Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
BÀI KHEN NGỢI KINH
Hơn sáu muôn lời, thành BẢY QUYỂN
Rộng chứa đựng vô-biên nghĩa mầu
Trong cổ nước cam-lộ rịn nhuần
Trong miệng chất đề-hồ nhỏ mát
Bên răng ngọc trắng tuôn xá-lợi
Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang
Dầu cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu-Pháp vài ba hàng.
Nam-mô DIỆU PHÁP LIÊN HOA Hội-Thượng Phật Bồ-tát. ( 3 lần )
KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA
QUYỂN 2
PHẨM “THÍ DỤ”
THỨ BA
1.- Lúc bấy giờ ngài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay
chiêm-ngưỡng
dung-nhan của đức Phật mà bạch Phật rằng: 'Nay
con theo đức Thế-Tôn nghe
được tiếng pháp
này, trong lòng hớn hở được điều chưa từng có. Vì
sao? Con xưa theo Phật nghe
pháp như thế này, thấy các vị Bồ-tát được thụ-ký thành
Phật mà
chúng con chẳng được dự việc đó tự rất cảm thương mất vô lượng tri kiến của Như-Lai.
Thế-Tôn! Con
thường khi một mình ở dưới cây
trong núi rừng, hoặc ngồi hoặc đi kinh
hành, hằng nghĩ
như vậy: Chúng
ta đồng vào
pháp-tính, tại sao đức Như-Lai lại dùng
pháp tiểu-thừa mà tế-độ cho?
Ðó là lỗi của chúng
con chớ chẳng phải là Thế-Tôn vậy. Vì
sao? Nếu chúng
con chờ Phật nói
pháp sở-nhân
thành-đạo vô-thượng
chính-đẳng
chính-giác thời chắc do pháp
đại-thừa mà được độ thoát.
Song chúng con chẳng hiểu Phật phương-tiện theo cơ-nghi mà
nói pháp, vừa mới nghe Phật nói
pháp vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.
Thế-Tôn! Con
từ xưa đến nay trọn ngày
luôn đêm hằng tự trách
mình, mà nay được từ Phật nghe
pháp chưa từng có, trước khi hề nghe, dứt các
lòng nghi hối, thân ý
thơ-thới rất được an-ổn. Ngày
nay mới biết mình thật là Phật-tử, từ miệng Phật sinh
ra, từ pháp hóa
sinh, được pháp phần của Phật.
Khi ấy, Ngài
Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
2.- Con
nghe tiếng pháp
này
Ðược điều chưa từng có
Lòng rất đổi vui mừng
Lưới nghi đều đã trừ,
Xưa nay nhờ Phật dạy
Chẳng mất nơi đại-thừa.
Tiếng Phật rất ít có
Hay trừ khổ
chúng-sinh
Con đã được lậu-tận (1)
Nghe cũng
trừ lo khổ.
Con ở nơi hang
núi
Hoặc dưới cụm cây rừng
Hoặc ngồi hoặc
kinh-hành
Thường suy
nghĩ việc này,
Thôi ôi!
Rất tự trách
Sao lại tự khi mình
Chúng ta
cũng Phật-tử
Ðồng vào
pháp vô-lậu
Chẳng được ở vị-lai
Nói pháp
vô-thượng đạo,
Sắc vàng,
băm hai tướng (2)
Mười lực (3) các
giải-thoát.
Ðồng chung
trong một pháp
Mà chẳng được việc đây
Tám mươi tướng tốt đẹp
Mười tám
pháp bất-cộng (4)
Các
công-đức như thế
Mà ta đều đã mất
3.- Lúc
con kinh-hành riêng
Thấy Phật ở trong
chúng
Danh đồn khắp mười phương
Rộng lợi-ích
chúng-sinh
Tự nghĩ mất lợi này
Chính con
tự khi dối
Con thường trong
ngày đêm
Hằng
suy-nghĩ việc đó
Muốn đem hỏi Thế-Tôn?
Là mất hay
không mất?
Con thường thấy Thế-Tôn
Khen ngợi các Bồ-tát (5)
Vì thế nên ngày
đêm
Suy-lường việc như vậy
4.- Nay
nghe tiếng Phật nói
Theo cơ-nghi dạy Pháp
Vô-lậu khó
nghĩ bàn
Khiến chúng đến đạo-tràng.
Con xưa chấp tà-kiến
Làm thày
các Phạm-Chí (6)
Thế-Tôn rõ
tâm con
Trừ tà nói
Niết-bàn.
Con trừ hết tà-kiến
Ðược chứng nơi pháp
không
Bấy giờ lòng tự bảo
Ðược đến nơi diệt-độ
Mà nay mới tự biết
Chẳng phải thực diệt-độ.
Nếu lúc được thành
Phật
Ðủ ba mươi hai tướng
Trời, người, chúng,
dạ-xoa
Rồng, thần đều
cung-kính
Bấy giờ mới được nói
Dứt hẳn hết không
thừa
Phật ở trong đại-chúng
Nói con sẽ thành Phật
Nghe tiếng pháp
như vậy
Lòng nghi
hối đã trừ
5.- Khi mới nghe Phật nói
Trong
lòng rất sợ nghi
Phải chăng
ma giả Phật
Não loạn lòng ta
ư?
Phật dùng
các món duyên
Thí-dụ khéo nói
phô,
Lòng kia
an như biển
Con nghe,
lưới nghi dứt.
