong năm hạng trên đây, nếu có thể hoàn toàn một tức là vị Pháp-Hoa Pháp-Sư.
Kinh
Pháp-Hoa này là toàn thân của
Như-Lai,
gánh vát Kinh này chính là gánh vát đức Như-Lai, vì thế nên phải kính trọng pháp-sư
xem như
đức Phật, để hiểu rõ pháp mầu thù-thắng, cần phải nhờ nơi
người
hoằng truyền, có hoằng truyền thời giống Phật không dứt mất, đó là 'Pháp thâm diệu như
thế, nếu không người
tuyên nói, dầu có trì cũng không hiểu biết'. Kính trọng thời phước
đức vô-lượng,
còn nếu hủy-báng mắc tội báo rất nặng, vì kính trọng là nối giống Phật, còn hủy-báng là dứt giống Phật vậy.
Ðến đây thấy rằng bổn tâm hiện ra nơi
đời của đức Phật cũng có thể gọi rằng là đã vừa khắp đủ.
Kinh nói:
'Ðức Phật bảo ngài Dược-Vương
Bồ-tát: Tất cả đại-chúng trong pháp-hội này, từ hàng tứ-chúng đến thiên, long, bát-bộ v.v... đều ở trước
đức Phật nghe kinh 'Diệu-Pháp Liên-Hoa', một bài kệ một câu, nhẫn đến một niệm tùy-hỉ đó, ta đều thọ-ký cho những người
ấy sẽ đặng đạo vô-thượng
bồ-đề... Sau khi ta diệt độ cũng thế, nếu có người
nghe kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, nhẫn đến một câu, một niệm tùy-hỉ đó, ta cũng thọ-ký đạo vô-thượng
bồ-đề cho những người
ấy... Nếu lại có người
thọ-trì, đọc-tụng, giải-nói, biên-chép kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, nhẫn đến một bài kệ, đối kinh quyển này kính xem như
Phật, các thứ cúng-dường...
Phải biết những hạng người
như
trên đó đã từng cúng-dường
mười
muôn ức đức Phật, nơi
các đức Phật đã thành tựu nguyện lớn, vì thương
chúng-sanh mà sanh trong nhơn-gian. Dược-Vương!
Nếu có người
hỏi, chúng sanh nào sẽ làm Phật ở tương-lai!
Thời nên chỉ những hạng người
trên đó, ở đời vị-lai chắc đặng làm Phật ... Nếu có trai lành gái tín nào
sau khi ta diệt-độ có thể riêng vì một người
giảng nói kinh Pháp-Hoa này nhẫn đến một câu, phải biết người
đó là sứ-thần của đức Như-Lai,
đức Như-Lai
sai làm việc Phật, huống lại là người
ở trong đại-chúng rộng vì người
mà nói.
Dược-Vương!
nếu có người
ác dùng tâm chẳng lành nơi
trong một kiếp, hiện ở trước
Phật thường
mắng nhiếc Phật, tội đó còn nhẹ. Nếu có người
dùng một lời ác chê mắng người
tại-gia hay xuất-gia đọc tụng kinh Pháp-Hoa này, tội đây rất nặng...
Dược-Vương
nên biết! Sau khi Như-Lai
diệt độ, người
mà có thể biên chép, thọ-trì, đọc-tụng, cúng-dường
kinh này vì người khác diễn
nói, thời là đức Như-Lai
lấy y trùm người
đó, lại được
các đức Phật hiện-tại ở mười
phương
hộ niệm... Thời được
đức Như-Lai
tay xoa nơi đầu
... Nếu sau khi ta diệt độ người
có thể giảng thuyết kinh này, ta liền sai hóa tứ-chúng cúng-dường
vị pháp-sư
đó dẫn dắt các chúng-sanh nhóm lại nơi
đó (khiến) nghe pháp...
Từ phẩm Pháp-Sư
này trở về trước
phán thuộc về phần Khai Phật-tri-kiến'.
Khai có
hai-nghĩa 1.- Ở nơi
đức Phật, thời đức Phật vì (chúng) khai-thị, khai-hiển, khai phát, cốt yếu làm cho người
nghe (được)
tự hiểu tự tin Phật tri-kiến. 2.- Ở nơi
người
nghe pháp thời (tự khai) ngộ Phật-tri-kiến, bởi chúng từ lâu mê lầm không tin nay (được)
đức Phật giảng nói thời bỗng nhiên liễu ngộ. Chính là liễu (ngộ tự) tâm, ví như
hoa sen nở'.
II.- PHẦN THỊ PHẬT TRI-KIẾN
11.- HIỆN BỬU-THÁP PHẨM
Trong phẩm đây hiển-thị pháp-thân thường-trú
của Như-Lai,
cùng cảnh tịnh-tịch thật-tướng
chơn
thật muốn làm cho chúng-sanh biết và thấy. Pháp thân cùng chơn
cảnh đồng hiện bày trước
mắt đại-chúng đó là nghĩa 'Thị' vậy.
Trong
pháp-hội Pháp-Hoa đây trước
nhứt đức Phật phóng quang soi thấu phương
đông, hiện đủ sự-tướng
trong pháp-giới, chúng-sanh, cùng Phật v.v... trước
sau đều khắp, đó chính là chung hiển thị tâm cảnh Phật tri-kiến thâm diệu của chúng-sanh. Do vì chúng hội đương-cơ
chưa
ngộ được
diệu-tâm lại dùng tình-thức suy nghĩ so lường;
phàm hễ tình-thức sanh thời trí-huệ bị cách ngại, chính trước
mắt mà không tự đạt được,
lại cho là không phải trí-phần của mình. Sau đó đức Như-Lai
dùng đủ cách khai-thị, nào tuyên pháp-thuyết, nào dẫn 'dụ thuyết', nào thuật 'nhơn-duyên'
nhờ thế mà chúng-hội đương
cơ
đã tin lời đức Phật, tự nhận mình sẽ làm Phật nên đều được
đức Phật thọ-ký.
Mặc dầu đã được
thọ-ký, nhưng
đó chỉ mới tin tự tâm thôi, còn chưa
nhận rõ pháp-thân chơn
cảnh. Ðây thời là niệm chấp chặc nghĩa sanh-diệt chưa
trừ, lòng cho có tịnh-uế chưa
dứt. Vì thế nên đức Như-Lai
toan hiển pháp-thân thường-trú
mà tháp đẹp bẩy báu từ dưới
đất vọt lên, đức Ða-Bửu Như-Lai
đã diệt độ từ lâu toàn thân hiện còn nguyên vẹn, để làm tiêu tan niệm chấp sanh-diệt của chúng. Rồi chính cõi Ta-Bà uế độ này, ba phen biến thành Tịnh-Ðộ cực kỳ trang-nghiêm, để dứt trừ lòng lầm cho thật uế thật tịnh của đương
hội.
Vả lại vô-lượng
chư
Phật ở mười
phương
đồng câu-hội nơi
thế-giới này, để chỉ bày trong pháp-giới, không luận một trần hay (một cõi) phàm chạm mắt đến đều là chơn-cảnh thật-tướng
cả, đây chính là tri-kiến chơn-thật của Phật vậy.
Tháp cao
năm trăm do tuần, trong tháp toàn thân của đức Ða-Bửu Như-Lai
y-nhiên chẳng rã, để chỉ cho chúng-sanh biết rằng, chính thân ngũ-uẩn sanh diệt của mọi người
là nhà ở của pháp-thân thường
trú. Ðến như
cõi Ta-Bà ba lần biến thành Tịnh-độ, để chỉ rõ rằng: Hoa-Tạng chơn
cảnh thật-báo trang-nghiêm chẳng rời ngoài nghiệp-dụng ngũ-trược
vậy.
Nơi
đây đức Thế-Tôn chỉ bày pháp-thân thường-trú
y-chánh trang-nghiêm, là chủ
ý muốn cho chúng hội đương
cơ
biết nghĩa vi-diệu của tự-tâm-cảnh, ngõ hầu liền nơi
trước
mặt mà hiện chứng, chẳng sanh lòng lo sợ rằng Phật-đạo dài xa, như
bọn người
đến bửu-sở sợ đường
hiễm trở, nhàm mỏi nẻo dài xa trong phẩm trước.
Thâm ý dẫn quyền-thừa của Phật rõ thấy nơi
phẩm này. Do đâu mà rõ thấy ư
?
Như
trong kinh thường nói: 'khai môn phương-tiện hiển-thị-tướng
chơn-thật' chơn
thật tướng
là gì: Chính là pháp-thân chơn-thật đức Tỳ-Lô-Giá-Na do nhiều kiếp tu-nhơn
chứng-đặng, cùng cõi Thường-tịch-quang chơn
độ của Phật trụ. Rồi từ pháp thân hiện báo thân Lô-Xá-Na ở nơi
Tịnh-Ðộ Thất-Báo trang-nghiêm; những thân cùng độ trên đây đều Chơn-thật, cho nên là chơn-thật-tướng.
Còn đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn là từ báo-thân mà hiện ứng-thân, vì tùy cơ-duyên
nên cõi của đức Phật ở cũng đồng với chúng-sanh, tức là cõi uế-độ ta-bà ngũ trược
này, thân cùng độ
này đều là giả, vì giả nên phàm giáo-pháp của đức ứng-thân Phật thi-thiết ra đều thuộc về quyền, bởi tùy theo quyền-cơ
của uế-chúng, quyền là danh-từ khác của phương-tiện vậy.
Nhơn
vì đức Tỳ-Lô-Giá-Na khi thành
chánh-giác, hiện thân Lô-Xá-Na ngồi tòa kim-cương
nơi
Bồ-đề đạo-tràng cùng vi-trần pháp-tánh Ðại-sĩ nói kinh Hoa-Nghiêm,
đây là cả thân cùng độ đều chơn
mà giáo-pháp cũng thật.
Ngặt vì trong hội Hoa-Nghiêm chỉ lợi cho bực viên-căn đại-thừa thôi, còn hàng căn khí tiểu-thừa cùng bực tích-hạnh Bồ-tát tuyệt phần, nên có câu: 'Hàng nhị-thừa đích thân ngồi tại tòa trong hội mà như
đui như
điếc'.
Vì thế nên đương
lúc đức Lô-Xá-Na thuyết Hoa-Nghiêm, chẳng ngại gì hiện thân ứng-hóa Thích-Ca Mâu-Ni tám
tướng
thành đạo, bắt đầu từ pháp-hội nơi
vườn
Lộc, đem đạo nhất-thừa mà phân biệt nói thành ba-thừa, để tiếp dẫn cơ
hạng trung và tiểu. Dùng sức phương-tiện nói pháp tứ-chơn-đế, pháp thập nhị nhân duyên, sự lục độ v.v... đồng hóa-độ ba căn. Mặc dầu cũng có nói pháp giáo-hóa
Bồ-tát nhưng
đều thuộc về quyền-giáo. Như
ông trưởng-giả trong phẩm thí-dụ hứa ba thứ xe để quyền-cứu các con, chẳng phải là có thật. Ngày nào trong toàn
chúng hội, hàng đệ-tử của Phật, còn chưa
chứng thấy pháp-thân chơn-cảnh, thời là ngày đức Thế-Tôn, đấng đại-bi bình-đẳng chưa
toại lòng. Như
nói: 'Ta vốn lập thệ-nguyện rằng: muốn làm cho tất cả chúng-sanh đồng như
Ta không khác'. Ý của
đức Thế-Tôn vẫn muốn cho chúng-sanh, mau chứng chơn-cảnh pháp-thân của Như-Lai
để thẳng đến thiệt quả Hoa-Tạng trang-nghiêm. Ngặt vì chúng-hội hạ liệt một mực chấp quyền là thật mà chẳng chịu thẳng đến trước,
vả lại đối với chơn-thuyên
của đức Thế-Tôn đúng thật tuyên bày lại nghi ngờ không tin không nhận. Làm cho đức Thế-Tôn phải hao sức nhọc lòng, hơn
bốn mươi
năm dùng đủ phương-tiện uốn nắn đào thải.
Ðến nay căn-tánh của chúng hội đã thuần-thục, mà cơ-duyên
giáo-hóa của Thế-Tôn cũng sắp xong, cho nên trong hội Pháp-Hoa này, đức Thế-Tôn thổ-lộ bổn-hoài khai trừ cả ba quyền-giáo ngày trước,
để hiển nhứt-thừa chơn-thật, Trưởng-giả gia nghiệp giàu lớn, chính là dụ cho pháp nhứt-thừa viên diệu của hội Hoa-Nghiêm. Hàng
Thinh-văn chỉ nhận ứng thân Thích-Ca Mâu-Ni Phật là chơn,
mà chẳng biết chính còn có chơn
Phật. Chỉ thấy cõi uế-độ Ta-bà đáng nhàm mà không
thể đạt được
chơn-cảnh thật-tướng.
Vì thiên-nhận thiên-kiến như
thế nên khư
khư
một mực nắm chặc chỗ chấp sanh-diệt, cùng niệm cho tịnh-uế không chịu rời bỏ, bởi do không đạt lý 'duy tâm sở hiện' nên đến đổi thế đó.
Sắp sửa nói kinh này, đức Thế-Tôn trước
phóng quang-minh soi suốt
mười
tám nghìn thế-giới phương-đông,
chỉ toàn chơn
cảnh của pháp giới chính là trong hàng ngày
của chúng-sanh chớ không đâu khác. Cảnh trí này không phải dùng tâm-tư
mà có thể đến được,
nên liền sau đó, đức Thế-Tôn từ tam-muội dậy, lại dùng ngôn-thuyết phương-tiện, nhiều cách chỉ bày. Trong đại-chúng đều tin tự bổn-tâm, đức Thế-Tôn liền thọ-ký làm Phật cho cả. Ðúng như
trong kinh Hoa Nghiêm nói: 'Lúc mới phát tâm biết
tất cả pháp chính là Tâm-Tự-Tánh, Thành-tựu Huệ-thân tỏ ngộ chẳng do người
khác'. Ðây chỉ mới rõ tự-tâm chơn,
còn chưa
đạt được
tự-cảnh thật. Tâm cùng cảnh chưa
dung-thông thời chưa
phải chơn-nhơn
thành Phật, còn thuộc về tri-kiến của chúng-sanh chớ chưa
phải là tri-kiến của Phật. Các Phẩm trước
đức Phật thọ-ký cho chúng-hội, đã khai hiển tâm-chơn,
nên nói phẩm này để chỉ cảnh thật, để thị Phật-tri-kiến.
Trong phẩm này ý nghĩa rất xâu-xa, nếu không chính chắn tham cứu thời rất khó lãnh hội diệu chỉ. Ðem dung-hội với Hoa-Nghiêm lại càng rõ quy thú trong phẩm này thật là thâm-huyền vậy.
III.- PHẦN NGỘ PHẬT-TRI-KIẾN
12.- ÐỀ-BÀ-ÐẠT-ÐA PHẨM
Trong phẩm này chỉ bày ngộ Phật-tri-kiến có khó có dễ, khó để chúng-hội sanh lòng trân-trọng hi-hữu, dễ để chúng khỏi sợ-sệt dài-xa, nhắc túc-nhơn
của đức Phật cùng Ðạt-Ða, nhơn
đây mà đặt tên phẩm.
Do vì trước
kia các hàng Thinh-văn từ
xưa
ôm lòng sợ-sệt Phật đạo dài xa cho nên không lòng
ưa
muốn. Ðến nay dầu đã nhờ đức Phật thọ-ký, nhưng
còn phải trải qua nhiều kiếp, mới đặng Phật-quả, sợ rằng trong thời gian đó túc-tập phát khởi, nửa chừng ngưng
trệ không khứng siêng cầu, nếu rời diệu-pháp nhứt-thừa này thời Phật-đạo không do đâu thành-tựu.
Ðức Thế-Tôn tự dẫn việc đời trước
của mình, dẫn việc một đời để lệ vô-lượng
đời khác, cần cầu kinh Diệu-Pháp nhứt-thừa, không màu giàu-sang,
không sợ nhọc-nhằn, không tiếc thân mạng, dầu làm vua mà cũng phủi bỏ, xả thân để cầu Tiên-Nhơn,
tiền thân của Ðề-Bà-Ðạt-Ða, truyền cho Diệu-Pháp, nhờ đó mà nay mới đặng viên thành quả-vị Bồ-đề, lại đem Diệu-Pháp đó tuyên dạy cho chúng-hội hiện-tại. Ðức Phật lãnh thọ Pháp-Hoa, Ðề-Bà-Ðạt-Ða tuyên truyền Pháp-Hoa, một hiện thành Phật, một sẽ thành Phật, để hiển rõ thành Phật chung quy không ngoài Diệu-Pháp Liên-Hoa. Như
thế há lại không nên cố-gắng cần cầu tu tập ư!
Há lại không nên phát tâm
kính-trọng hi-hữu ư!
Ðức Phật từ lâu khổ nhọc cầu Diệu-Pháp mới đặng thành Phật, đó là hiểu nghĩa 'Ngộ Phật-tri-kiến' rất khó vậy. Vả sợ rằng hàng đệ-tử hạ-liệt vì thấy khó mà không gắng tấn, cho nên kế đó hiển bày việc giáo-hóa của ngài Văn-Thù-Sư-Lợi ở long-cung, chưa
bao lâu mà đã có vô-lượng chúng thành Bồ-tát vị, cũng có người
trước
kia là Thinh-Văn mà nay tu-tập
hạnh Bồ-tát. Lại thêm Long-nữ mới tám tuổi đầu mà trong khoảng hiến bửu-châu, bỗng nhiên biến thành nam-tử, qua thế-giới Vô-Cấu ở phương
nam thành bực Ðẳng-Chánh-Giác giáo-hóa
chúng-sanh. Tất cả những kết quả vĩ-đại mau chóng như
trên đều nhờ sức của 'Diệu-Pháp Liên-Hoa'.
Vả lại biển là chốn sanh-tử trầm-nịch, rồng là đầu dọc tam-độc, người
nữ là căn-khí âm-nhu cấu trược,
Long-Nữ đủ cả ba điều ty-tệ này mà trong một thời-gian ngắn, liền có thể hiện chứng Bồ-đề. Sao lại quá dễ như
thế! Nhơn
vì gần-gũi bực đại-trí để làm chỗ y-quy vậy. Cũng là chủ ý bảo chúng-hội đương-cơ
sau khi Phật diệt-độ nên gần gũi bậc tối thắng tri-thức, có thể chắc-chắn được
rốt-ráo diệu-ngộ, trọn không còn phải lui vào hàng nhị-thừa nữa.
Kinh nói:
'Lúc bấy giời đức Phật bảo các vị Bồ-tát cùng thiên, nhơn,
tứ-chúng rằng: Ta ở trong vô-lượng
kiếp về quá-khứ cầu kinh Pháp-Hoa không có trễ nải mỏi mệt, ở trong nhiều kiếp thường
làm Quốc-Vương
phát nguyện cầu đạo Vô-thượng
Bồ-đề tâm không lui sụt, vì muốn trọn đủ sáu pháp ba-la-mật nên siêng năng thật hành hạnh bố-thí trong lòng không chút
lẫn tiếc, từ của cải vợ con cho đến đầu mắt tay chơn
không tiếc thân mạng ...
Khắp vì chúng-sanh, cần cầu pháp đại-thừa, cũng chẳng vì thân mình ... Do đó
bèn đặng thành Phật, nên nay vì các ông mà diễn nói...
Ngài
Trích-Tích Bồ-tát hỏi ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát rằng: 'Kinh Pháp-Hoa này rất sâu vi-diệu, là báu nhứt trong các kinh, trong đời rất ít có, vả có chúng-sanh nào
siêng-năng tinh-tấn
tu hành kinh này mau đặng
thành Phật chăng ?'
Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi
đáp: 'Có con gái của
Ta-Kiệt La Long-Vương
mới tám tuổi mà lợi-căn trí-huệ, hay biết các căn-tánh hành-nghiệp của chúng-sanh, đặng đà-la-ni ..., trong khoảng sát na phát tâm Bồ-đề đặng trụ bậc bất thối-chuyển, biện tài vô-ngại, thương
nhớ chúng-sanh dường
như
con đỏ, công-đức đầy đủ ... có thể đến bực Bồ-đề'... Ðương
lúc đó cả chúng-hội đều thấy Long-nữ bỗng nhiên biến thành nam-tử, đủ đạo-hạnh Bồ-tát, liền qua thế-giới Vô-Cấu phương
nam, ngồi tòa sen báu thành bực đẳng chánh giác đủ 32 tướng
đẹp, 80 hình tốt, khắp vì mười
phương
tất cả chúng-sanh diễn nói Pháp-Hoa.'
13.- TRÌ PHẨM
Do về trước
chúng-hội đương
cơ
đã khai ngộ, dầu được
thọ-ký, nhưng
còn phải trải qua nhiều kiếp mới thành Phật, đức Thế-Tôn sợ rằng tập-quán hẹp hòi hèn yếu, sợ khó, ngại xa, hoặc giả giữa đường
lại sanh lòng lo sợ Phật-đạo dài xa, nên đức Thế-Tôn tự thuật tiền thân cầu pháp dầu khó nhọc đủ điều nhưng
vẫn không một niệm nhàm mỏi, để làm gương
cho chúng-hội phấn khởi, để cho tập-quán yếu hèn tiêu tan. Rồi lại việc Long-Nữ thành Phật trong khoảnh khắc, để thấy lực dụng thù-thắng của Pháp-Hoa, làm chúng dứt kiến chấp xa gần mau chậm. Lòng phấn khởi không yếu hèn, quên bặt gần xa, thời có thể an-trụ nơi
Phật-đạo.
Chúng hội đương-cơ
đã được
đủ nhơn
đủ duyên như
thế, còn chúng-sanh sau khi đức Phật diệt-độ thời thế nào mà được
trụ nhứt-thừa, do vấn đề sau đây nên có phẩm 'Trì' này.
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa này là Huệ-mạng của chư
Phật, là chánh-nhơn
Phật-tánh của chúng-sanh. Trong thời kỳ sau khi đức Phật diệt-độ, người
nhiều tệ-ác, tội nặng, phước
mỏng, chướng
sâu, huệ kém, khó có thể phụng-trì được.
Nếu không người
phụng-trì thời giống Phật phải dứt mất, đây là chỗ của đức Phật Thế-Tôn thầm lo vậy. Các vị Bồ-tát cũng thầm hiểu ý của Thế-Tôn, mới cung kính an ủi xin Thế-Tôn chớ lo, các ngài đều nguyện phụng trì kinh này ở đời vị-lai rộng bày diễn nói chẳng quản khổ nhọc, chẳng tiếc thân mạng.
Năm trăm vị đệ-tử cùng hàng học vô-học, tất cả chúng-hội vừa được
thọ-ký, cũng lãnh hội ý đức Thế-Tôn, nên đều nguyện rộng tuyên diễn ở tương-lai,
song lại nguyện truyền pháp ở các thế-giới phương
khác, vì người cõi nước ta-bà này phần nhiều tệ ác thượng-mạn, các ngài tự lượng
sức mình chẳng kham hóa-độ được.
Các vị đại Tỳ-kheo-ni như
Ðại-Ái-Ðạo, Liên-Hoa-Sắc v.v... từ giờ vẫn tự cho thân phụ-nữ nhiều cấu-chướng
không dám vọng cầu Phật-quả, nhơn
vừa rồi tận mắt thấy Long-Nữ thành Phật, cũng nên tự tin rằng mình cũng có phần được
làm Phật, mới khao khát trông mong đức Thế-Tôn thọ-ký, sau khi đã được
thọ-ký, liền phát nguyện tuyên truyền kinh Pháp-Hoa ở tha phương
thế-giới, để tự tỏ bày tâm chí, không lui sụt trễ nải.
Bấy giờ đức Thế-Tôn bèn ngó tám mươi
ức na-do-tha chúng Bồ-tát mà vẫn chẳng thốt lời. Chính ý đức Thế-Tôn sợ rằng: chúng Thinh-văn dầu nguyện trì kinh mà chưa
quen những công-hạnh thiệp-tục lợi-sanh, pháp lực không đủ, e lại bị chướng
nạn mà làm cho pháp-duyên khó
rộng, nên muốn nhờ các vị Bồ-tát hộ trợ, các vị Bồ-tát hội ý của đức Thế-Tôn đồng phát nguyện trong thời kỳ Phật đã diệt-độ, các ngài sẽ qua lại cùng khắp mười
phương
thế-giới, dùng sức nhẫn-nại giúp cho chúng-sanh thọ-trì kinh này, song không
dám tự phụ sức mình, nên nói hộ trì được
đó là nhờ thần lực của Như-Lai.
Kinh nói:
'Bấy giờ Dược-Vương
Bồ-tát và Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-tát cùng hai vạn Bồ-tát đều ở trước
đức Phật thệ rằng: 'Cúi xin đức Thế-Tôn chớ lấy thế làm lo, sau khi đức Phật diệt-độ, chúng con sẽ phụng-trì đọc tụng diễn nói kinh này. Chúng-sanh
trong đời ác sau này căn lành càng
ít, nhiều tăng-thượng-mạn, tham lợi cúng-dường,
thêm căn chẳng lành, xa lìa giải-thoát, dầu khó giáo-hóa được,
chúng con sẽ khởi sức đại nhẫn đọc tụng kinh này, phụng-trì, biên chép, các thứ cúng-dường
chẳng tiếc thân mạng ...
Lại có hàng học vô-học tám nghìn người
được
thọ-ký cũng phát thệ rằng: 'Thế-Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi nước
khác rộng diễn thuyết kinh này. Vì trong quốc độ Ta-bà này người
nhiều tánh tệ-ác, ôm lòng tăng-thượng-mạn, công-đức cạn mỏng, sân trược
dua dối, tâm không thiệt vậy...
Na-do-tha
chúng Bồ-tát bạch Phật ... Chúng con chẳng mến thân mạng chỉ tiếc đạo vô-thượng.
Chúng con nơi đời
sau hộ-trì Diệu-Pháp của đức Phật phó-chúc. Trong các tụ-lạc, thành ấp, có người
cầu đại pháp, chúng con là sứ thần của đức Phật, ở trong chúng con sợ sệt. Chúng con sẽ khéo nói pháp, mong đức Phật an lòng.
14.- AN-LẠC-HẠNH PHẨM
Nhơn
vì vừa rồi hàng Thinh-văn cùng chúng
Bồ-tát phát nguyện trì kinh, Thinh-văn thời nguyện ở tha-phương,
Bồ-tát thời nói dùng sức nhẫn nại để đương
lại với những điều hoạn nạn khó khăn ở thời mạt thế, ý của ngài Văn-Thù cho rằng: dầu dùng nhẫn-lực để trì kinh cũng đã hay, song
không bằng làm thế nào để cho khỏi có xảy ra những điều hoạn nạn khó khăn thời ổn thỏa hơn,
nên ngài bèn thưa thỉnh cùng đức Thế-Tôn. Ðức Thế-Tôn liền nói bốn hạnh an-lạc, các vị pháp sư
trì kinh Pháp-Hoa ở
đời ác sau, nếu có đủ bốn hạnh này thời có thể vì chúng-sanh nói kinh
Pháp-Hoa khỏi các chướng-nạn, thường
thường
được
an-vui.
Bốn hạnh an-lạc là:
1.- Hành-xứ và thân-cận-xứ. Chỗ sở-hành và chỗ thân cận của Bồ-tát phải thường
tương
ưng
với tánh giới, bề trong thời an trụ nơi
đệ-nhứt-nghĩa thật-tướng,
bề ngoài thời xa những mầm nạn những ác-hạnh, tránh tất cả những điều cơ-hiểm.
Tương-ưng
tánh giới; an trụ thật-tướng
thời tâm an, xa tránh ác-hạnh, cơ
hiểm, mầm-nạn thời thân an, thân và tâm an
thời vì chúng-sanh nói kinh
Pháp-Hoa tất khỏi bị chướng-ngại.
Cũng có vị Cổ đức cho rằng hành-xứ cùng thân-cận-xứ là thân nghiệp an-lạc-hạnh. Lấy ý mà suy thời cùng với nghĩa trên vẫn cũng tương
đồng.
2.- Ngừa lỗi nơi
khẩu nghiệp và khéo nói pháp, làm cho
mọi người
đều hoan hỉ thời khỏi chướng
nạn mà được
an vui, chính là khẩu-nghiệp an-lạc-hạnh vậy.
3.- Dứt trừ những tánh đê hèn, như
dua dối, ghét ganh v.v... tức là nơi
tâm xa rời tất cả phiền não cấu trược,
kính trọng người
trên, không khinh kẻ
dưới,
được
như
thế thời không xúc ngổ tâm mọi người,
khỏi những điều oán hận mà tự mình được
an-vui. Ðây thuộc
về ý-nghiệp an-lạc-hạnh.
4.- Bồ-tát ở đời sau phải sanh lòng từ-bi thệ-độ tất cả, như
thế thời không xa bỏ chúng-sanh thường
nguyện giáo-hóa, không sanh niệm mỏi mệt nhàm chán. Ðây tức là thệ-nguyện an-lạc-hạnh vậy.
Ðủ bốn hạnh trên đây thời là đủ sức thủ-hộ giảng-thuyết kinh Pháp-Hoa ở đời ác trược
vị-lai, khỏi chướng
nạn, được
an-ổn vui-vẻ.
Bốn hạnh này là phép tắc của đức Thế-Tôn truyền dạy để giữ-gìn gia-nghiệp vĩ-đại của đấng cứu thế, tất cả luật hạnh oai nghi đều gồm nhiếp trong 4 hạnh này, người
xuất gia trong đời mạt pháp, nếu có thể giữ hạnh này hoàn toàn, thời có thể gọi là chẳng phụ ân sâu của Ðức Thế-Tôn vậy.
15.- TÙNG ÐỊA DŨNG XUẤT
Trong phẩm này đại-ý là để hiểu rõ tự-tâm khi phát ngộ, thời hằng-sa tánh đức hiện tiền, mới cùng tột đến chỗ cực diệu trì kinh Pháp-Hoa vậy.
Dầu rằng đã có rất nhiều Thanh-Văn cùng Bồ-tát phát nguyện trì kinh, nhưng
Thanh-Văn tự lượng
sức không đủ, chẳng kham ở Ta-bà mà nguyện truyền diệu-pháp ở tha phương,
các vị Bồ-tát dầu đông nhưng
vẫn hữu hạn. Thế-giới vô-biên, chúng-sanh vô-tận, kinh Pháp-Hoa lại khó trì thứ nhứt, như
trong phẩm hiện bửu tháp nói: 'Nếu có người
để cõi đại địa trên móng chơn
mà bay lên cõi Phạm-Thiên
cũng chưa
lấy làm khó, đây là rất khó... nếu có người
trì tám muôn bốn nghìn pháp tạng, mười
hai bộ kinh vì người
diễn nói, làm cho những người
nghe pháp đều đặng sáu món thần-thông nhẫn đến chứng A-La-Hán cũng chưa
lấy làm khó, sau khi Phật diệt-độ, nếu có người
phụng-trì kinh điển như
thế này thời rất khó...'
Xứ rộng vô-biên người
đông vô-lượng, pháp lại
khó trì thứ nhứt, mà người
hoằng-pháp có số hạn thời thật là khó nỗi hoàn-toàn, tất phải có một số đại Bồ-tát vô-lượng
vô-hạn, công việc trì kinh mới được
trọn vẹn, mà đức Thế-Tôn mới thật an lòng. Vì cớ này nên các vị Bồ-tát ở hạ phương
đúng thời dũng-xuất để ứng tâm của đức Thế-Tôn.
Ðức Phật trước
khước
từ lời nguyền hộ trì kinh nơi
cõi Ta-bà của tám hằng-hà-sa Bồ-tát ở tha phương,
chính để hiển rõ ý từ ngoài đến không quí bằng tự nhà có sẵn. Cho nên đức Phật nói: 'Cõi ta-bà của ta tự có sáu vạn hằng-hà-sa chúng đại Bồ-tát, mỗi vị Bồ-tát đó đều có sáu vạn hằng-hà-sa quyến thuộc, những người
đó có thể lúc sau khi ta diệt-độ, kham hộ trì đọc tụng giảng nói kinh này ...' Ứng theo lời Ðức Phật đại địa rúng nức, vô-lượng
nghìn muôn ức Bồ-tát từ dưới
đất vọt lên, đến tháp báu lễ Phật ...
Ðến đây thời kiến chấp sanh-diệt dứt, lâu mau đồng thời, cho nên năm mươi
tiểu kiếp mà cho như
trong khoảng bữa ăn. Do vì xứng tánh đức mà thành hạnh, nên bốn vị thượng-thủ trong vô-lượng
Bồ-tát đều dùng chữ 'Hạnh' đặt tên Chính là ý dùng tánh
đức thành hạnh này trì kinh, mới đúng với bổn-hoài của Phật.
Tánh đức hiện tiền trọn chẳng phải là tâm-thức có thể lường
biết được,
cho nên ngài Di-Lặc
Bồ-tát cùng tám hằng-hà-sa Bồ-tát đều sanh lòng nghi. Nhẫn đến không biết đặng một người;
các vị Thị-Giả của mười
phương
chư
Phật cũng đồng thưa
hỏi.
Ðây không
phải là duyên sự nhỏ, không phải là dễ tin cho nên đức Phật trân trọng răn gắng, bảo trước
khi nghe lời đức Phật tuyên bày, phải mặc giáp tinh-tấn, phát ý kiên-cố, mới khỏi sanh lòng nghi sợ.