Phật nói thuở quá-khứ
Vô-lượng Phật diệt-độ
An-trụ trong phương-tiện
Cũng đều nói
pháp đó.
Phật hiện-tại, vị-lai.
Số nhiều cũng
vô-lượng
Cũng dùng
các phương-tiện
Diễn nói
pháp như thế.
Như Thế-Tôn ngày
nay
Từ sinh đến xuất-gia
Ðược đạo chuyển-pháp-luân
Cũng dùng
phương-tiện nói
Thế-Tôn nói
đạo thực
Ba tuần (7)
không nói được
Vì thế con định biết
Không phải ma giả Phật
Con sa
vào lưới nghi
Cho là ma
làm ra.
Nghe tiếng Phật êm-dịu
Sâu xa rất nhiệm-mầu
Nói suốt pháp
thanh-tịnh
Tâm con rất vui mừng.
Nghi hối đã hết hẳn
An trụ trong thực trí
Con quyết sẽ thành Phật
Ðược trời, người
cung-kính
Chuyển
pháp-luân vô-thượng
Giáo-hóa
các Bồ-tát.
6.- Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài
Xá-Lợi-Phất: 'Ta
nay ở trong
hàng Trời, người,
sa-môn, bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai
muôn ức Phật vì đạo vô-thượng nên thường
giáo-hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thụ học, ta dùng phương-tiện dẫn dắt ông sinh vào trong pháp ta'.
Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ông
chí-nguyện Phật-đạo, ông
nay đều quên mà
bèn tự nói đã được diệt-độ. Ta nay
lại muốn khiến ông
nghĩ nhớ bản nguyện cùng đạo đã làm,
mà vì các Thanh-Văn nói kinh đại-thừa tên là:
'Diệu-Pháp
Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp
Phật Sở Hộ-Niệm'.
7.- Xá-Lợi-Phất! Ông đến đời vị-lai, quá
vô-lượng
vô-biên bất-khả-tư-nghì kiếp,
cúng-dàng bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì
chính-pháp đầy đủ đạo tu-hành
của Bồ-tát, sẽ thành Phật hiệu là
Hoa-Quang Như-Lai, Ứng-cúng,
Chánh-biến-tri,
Minh-hạnh-túc,
Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu,
Thiên-nhơn-sư, Phật, Thế-Tôn.
Nước tên:
Ly-Cấu, cõi đó
bằng thẳng
thanh-tịnh đẹp đẽ an-ổn
giàu-vui, trời người đông-đảo. Lưu-ly làm
đất, có tám
đường
giao-thông, dây bằng vàng
ròng để giăng
bên đường, mé đường đều có hàng
cây bằng bảy báu, thường có hoa
trái. Ðức
Hoa-Quang Như-Lai cũng
dùng ba thừa
giáo-hóa chúng-sinh.
Xá-Lợi-Phất! Lúc đức Phật ra đời dầu không
phải là đời ác mà bởi bản nguyện nên nói
pháp ba thừa. Kiếp đó tên
là 'Ðại-Bửu
Trang-Nghiêm'. Vì sao gọi là 'Ðại-Bửu
Trang-Nghiêm'? Vì trong cõi đó dùng Bồ-tát làm 'Ðại-Bửu' vậy. Các Bồ-tát trong số đông vô-lượng vô-biên bất-khả-tư-nghì, tính kể hay thí-dụ đều không đến được, chẳng phải sức trí-tuệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi thì có hoa đỡ chân.
Các vị Bồ-tát đó
không phải hàng mới phát
tâm, đều đã trồng cội từ lâu. Ở nơi vô-lượng trăm
nghìn muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh hằng được các Phật khen.
Thường tu
trí-tuệ của Phật đủ sức thần thông lớn, khéo
biết tất cả các
pháp-môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững bậc Bồ-tát như thế, khắp đầy nước đó.
Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật
Hoa-Quang thụ mười hai tiểu-kiếp, trừ còn làm
Vương-tử chưa thành
Phật. Nhân
dân nước đó thụ tám tiểu kiếp. Ðức
Hoa-Quang Như-Lai quá
mười hai tiểu-kiếp thụ-ký vô-thượng
chính-đẳng
chính-giác cho Kiên-Mãn Bồ-tát mà bảo các Tỷ-khiêu:
Ông Kiên-mãn Bồ-tát này
kế đây sẽ thành Phật hiệu là
Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứng-cúng,
Chánh-biến-Tri,
cõi nước của đức Phật đó cũng
lại như đây.
Xá-Lợi-Phất! Sau
khi Phật
Hoa-Quang đó diệt-độ, chính
pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu-kiếp, tượng pháp
trụ đời cũng ba
mươi hai tiểu-kiếp.
Lúc ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
8.- Xá-Lợi-Phất đời sau
Thành đấng Phật trí khắp
Hiệu rằng: Phật
Hoa-Quang
Sẽ độ vô-lượng chúng.
Cúng-dàng
vô số Phật
Ðầy đủ hạnh Bồ-tát
Các
công-đức thập-lực
Chứng được đạo vô-thượng
Quá vô-lượng kiếp rồi
Kiếp tên Ðại-Bửu-Nghiêm
Cõi nước tên
Ly-Cấu
Trong sạch không
vết nhơ
Dùng lưu-ly làm
đất
Dây vàng
giăng đường sá
Cây bảy báu sắc đẹp
Thường có hoa
cùng trái
Bồ-tát
trong cõi đó
Chí-niệm thường bền vững
Thần-thông
Ba-la-mật
Ðều đã trọn đầy đủ
Nơi vô-số đức Phật
Khéo học đạo Bồ-tát
Những Ðại-Sĩ như thế
Phật
Hoa-Quang hóa-độ.
Lúc Phật làm Vương-tử
Rời nước bỏ vinh-hoa
Nơi thân cuối rốt sau
Xuất-gia
thành Phật-đạo
Phật
Hoa-Quang trụ-thế
Thọ mười hai tiểu-kiếp
Chúng
nhân-dân nước đó
Sống lâu
tám tiểu-kiếp
Sau khi
Phật diệt-độ
Chính-pháp
trụ ở đời
Ba mươi hai tiểu-kiếp
Rộng độ các chúng-sanh
Chính-pháp
diệt hết rồi
Tượng-pháp
cũng băm hai
Xá-lợi rộng truyền khắp
Trời, người, khắp
cúng-dàng
Phật
Hoa-Quang chỗ làm
Việc đó đều như thế.
Ðấng lưỡng
Túc-Tôn kia
Rất hơn không
ai bằng
Phật tức là thân
ông
Nên phải tự vui mừng.
9.- Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni,
Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại-chúng:
Trời, rồng, dạ-xoa,
càn-thát-bà, A-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, v.v... thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lãnh lấy lời dự ghi sẽ thành
vô-thượng
chính-đẳng
chính-giác, lòng rất vui mừng hớn-hở vô-lượng. Mỗi người đều cởi-y trên
của mình
đang đắp để
cúng-dàng Phật.
Thích-Ðề
Hoàn-Nhân cùng Phạm-Thiên-Vương v.v...
và vô-số thiên-tử cũng đem
y đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la,
Ma-ha Mạn-đà-la
v.v... cúng-dàng nơi Phật. Y trời tung
lên liền trụ giữa hư-không mà
tự xoay
chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm
nghìn muôn thứ ở giữa hư-không đồng thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói
lời rằng: 'Ðức Phật xưa ở thành
Ba-La-Nại, ban đầu chuyển
pháp-luân rất lớn vô-thượng'.
Lúc đó
các thiên-tử muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
10.- Xưa ở thành
Ba-Nại
Chuyển
pháp-luân bốn-đế
Phân-biệt nói các
pháp
Sanh-diệt của năm
nhóm (8)
Nay lại chuyển
pháp-luân
Rất lớn diệu vô-thượng,
Pháp đó rất sâu-mầu
Ít có người tin được.
Chúng ta
từ xưa lại
Thường nghe
Thế-Tôn nói
Chưa từng nghe
thượng-pháp
Thâm-diệu như thế này,
Thế-Tôn nói
pháp đó
Chúng ta
đều tùy-hỉ,
Ðại-trí
Xá-Lợi-Phất
Nay được lãnh Phật ký
Chúng ta
cũng như vậy
Quyết sẽ được thành
Phật,
Trong tất cả thế-gian
Rất tôn
không còn trên
Phật-đạo chẳng thể bàn
Phương-tiện
tùy-nghi nói
Ta bao
nhiêu nghiệp-phước
Ðời nay hoặc quá-khứ
Và công-đức thấy Phật.
Trọn hồi-hướng Phật-đạo.
11.- Bấy giờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằng: 'Thế-Tôn! con
nay không còn nghi hối, tự mình ở trước Phật được thụ-ký thành
vô-thượng
chính-đẳng
chính-giác. Các vị tâm tự-tại một nghìn
hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu-học, Phật thường dạy rằng: 'Pháp
của ta hay
lìa sinh, già, bệnh, chết rốt-ráo Niết-bàn'.
Các vị hữu-học vô-học đây
cũng đều đã tự rời chấp ngã
cùng chấp có, chấp không
v.v... nói là được Niết-bàn, mà
nay ở trước đức Thế-Tôn nghe
chỗ chưa từng nghe,
đều sa vào
nghi-lầm. Hay
thay Thế-Tôn! Xin
Phật vì bốn-chúng
nói nhân-duyên đó, khiến lìa
lòng nghi-hối.'
12.- Khi ấy, Phật bảo ngài
Xá-Lợi-Phất: Ta trước đâu
không nói rằng: 'Các
Phật Thế-Tôn dùng
các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ phương-tiện mà nói
pháp đều là
vô-thượng
chính-đẳng
chính-giác ư? Các điều nói đó
đều vì dạy Bồ-tát vậy. Nhưng Xá-Lợi-Phất! Nay ta
sẽ dùng một thí-dụ để chỉ rõ lại nghĩa
đó, những người có trí
do thí-dụ mà được hiểu.'
13.- Xá-Lợi-Phất! Như trong quốc ấp, tụ-lạc có vị Ðại Trưởng-giả tuổi đã già
suy, của giầu vô-lượng, có
nhiều nhà ruộng và các
tôi tớ. Nhà ông
rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào,
người ở trong đó
rất đông;
hoặc một trăm,
hai trăm cho đến năm
trăm người, lầu gác đã
mục, vách
phên sụp đổ, chân cột hư nát,
trính xiêng xiêu ngã, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy
nhà cửa.