Ðức Như-Lai
nói: 'Nay đức Như-Lai
muốn hiển phát tuyên thị trí-huệ của chư
Phật, sức thần-thông tự-tại của chư
Phật, sức sư-tử phấn-tấn của chư
Phật, sức oai-mãnh đại-thế của chư
Phật'. Tất cả công-đức quảng-đại thâm-diệu của chư
Phật đều gồm đủ trong những lời sẽ nói của đức Như-Lai
há lại là việc nhỏ thay! Xét đây thì thấy rằng ý-chỉ trong đoạn văn của đức Phật sắp tuyên bày rất sâu, không thể dùng tri-kiến thông thường
mà đến được,
mà đúng thật như
thế, nên lúc đức Phật nói các đại-chúng Bồ-tát từ đất vọt lên đó, đều là từ khi đức Như-Lai
thành đạo giáo-hóa khiến cho đó phát tâm, thời ngài Di-Lặc và chúng-hội đều sanh lòng nghi. Bởi vì chính mắt các ngài thấy đức Như-Lai
từ khi thành đạo đến nay mới trải qua hơn
40 năm. Những người
được
đức Phật giáo-hóa đều đủ mặt tại hội Linh-Sơn.
Còn đại-chúng Bồ-tát đó, chúng-hội không biết mặt được
một người,
huống nữa là đại-chúng Bồ-tát đó đều đã nhiều đời nhiều kiếp vun trồng cội đức căn lành mới đặng đầy đủ thần-thông đạo-hạnh như
thế, đức Như-Lai
mới thành đạo đây, sau lại nói các vị đó ban đầu do đức Phật giáo-hóa mà phát-tâm. Vì
vậy nên các ngài nói dụ 'cha trẻ con già' thuật lòng nghi ngờ của mình, để cầu đúc Như-Lai
giải quyết, chẳng những để quyết nghi cho chúng-sanh ở đời vị-lai. Phẩm kế đức Như-Lai
tự nói thọ-lượng
để quyết nghi vậy.
16.- NHƯ-LAI THỌ-LƯỢNG PHẨM
Do vì vừa rồi ngài Di-Lặc cùng chúng-hội nghi việc đức Thế-Tôn mới thành Phật trong thời gian ngắn mà thế nào giáo hóa thành tựu được
vô-lượng
đại Bồ-tát từ nhiều kiếp huân-tu công-đức, cho nên đức Thế-Tôn tự nói thọ-lượng
của Phật. Vì vậy cơ-duyên
giáo-hóa, đức Như-Lai
dùng sức bí-mật thần-thông hiện thân ra nơi
đời, tất cả chúng-sanh đều cho rằng: nay đức Thế-Tôn Thích-Ca Mâu-Ni Phật giáng-sanh nơi
cung vua dòng họ
Thích, ngồi nơi
đạo tràng thành vô-thượng
chính-đẳng chính-giác. Ðây là
chúng-sanh chỉ biết một phần tích-môn quyền-hiện của đức Thế-Tôn. Nhưng
kỳ thật về bổn-môn chơn-thật, thời từ khi đức Thế-Tôn thành Phật đến nay trải qua vô-lượng
vô-biên trăm ngàn muôn ức
na-do-tha kiếp.
Ðức Thế-Tôn hiển-bày tự bổn và tích để phá kiến chấp sanh diệt của hàng nhị-thừa, để hiển pháp-thân thường-trú,
tùy cơ-duyên
khắp ứng để giáo-hóa, hoặc ẩn hoặc hiện đều vô-ngại. Ðủ thấy trí-huệ của Như-Lai
phương-tiện độ sanh rất sâu vô-lượng,
khó hiểu, khó vào.
Người
ngộ đạo tu hành, nếu chẳng đạt pháp-thân thời trọn chẳng phải chơn
ngộ, đều còn thuộc về tri-kiến chúng-sanh, chớ chưa
phải Phật-tri-kiến.
Phẩm 'hiện-bửu-pháp' ở trước,
mượn
đức Ða-Bửu Như-Lai
để hiển bày pháp-thân chơn-cảnh, mà trong chúng hàng hội chỉ tin Ða-Bửu mà chưa
tin Thích-Ca đồng là một thân một sức trí-huệ; mặc dầu từ khi tháp báu hiện ra đến đây, hai đức Như-Lai
đồng ngồi chung một tòa sư-tử trong tháp. Bởi hàng Thinh-Văn cố-chấp sanh diệt pháp, tập quán quá sâu, chỉ nhận đức Phật nói pháp bắt đầu từ vườn
Lộc nơi
thành Ba-La-Nại đó là chơn
thật Thích-Ca Mâu-Ni Như-Lai
thôi, chẳng còn lại biết Chơn-Phật bổn thật. Lại nghe đức Như-Lai
nói sắp sẽ diệt-độ, thời càng tăng-trưởng
kiến giải sanh diệt. Dầu đã được
thọ-ký, nhưng
chỉ mới tin lời của đức Như-Lai
chớ chưa
thấy được
tâm của đức Như-Lai,
chưa
thấy Phật-tâm thời thật khó thành-tựu Phật-quả vậy, vì còn chưa
phải chơn-ngộ thời chỗ tu-hành cũng chẳng phải chơn-tu,
ngộ cùng tu không phải chơn
làm thế nào kết chơn-quả được.
Cứ đây mà suy, thời thấy rằng từ trước,
những phương-pháp
khai-thị của đức Thế-Tôn thi-thiết đó đều thuộc về tùy-cơ
phương-tiện, dầu cũng có lúc ám-chỉ chơn-thường
cùng thác sự hiển thật-tướng,
song chưa
lộ bày rõ rệt, đến phẩm thọ-lượng
này thời thật là đức Thế-Tôn trải hết bổn-tâm bày hết thần-lực, chỉ rõ toàn thể pháp-thân mà nói thọ-lượng
vô-lượng.
Pháp-thân
chơn
thường
là chỗ mà tất cả chúng-sanh khó hiểu khó vào, mặc dù Phật có hết cách trải bày, nên trước
khi tuyên nói, đức
Như-Lai
ba phen đinh-ninh dặn
bảo đại-chúng nên gắng tin lời nói chắc thật của đức Như-Lai,
rồi lại chờ chúng-hội ba phen cần cầu thưa
thỉnh, lòng khát ngưỡng
đã thiết, rồi sau đức Như-Lai
mới nói. Vì nếu trong lòng chưa
quyết chắc lời Phật thời tình-thức phân-biệt dễ sanh, mà tình-thức phân-biệt là bức trường-thành
ngăn cách Pháp-thân, là con đường đi ngược
hướng
của thật-tướng.
Và cũng vì Pháp-thân của
Như-Lai
thường-trú,
hiện diệt-độ mà không thiệt diệt-độ khó hiểu khó vào, nên tiếp đó đức Như-Lai
nói dụ: 'Thầy-thuốc' vì chữa bịnh cho các con mà phương-tiện nói chết, kỳ thật thời vẫn còn.
Ngộ được
Pháp-thân chơn-thường này thời mới là chơn-ngộ, chơn-ngộ mà tu thời tu là chơn-tu
là chơn-nhơn,
dùng chơn-nhơn
mới kết thành chơn-quả được.
Ðến phẩm đây thời đức Như-Lai
hiển lý đã viên-mãn, mà cũng
là đã thổ lộ hết cả bổn loài vậy.
Kinh nói:
'Tất cả người,
trời, a-tu-la trong đời đều nói đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, sanh trong cung vua dòng
họ Thích, ngồi nơi
đạo-tràng cách thành Già-Da
không bao xa mà chứng
thành đạo vô-thượng
chính-đẳng chính-giác.
Nhưng
thiệt thời từ Ta thành Phật đến nay, đã vô-lượng
vô-biên trăm nghìn muôn ức
na-do-tha kiếp... Ta tuy theo
chúng-sanh, nên dùng phép gì để
được
độ, nơi
nơi
nói danh-tự không đồng, niên kỷ lớn nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ vào Niết-bàn... Vì muốn cho chúng-sanh sanh các
căn lành nên dùng ngần
ấy nhơn-duyên
thí-dụ ngôn-từ nhiều cách nói pháp, chỗ làm Phật-sự chưa
từng tạm bỏ. Ta thành Phật đến nay rất là lâu xa như
thế, thọ-mạng vô-lượng
vô-số kiếp thường-trú
bất-diệt... Nhưng
nay chẳng phải thiệt diệt-độ mà bèn xướng
rằng sẽ diệt-độ, đức Như-Lai
dùng phương-tiện đó để giáo-hóa chúng-sanh... Vì
nếu đức Phật ở lâu trong đời, những chúng-sanh hạ tiện thấy đức Như-Lai
thường
còn không diệt bèn sanh lòng kiêu-tứ biếng trễ... Nay nghe đức Phật nhập diệt, tất sẽ sanh ý tưởng
khó gặp gỡ, ôm lòng luyến-mộ khát-ngưỡng
nơi
Phật bèn vun trồng căn lành, cho nên Ðức Như-Lai
dầu thiệt chẳng diệt-độ mà nói diệt-độ... Như
thầy thuốc chước
khéo vì để trị cuồng-tử, thiệt còn mà nói chết... Ta thường
tự nghĩ rằng: lấy vì cho chúng-sanh đặng vào đạo Vô-thượng
mau thành-tựu thân Phật'.
17.- PHÂN-BIỆT CÔNG-ÐỨC PHẨM
Do nghe đức Phật nói thọ-mạng dài xa, đã ngộ pháp-thân thường-trú,
cùng trước
thấy ba phen biến cảnh tịnh-độ, đã rõ ba cõi duy-tâm sở-hiện, đây bèn là dùng chơn
tín-giải để làm chơn-nhơn,
có thể khế-hiệp chơn
quả thường-trú
của Như-Lai,
dùng đây trì kinh mới
đặng diệu-lợi. Bởi pháp-thân vẫn thường-trú
ở thế-gian, cảnh tịnh-độ không rời cõi trược
nên đức Thế-Tôn khuyên gắng trong chúng-hội: nếu có người
quán được
như
thế, phải biết đó là tướng
thâm tín-giải. Thâm tính-giải là tin và hiểu Pháp-thân thường-trú
duy-tâm chơn-cảnh.
Thân và cảnh đây rất sâu rất diệu, tin hiểu được
thời công-đức vô-lượng
vô-biên nên sau khi đức
Phật nói thọ-lượng
rồi, tuyên nói đó đến vi-trần số Bồ-tát đắc pháp lợi, để chứng thành công-đức diệu-ngộ Pháp-thân thường-trú.
Diệu-ngộ đã cùng tột, thời mới thật là chơn
trì kinh.
Do đây nên
biết rằng: chơn
trì-kinh chính tại
diệu-ngộ, chẳng phải chỉ một mặt thế-gian văn tự, cho nên đức Như-Lai
phân biệt công-đức trì-kinh bất-khả tư-nghì
siêu-việt tất cả hữu-vi công-đức vậy.
18.- TÙY-HỈ CÔNG-ÐỨC PHẨM
Dầu rằng vừa rồi đức Thế-Tôn phân biệt công-đức của người
trì-kinh đã là thù-thắng
vô-lượng,
nhưng
còn muốn cho rõ thêm công-đức lợi ích bất khả tư-nghì,
nên trong phẩm này lấy công-đức một niệm tùy hỉ của người
lần lượt
nghe pháp thứ năm mươi,
còn gấp bội hơn
phước
đức của nhà đại-thí-chủ trải tám mươi
năm đem thất bảo và đồ tư-sanh,
bố thí cho tất cả bốn loài chúng-sanh trong bốn trăm muôn ức vô-số thế-giới, cùng giáo hóa cho cả thảy đều chứng tứ thánh quả. Huống là công-đức của người
ban đầu nghe pháp mà sanh tâm
tùy-hỉ, có thể nào nghĩ hay bàn đến đặng.
Ðại khái trong phẩm đây cùng cùng tột hiển bày sự lợi ích rộng lớn thù-thắng của kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa này, chú ý
để làm cho tâm nguyện của hàng nhị-thừa và sơ-tâm
Bồ-tát được
bền vững chắc chắn vậy.
19.- PHÁP-SƯ CÔNG-ÐỨC PHẨM
Trước
đã rộng khen công-đức trì-kinh, nay trong phẩm này nói vị Pháp-sư
trì-kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa liền đặng sắu căn thanh-tịnh, để chỉ rõ sự lợi ích thù-thắng của Pháp-Hoa tam-muội, chính đương
hiện tiền lên bực bất thối, để phát khởi lòng tinh-tấn không nhàm mỏi cho đương-hội và vị-lai.
Về phẩm Pháp-sư
trước
trong phần khai Phật-tri-kiến, chỉ nói nhiệm-vụ của năm cách trì-kinh
Pháp-Hoa. Ðến phẩm này mới chánh chỉ rõ công-đức trì-kinh của Pháp-sư
được
diệu-đức thù-thắng tại hiện-tiền. Bởi chủng-tử Phật tánh cần phải nhờ duyên huân mới sanh trưởng
phát hiện, Phật-tánh sanh phát thời huệ-mạng chẳng dứt. Huân-trường
nhờ nơi
Pháp-sư
nên công-đức rất là thù-thắng vô-lượng.
Nhưng
kinh nói: 'Nếu có người
thiện-nam thiện-nữ thọ-trì kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người
đó sẽ đặng tám trăm nhãn công-đức, một nghìn hai trăm nhĩ công-đức, tám trăm tỉ công-đức, một nghìn hai trăm thiệt công-đức, tám trăm thân công-đức và một nghìn hai trăm ý công-đức.
Mắt thường
của người
đó thanh-tịnh thấy suốt cả vật sắc trong tam-thiên đại-thiên thế-giới; lưỡi
thường
của người
đó thanh-tịnh nói thông vô-lượng
pháp; thân thường của
người
đó thanh tịnh ảnh hiện cả vạn vật trong đại-thiên thế-giới; tâm ý của người
ấy thanh-tịnh rõ biết vô-lượng
pháp, thông đạt vô-lượng
nghĩa, biết tất cả tâm niệm của mọi loài, kham lãnh thọ tất cả pháp của tất cả Ðức Phật....
20.- THƯỜNG-BẤT-KHINH BỒ-TÁT PHẨM
Từ trước,
trong nhiều phẩm nói công-đức trì-kinh rất thù-thắng, đến đây Ðức Phật chỉ rõ công hạnh trì-kinh bền vững như
thế nào, kết quả như
thế nào, nên Ðức Phật tự thuật tiền thân của Ðức Phật để chứng thật.
Ðức Phật tự nói thuở quá-khứ lâu xa vô-lượng
kiếp về trước,
trong thời tượng-pháp
của Phật Oai-Âm-Vương,
Ðức Phật là một vị Bồ-tát tên Thường-Bất-Khinh, trì kinh Pháp-Hoa
này chỉ chuyên đem Phật-huệ bình-đẳng giáo-hóa chúng-sanh. Nhẫn đến nhiều phen bị hủy nhục, nào bị mắng nhiếc, nào bị đánh đập v.v... mà vẫn tuyệt nhiên không hề móng một niệm chán nản, cũng không chút giận hờn cũng không biết mỏi nhọc.
Do đức nhẫn nại trì-kinh kiên cố như
thế mà hiện thân trong đời đó được
sáu căn thanh-tịnh,
biện-tài vô-ngại, thần-thông quảng-đại, tuổi thọ thêm dài, vì mọi người
mà nói kinh Pháp-Hoa, những
người
trước
kia khinh hủy Bồ-tát, lúc thấy Bồ-tát được
đạo-lực thần-thông như
thế đều trở lại kính tin. Nhờ công-hạnh trì-kinh Pháp-Hoa thuở xưa
như
thế nên hiện ngày nay mới đặng thành Phật.
Công-hạnh trì-kinh Pháp-Hoa kết thành diệu-quả rộng lớn hiện thật của Ðức Phật, đủ để khuyến-tấn hàng nhị-thừa cùng sơ-tâm
Bồ-tát nếu tuân theo qui-phạm đó mà trì-kinh Pháp-Hoa
trong thời mạt-thế sau này, thời dầu có gặp muôn nghìn nghịch-duyên chướng
ngại, cũng có thể không nhàm không nản, mà tâm-chí không bị thối-đọa.
Kinh nói:
...Bất-Khinh Bồ-Tát qua đến chỗ của tứ-chúng cố chấp nơi
pháp kia mà bảo đó rằng: Ta chẳng dám khinh quý ngài, quí
ngài hành đạo đều sẽ đặng thành Phật'. Những người
đó nghe Bồ-tát nói thế, bèn khinh hủy mắng nhiếc. Bất-Khinh Bồ-tát hay nhẫn thọ. Khi tội Bồ-tát hết rồi, đến lúc mạng chung đặng nghe kinh này, sáu căn
thanh-tịnh, do sức thần-thông thêm dài thọ mạng, lại vì mọi người
mà rộng nói kinh này... Vì diễn nói kinh này đặng vô-lượng
phước,
lần lần đủ công-đức mau thành Phật-đạo. Bất-Khinh Bồ-tát thuở đó thời chính thân ta...
Ức ức muôn kiếp đến bất-khả-nghị lâu mới đặng nghe kinh Pháp-Hoa này. Ức ức muôn kiếp đến bất-khả-nghị, các Phật-Thế-Tôn mới nói kinh này, đời đời gặp Phật, mau thành Phật-đạo.
Từ phẩm Ðề-Bà-Ðạt-Ða đến đây đều lo những việc về sự Tỏ-ngộ trì-kinh, nay tuân theo
công-hạnh của đức Phật vậy sau mới là trì-kinh được
tinh thuần vậy.
21.- NHƯ-LAI THẦN-LỰC PHẨM
Từ trước
đức Thế-Tôn rộng nói công-đức trì-kinh lại thuật công-hạnh trì-kinh của Phật, đây thời đương-cơ
pháp-hội chỗ viên-ngộ đã cùng tột, bổn nguyện xuất-thế của đức Thế-Tôn đã thỏa mãn. Kế lại vô-lượng
chúng Bồ-tát từ đất vọt lên phát thệ trì-kinh. Chúng-hội hiện tiền đã viên-ngộ, quần sanh ở vị-lai, cũng sẽ được
bảo-vệ vững-vàng, cho nên đức Như-Lai
vui lòng bèn tận hiện thần-lực mà ấn chứng, và cũng chỉ pháp-giới bình-đẳng cho đương
cơ,
làm cho chúng-hội,
hiện-tiền thấy Phật-cảnh, đương-hạ nhận tịnh-độ, để hiển bày sự lợi-ích của diệu-pháp đã trọn vẹn, Ðức Thế-Tôn sắp sẽ đem gia-nhiệp của Pháp-vương
mà phó chúc vậy.
Chúng Bồ-tát từ đất vọt lên phát thệ làm duyên khải phát đó, chính để chỉ rằng, tánh đức nơi
tự-tâm đầy đủ mới thật là toàn-thể của Pháp-Hoa.
Ðức Như-Lai
liền hiện sức thần-thông khắp thân tất cả chân lông đều phóng ánh sáng soi khắp mười
phương
thế-giới, lưỡi
rộng dài đến trời Phạm-Thế, tiếng vang khắp mười
phương,
cõi đất sáu diệu vang động, đó là toàn thân thổ lộ, triệt để khích dương
vậy. Ðương
hội chư
Phật, tất cả cũng đều phóng ánh-sáng hiện tướng
lưỡi
rộng dài, tiếng vang khắp mười
phương
đó là hiểu rõ nghĩa 'Phật-Phật đạo đồng' vậy.
Thập phương
chúng-sanh đều ở tại cõi mình mà đồng thấy cõi ta-bà, thấy bảo-tháp, thấy các Ðức Như-Lai,
thấy chúng-hội v.v..., đó chỉ rằng: hễ tình-mê cố chấp thời tri-kiến chỉ hạn cuộc trong gang tất, nay nhờ thần-lực của Ðức Phật tình chấp tạm thông nên chỗ thấy triệt thấu.
Thập-phương
xướng
truyền đức Phật, cùng kinh Pháp-Hoa,
chúng-sanh mười phương cũng đồng quy-kính, đó là hiểu nghĩa: Phật, tâm và chúng-sanh cùng tương
ưng,
tất cả mọi loài đồng đủ tự-tánh Phật tri-kiến vậy.
Mười
phương
thế-giới thông-đạt không ngại như
một cõi Phật; chính là soi rỗng pháp-thân chơn-cảnh để tiêu tâm hẹp hòi hữu hạn của sơ-tâm
cùng nhị-thừa vậy.
Thần-lực của đức Phật quảng-đại tự-tại như
thế, mà đức Như-Lai
còn nói rằng: Dầu ta có dùng thần-lực trải qua vô-lượng
vô-biên trăm nghìn muôn ức
vô-số kiếp cũng không hề nói hết công-đức của kinh Pháp-Hoa này, đó
chính bởi vì kinh này gồm nhiếp tất cả pháp của Như-Lai,
tất cả thần-lực của Như-Lai,
tất cả tạng bí-yếu của Như-Lai
cùng tất cả sự-vụ của Như-Lai.
Cũng vì thế nên ý nghĩa của kinh này rất rộng sâu vi-diệu, vì rộng sâu vi-diệu nên khó tin hiểu, vì khó tin khó hiểu nên từ lâu đức Như-Lai
vẫn không tuyên nói, đến nay thời cơ
đã phải lúc nên đức Như-Lai
mới hiển bày.
Vì ý nghĩa
của kinh rộng sâu vô-hạn, nên người
tin hiểu tỏ ngộ phụng-trì diệu-pháp này thời công-đức cũng rộng sâu vô-hạn chẳng thể nghĩ bàn được.
Kinh nói:
'Chư
Phật trụ nơi
đại thần-thông, vì để vui đẹp lòng chúng mà hiện vô-lượng
thần-lực; tướng
lưỡi
đến Phạm-thiên thân phóng vô-số quang-minh... Tiếng tằng-hắng cùng tiếng khảy móng tay của Phật vang khắp cả mười
phương,
cõi đất sáu điệu vang động. Bởi sau khi đức Phật diệt-độ, các Bồ-tát trì được
kinh này, nên các đức
Phật đều vui-mừng hiện vô-lượng
thần-lực...
Sau khi đức Như-Lai
diệt-độ phàm chỗ nào có người
thọ-trì đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này,
đều nên dựng tháp cúng-dường.
Phải biết chỗ đó chính là đạo-tràng, các đức Phật ở nơi
đây chuyển pháp-luân, các đức Phật ở nơi
đây nhập Niết-bàn'.
22.- CHÚC-LỤY PHẨM
Ðức Phật từ trước
đã nhiều phen khai-thị hiển lý đã viên mãn, chúng hội ngộ tự bổn-tâm đã thấu đáo, lòng tín-giải đã chơn,
như
thế thời chơn-nhơn
thành Phật đã đầy đủ. Vô-lượng
đại Bồ-tát thệ quyết dốc lòng trì-kinh ở vị-lai, đức Như-Lai
đã hiện đại thần-thông ấn chứng để cho tâm-chí kia vững chắc. Ðến đây, đức Như-Lai
đem kinh này hai ba phen đinh ninh thận trọng
phó thác dặn dò các đại Bồ-tát gắng-gỗ hộ-trì ở tương-lai
để cho Phật-chủng khỏi tổn dứt. Nếu có thể hộ-pháp lợi sanh thời là báo ơn
các đức Phật.
kinh nói:
'Bấy giờ đức Phật từ pháp-tòa đứng dậy hiện đại thần-lực, lấy tay hữu xoa đảnh của vô-lượng
đại Bồ-tát mà bảo rằng: Ta trải qua vô-lượng
trăm nghìn muôn ức
vô-số-kiếp, tu tập pháp vô-thượng
khó đặng này nay đem phó-chúc cho
các ông, các ông phải
dốc lòng thọ-trì đọc tụng tuyên nói rộng truyền pháp này làm cho tất cả chúng-sanh đều đặng nghe biết...:'
Các ông nếu đặng như
vậy thời là đã báo ơn
các đức Phật...
Từ phẩm 'Chúc-lụy' này về trước
gồm có 11 phẩm thuộc về phần 'ngộ Phật-tri-kiến'. Sau khi nhờ đức Như-Lai
chỉ thị Pháp-thân chơn-cảnh trong phần 'thị Phật-tri-kiến' mà đặng tỏ ngộ, lần đến phẩm 'dũng xuất', 'thọ-lượng'
chỗ tỏ ngộ mới chơn,
đến phẩm 'thần-lực' chỗ tỏ ngộ được
viên-cực, mà phẩm 'chúc-lụy' là ngộ-trì hoàn mãn vậy. 'Ngộ Phật-tri-kiến' tức là ngộ tự-pháp-thân tự-pháp-thân chính là thể-tánh bình-đẳng, chúng-sanh và Phật vẫn đồng, mình người
không khác.
Mình người
đã đồng không khác, thời người
tức là mình do đây mà có sự trì kinh ở vị-lai. Trì từ nơi
ngộ mà khởi, nên toàn trong phần 'ngộ Phật-tri-kiến' này, phần nhiều nói về việc trì-kinh. Tự-ngộ chính là tự-trì, ngộ tha tức là tha-trì. Trì từ ngộ khởi thời trì mới tinh, ngộ có trì ngộ mới diệu. Như
thế thời tự-độ độ-tha, độ-tha chính là tự-độ, đó là chơn
thật Bồ-tát hạnh vậy.
Gồm cả ba phần: Khai, thị, ngộ, 22 phẩm thuộc về phần 'tín-giải' trong 'tín giải hạnh chứng' đều là hiển lý nên thuộc về 'chơn'
trong 'nhơn-quả'.
IV.- PHẦN NHẬP PHẬT-TRI-KIẾN
23.- DƯỢC-VƯƠNG BỔN-SỰ PHẨM
Từ trước
hiển 'lý' đã viên, nay sẽ hiện hạnh để chỉ rõ 'chứng nhập Phật-tri-kiến' vậy.
Trong phẩm đây nói bổn sự của ngài Dược-Vương
để hiển 'hạnh', chính là chủ ý rằng dầu đã ngộ viên lý, nhưng
vào tục lợi (sanh), ắt cần nhờ (thuốc hay) chỉ quán, phương
(pháp) điều trị, để trị sạch vô minh phiền-não phá ngã-chấp và pháp-chấp, thành 'diệu hạnh', mới có thể thật 'chứng-nhập' vậy.
Tú-Vương-Hoa
trước
đem việc khổ-hạnh của ngài Dược-Vương
hỏi đức Phật, để chỉ rõ rằng: chánh-hạnh của Bồ-tát phải trừ phiền-não vô-minh, mà muốn trừ phiền-não vô-minh phải dứt ngã-chấp và pháp-chấp, muốn trừ hai món chấp ấy phải nhờ định-huệ, muốn có định-huệ phải gắng công nơi
chỉ-quán. Chỉ-quán viên-thành, định-huệ viên-phát không gì thù-thắng bằng nương
kinh Pháp-Hoa.
Ngài Hỉ-Kiến Bồ-tát, tiền thân của Dược-Vương
nhơn
nghe kinh Pháp-Hoa, cần
khổ tinh-hành mà đặng 'hiện-nhất-sắc-thân tam-muội', phá ngã và pháp hai món
chấp, do đâu mà biết hai chấp phá, vì dùng thần lực cúng dường
đức Phật vậy. Do phá pháp-chấp nên đối với pháp được
tự-tại, mà có thể hiện ra các thứ đồ cúng-dường
thù-thắng. Ngã tùy pháp sanh, pháp
chấp phá thời ngã-chấp cũng tùy phá. Thiêu thân
cúng Phật là biểu-tượng
phá pháp-chấp. Hai môn chấp đặng phá đó là nhờ diệu-lực của kinh Pháp-Hoa, để chỉ rõ sự lợi ích của kinh rất thù-thắng phàm người
nào chuyên tinh tu hành theo, không một ai chẳng
đặng thắng quả vậy.
Ngã và pháp
đều có phân-biệt-chấp cùng cu-sanh-chấp. Ban đầu phá hai món phân-biệt-chấp thời lên sơ-địa rốt sau phá hai món
cu-sanh-chấp cứu-cánh thời lên Phật-địa.
Phá xong
hai món chấp phân-biệt bèn là diệu hạnh bước
lên thánh địa Bồ-tát, đến phẩm Dược-Vương
này mới rõ ràng nghĩa đó. Thập-địa Bồ-tát là bực phần-phá hai món chấp cu-sanh, phần thân-chứng Pháp-thân, vì thế nên phán định từ phẩm này về sau thuộc về 'nhập Phật-tri-kiến' vậy.
Trong
Lăng-Già Kinh nói: Bồ-tát
dùng sức chỉ-quán tấn phá hai món chướng,
thiệt chứng chơn-lý.
Bắt đầu từ Sơ-địa đến đệ Thất-địa liền bỏ tàng-thức vào đệ Bát-địa nhẫn đi chứng đặng ba môn ý-sanh thân:
1.- Tam-muội-nhạo-ý-sanh-thân
2.-
Giác-pháp tự-tánh-tánh-ý-sanh-thân
3.- Chủng-loại-cu-sanh
vô-hành-tác-ý-sanh-thân.
Trong phẩm này nói rõ ngài Hỉ-Kiến Bồ-tát mới bắt đầu đặng 'hiện-nhứt-thiết-sắc-thân-tam-muội', thời chính là đệ Bát-địa Bồ-tát đặng món 'tam-muội-nhạo-ý-sanh-thân'. Bởi môn ý-sanh-thân này là
lúc nhập định thời có, lúc xuất định thời không nên gọi là 'Tam-muội-nhạo'.
Hai phẩm kế là 'Diệu-Âm' cùng 'Quan-Âm' theo
thứ tự phối thuộc hai món ý-sanh-thân thứ hai và thứ ba.
Ðược
ba món ý-sanh-thân này thời
là chứng-nghiệm thật-chứng vậy.
24.- DIỆU-ÂM BỒ-TÁT PHẨM
Trong phẩm này, đại ý chỉ rõ do diệu-lực của Pháp-Hoa tam-muội mà thiệt lên đệ Bát-địa, đệ Bát-địa đã chứng 'bình-đẳng chơn-như'
tấn lên đệ Cửu-địa phát 'chơn-như-dụng', sắc-tâm tự-tại đặng như-huyễn-tam-muội, trụ Pháp-Sư
vị, nhẫn đến Ðẳng-Giác, phân thân thuyết pháp khắp mười
phương
để độ sanh, nên gọi 'Diệu-Âm'.
Từ nhục kế cùng bạch hào của đức Như-Lai
đồng phóng quang-minh, nhục-kế là đãnh-tướng
biểu 'quả-giác', bạch hào biểu 'trung-đạo nhơn-tâm',
hai tướng
đồng ánh sáng để biểu lộ nhơn
cùng quả khế-hội.
Cõi nước
tên Tịnh-Quang là biểu thức-tạng thanh-tịnh còn Phật hiệu Tịnh-Hoa-Tú-Vương-Trí
là biểu trí hải thanh-tịnh khế-hội thanh-tịnh khế-hội quả-giác.
Diệu-Âm Bồ-tát diệu khế Phật-tâm cho nên nhơn
cúng-dường
Phật mà đặng vô-lượng
môn tam-muội.
'Ðem quả hội nhơn',
nên quang-minh của
đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật suốt chiếu thân Bồ-tát. Từ thể khởi dụng, nên nguyện qua ta-bà đem nhơn
hội quả nên Bồ-tát muốn qua ra mắt Phật.
Thật hành Phật-sự, chính là dùng vô-tác diệu-lực nên chẳng rời những hoa-sen báu hiện ra trước
núi Kỳ-Xà-Quật.
Diệu-Âm cùng tám muôn bốn nghìn Bồ-tát đồng qua Ta-bà, đó chính là Bồ-tát trụ trong địa vị này, trí thanh-tịnh đã diệu-viên, chuyển tám muôn bốn nghìn trần-lao làm thành tám muôn bốn nghìn diệu-hạnh.
'Ðem nhơn
hiệp quả' nên đảnh lễ hỏi han đức Thế-Tôn, 'Diệu-khế pháp-thân' nên cùng Phật Ða-Bảo ra mắt nhau.
Toàn kinh
Pháp-Hoa này dùng chánh-trí để
lập thể, nên trong 'tự-phẩm', tổng tướng
pháp-giới vừa hiện, thời Ngài Văn-Thù phát biểu, đó là lấy quả-giác làm bổn nhơn-tâm;
nay đã chứng chơn
thỉ-giác nhơn
hiệp nơi
bổn-giác quả, cho nên Diệu-Âm cũng ra mắt Văn-Thù. Diệu nhơn
diệu quả khế hiệp liền có thể hiện thân trong mười
phương
để nói pháp. Tuy loại hiện thân ấy chính là môn 'Giác-Pháp tự-tánh tánh ý-sanh-thân' vậy.
Tùy loại hiện thân trong đây cùng với ứng thân của đức Quán-Thế-Âm khác hẳn nhau, vì đây còn là tác ý
xuất-nhập tam-muội cho nên có qua có lại, còn về Quán-Âm thời là phổ-môn thị hiện không khứ-lai, không xuất nhập vậy.
25.- QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ-MÔN PHẨM
Do Pháp-Hoa
tam-muội mà thỉ giác nhơn
viên, diệu khế bổn-giác quả-hải, hiện-thập-giới-thân, không tư
niệm, không tác-ý mà không chỗ nào không ứng, đây là Thánh-chủng-loại-thân đồng thời đều hiện, là biểu tượng
của 'chủng-loại-cu-sanh
vô-hành-tác-ý-sanh-thân' vậy.
Bởi diệt căn-bổn vô-minh, đại-viên-cảnh-trí bình đẳng hiển hiện cho nên nói rằng: Phổ-môn thị-hiện.