Các người con của Trưởng-giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người ở trong
nhà đó.
14.- Trưởng-giả thấy lửa từ bốn phía
nhà cháy lên, liền rất sợ-sệt mà nghĩ
rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà
cháy này, ra ngoài rất an-ổn, song
các con ở trong
nhà lửa ưa vui chơi giỡn không
hay biết, không
sợ-sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà
lòng chẳng nhàm
lo, không có ý cầu ra khỏi.
Xá-Lợi-Phất! Ông Trưởng-giả đó lại nghĩ:
thân và tay của ta có sức mạnh, nên
dùng vạt áo hoặc dùng
ghe đẳng từ trong
nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ:
Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con
thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy,
ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng sợ.
Nhà này
đã bị cháy phải liền mau ra,
chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ
như thế theo chỗ đã nghĩ
đó mà bảo các
con: 'Các con mau ra!' Cha dầu thương-xót
khéo nói để dụ dỗ, mà các
người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ-sệt, trọn không
có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa? gì là
nhà? thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây
chạy giỡn nhìn
cha mà thôi.
15.- Bấy giờ, Trưởng-giả liền nghĩ
nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy,
ta cùng các con nếu không
ra liền chắc sẽ bị cháy, ta
nay nên bày chước phương-tiện khiến cho các
con được khỏi nạn này.
Cha biết các con
đều vẫn có lòng
thích các đồ chơi trân
báu lạ lùng, nếu có, chắc chúng
nó ưa đắm, mà bảo các con
rằng: 'Ðây
này là những món ít
có khó được mà các
con có thể vui chơi, nếu các con
không ra lấy sau chắc buồn ăn-năn.
Các thứ xe dê,
xe hươu, xe
trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các
con ở nơi nhà lửa nên mau
ra đây tùy ý các con muốn, cha đều sẽ cho các
con'.
Lúc bấy giờ, các người con
nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình
nên lòng mỗi người đều mạnh-mẽ xô đẩy lẫn nhau
cùng đua nhau ruổi chạy tranh
ra khỏi nhà lửa. Khi đó
Trưởng-giả thấy các con
được an-ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngã tư nơi đất trống không
còn bị chướng-ngại, tâm
ông thơ-thới vui mừng hớn-hở.
Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: 'Cha
lúc nãy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe
dê, xe hươu, xe
trâu xin liền ban
cho.'
16.- Xá-Lợi-Phất! Khi đó
Trưởng-giả đều cho các
con đồng một thứ xe lớn, xe đó
cao rộng chưng dọn bằng các
món báu, lan-can bao quanh, bốn phía
treo linh, lại dùng
màn lọng giăng
che ở trên,
cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau
giồi đó, dây
bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên,
dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch thân
hình mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi ngay
bằng mau lẹ như gió, lại có đông
tôi-tớ để hầu-hạ đó.
Vì cớ sao? Vì
ông Trưởng-giả đó của giàu
vô-lượng, các
thứ kho-tàng
thảy đều đầy ngập, ông
nghĩ rằng: 'Của cải của ta nhiều vô-cực, không
nên dùng xe nhỏ xấu kém mà
cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con
của ta, đồng yêu
không thiên-lệch, ta có
xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô-lượng nên lấy lòng
bình-đẳng mà đều cho
chúng nó, chẳng nên
sai khác.'
Vì sao? Dầu đem xe
của ta đó
khắp cho cả người một nước hãy còn
không thiếu huống gì các
con. Lúc ấy các người con đều ngồi xe lớn được điều chưa từng có,
không phải chỗ trước kia
mình trông.
17.- Xá-Lợi-Phất! Ý của ông
nghĩ sao? Ông Trưởng-giả đó đồng đem xe
trân báu lớn cho các
người con, có
lỗi hư-vọng chăng?
Xá-Lợi-Phất thưa: 'Thưa Thế-Tôn!
Không, ông Trưởng giả chỉ làm cho
các con được khỏi nạn lửa, toàn
thân mệnh chúng
nó chẳng phải là hư-vọng. Vì
sao? Nếu được toàn
thân mệnh bèn đã
được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng
phương-tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.
Thế-Tôn! Dầu ông Trưởng-giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ còn chẳng phải hư-vọng. Vì
sao? Vì ông Trưởng-giả đó trước có nghĩ
như vầy: Ta
dùng trước phương-tiện cho các
con được ra khỏi, vì
nhân-duyên đó nên không hư-vọng vậy. Huống gì ông
Trưởng-giả tự biết mình của giầu vô-lượng muốn lợi-ích các
con mà đồng cho xe
lớn!'
18.- Phật bảo ngài
Xá-Lợi-Phất: 'Hay
thay! Hay thay! Như lời ông
nói, Xá-Lợi-Phất! Như-Lai cũng
lại như thế, Phật là cha
của tất cả thế-gian, ở nơi các sự sợ-hãi
suy-não lo buồn vô-minh
che tối hết hẳn không
còn thừa, mà trọn thành tựu vô-lượng tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy; có sức đại thần-thông
cùng sức trí-tuệ đầy-đủ các món
phương-tiện. Trí-tuệ Ba-la-mật, đại-từ đại-bi thường không
hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh
vào nhà lửa tam-giới cũ mục này, để độ
chúng-sinh ra khỏi nạn lửa; sanh,
già, bệnh, chết, lo buồn khổ-não,
ngu-si tối-tăm, ba
độc; dạy bảo cho
chúng-sinh được vô-thượng
chính-đẳng
chính-giác.