Do ngài
Quán-Âm Ðại-sĩ khi ban sơ
dùng như
huyễn văn-huân, văn-tu kim
(cang) tam-muội, nên sanh-diệt đã diệt, tịch diệt hiện-tiền, bỗng nhiên siêu-việt thế xuất-thế-gian, liền đặng trên cùng mười
phương
chư
Phật đồng một sức từ dưới
cùng lục-đạo chúng-sanh đồng một bi-ngưỡng.
Dùng một thân khắp ứng tất cả, hiện ba mươi
hai tướng,
mười
bốn vô-úy, mười
chín loại thuyết pháp, (tám món nạn, hai điều cầu thảy) đều cảm ứng. Ðây là diệu hạnh viên mãn. Sự thành công của Pháp-Hoa tam-muội diệu-cực nơi
đây, dùng ba món ý-sanh-thân chứng
hạnh thành đức vậy.
Dầu rằng đến đây, diệu-hạnh đã viên, mà còn lo chướng
tập của người
tu-hành đời vị-lai khó điều khó phục, nên kế tiếp sau đây nói ba môn 'da
trì' bèn chắc chắn khắc thành diệu quả, cho nên đến ba phẩm kế thời chung kết pháp hội vậy.
26.- ÐÀ-LA-NI PHẨM
Dầu trước
đả hiển diệu-hạnh, y diệu-hạnh, sẽ thành diệu-quả, ngặt vì tạng thức kín sâu, nhiễm huân đã nhiều kiếp tập-khí tiềm phục nhiều đời nếu không nhờ sức da-trì, để da hộ chỉ quán, chống vững định-huệ, thời khó trừ tận tuyệt, vì thế nên phẩm này cùng hai phẩm kế để hiển biểu tượng
của ba môn da trì.
3 môn da
trì là:
1.- Thần lực da-trì
2.- Pháp lực da-trì
3.- Hiện thân diện ngôn thuyết da-trì
Thần-lực da-trì chính là phẩm này:
Bởi vì thức-tạng là hang vực của hai loại sanh tử rất sâu rất kín. Tập khí tiềm phục trong đó, sức chỉ cùng quán khó có thể vào đến, vào còn không đến được
thời thế nào dứt trừ được,
dứt trừ không được
thời bị nó làm tổn. Do đó nên cần phải nhờ sức tổng trì thần chú để công phạt tập-khí, vì tổng-trì là tâm ấn bí mật của chư
Phật vậy.
Kinh Lăng
Nghiêm nói: 'Nếu người
tu hành tập khí chưa
trừ, nên phải chuyên lòng tụng thần chú của Ta'.
Kinh
Lăng-Già nói: 'Nếu
không dùng thần-lực kiến-lập đó thời đọa vào vọng-tưởng
ác-tri-kiến ngoại đạo ...'
Cho nên từ đệ Thất-địa trở lại mà không da-trì thời lạc ngoại đạo; đệ Bát-địa không da-trì thời trụ nhị-thừa: đệ Cửu-địa đến Ðẳng-giác không da-trì thời không thể nhập Diệu-giác. Cho nên cần phải da-trì vậy.
27.- DIỆU-TRANG-NGHIÊM-VƯƠNG BỔN-SỰ PHẨM
Phẩm này đại-ý hiển bày biểu-tượng
chuyển-thức thành-trí để chỉ rõ môn 'pháp-lực da-trì' vậy.
Diệu-Trang-Nghiêm-Vương
là biểu-tượng
Như-Lai-Tạng tại triền, mà toàn-thể thành đệ bát-thức tâm-vương.
Tịnh-Tạng cùng Tịnh-Nhãn là biểu-tượng
đệ-lục và đệ-thất hai thức có công lực chuyển nhiễm làm cho tịnh.
Tịnh-Ðức phu-nhơn
nhu-thuận nội-trợ, làm biểu-tượng
chỉ-quán nội-huân, trị sạch vô-minh nên gọi Tịnh-Ðức.
Hai người
con xin xuất-gia trước,
đó là đệ-lục cùng đệ-thất hai thức trong khi tu nhơn
đã trước
chuyển thành trí.
Hai người
con chuyển tâm tà của Phụ-vương,
làm cho Phụ-vương
rồi cũng đồng xuất-gia, chính là hiển biểu-tượng
bổn-giác xuất triền vậy.
Sức chỉ cùng quán trong đây, là
Pháp-thân Bồ-tát đặng vô-phân-biệt tâm, tương-ưng
với tri-dụng của chư
Phật, nương
pháp-lực tự nhiên tu-hành, chơn-như
nội-huân diệt vô-minh cho nên gọi là pháp-lực da-trì vậy.
28.- PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT KHUYẾN PHÁT PHẨM
Trong phẩm này đại-khái chỉ rõ 'hạnh' thành 'đức', chính là môn 'hiện-thân-diện-ngôn-thuyết da-trì' vậy.
Kinh
Pháp-Hoa này dùng chánh-trí lập
thể, cho nên đầu tiên ngài Văn-Thù phát thỉ, để chỉ nghĩa 'khai thị Phật-tri-kiến'. Mà kinh này lại dùng 'hạnh' thành 'đức' cho nên ngài Phổ-Hiền thành-chung, để rõ nghĩa 'nhập Phật-tri-kiến'.
Phổ-Hiền có hai:
1.- Ðạo-tiền Phổ-Hiền, thuộc nhơn-hạnh,
2.- Ðạo-hậu Phổ-Hiền, thuộc quả-đức.
Hạnh khắp pháp-giới là 'Phổ', ngôi kề Ðại-Thánh là 'Hiền', đây là ngôi hạnh của bậc Ðẳng-Giác Bồ-tát thuộc 'nhơn'.
Xứng chơn-pháp-giới là 'Phổ', cứu vớt muôn loài là 'Hiền', đây là Diệu-Giác thuộc 'quả'.
Bởi Phổ-Hiền đây là toàn-thể pháp-giới, là nguyện thân trong mười
thân của đức Tỳ-Lô-Giá-Na. Cho nên Bồ-tát nương
toàn thể pháp-giới tu-hành rồi chứng pháp-thân chơn-thể, cho nên có câu 'Không có
gì chẳng từ pháp-giới lưu
ra, không có gì chẳng
trở về pháp-giới'.
Bồ-tát nhơn
hạnh đã viên, đến bực Ðẳng-Giác mà còn phải da-trì, đó là vì sao, bởi đến bực này tất phải nhờ Quả-Giác tiếp-hộ mới đặng nhập Diệu-Giác.
Cho nên Phổ-Hiền Bồ-tát là chung kết chứng nhập vậy.
Người
tu-hành nếu được
nguyện-lực của ngài Phổ-Hiền thủ-hộ ắt thọ-trì đặng kinh này. Vì thế nên ngài hỏi đức Thế-Tôn như
thế nào mà có thể đặng kinh này. Ðức Thế-Tôn nói thành tựu bốn pháp thời đặng kinh Pháp-Hoa này.
Bốn pháp là:
1.- Các đức Phật hộ niệm.
2.- Vun trồng cội công-đức.
3.- Vào vị chánh-định.
4.-
Phát-tâm cứu-hộ tất-cả chúng-sanh.
Bốn pháp này cùng ba món
'Tín-thành-tựu' trong luận Khởi-Tín rất đồng. Luận nói:
1.- Trực-tâm, vì chánh niệm chơn-như
pháp vậy. Trong kinh đây nói: 'Chư
Phật hộ niệm'.
2.- Thâm-tâm,
vì ưa
chứa nhóm tất cả cả công-đức lành vậy. Trong kinh đây nói vun
trồng
cội công-đức.
3.- Ðại-từ-bi tâm, vì muốn cứu khổ cho tất cả chúng-sanh vậy. Trong kinh đây nói: phát
tâm cứu-độ tất cả chúng-sanh.
Trong luận lại nói: 'Tín-tâm thành-tựu đặng phát tâm như
thế, đó thời vào chánh-định tụ vậy'.
Trong phẩm khuyến-phát này là hiển nghĩa chứng nhập, mà lại nói tín-thành-tựu đó, là vì ban sơ
do ngài Văn-Thù phát tín nương tín sanh giải, nương
giải phát hạnh, hạnh khởi giải tuyệt thành chứng nhập, chính là viên-mãn thành
tựu tín-tâm vậy. Nên có câu 'Phát-tâm
cùng cứu-cánh, hai mà không khác,
hai tâm như thế
tâm trước
khó'. Do những nghĩa trên đây, nên cần phải nhờ Phổ-Hiền khuyến-phát đặng bốn pháp thời tất đặng kinh này.
Trong Khởi-Tín luận y nơi
tối-sơ
phát tâm mà nói ba tâm. Còn kinh này ước nghĩa thành-tựu mà nói bốn pháp, cho nên luận là ở ban đầu mà kinh là ở rốt sau vậy.
Phàm có người
đúng pháp thọ-trì kinh này, ngài Phổ-Hiền Bồ-tát liền tự hiện thân, đó là hiện-thân diện ngôn-thuyết-da-trì, có da-trì thời chắc chắn chứng-quả, cho nên phần này cũng thuộc về phần 'nhập Phật-tri-kiến'.
Một 'đại-sự-nhân-duyên' của đức Phật hiện ra nơi
đời là muốn làm cho chúng-sanh: khai
phát, chỉ-thị ngộ-trì, chứng-nhập Phật-tri-kiến. Trong 6 phẩm trên đây, 3 phẩm trước
nhơn
nơi
hạnh khắc quả, thành-tựu ba môn 'ý-sanh-thân', ba
phẩm sau dùng ba môn 'da-trì'
thủ hộ thời quả-địa chắc chắn chứng thành, như
thế thời phần 'nhập Phật-tri-kiến' đã hoàn mãn, 'đại-sự' ra đời của đức Phật cũng cáo thành, nên vào lưu
thông để chung kết 'Diệu-Pháp Liên-Hoa đại hội'.
KINH
ĐẠI THỪA
VÔ LƯỢNG NGHĨA
PHẨM ĐỨC HẠNH
THỨ NHẤT
Chính tôi
được nghe, một thời bấy giờ, đức Phật cùng với chúng đại Tỳ kheo
một vạn hai
ngàn người đều hội họp ở trong
núi Kỳ Xà Quật, nơi thành Vương
Xá. Các vị Bồ Tát và đại Bồ Tát tám
vạn người, cùng với bộ Thiên, bộ Long,
Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà. Các vị Tỳ kheo,
Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di
cũng đều hội họp trong
đó. Vua đại Chuyển Luân,
vua tiểu Chuyển Luân,
vua Kim Luân, vua Ngân Luân, cùng các vua Luân khác. Các vị quốc vương, vương tử; các
hàng quốc thần, quốc dân, quốc sĩ, quốc nữ; các đại trưởng giả trong nước cùng với họ hàng số đông
hàng trăm ngàn muôn, đều cùng
nhau tự đi đến chốn Phật, đầu mặt lễ dưới chân,
nhiễu trăm
nghìn vòng, đốt hương rải hoa và
các món cúng dường khác.
Khi cúng dường xong
thì ngồi lui về một bên.
Các vị Bồ Tát tên là: Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử, Đại Oai Đức Tạng Pháp vương tử, Vô Ưu Tạng Pháp vương tử, Đại Biện Tạng Pháp vương tử; Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Đạo Thủ, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng, Bồ Tát Hoa
Tràng, Bồ Tát Hoa
Quang, Bồ Tát Đà
La Ni Tự Tại Vương, Bồ Tát Quán
Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bảo Ấn Thủ, Bồ Tát Bảo Thượng, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Tỳ
Ma Bạt La, Bồ Tát Hương Tượng, Bồ Tát Đại Hương Tượng, Bồ Tát Sư Tử Hống Vương, Bồ Tát Sư Tử Du Hí, Bồ Tát Sư Tử Phấn Tấn, Bồ Tát Sư Tử Tinh Tấn, Bồ Tát Dũng
Duệ Lực, Bồ Tát Oai
Mãnh Phục, Bồ Tát
Trang Nghiêm, Bồ Tát Đại Trang
Nghiêm, v.v...
Những vị Bồ Tát và đại Bồ Tát tám
vạn người cũng đều đến tề tựu. Các
vị Bồ Tát nầy, ai nấy đều là pháp
thân Đại sĩ, đã
được thành
giới, định, huệ, giải thoát,
giải thoát
tri kiến, nơi tâm thiền tịnh lặng lẽ, thường ở trong cảnh chánh
định an
nhiên điềm đạm, không
có sợ hãi, là
bậc vô lậu, vô dục, không
còn điên đảo loạn tưởng. Tịnh tĩnh lắng trong,
chí huyền diệu lâng
lâng, giữ chí bất động, hàng
trăm nghìn muôn ức kiếp bao
nhiêu pháp môn đều hiện rõ ở trước. Được trí huệ lớn, thông
suốt các
pháp, phân biệt rõ
ràng, tánh, tướng chơn thực, không
có vắn dài, tỏ rõ phân
minh.
Lại hay biết mọi căn
tánh khéo léo, dùng môn tổng trì vô
ngại biện tài của chư Phật chuyển xe diệu pháp mà
tùy thuận những người năng
chuyển. Trước hết, vẩy giọt nước pháp để tưới tắt dục trần; mở cửa Niết bàn, quạt gió giải thoát
trừ mọi nhiệt não nơi đời, được mọi pháp
mát mẻ. Thứ lại, ban
cho mười hai món
nhân duyên rất sâu để gột rửa vô minh,
cho đến già, bệnh, chết, v.v...
đốt cháy bập bùng;
Những sự khổ não gom
góp như ánh sáng
mặt trời vừa mới tụ lại.
Pháp Đại thừa Vô Thượng làm
cho chúng sanh được thấm nhuần; những nơi có thiện căn thì
đều gieo hạt giống tốt ở khắp các ruộng công đức và đều khiến cho
phát khởi mầm mống Bồ Đề. Lấy trí huệ làm ngày
tháng, lấy phương tiện làm thời tiết mà giúp
cho sự nghiệp Đại thừa thêm lớn, khiến cho ai
nấy chóng
thành ngôi Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác. Thường trụ yên vui ở chốn vi diệu chơn thật, dùng
vô lượng đại bi cứu khổ chúng
sanh.
Những chúng
sanh đó là chơn thiện tri thức; những chúng
sanh đó là ruộng phước tốt lớn; những chúng
sanh đó là bậc thầy không
phải cầu thỉnh; những chúng
sanh đó là chốn vui vẻ yên ổn, là nơi cứu độ, là nơi giúp đỡ, và là nơi nương tựa lớn.
Nơi nơi đều vì
chúng sanh làm đại lương đạo, làm đạo sư, làm đại đạo sư; hay làm
nhãn mục cho những chúng
sanh mù lòa; hay làm tai, mũi, lưỡi cho những người câm, ngọng, điếc.
Những kẻ mọi căn hư thiếu thì đều khiến cho được đầy đủ.
Làm đại chánh
niệm cho những kẻ điên cuồng hoang
loạn; làm
thuyền trưởng và đại thuyền trưởng vận tải chúng
sanh qua bể khổ sanh tử đến bờ Niết bàn;
làm bậc Y vương và đại Y vương phân
biệt từng bệnh tướng, hiểu rõ tánh
dược, tùy bệnh cho
thuốc, khiến cho
chúng sanh thích uống; là bậc Điều ngự và đại Điều ngự, không
làm mọi việc buông
lung.
Ví như người quản tượng, hay
điều phục khéo
léo những loài
voi mà không ai điều phục nổi; làm sư tử mạnh mẽ có oai đức điều phục những loài
thú khác mà không nát hoại; làm Du
Hí Bồ Tát dùng
các pháp Ba la mật ở chốn đức Như Lai kiên
cố bất động, an trụ vào nguyện lực rộng tịnh cõi Phật, chẳng bao
lâu được thành
ngôi Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác. Các vị Bồ Tát và đại Bồ Tát đó,
đều có công
đức bất khả tư nghì như thế.
Các vị Tỳ kheo ở trong
pháp hội nầy tên là:
Đại trí Xá
Lợi Phất, Thần thông Mục Kiền Liên,
Tuệ mạng Tu Bồ Đề, Ma ha
Ca Chiên Diên, Di Đà La Ni Tử, Phú Lâu
Na, A Nhã Kiều Trần Như, Thiên
nhãn A Na Luật, Trì luật Ưu Ba Li,
Thị giả là ông A
Nan, Phật tử La Vân Ưu Ba Nan
Đà, Ly Bà Đa, Kiếp Tân Na,
Bạc Câu La,
A Chu Đà Sa Già Đà; Đầu đà Đại Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca
Diếp, Già Da
Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp.
Những vị Tỳ kheo
như thế một muôn
hai ngàn người đều là bậc A la
hán, đã được giải thoát
chơn chánh hết mọi kiết sử lậu hoặc, không
còn bị ràng buộc chấp trước.