19.- Ta
thấy, các
chúng-sinh bị những sự sanh,
già, bệnh, chết, lo buồn khổ-não nó đốt cháy,
cũng vì năm món dục (9) tài
lợi mà bị các điều thống-khổ. Lại vì tham
mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thụ các điều khổ, đời sau thụ khổ địa-ngục,
súc-sinh, ngã-quỉ. Nếu sanh
lên trời và ở trong
loài người thời nghèo
cùng khốn-khổ, bị khổ về người yêu thường xa
lìa, kẻ oán ghét
lại gặp gỡ. Các món
khổ như thế
chúng-sinh chìm trong đó vui-vẻ dạo chơi, chẳng hay biết, chẳng kinh
chẳng sợ, cũng chẳng sanh
lòng nhàm không cầu giải-thoát; ở trong
nhà lửa tam giới này
đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.
20.- Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật thấy việc này rồi bèn
nghĩ rằng: Ta là
cha của
chúng-sanh nên cứu chúng
nó ra khỏi nạn khổ đó, ban
vô-lượng
vô-biên món trí-tuệ vui của Phật để chúng nó
dạo chơi.
Xá-Lợi-Phất! Ðức Như-Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần-thông
cùng sức trí-tuệ bỏ chước phương-tiện, mà vì
chúng-sanh khen-ngợi các món
tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy của Như-Lai, ắt
chúng-sinh chẳng có thể do đó mà
được độ thoát.
Vì sao?
Vì các chúng-sinh đó chưa khỏi sự sanh,
già, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đương bị thiêu-đốt trong
nhà lửa tam-giới, làm
sao có thể hiểu được trí-tuệ của Phật.
21.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia dầu thân và
tay có sức mạnh mà chẳng dùng
đó, chỉ ân-cần phương-tiện gắng cứu các con
thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe
trân báu lớn.
Ðức Như-Lai cũng
lại như thế, dầu có
trí-lực cùng sức vô-úy
(10) mà chẳng dùng đến, chỉ dùng
trí-tuệ phương-tiện nơi nhà lửa tam-giới cứu vớt
chúng-sinh, vì chúng-sinh nói ba-thừa Thanh-văn, Duyên-giác cùng Phật-thừa mà bảo rằng: 'Các
ngươi không
nên ưa ở trong
nhà lửa tam-giới, chớ có ham
mê các món sắc, thanh,
hương, vị, xúc thô
hèn, nếu tham,
mê ắt sinh
ái-nhiễm thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra
khỏi ba cõi
sẽ được chứng ba-thừa:
Thanh-văn, Duyên-giác và Phật-thừa.
Nay ta vì
các người mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các người chỉ nên
siêng-năng tinh-tấn tu
hành'. Ðức Như-Lai dùng
phương-tiện ấy để dụ dẫn
chúng-sinh thẳng đến, lại bảo: 'Các
ngươi nên biết rằng pháp
ba-thừa đó đều là pháp
của các đấng Thánh
khen-ngợi, là
pháp tự-tại không bị ràng buộc không
còn phải nương gá tìm
cầu, ngồi trong
ba thừa này
dùng các món căn, lực, giác
chi, thánh-đạo (11),
thuyền-định vô-lậu cùng giải-thoát
tam-muội v.v...
để tự vui sướng, được vô-lượng sự an-ổn khoái-lạc.
22.- Xá-Lợi-Phất! nếu có
chúng-sanh nào bề trong có
trí-tính, theo đức Phật Thế-Tôn nghe
pháp tin nhận ân cần tinh-tấn, muốn chóng
ra khỏi ba cõi
tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là
Thanh-văn thừa, như các người con kia
vì cầu xe dê
mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có
chúng-sanh nào theo đức Thế-Tôn nghe
pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh-tấn, cầu trí-tuệ tự-nhiên ưa thích
riêng lẻ vắng-lặng, sâu
rõ nhơn-duyên của các
pháp, gọi đó là
Duyên-giác-thừa, như các người con kia
vì cầu xe hươu mà ra
khỏi nhà lửa.
Nếu có
chúng-sanh nào theo đức Phật Thế-Tôn nghe
pháp tin nhận, siêng
tu tinh-tấn cầu nhất-thiết-trí, Phật-trí, tự-nhiên-trí,
vô-sư-trí, các
món tri-kiến-lực, vô-úy
của Như-Lai, có
lòng thương xót
làm an-vui cho vô-lượng
chúng-sanh, lợi-ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Ðại-thừa, Bồ-tát vì cầu được thừa này thời gọi là
Ma-ha-tát, như các người con kia
cầu xe trâu
mà ra khỏi nhà lửa.
23.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia thấy các con
được an-ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô-úy,
ông tự nghĩ, ta
của giầu vô-lượng, nên
bình-đẳng đem xe
lớn đồng cho
các con. Ðức Như-Lai cũng
lại như thế, là cha
của tất cả
chúng-sinh, nếu thấy có vô-lượng nghìn ức
chúng-sinh do cửa Phật-giáo mà
thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cõi
được sự vui Niết-Bàn.