Bấy giờ ngài Đại Trang
Nghiêm Bồ Tát Ma
Ha Tát quan sát khắp hết tòa ngồi ai nấy đều đã tịnh ý rồi, thì
cùng với tám vạn vị Bồ Tát Ma
Ha Tát ở trong
chúng, đều từ tòa ngồi đứng dậy đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ dưới chân Phật, rồi nhiễu trăm
nghìn vòng, và đốt hương rải hoa cõi
trời, dâng
áo cõi trời, tràng
anh lạc cõi trời, ngọc vô giá
cõi trời, từ trong hư không dần dần rơi xuống bốn phương như mây tụ lại mà dâng
cúng đức Phật. Các
thức ăn trời đựng trong
bình bát cõi trời, trăm vị thơm ngon
cõi trời đều tràn đầy sung
mãn. Mỗi khi thấy sắc, ngửi hương thì tự nhiên no
đủ. Phướn trời, phan
trời, tán lọng cõi trời, nơi nơi đặt bày nhạc cụ vi diệu cõi trời, và ở chốn đức Phật hòa tấu nhạc trời để dâng
cúng. Liền ở trước Phật quỳ gối chấp tay, ai nấy một lòng đồng thành nói kệ khen ngợi rằng:
Quý hóa thay! Đại thánh, đại ngộ
Không nhiễm nhơ, không đắm dục trần
Đấng Điều ngự, trời, người, tượng, mã
Gió đạo đức thơm tỏa khắp nơi
Trí bình thản lòng lo ngờ tĩnh
Ý diệt vong, tâm thức lâng lâng
Tư tưởng niệm, mộng càng dứt hẳn
Các đại ấm, giới, nhập không còn
Thân nầy chẳng có cũng chẳng không
Chẳng tự, tha, nhân duyên chẳng phải
Chẳng vuông, tròn, cũng không
dài, vắn
Chẳng sanh diệt, chẳng phải ra vào
Chẳng tác vi, chẳng tạo chẳng khởi
Chẳng ngồi nằm, chẳng phải ở, đi
Chẳng động chuyển, cũng không nhàn
tĩnh
Chẳng tiến, thoái, cũng chẳng an, nguy
Không phải thị, phi, không đắc, thất
Không bỉ, không thử, không tiến, lui
Không xanh, không vàng,
không đỏ trắng
Không hồng, không tía, bao màu sắc
Giới, định, huệ, giải tri kiến sanh
Tam minh, lục thông, đạo phẩm phát
Thập lực, từ bi vô úy khởi
Chúng sanh nghiệp tốt nhân duyên sanh
Hiện thân trượng sáu vàng rực rỡ
Đẹp đẽ phương phi chiếu sáng ngời
Tướng đẹp vành trăng ánh mặt trời
Tóc xoáy biếc xanh đầu nhục kế
Mắt sáng gương trong mi mấp máy
Lông mày biếc, thẳng miệng, má vuông
Môi, lưỡi đỏ đẹp như quả đỏ
Răng trắng bốn mươi tựa Kha tuyết
Trán rộng mũi thẳng diện tròn đầy
Ngực nêu chữ vạn ức sư tử
Chân tay mềm mại đủ nghìn khoáy
Nách, tay liền nhau nắm trong ngoài
Bắp vế, ngón tay dài thon thẳng
Da dẻ nhỏ mịn lông xoáy hữu
Gót, gối chẳng hiện âm mã kín
Gân nhỏ xương lăm tựa ruột hưu
Biểu lý trong suốt sạch lâng lâng
Nước trong chẳng nhiễm chút bụi trần
Tất cả ngần ấy băm hai tướng
Tám mươi vẻ đẹp dường nên thấy
Mà thực không tướng, không sắc tướng
Hết thảy có tướng mắt đối không
Cái tướng vô tướng có tướng thân
Thân tướng chúng sanh tướng giống nhau
Hay khiến chúng sanh vui mừng lễ
Dốc lòng thành kính biểu ân cần
Nhân đó ngã mạn, tự cao hết
Thành tựu sắc thân đẹp như thế
Đệ tử chúng con hơn tám vạn
Cùng nhau cúi đầu đều kính lễ
Đấng diệt tư tưởng, tâm ý thức
Điều ngự, ngựa voi vô trước thánh
Cúi đầu nương về pháp, sắc thân
Giới, định, huệ hợp giải tri kiến
Cúi đầu nương về bao tướng đẹp
Cúi đầu nương về khó nghĩ bàn
Tiếng sấm phạm âm vang tám hướng
Nhiệm mầu thanh tịnh rất sâu xa
Tứ đế, lục độ, mười hai duyên
Tùy thuận chúng sanh tâm chuyển nghiệp
Ai nghe mà chẳng mở tâm ý
Dứt hết ràng buộc khổ sanh tử
Người nghe hoặc được Tu đà hoàn
Tư đà, A na, A la hán
Vô lậu, vô vi ngôi Duyên
giác
Vô sanh vô diệt ngôi Bồ Tát
Hoặc được vô lượng Đà la ni
Biện tài vô ngại lời khéo léo
Diễn nói kệ mầu nhiệm sâu xa
Suối pháp trong thảnh thơi tắm gội
Hoặc hóa hiện thần túc bay nhảy
Mình ra vào nước, lửa tự do
Tướng như thế, pháp luân như thế
Thanh tịnh vô biên khó nghĩ
bàn
Chúng con cùng nhau lại cúi đầu
Quy y vào lúc xe pháp chuyển
Cúi đầu nương về tướng Phạm âm
Cúi đầu nương về Duyên, Đế, Độ
Bao nhiêu kiếp xưa đức Thế Tôn
Cần khổ tu tập các đức hạnh
Vì chúng con, trời, người, long, thần
Và hết thảy các loài chúng sanh
Hay bỏ tất cả việc khó bỏ
Của báu, vợ con và thành, nước...
Với pháp trong ngoài không xẻn tiếc
Tủy, não, đầu, mắt đều đem cho
Phụng trì tịnh giới của chư Phật
Dù phải mất mạng chẳng hủy thương
Nếu người do gậy, lại hại thêm
Lời ác nhục mạ đều không giận
Nhiều kiếp ép mình không lười biếng
Đêm ngày nhiếp tâm thường thiền định
Học hết tất cả các đạo pháp
Trí huệ vào sâu căn chúng
sanh
Cho nên nay được sức tự tại
Trong pháp tự tại làm vua pháp
Con lại cùng nhau cúi đầu lạy
Đấng hay làm những việc khó làm.
PHẨM THUYẾT PHÁP
THỨ HAI
Bấy giờ ngài Đại Trang
Nghiêm Bồ Tát Ma
Ha Tát cùng với tám vạn vị Bồ Tát Ma
Ha Tát nói bài kệ khen ngợi Phật rồi, đều bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế
Tôn! Hàng Bồ Tát
chúng con tám vạn người, nay muốn được ở trong
giáo pháp của đức Như Lai, hoặc có chỗ còn phải hỏi han,
không hiểu đức Thế Tôn có rủ lòng thương chỉ giáo cho
chăng?"
Đức Phật bảo Bồ Tát Đại Trang
Nghiêm và tám vạn vị Bồ Tát rằng:
"Hay lắm!
Hay lắm!
Nầy thiện nam tử!
Các ông khéo biết đúng thời, vậy tha hồ các ông
cứ hỏi, Như Lai chẳng bao
lâu nữa sẽ vào Niết
bàn. Sau khi vào Niết bàn rồi, thì đều khiến cho hết thảy ai nấy không
còn nghi ngờ gì nữa.
Vậy ai muốn hỏi chỗ nào thì
nói ngay đi."
Bấy giờ Bồ Tát Đại Trang
Nghiêm cùng tám vạn vị Bồ Tát liền đồng thanh
bạch Phật rằng:
− "Bạch đức Thế
Tôn! Bồ Tát Ma
Ha Tát muốn chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác thì phải tu hành
những pháp
môn nào? Và những pháp
môn nào có thể khiến cho Bồ Tát Ma
Ha Tát chóng được đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác?"
Đức Phật bảo Bồ Tát Đại Trang
Nghiêm và tám muôn vị Bồ Tát rằng:
"Nầy thiện nam tử!
Có một pháp
môn hay làm cho Bồ Tát Ma
Ha Tát chóng được đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác. Nếu có Bồ Tát nào,
học pháp
môn đó thì có thể chóng
thành được đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác."
−“Bạch đức Thế Tôn!
Pháp môn đó tên hiệu là gì?
Nghĩa lý ra sao? Bồ Tát phải tu hành
như thế nào?”
Đức Phật bảo:
"Nầy thiện nam tử! Một pháp
môn đó tên là Vô Lượng Nghĩa, Bồ Tát nào muốn được tu học Vô Lượng Nghĩa đó, thì phải nên
quán sát hết thảy các
pháp, từ trước đến nay,
tánh tướng nó bản lai rỗng lặng, không
lớn, không
nhỏ, không
sanh, không diệt, không
trụ, không động, không
tiến, không
lui, ví như hư không,
không có hai pháp. Chỉ vì chúng
sanh mê chấp lấy cái giả dối, mà cho
là cái nầy, cái
kia, là được, là mất, khởi ra tâm
niệm chẳng lành,
tạo ra mọi điều ác nghiệp, loanh
quanh trong sáu ngả, chịu đủ mọi khổ độc, hàng
vô lượng ức kiếp, mà
không tự biết để tìm lối
ra.
Bồ Tát Ma
Ha Tát, quán sát kỹ lưỡng như thế rồi sanh ra
lòng lân mẫn, phát
khởi ý đại từ bi, hầu mong cứu vớt.
Vả lại, thâm
nhập vào hết thảy các
pháp: Pháp tướng như thế, pháp
sanh như thế; Pháp tướng như thế, pháp trụ như thế; Pháp tướng như thế, pháp dị như thế; Pháp tướng như thế, pháp diệt như thế; Pháp tướng như thế, hay
sanh ra ác nghiệp; Pháp tướng như thế, hay
sanh ra thiện
pháp. Tướng Trụ, Dị, Diệt, kia
cũng lại như thế.
Bồ Tát quán
sát kỹ lưỡng nguồn gốc của bốn tướng như thế, đều biết cả rồi. Thứ lại quán
sát kỹ lưỡng hết thảy các
pháp niệm niệm chẳng ngừng luôn
luôn sanh diệt. Lại quán
sát ngay nơi Sanh,
Trụ, Dị, Diệt. Quán
sát như thế rồi, mà vào
mọi căn
tánh ham muốn của chúng
sanh; vì tánh ham muốn vô lượng, cho
nên thuyết pháp
cũng vô lượng; vì
thuyết pháp vô
lượng cho
nên nghĩa cũng vô lượng. Mà
vô lượng nghĩa
đó, do từ một pháp mà
sanh một pháp,
đó tức là
"vô tướng"
vậy. Vô
tướng như thế, tức là vô tướng mà chẳng tướng, chẳng tướng mà vô
tướng, thì mới gọi là
"thật tướng"
vậy.
Bồ Tát Ma
Ha Tát trụ vào tướng chân
thật như thế rồi thì từ bi phát
khởi rõ ràng
chẳng rối. Đối với chúng
sanh hay đem lòng chân thật cứu khổ, khi đã
cứu khổ cho rồi lại vì những chúng
sanh đó mà nói pháp, khiến cho các
chúng sanh được hưởng khoái
lạc.
Nầy thiện nam tử! Bồ Tát Ma
Ha Tát nếu hay tu
hành được một pháp
môn "Vô Lượng
Nghĩa" như thế, thì tất nhiên
chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác.
Nầy thiện nam tử! "Kinh
Đại Thừa Vô Lượng
Nghĩa" văn lý cao siêu mầu nhiệm như thế, không
có kinh nào là tôn quý hơn. Chư Phật trong
ba đời cũng đều gìn giữ, không
có chúng ma quần đạo nào xâm
nhập vào được, không
bị hết thảy tà kiến sanh tử phá hoại. Vì vậy thiện nam tử! Bồ Tát Ma
Ha Tát muốn chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác, phải nên tu
học kinh Đại thừa rất cao
siêu sâu xa nầy."
Bấy giờ Bồ Tát Đại Trang
Nghiêm lại bạch Phật rằng:
−"Bạch đức Thế
Tôn! Đức Thế Tôn thuyết pháp bất khả tư nghì, mà
căn tánh của chúng
sanh cũng bất khả tư nghì, và
pháp môn giải thoát
cũng bất khả tư nghì;
chúng con ở chốn đức Phật được nghe
nói các pháp thì không còn nghi nan gì nữa, nhưng vì các chúng sanh lại sanh ra
tâm mê hoặc, vì thế, con lại kính hỏi đức Thế Tôn, từ khi đức Như Lai đắc đạo đến nay hơn bốn mươi năm, thường vì
chúng sanh diễn nói các
pháp, nghĩa của bốn tướng:
“Nghĩa của khổ, nghĩa của không,
vô thường, vô
ngã, vô đại, vô tiểu, vô
sanh, vô diệt, nhất tướng, vô tướng, pháp
tánh, pháp tướng bản lai rỗng lặng; không
tới không
lui, không ra không vào.”
Nếu có người được nghe ấy, hoặc giả được pháp
Noãn, pháp Đảnh, pháp
Nhẫn, pháp
Thế đệ nhất, quả Tu đà
hoàn, quả Tư đà hàm,
quả A na
hàm, quả A la
hán, ngôi Bích chi Phật, người phát
tâm Bồ Đề thì lên
ngôi thập địa Bồ
Tát.
Những nghĩa
của các
pháp ngài nói trước kia, so
với những chỗ ngài nói
ngày nay có sai khác chỗ nào
chăng? Mà nói là kinh "Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa" rất cao siêu
mầu nhiệm sâu xa,
Bồ Tát tu
hành ắt chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác, việc đó thế nào,
kính xin đức Thế Tôn rủ lòng
lành thương rộng vì hết thảy chúng
sanh mà phân biệt cho, khắp khiến đời hiện tại và đời vị lai có
ai được nghe
pháp nầy thì
không còn mắc phải lưới nghi ngờ nữa."
Bấy giờ đức Phật bảo Bồ Tát Đại Trang
Nghiêm rằng:
"Hay
lắm!
Phải lắm! Đại thiện nam tử mới có thể hỏi Như Lai
nghĩa Đại thừa rất cao
siêu mầu nhiệm sâu xa
như thế, thì nên
biết rằng ông là
người hay làm
nhiều điều lợi ích cho
cõi nhân, cõi thiên, và cứu bạt khổ não cho
chúng sanh, đúng là đại từ đại bi tin
thật không dối. Vì
nhân duyên ấy mà sẽ chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác, và cũng khiến cho hết thảy chúng
sanh đời nầy, đời sau được thành
Vô Thượng Bồ Đề.
Nầy thiện nam tử! Từ khi Ta đến đạo tràng tới nay,
sáu năm ngồi tư duy ở dưới gốc cây bồ đề được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác. Ta dùng Phật nhãn
xem thấy các
pháp mà không thể nói ra được, là vì
các chúng sanh tánh ham muốn bất đồng, vì
tánh ham muốn bất đồng cho
nên phải dùng hết thảy các sức phương tiện thuyết pháp hơn bốn mươi năm mà
không hiểu được lý chơn thật, cho
nên chúng sanh đắc đạo có sai
khác, mà không được chóng
thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác.
Nầy thiện nam tử!
Giáo pháp cũng ví như nước hay rửa sạch mọi thứ cấu uế; dù là nước giếng, nước ao, nước sông, nước ngòi, nước khe, nước suối hay nước biển lớn cũng đều hay rửa sạch mọi thứ cấu uế, thì nước pháp
cũng giống như vậy. Nó
hay rửa sạch những cấu uế phiền não cho
chúng sanh.
Nầy thiện nam tử! Tánh
của nước kia vẫn chỉ là một, dù là
nước sông, nước ngòi, nước giếng, khe,
suối, bể lớn, tuy đều có
khác, thì pháp tánh kia cũng giống như thế, mà sự công dụng rửa sạch trần lao của nó đều không
sai khác. Bởi vậy ba
pháp, bốn quả, hai đạo chẳng là một ư?
Nầy thiện nam tử! Nước tuy đều là để rửa, mà nó ở giếng chẳng phải ao; ở ao chẳng phải ở ngòi; ở sông, ở khe, ở suối chẳng phải ở bể. Như Lai là bậc đại hùng ở thế gian, ở ngôi
pháp tự tại, diễn nói các
pháp cũng lại như thế, lúc ban
đầu, khoảng giữa và sau
cùng cũng đều hay rửa sạch phiền não cho
các chúng sanh, mà trước chẳng phải khoảng giữa, khoảng giữa chẳng phải khoảng sau;
trước giữa và sau
lời văn nói
ra tuy chỉ là một mà ý
nghĩa đều có sai khác.
Nầy thiện nam tử!