Bấy giờ, đức Như-Lai bèn
nghĩ: 'Ta có vô-lượng
vô-biên trí-tuệ, lực vô-úy
v.v... tạng pháp của các đức Phật, các
chúng-sinh này đều là con
của ta đồng ban
cho pháp đại-thừa, chẳng để có người được diệt-độ riêng, đều đem
pháp diệt-độ của Như-Lai mà
cho chúng-sinh nó diệt-độ.
Những
chúng-sinh đã thoát khỏi ba cõi
đó, Phật đều cho món
vui thuyền-định, giải-thoát
v.v... của các đức Phật, các
món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng Thánh
khen-ngợi, hay
sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất.
24.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả ban đầu dùng ba
thứ xe dụ dẫn các
con, sau rồi chỉ ban cho
xe lớn vật báu
trang-nghiêm an-ổn thứ nhất, song
ông Trưởng-giả kia
không có lỗi hư-dối. Ðức Như-Lai cũng
như thế, không
có hư-dối, ban đầu nói ba
thừa dẫn dắt
chúng-sanh sau rồi chỉ dùng đại-thừa mà độ giải-thoát
đó.
Vì sao?
Như-Lai có
vô-lượng tạng pháp
trí-tuệ, lực, vô sở-úy, có
thể ban pháp
đại-thừa cho tất cả
chúng-sanh, chỉ vì
chúng-sanh không thụ được hết.
Xá-Lợi-Phất! Vì
nhân-duyên đó nên phải biết các đức Như-Lai dùng
sức phương tiện ở nơi một Phật-thừa phân-biệt nói
thành ba.
Ðức Phật muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
25.- Thí
như ông Trưởng-giả
Có một căn nhà
rất lớn
Nhà đó đã
lâu cũ
Mà lại rất xấu xa,
Phòng nhà
vừa cao
nguy
Gốc cột lại gẫy mục
Trính
xiêng đều xiêu vẹo
Nền móng đã
nát rã,
Vách phên
đều sụp đổ
Ðất bùn rơi rớt xuống,
Tranh lợp sa tán
loạn
Kèo đòn
tay rời khớp,
Bốn bề đều cong vạy
Khắp đầy những tạp nhơ,
Có đến năm
trăm người
Ở đỗ nơi trong
đó.
Chim xi,
hiêu, điêu, thứu,
Quạ chim thước, cưu, cáp
Loài
ngoan-xà, phúc-yết,
Giống
ngô-công, do-diên,
Loài thủ-cung,
bá-túc
Dứu,
ly-cùng hề-thử
Các giống độc trùng dữ
Ngang dọc xen ruổi chạy,
Chỗ phẩn giải hôi thối.
Ðồ bất tịnh chảy tràn
Các loài
trùng khương-lương
Bu nhóm ở trên đó,
Cáo, sói
cùng dã-can
Liếm nhai và
dày đạp
Cắn xé những thây
chết
Xương thịt bừa bãi ra,
Do đây mà
bầy chó
Ðua nhau
đến ngoạm lấy,
Ốm đói và
sợ-sệt
Nơi nơi tìm món
ăn
Giành giựt cấu xé nhau
Gầm-gừ gào sủa rên,
Nhà đó sự đáng sợ
Những biến trạng đường ấy.
Khắp chỗ đều có những
Quỉ, lỵ, mị, vọng, lượng
Quỉ Dạ-xoa quỉ dữ
Nuốt ăn cả thịt người,
Các loài
trùng độc dữ
Những cầm thú
hung-ác
Ấp, cho bú
sản sanh
Ðều tự giấu gìn giữ
Quỉ Dạ-xoa đua
đến
Giành bắt mà ăn
đó,
Ăn đó no
nê rồi
Lòng
hung-dữ thêm
hăng
Tiếng chúng
đánh cãi nhau
Thật rất đáng lo
sợ.
Những quỉ Cưu-bàn-trà
Ngồi xổm trên đống đất
Hoặc có lúc
hỏng đất
Một thước hay hai
thước
Qua rồi lại, dạo đi
Buông
lung chơi cùng giỡn
Nắm hai
chân của chó
Ðánh cho
la thất-thanh
Lấy chân đạp trên cổ
Khủng-bố chó để vui.
Lại có các
giống quỉ
Thân nó rất cao lớn
Trần truồng thân
đen xấu
Thường ở luôn
trong đó
Rền tiếng hung
ác lớn
Kêu la
tìm món ăn
Lại có các
giống quỉ
Cổ nó nhỏ bằng kim,
Lại có các
giống quỉ
Ðầu nó như đầu trâu
Hoặc là ăn
thịt người
Hoặc là ăn
thịt chó,
Ðầu tóc rối tung
lên
Rất ác lại hung hiểm,
Bị đói khát
bức ngặt
Kêu la vừa rong chậy
Dạ-xoa cùng
quỉ đói
Các chim
muông ác độc
Ðói gấp rảo bốn bề
Rình xem
các cửa sổ
Các nạn dường thế đấy
Vô-lượng việc ghê sợ (12)
26.- Nhà
cũ mục trên đó
Thuộc ở nơi một người
Người ấy vừa mới ra
Thời-gian chưa bao lâu
Rồi sau nhà
cửa đó
Bỗng nhiên
lửa cháy đỏ
Ðồng một lúc bốn bề
Ngọn lửa đều hừng hực,
Rường cột và
trính-xiêng
Tiếng tách nổ vang-động
Nát gẫy rơi rớt xuống
Vách phên
đều lở ngã,
Các loại quỉ thần thảy
Ðồng cất tiếng kêu
to,
Các giống chim
điêu, thứu
Quỉ Cưu-bàn-trà
thảy
Kinh sợ chạy sảng-sốt
Vẫn không tự ra được,
Thú dữ loài
trùng độc
Chui núp
trong lỗ hang
Các quỉ Tỳ-xá-xà
Cũng ở trong
hang đó
Vì phước đức kém vậy
Bị lửa đến đốt bức
Lại tàn hại lẫn nhau
Uống máu ăn
thịt nhau.
Những loại thú
dã-can
Thời đều đã chết trước
Các giống thú dữ lớn
Giành đua
đến ăn nuốt.
Khói tanh
bay phùn-phụt
Phủ khắp bít bốn bề,
Loài
ngô-công, do-diên
Cùng với rắn hung độc
Bị lửa lòn đốt cháy
Tranh
nhau chạy khỏi hang
Quỉ Bàn-trà
rình chờ
Liền bắt lấy mà ăn.
Lại có các
ngã-quỉ
Trên đầu lửa bực cháy
Ðói khát
rất nóng khổ
Sảng-sốt chạy quàng
lên,
Nhà lửa đó dường ấy
Rất đáng
nên ghê sợ
Ðộc hại cùng
tai lửa
Các nạn chẳng phải một.
27.- Lúc
bấy giờ chủ nhà
Ðứng ở nơi ngoài cửa
Nghe có
người mách rằng:
Các người con của ông
Trước đây vì
dạo chơi
Mà đến vào nhà
này
Thơ bé không
hiểu biết
Chỉ vui ham ưa đắm.
Trưởng-giả vừa nghe
xong
Kinh sợ vào nhà
lửa
Tìm phương-nghi cứu-tế
Cho con
khỏi thiêu-hại
Mà dụ bảo các con
Nói rõ
các hoạn-nạn:
Nào ác quỉ độc trùng
Hỏa tai
lan-tràn cháy
Các sự khổ thứ lớp
Nối luôn
không hề dứt
Loài độc xà, ngươn phúc
Và các quỉ Dạ-xoa
Cùng quỉ Cưu-bàn-trà
Những
dã-can, chồn, chó
Chim
điêu, thứu xi,
hiêu
Lại giống bá túc
thảy
Ðều đói
khát khổ gấp
Rất đáng phải ghê sợ
Chỗ khổ-nạn như thế
Huống lại là lửa lớn.
Các con
nhỏ không hiểu
Dầu có nghe
cha dạy
Cứ vẫn còn ham
ưa
Vui chơi mãi
không thôi.
28.- Bấy giờ trưởng-giả kia
Mới bèn
nghĩ thế này:
Các con
như thế đó
Làm ta
thêm sầu não.
Nay trong
nhà lửa này
Không một việc đáng
vui
Mà các
con ngây dại
Vẫn ham mê
vui chơi
Chẳng chịu nghe lời ta
Toan sẽ bị lửa hại.
Ông bèn lại
suy-nghĩ
Nên bày
các phương-tiện
Bảo với các con
rằng:
Cha có rất nhiều thứ
Các đồ chơi trân kỳ
Những xe báu
tốt-đẹp
Nào xe
dê, xe hươu
Cùng với xe trâu
lớn
Hiện để ở ngoài cửa
Các con
mau ra đây
Cha chính
vì các con
Mà sắm những xe này
Tùy ý các
con thích
Có thể để dạo chơi.
Các con
nghe cha nói
Các thứ xe như vậy
Tức thời cùng
giành đua
Rảo chạy ra khỏi nhà
Ðến nơi khoảng đất trống
Rời những sự khổ-nạn
Trưởng-giả thấy các con
Ðược ra khỏi nhà lửa
Ở nơi ngã tư đường
Ðều ngồi tòa sư-tử
Ông bèn tự mừng rằng
Ta nay rất mừng vui
Những đứa con ta
đây
Ðẻ nuôi rất khó lắm
Chúng nhỏ dại không
hiểu
Mới lầm và nhà
hiểm
Có nhiều loài
trùng độc
Quỉ lỵ mị đáng sợ
Lửa lớn cháy hừng-hực
Bốn phía đều phựt lên
Mà các trẻ con này
Lại ham ưa vui chơi
Nay ta đã
cứu chúng
Khiến đều được thoát nạn
Vì thế các người ơi!
Ta nay rất vui mừng.
Khi ấy các người con
Biết cha đã
ngồi an
Ðều đến bên chỗ cha
Mà thưa cùng
cha rằng:
Xin cha
cho chúng con
Ba thứ xe báu lạ
Như vừa rồi cha hứa
Các con
mau ra đây
Sẽ cho ba
thứ xe
Tùy ý các
con muốn
Bây giờ chính phải lúc
Xin cha
thương cấp cho.