Lúc ban đầu Ta từ chốn Phụ vương, đi đến thành
Ba La Nại, trong
vườn Lộc Uyển, vì các
ông A Nhã Câu Lân năm người; khi
quay bánh xe pháp Tứ đế, cũng
nói các pháp bản lai rỗng lặng, tàn tạ thay đổi không
ngừng. Trong
thời gian ấy, và những nơi chốn khác,
cũng vì các hàng Tỳ kheo, các hàng Bồ Tát, phô bày diễn nói mười hai pháp nhân duyên, sáu pháp Ba la mật, cũng
nói các pháp bản lai rỗng lặng, tàn tạ thay đổi không
ngừng, niệm niệm sanh diệt.
Nay ở nơi đây lại diễn nói
Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
và cũng nói các pháp bản lai rỗng lặng, tàn tạ thay đổi không
ngừng, niệm niệm sanh diệt.
Nầy thiện nam tử! Vì
vậy lời nói ban
đầu, lời nói chặng giữa và lời nói
ngày nay văn tự tuy là một, nhưng ý
nghĩa có khác. Vì ý nghĩa có khác cho nên sự hiểu ngộ của chúng sanh cũng sai khác; vì hiểu ngộ sai khác
cho nên đắc pháp, đắc đạo, đắc quả cũng sai
khác.
Nầy thiện nam tử!
Lúc ban đầu Ta vì
người cầu quả Thanh
văn nói ra pháp Tứ đế, tám ức chư Thiên đi
đến nghe
pháp mà phát tâm Bồ Đề; ở trong khắp nơi khắp chốn vì người cầu ngôi
Bích chi Phật nói ra
pháp mười hai
nhân duyên sâu xa, vô lượng chúng
sanh phát tâm Bồ Đề; hoặc có người trụ vào hàng
Thanh văn; thứ đến nói
kinh Phương Đẳng mười hai bộ kinh,
kinh Đại Bát
Nhã, kinh Hoa Nghiêm, ở nơi không hải diễn nói lịch kiếp tu hành
của các Bồ Tát mà
trăm nghìn Tỳ kheo, muôn ức trời, người, vô lượng chúng
sanh được quả Tu đà
hoàn, quả Tư đà hàm,
quả A na
hàm, quả A La
Hán, trụ vào ngôi
Bích chi Phật ở trong
pháp nhân duyên.
Nầy thiện nam tử!
Vì lấy nghĩa
đó, cho nên biết rằng lời nói đồng nhau
mà ý nghĩa sai khác. Vì ý nghĩa sai khác, cho nên chúng sanh hiểu ngộ khác
nhau, vì chỗ ngộ khác
nhau cho nên đắc pháp, đắc quả, đắc đạo cũng
khác nhau.
Vì thế, nầy thiện nam tử! Từ khi Ta đắc đạo, ban đầu nói
pháp cho đến ngày
nay diễn nói
kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
chưa lúc nào
là không nói thuyết:
"khổ không, vô thường, vô ngã, phi chơn, phi giả, phi đại, phi tiểu, bản lai bất sanh, nay cũng bất diệt, một tướng vô tướng, pháp tướng, pháp tánh, không tới, không lui, mà bốn tướng của chúng sanh thường phải biến thiên."
Nầy thiện nam tử!
Vì lấy nghĩa
đó cho nên chư Phật không
có chỗ nào nói
hai lời, chỉ dùng một âm
thanh để ứng hợp tất cả giọng tiếng và chỉ dùng một thân mà
thị hiện trăm
nghìn muôn ức na do
tha vô lượng, vô số Hằng hà sa
thân; trong mỗi thân một thân lại thị hiện ra bao
nhiêu trăm nghìn muôn ức na do
tha a tăng kỳ Hằng hà sa
chủng loại hình;
trong mỗi một hình lại thị hiện ra bao
nhiêu trăm nghìn muôn ức na do
tha a tăng kỳ Hằng hà sa
hình nữa.
Nầy thiện nam tử!
Đó là cảnh giới rất sâu xa
bất khả tư nghì của chư Phật, chẳng phải chỗ hay biết của hàng nhị thừa, và
cũng chẳng phải chỗ theo kịp của ngôi thập trụ Bồ Tát, chỉ có Phật với Phật mới hay hiểu thấu rốt
ráo.
Nầy thiện nam tử!
Vì thế mà nói
kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
rất cao
siêu mầu nhiệm sâu xa,
văn lý chân chánh, không kinh nào tôn hơn. Chư Phật trong ba đời đều cùng gìn giữ, không có chúng ma ngoại đạo nào xâm
nhập vào được; không
bị hết thảy tà kiến sanh tử làm nát
hoại.
Bồ Tát Ma
Ha Tát nếu muốn chóng được thành đạo Vô Thượng Bồ Đề thì phải tu học kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
rất cao
siêu mầu nhiệm sâu xa
như thế."
Đức Phật nói như thế rồi, khi ấy cõi tam
thiên đại thiên
thế giới sáu lần rung động; tự nhiên ở trong hư không mưa xuống các thứ hoa trời: Hoa
thiên ưu bát la,
hoa bát đàm ma, hoa câu vật đầu, hoa
phân đà lợi.
Lại rải xuống các thứ hương thơm cõi trời, áo đẹp cõi trời, tràng
anh lạc cõi trời, ngọc vô giá
cõi trời, ở trên
không trung vòng quanh rơi xuống cúng dường đức Phật và các
vị Bồ Tát, đại chúng
Thanh văn, món ăn cõi trời, bình
bát cõi trời, trăm vị cõi trời sung
mãn rạt rào;
phan trời, phướn trời, tán lọng cõi trời, những đồ âm nhạc vi diệu cõi trời, bày đặt khắp nơi, hòa tấu nhạc trời để cúng dường và
khen ngợi đức Phật.
Lại nữa những thế giới của chư Phật về phương Đông
như số cát sông
Hằng sáu lần rung động, cũng
rải hoa trời, hương trời, áo trời, tràng
anh lạc cõi trời, ngọc vô giá
cõi trời, món ăn
cõi trời, bình
bát cõi trời, trăm vị thơm ngon
cõi trời, phan
trời, phướn trời, tán lọng cõi trời, những đồ âm nhạc vi diệu cõi trời, đặt ở khắp nơi để hòa tấu cúng dường và
khen ngợi đức Phật kia, và
các vị Bồ Tát, đại chúng
Thanh văn cõi đó. Phương Nam,
phương Tây,
phương Bắc, bốn phương bàng,
và phương trên,
phương dưới cũng đều như thế.
Bấy giờ trong đại chúng
có một muôn
hai nghìn vị Bồ Tát Ma
Ha Tát được Vô Lượng Nghĩa
tam muội, một muôn bốn nghìn vị Bồ Tát Ma
Ha Tát được vô lượng vô số Đà la ni
môn, có thể chuyển hết thảy xe pháp
bất thoái
chuyển của tam thế chư Phật. Còn
các vị Tỳ kheo,
Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di,
bộ Thiên, bộ Long, quỉ Dạ xoa, Càn
thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la,
Ma hầu la dà,
vua Đại chuyển luân,
vua Tiểu chuyển luân,
vua Ngân luân, vua Thiết luân,
và các vị vua Luân
khác. Các vị quốc vương, vương tử, quốc thần, quốc dân, quốc sĩ, quốc nữ, các đại trưởng giả trong nước và các
họ hàng
trăm nghìn muôn người đều tề tựu nghe Phật nói
pháp.
Khi nghe
nói kinh nầy rồi, hoặc có người chứng được pháp
Noãn, pháp Đảnh, và
pháp Thế đệ nhất; quả Tu
đà hoàn, quả Tư đà hàm,
quả A na
hàm, quả A la
hán, ngôi Bích chi Phật.
Lại chứng được Bồ Tát vô
sanh pháp nhẫn lại được một Đà la
ni, hai Đà la ni, ba Đà la ni, bốn Đà la
ni, năm Đà la ni, sáu bảy tám
chín mười Đà la
ni; lại được trăm
nghìn muôn ức Đà la
ni; lại được vô lượng vô số Hằng hà sa
a tăng kỳ Đà la ni, đều hay tùy
thuận chuyển xe pháp
bất thoái
chuyển, và vô
lượng chúng
sanh phát tâm Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác.
PHẨM MƯỜI CÔNG ĐỨC
THỨ BA
Bấy giờ ngài Đại Trang
Nghiêm Bồ Tát Ma
Ha Tát lại bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế
Tôn! Đức Thế Tôn nói
kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
rất cao
siêu mầu nhiệm, rất sâu xa
chân thật, và rất sâu xa
tuyệt vời.
Sở dĩ vì
sao? Trong chúng nơi đây,
các vị Bồ Tát Ma
Ha Tát, và hàng Tứ chúng,
các bộ Thiên, bộ Long,
các quỉ thần, v.v...
các vị quốc vương, các
quan đại thần, và người dân thứ; có các
chúng sanh được nghe
kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
này, không ai là không phát tâm Bồ Đề, chứng được Đà la ni môn, tam pháp, tứ quả, thì nên
biết pháp đó
văn lý chân thật không
có pháp nào tôn hơn; được tam thế chư Phật gìn giữ, không bị chúng ma
quần đạo xâm nhập vào được, không
bị hết thảy tà kiến sanh tử làm nát
hoại.
Sở dĩ vì
sao? Vì người được nghe một câu thì
hay giữ được hết thảy các
pháp. Nếu có
chúng sanh nào được nghe
kinh nầy thì người đó được lợi ích rất lớn. Vì
sao? Vì người đó nếu hay tu
hành tất sẽ chóng được thành đạo Vô Thượng Bồ Đề. Còn
có những chúng
sanh chẳng được nghe
kinh nầy, thì
nên biết những chúng
sanh đó làm mất lợi ích lớn.
Qua vô lượng vô
biên bất khả tư nghì a
tăng kỳ kiếp quyết chẳng được thành đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Tại vì
sao? Vì những người ấy chẳng biết đi thẳng đến đạo Vô Thượng Bồ Đề, lại đi vào
đường tắt hiểm trở mắc nhiều tai nạn.
−Bạch đức Thế
Tôn! Kinh điển nầy là bất khả tư nghì,
cúi xin đức Thế Tôn rộng vì đại chúng rủ lòng
lành thương, diễn nói những việc rất sâu xa
bất khả tư nghì của kinh nầy.
−Bạch đức Thế
Tôn! Kinh điển nầy do từ nơi nào tới? Sẽ đi về nơi nào? Và
trụ ở nơi chốn
nào? Mà có vô lượng năng lực bất khả tư nghì như thế?
Khiến cho
chúng sanh chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác."
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Đại Trang
Nghiêm rằng:
"Nầy thiện nam tử!
Hay lắm!
Phải lắm. Đúng thế, đúng thực như lời ông
nói.
Nầy thiện nam tử!
Ta nói kinh nầy rất cao
siêu mầu nhiệm, rất chân thật sâu xa
là tại vì
sao? Là vì muốn cho hết thảy chúng
sanh chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác. Người nghe một câu có
thể thọ trì được tất cả các
pháp; vì các chúng sanh mà làm lợi ích lớn; vì đi
trên con đường thẳng lớn, không
còn vướng mắc tai nạn gì nữa.
Nầy thiện nam tử!
Ông hỏi kinh nầy do từ nơi nào mà
tới? Sẽ đi về nơi nào? Và
trụ ở chốn nào? Vậy ông hãy
lắng nghe
cho rõ, Ta sẽ nói cho
nghe.
Nầy thiện nam tử!
Kinh nầy vốn từ trong
nhà chư Phật mà ra,
đi đến chỗ hết thảy chúng
sanh phát tâm Bồ Đề, và trụ ở nơi các Vị Bồ Tát sở trụ.
Nầy thiện nam tử!
Kinh nầy đến là như thế, đi là
như thế, và trụ là như thế.
Vì vậy cho nên
kinh nầy hay có
vô lượng năng lực bất khả tư nghì
công đức khiến cho
chúng sanh chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ Đề.
Nầy thiện nam tử!
Há ông có muốn được nghe
kinh nầy lại
có mười năng lực bất khả tư nghì công đức chăng?"
Bồ Tát Đại Trang Nghiêm
bạch Phật rằng:
−"Bạch đức Thế
Tôn! Con muốn được nghe lắm."
Đức Phật bảo:
"Nầy thiện nam tử!
Kinh nầy:
- Một là, hay khiến cho các Bồ Tát chưa phát tâm, thì phát tâm Bồ Đề; không có lòng nhân từ, thì khởi ra lòng nhân từ; người hay sát hại, thì khởi ra tâm đại bi; người hay ghen ghét, thì khởi ra tâm tùy hỷ; người tham ái chấp trước, thì khởi ra tâm hỷ xả; người xẻn tham, thì khởi ra tâm bố thí; người kiêu mạn nhiều, thì khởi ra tâm giữ giới; người giận dữ nhiều, thì khởi ra tâm nhẫn nhục; người hay lười biếng, thì khởi ra tâm tinh tấn; người hay tán loạn, thì khởi ra tâm thiền định; với người si mê, thì khởi ra tâm trí huệ; người chưa hay độ người, thì khiến cho phát tâm độ người; người hay làm thập ác, thì khiến cho phát tâm làm thập thiện; người tu pháp hữu vi, thì khiến cho chí cầu đạo vô vi; người tâm có thoái chuyển, thì khiến cho tâm bất thoái; người làm hạnh hữu lậu, thì khiến cho phát tâm vô lậu; người nhiều phiền não, thì khiến cho phát tâm trừ diệt.
Nầy thiện nam tử! Đó
là năng lực thứ nhất bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ hai bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu có chúng sanh nào được nghe kinh nầy rồi, dù chuyển đọc một lượt, một bài kệ cho đến một câu thì có thể thông đạt trăm nghìn muôn ức nghĩa.Đến vô số kiếp thường hay diễn nói những pháp đã thọ trì.Vì sao? Vì pháp đó là Vô Lượng Nghĩa vậy.
Nầy thiện nam tử!
Kinh nầy cũng ví
như từ một hạt giống mà
phát sanh ra trăm nghìn muôn; trong trăm nghìn muôn hạt giống kia,
thì mỗi một hạt lại phát
sanh ra hàng trăm nghìn muôn nữa.
Cứ như thế dần dần cho đến vô lượng, thì
kinh nầy cũng lại như thế.
Từ một pháp
sanh ra trăm nghìn nghĩa; trong trăm nghìn nghĩa, thì mỗi một nghĩa lại sanh ra
trăm nghìn muôn số, cứ thế dần dần cho đến vô lượng vô
biên nghĩa. Vì vậy, cho
nên kinh nầy gọi là Vô Lượng
Nghĩa.
Nầy thiện nam tử!
Đó là năng lực thứ hai bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy.
Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ ba bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu có chúng sanh nào được nghe kinh nầy, dù chuyển đọc một lượt, một bài kệ cho đến một câu, thông đạt trăm nghìn muôn ức nghĩa rồi.Tuy có phiền não thì cũng như không có phiền não, ra vào chốn sanh tử không có tư tưởng sợ sệt; đối với chúng sanh thì sanh ra tư tưởng thương xót; đối với nhứt thiết pháp thì được tư tưởng mạnh mẽ; như người tráng sĩ hay mang hay giữ những món nặng nề, người trì kinh nầy cũng lại như thế, hay gánh trọng trách của đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề; hay mang đội chúng sanh ra khỏi đường sanh tử. Tuy chưa độ được mình mà đã hay độ cho người.
Ví như thuyền trưởng, tuy
mình mắc bệnh nặng, bốn thể chẳng đều, yên
nghỉ ở bờ bên đây;
nhưng có
thuyền bè bền chắc, và thường sắm những dụng cụ để cung cấp cho mọi người đi sang
qua bờ bên
kia. Người trì kinh
nầy cũng lại như thế, tuy
thân nầy còn vướng mắc mọi nghiệp hữu lậu nơi ngũ đạo; một trăm
nghìn tám bệnh nặng nó thường hằng ràng
buộc ở bờ bên nầy là:
"Vô minh già chết",
mà có kinh Đại thừa bền chắc nầy, trang
biện Vô Lượng Nghĩa
để cứu độ chúng
sanh. Nếu chúng
sanh theo đúng lý thuyết mà tu
hành, thì được qua khỏi chốn sanh tử.
Nầy thiện nam tử!
Đó là năng lực thứ ba bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy.
Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ tư bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu có chúng sanh nào được nghe kinh nầy dù chuyển đọc một lượt, dù một bài kệ, cho đến một câu thì được tư tưởng mạnh mẽ.Tuy chưa độ mình mà có thể độ cho người khác, và cùng các Bồ Tát để làm thân thuộc.Chư Phật Như Lai thường hướng về người ấy mà diễn nói kinh pháp; người ấy nghe rồi đều hay thọ trì, thuận theo chẳng trái, rồi lại vì người khác mà tùy nghi diễn nói rộng ra.
Nầy thiện nam tử!
Người đó cũng
ví như vị phu nhân
của nhà vua
mới sanh ra
thái tử, dù mới được một ngày,
hai ngày, cho đến bảy ngày;
dù một tháng,
hai tháng, cho đến bảy tháng;
dù là một năm,
hai năm, cho đến bảy
năm. Tuy còn thơ ấu chẳng hay
lãnh trị quốc sự, mà đã được thần dân
sùng kính, và cùng với các con
vua khác kết làm bằng hữu.
Vua và
phu nhân thường nói với nhau là
lòng rất mến yêu
không chút thiên vị. Sở dĩ vì
sao? Vì nó hãy còn thơ ấu.
Nầy thiện nam tử! Người trì
kinh nầy cũng lại như thế. Chư Phật là quốc vương, kinh
nầy là phu
nhân, hòa hợp cùng
nhau sanh ra con là Bồ
Tát. Nếu Bồ Tát đó được nghe
kinh nầy, dù là
một câu hay
một bài kệ, dù chuyển đọc một lượt, hai lượt; dù là
mười lượt, trăm lượt, cho đến muôn ức vạn Hằng hà sa
vô lượng vô số. Tuy
lại chẳng hay thể nhập vào được chân lý
cao siêu, và chẳng hay
làm chấn động được ba
nghìn đại thiên
quốc độ, tiếng phạm như sấm vang,
chuyển xe đại pháp;
nhưng đã được tất cả bốn chúng,
tám bộ kính
tin, và cùng các đại Bồ Tát làm
quyến thuộc thâm nhập vào
pháp bí mật của chư Phật. Những chỗ nên diễn nói ra
thì không trái không lỗi, thường được chư Phật hộ niệm, vì kẻ tân học cho nên
đem lòng từ ái che
chở thêm nhiều.
Nầy thiện nam tử! Đó
là năng lực thứ tư bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ năm bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, có người thọ trì, đọc tụng, viết chép kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa rất cao siêu mầu nhiệm nầy, người đó tuy lại bị đủ mọi phiền não ràng buộc, cũng chưa thể xa lìa mọi việc của phàm phu, mà lại hay thị hiện đạo Đại Bồ Đề thêm một ngày cho là một trăm kiếp, trăm kiếp cũng có thể chóng như một ngày, khiến cho các chúng sanh kia vui mừng tin theo.
Nầy thiện nam tử!
Người thiện nam,
thiện nữ đó cũng
ví như là Long
tử mới sanh được bảy ngày, tức là cũng
có thể làm cho
mây nổi lên và
cũng có thể làm cho
mưa xuống.
Nầy thiện nam tử! Đó
là năng lực thứ năm bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ sáu bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ mà thọ trì, đọc tụng kinh điển nầy, tuy bị đủ mọi phiền não mà vẫn vì chúng sanh nói pháp, khiến cho họ xa lìa phiền não dứt hết nỗi khổ sanh tử. Chúng sanh nghe rồi tu hành đắc pháp, đắc quả, đắc đạo, cùng với chư Phật Như Lai đều không sai khác.
Ví như con vua
tuy còn thơ ấu, nếu khi nhà
vua đi tuần du hay
khi bị bệnh thì
nhà vua ủy thác
cho thái tử lãnh trị việc nước.
Thái tử khi ấy y theo
mệnh lệnh của vua,
theo đúng như pháp
truyền lệnh cho
các quần thần, bá
quan văn võ, đem chánh hóa đi truyền dạy cho nhân dân khắp nước, đều tùy theo đó mà an định.
Cũng như lúc nhà
vua cai trị đều không
sai khác.
Người thiện nam,
thiện nữ thọ trì kinh
nầy cũng lại như thế, dù khi
Phật còn tại thế, hay sau
khi Phật diệt độ.
Người thiện nam,
thiện nữ nầy tuy chưa được trụ ở nơi ngôi Sơ địa bất động, nhưng y theo
đúng lời Phật dạy dùng để thuyết giáo
phô diễn. Chúng
sanh nghe rồi một lòng tu
hành để đoạn trừ phiền não mà
đắc pháp, đắc quả, cho đến đắc đạo.
Nầy thiện nam tử!
Đó là năng lực thứ sáu bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ bảy bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, được nghe kinh nầy mà vui mừng tin theo, lại hay phát khởi tâm hy hữu, mà thọ trì, đọc tụng, giải nói, viết chép, theo đúng lý thuyết tu hành, phát tâm Bồ Đề khởi ra mọi căn lành, gây ý đại bi muốn cứu độ cho hết thảy chúng sanh khổ não mà chưa được tu hành sáu pháp ba la mật, thì sáu pháp ba la mật tự nhiên hiện ra ở trước, và ở ngay thân nầy được vô sanh pháp nhẫn.Sanh tử phiền não nhứt thời tan hoại, được lên ngôi Thất địa đại Bồ Tát.
Ví như người tráng
sĩ trừ dẹp giặc oán cho
nhà vua; khi giặc oán kia
đã dẹp xong,
thì nhà vua rất vui mừng liền đem cả nửa nước mà ban
thưởng
cho. Người thiện nam,
thiện nữ thọ trì kinh
nầy cũng lại như thế, vì vậy người hành giả rất là mạnh mẽ Lục độ Pháp bảo không
phải tìm cầu đâu xa
mà tự nhiên đến, giặc oán
sanh tử cũng tự nhiên
tan biến, mà chứng quả vô sanh
pháp nhẫn, nửa nước báu cõi
Phật phong
thưởng cho được an
vui.
Nầy thiện nam tử! Đó
là năng lực thứ bảy bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ tám bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, có người nào hay được nghe kinh nầy, mà kính tin coi như thân Phật đều không có khác. Ham thích kinh nầy mà thọ trì, đọc tụng, viết chép, đầu đội kính mến theo như pháp vâng làm, kiên trì giới hạnh, nhẫn nhục, gồm làm những việc bố thí, phát tâm từ bi sâu rộng. Lại đem kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa cao siêu nầy, vì người diễn nói rộng ra. Nếu những người đến trước mà họ đều chẳng tin là có tội phước ấy, thì đem kinh nầy chỉ bảo cho họ, rồi bày ra các thứ phương tiện khuyến hóa cho họ tin theo. Dùng oai lực của kinh nầy khiến tâm người đó được sáng tỏ mà quay về chánh đạo; khi lòng tin của họ đã phát khởi thì dõng mãnh tinh tấn. Vì vậy người hay được nghe kinh nầy là có uy đức, thế đức, đắc đạo, đắc quả.
Cho nên
người thiện nam,
thiện nữ, vì nhờ công đức giáo
hoá mà người thiện nam thiện nữ kia ở ngay
thân nầy được vô sanh
pháp nhẫn, và được đến ngôi thượng địa, cùng với các vị Bồ Tát làm
quyến thuộc, chóng
được thành tựu chúng
sanh; cõi Phật thanh tịnh, và chẳng bao
lâu được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ Đề.
Nầy thiện nam tử! Đó
là năng lực thứ tám bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ chín bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, có người được nghe kinh nầy mà vui mừng được điều chưa từng có, rồi thọ trì, đọc tụng, cúng dường, lại vì người khác giải nói phân biệt nghĩa của kinh nầy rộng ra, thì những nghiệp chướng nặng nề xưa kia còn lại, nhất thời liền phải tiêu tan, mà được thanh tịnh. Và lại được biện tài lớn, lần lượt trang nghiêm các pháp ba la mật. Được các môn tam muội: Thủ lăng nghiêm tam muội; và môn Tổng trì được sức cần tinh tấn, chóng được lên ngôi thượng địa, phân thân rải thể khéo léo ở khắp mười phương quốc độ để cứu vớt hết thảy chúng sanh đang bị khổ cực ở trong hai mươi lăm cõi, đều khiến cho được giải thoát. Vì vậy mà kinh nầy có năng lực như thế.
Nầy thiện nam tử!
Đó là năng lực thứ chín bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy. Nầy thiện nam tử!
- Năng lực thứ mười bất khả tư nghì công đức của kinh nầy là: Nếu người thiện nam, thiện nữ nào, dù khi Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, nếu được nghe kinh nầy mà phát khởi tâm đại hoan hỷ rất hiếm có, tự mình liền thọ trì, đọc tụng, viết chép, cúng dường, theo đúng lý thuyết tu hành. Lại hay khuyên người tại gia, xuất gia thọ trì, đọc tụng, viết chép cúng dường, và giải nói rộng ra, rồi cũng theo đúng lý thuyết tu hành.
Vì đã khiến người khác nhờ năng lực của kinh nầy mà tu
hành đắc đạo, là đều do nhờ sức người thiện nam,
thiện nữ đó phát
khởi từ tâm khuyến hóa,
cho nên người thiện nam,
thiện nữ ấy ngay
thân nầy liền được các môn
Đà la ni. Ở chốn phàm
phu mà tự nhiên
ngay lúc ban đầu hay phát
khởi ra sô vố tăng kỳ
đại thệ sâu rộng. Lại hay
phát tâm cứu độ hết thảy chúng
sanh thành tựu đại bi, rộng hay bạt khổ, huân tập nhiều căn
lành, làm lợi ích cho
hết thảy, mà diễn bày các
pháp thanh tịnh để thấm nhuần các chốn khô
khan.
Lại đem những phương pháp
đã được này mà
ban cho hết thảy chúng
sanh được yên
vui, rồi dần dần thấy được vượt lên
ngôi pháp vân địa, ân đức thấm nhuần khắp cả, lòng từ cứu giúp
không bờ bến, tiếp dắt chúng
sanh khổ não, khiến cho
thâm nhập vào con
đường đạo. Vì vậy, người đó chẳng bao
lâu được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác.
Nầy thiện nam tử!
Đó là năng lực thứ mười bất khả tư nghì
công đức của kinh nầy vậy.
Nầy thiện nam tử!
Như vậy thì
kinh Vô Thượng Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
nầy có sức đại oai thần, không
gì là tôn hơn, hay
khiến cho những kẻ phàm phu
đều được chứng thánh
quả, vĩnh viễn xa lìa
sanh tử, được vui tự tại.
Vì vậy mà kinh
nầy gọi là Vô Lượng
Nghĩa.
Kinh nầy hay làm
cho hết thảy chúng
sanh ở ngay nơi mảnh đất phàm
phu mà phát sanh nẩy nở ra vô lượng mầm mống các Bồ Tát đạo; khiến cho cây
công đức lớn thêm và
tươi tốt sum
sê. Vì vậy mà kinh
nầy gọi là Năng
Lực Bất Khả Tư Nghì
Công Đức vậy."
Bấy giờ ngài Đại Trang
Nghiêm Bồ Tát và
tám vạn vị Bồ Tát Ma
Ha Tát đều đồng thanh
bạch Phật rằng:
−"Bạch đức Thế
Tôn! Như lời Phật dạy: Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
rất cao
siêu mầu nhiệm sâu xa,
văn lý chân chánh, không gì tôn hơn, được tam thế chư Phật cùng gìn giữ, không có chúng ma quần đạo nào xâm
nhập vào được, không
bị hết thảy tà kiến, sanh tử làm nát
hoại. Vì
vậy cho nên
kinh nầy mới có mười năng lực bất khả tư nghì
công đức vậy.
Làm vô lượng đại lợi ích cho
hết thảy chúng
sanh, khiến cho hết thảy các vị Bồ Tát đều được Vô Lượng Nghĩa
tam muội; hoặc được trăm
nghìn môn Đà la ni; hoặc được các
ngôi các pháp nhẫn của các Bồ Tát, hoặc được ngôi
Duyên giác, A la hán và chứng bốn đạo quả. Đức Thế Tôn rủ lòng từ mẫn vui vì
lũ chúng con nói ra pháp đó khiến cho
chúng con được pháp lợi lớn thật là thời gian rất kỳ diệu chưa từng có vậy.
−Bạch đức Thế
Tôn! Lòng từ mẫn và ân đức của ngài,
chúng con thật khó có
thể báo đáp
được."
Khi nói
như thế rồi, lúc bấy giờ cõi tam
thiên đại thiên
thế giới sáu điệu đều rung động.
Ở trên
không trung lại mưa xuống các thứ hoa thơm: Hoa
Thiên ưu bát la,
hoa Bát đàm ma, hoa Câu vật đầu, hoa
Phân đà lợi, v.v...
Lại mưa xuống vô số các thứ hương trời, áo báu
cõi trời, tràng
anh lạc cõi trời, ngọc vô giá
cõi trời ở trong hư không dần dần rơi xuống để cúng dường đức Phật và các
vị Bồ Tát, đại chúng
Thanh văn. Món ăn cõi trời, bình
bát cõi trời, sung
mãn rạt rào,
trăm vị thơm ngon
cõi trời, mỗi khi thấy sắc nghe hương thì tự nhiên no
đủ.
Phướn trời, phan
trời, tàn lọng cõi trời các đồ âm nhạc vi diệu cõi trời đặt bày ở khắp nơi hòa tấu nhạc trời để cúng dường và
khen ngợi đức Phật.
Lại nữa, Hằng hà sa
số các cõi
chư Phật ở phương Đông
cũng sáu lần rung động, và
cũng mưa xuống các thứ hoa trời, hương trời, áo báu
cõi trời, tràng
anh lạc cõi trời, ngọc vô giá
cõi trời, món ăn
trăm vị thơm ngon
cõi trời. Bình
bát cõi trời, mỗi khi thấy sắc nghe hương thì tự nhiên no
đủ. Phướn trời, phan
trời, tán lọng cõi trời những đồ âm nhạc vi diệu cõi trời và hòa
tấu kỹ nhạc cõi trời, để cúng dường và
khen ngợi đức Phật kia,
cùng các vị Bồ Tát, đại chúng
Thanh văn. Phương Nam,
phương Tây,
phương Bắc, bốn phương bàng,
phương trên,
phương dưới cũng đều như thế.
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Đại Trang
Nghiêm Bồ Tát Ma
Ha Tát và tám vạn vị Bồ Tát Ma
Ha Tát rằng:
"Các ông đối với kinh nầy phải nên đem
hết lòng
cung kính sâu xa, theo đúng như pháp mà
tu hành, và khuyến hóa hết thảy làm cho
ưa truyền rộng ra,
lòng thường siêng
năng tinh tấn giữ gìn ngày
đêm khiến chúng
sanh đều được sự lợi ích của giáo
pháp.
Các ông
thật là người đại từ đại bi lập nguyện thệ lực thần thông,
kính mến giữ gìn kinh
nầy đừng để cho ngừng trệ.
Và về đời mai sau
phải lưu hành rộng khắp cả cõi Nam
Diêm Phù Đề, khiến cho hết thảy chúng
sanh được thấy, được nghe, đọc tụng, viết chép,
cúng dường.
Vì những lẽ đó mà
khiến các ông
chóng được thành đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh
Giác."
Bấy giờ ngài Đại Trang
Nghiêm Bồ Tát Ma
Ha Tát cùng với tám vạn vị Bồ Tát Ma
Ha Tát liền từ tòa ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Phật đầu mặt lễ dưới chân Phật, rồi nhiễu trăm
nghìn vòng, và quỳ xuống trước Phật đều đồng thanh
bạch rằng:
−"Bạch đức Thế
Tôn! Chúng con rất lấy làm vui
mừng, đức Thế Tôn đã rủ lòng
lành thương, vì
chúng con mà nói kinh Đại Thừa Vô Lương Nghĩa
rất cao
siêu mầu nhiệm nầy, chúng
con xin cung kính tin theo lời Phật dạy.
Sau khi đức Như Lai diệt độ, chúng
con sẽ truyền bá kinh
nầy làm cho
lan rộng khắp nơi, đều khiến cho ai
nấy thọ trì, đọc tụng, viết chép,
cúng dường.
Cúi xin đức Thế Tôn đừng đem
lòng buồn lo,
chúng con sẽ dùng
nguyện lực khắp khiến cho ai
nấy đều được nhờ oai thần lực của kinh điển nầy vậy."
Khi ấy đức Phật khen rằng:
"Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các thiện nam tử! Các ông ngày nay thật là Phật tử chơn chánh,
lòng đại từ đại bi sâu
xa của các ông
hay bạt khổ cứu ách, là
ruộng phước tốt cho hết thảy chúng
sanh, rộng vì hết thảy. Làm
người dẫn đường tốt, làm nơi nương tựa lớn cho hết thảy chúng
sanh; làm đại thí chủ cho hết thảy chúng
sanh, thường đem lợi ích của giáo
pháp rộng ban
cho hết thảy."
Khi đức Phật nói kinh nầy xong, thì hết thảy đại chúng trong pháp hội đều vui mừng thọ trì, rồi làm lễ Phật mà xin lui.
Sa môn Đàm Ma Dà Đà Da Xá, đời Tiêu-Tề,
nước Thiên-Trúc, dịch chữ Phạm ra chữ
Hán.
Tỳ
Kheo Thích Tuệ Hải dịch chữ Hán ra Việt.
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Comments
Post a Comment