29.- Trưởng-giả giầu có lớn
Kho đụn rất nhiều đầy
Vàng bạc cùng lưu-ly
Xa-cừ ngọc mã-não,
Dùng những món vật báu
Tạo thành
các xe lớn
Chưng dọn
trang-nghiêm đẹp
Khắp vòng có
bao-lơn
Bốn mặt đều treo
linh
Dây vàng
xen thắt tụi
Lưới mành kết
chân-châu
Giăng bày
phủ phía
trên
Hoa vàng
các chuỗi ngọc
Lòng
thòng rủ khắp chỗ
Các màu
trang sức đẹp
Khắp vòng
xây quanh xe
Dùng nhiễu hàng mềm-mại
Ðể làm nệm lót ngồi
Vải quí mịn rất tốt
Giá-trị đến nghìn
muôn
Bóng láng
trắng sạch-sẽ
Dùng trải trùm
trên nệm
Có trâu
trắng to lớn
Mập khỏe nhiều sức mạnh
Thân hình
rất tươi tốt
Ðể kéo xe
báu đó
Ðông những tôi và
tớ
Mà chực hầu giữ-gìn
Ðem xe đẹp như thế
Ðồng ban
cho các con
Các con
lúc bấy giờ
Rất vui mừng hớn-hở
Ngồi trên xe
báu đó
Dạo đi khắp bốn phương
Vui chơi nhiều khoái-lạc
Tự-tại không
ngăn-ngại.
30.- Bảo Xá-Lợi-Phất này
Ðức Phật cũng như vậy
Tôn cả trong
hàng Thánh
Cha lành
của trong đời
Tất cả các
chúng-sanh
Ðều là con
của ta
Say-mê
theo thế-lạc
Không có
chút tuệ-tâm
Ba cõi hiểm không
an
Dường như nhà lửa cháy
Các nạn khổ dẫy-đầy
Rất đáng
nên ghê-sợ
Thường có những sanh,
già
Bệnh, chết và rầu lo
Các thứ lửa như thế
Cháy hừng chẳng tắt dứt
Ðức Như-Lai đã
lìa
Nhà lửa ba-cõi
đó
Vắng lặng ở thong-thả
An-ổn trong rừng nội
Hiện nay
ba-cõi này
Ðều là của ta cả
Những
chúng-sanh trong đó
Cũng là
con của ta
Mà nay
trong ba-cõi
Có nhiều thứ hoạn-nạn
Chỉ riêng một mình ta
Có thể cứu hộ chúng
Dầu lại đã dạy bảo
Mà vẫn không
tin nhận
Vì nơi các dục nhiễm
Rất sanh
lòng tham mê
Bởi thế nên phương-tiện
Vì chúng
nói ba-thừa
Khiến cho các
chúng-sanh
Rõ ba-cõi
là khổ
Mở bày cùng
diễn nói
Những đạo pháp xuất thế,
Các người con đó
thảy
Nếu nơi tâm quyết định
Ðầy đủ ba món
minh (13)
Và sáu
món thần-thông
(14)
Có người được
Duyên-Giác
Hoặc bất thối Bồ-tát.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta vì các
chúng-sanh
Dùng món
thí-dụ này
Ðể nói một Phật-thừa
Các ông nếu có thể
Tin nhận lời nói
đây.
Tất cả người đều sẽ
Chứng thành
quả Phật-đạo
31.- Phật-thừa đây
vi-diệu
Rất thanh-tịnh thứ nhất
Ở trong
các thế-giới
Không còn
pháp nào trên
Của các Phật vui ưa,
Tất cả hàng
chúng-sanh
Ðều phải nên khen
ngợi
Và
cúng-dàng lễ bái
Ðủ vô-lượng nghìn ức
Các trí-lực, giải-thoát
Thuyền-định và
trí-tuệ
Cùng pháp
khác của Phật
Chứng được thừa như thế
Khắp cho các
con thảy
Ngày đêm
cùng kiếp số
Thường được ngồi dạo chơi
Cho các
hàng Bồ-tát
Cùng với chúng Thanh-Văn
Nương nơi thừa báu này
Mà thẳng đến đạo-tràng.
Vì bởi
nhân-duyên đó
Tìm kỹ khắp mười-phương
Lại không
thừa nào
khác
Trừ Phật dùng phương-tiện
Bảo với Xá-Lợi-Phất!
Bọn ông các
người thảy
Ðều là con
của ta
Ta thời là cha
lành.
Các ông
trải nhiều kiếp
Bị các sự khổ đốt
Ta đều đã cứu vớt
Cho ra khỏi ba-cõi
Ta dầu ngày trước nói
Các ông được diệt-độ
Nhưng chỉ hết sanh-tử
Mà thực thời chẳng diệt.
Nay việc nên phải làm
Chỉ có
trí-tuệ phật.
Nếu có Bồ-tát nào
Ở trong
hàng chúng này
Có thể một lòng
nghe
Pháp thực của các Phật,
Các đức Phật Thế-Tôn
Dầu dùng chước phương-tiện
Mà
chúng-sanh được độ
Ðều là Bồ-tát cả
32.- Nếu có người trí nhỏ
Quá mê nơi ái-dục
Phật bèn vì
bọn này
Mà nói lý
khổ-đế,
Chúng-sanh
nghe lòng mừng
Ðược điều chưa từng có
Ðức Phật nói khổ-đế
Chân thực không
sai khác
Nếu lại có
chúng-sanh
Không rõ
biết gốc khổ
Quá say nơi khổ nhân
Chẳng tạm rời bỏ được
Phật vì hạng người này
Dùng phương-tiện nói dạy
Nguyên nhơn có các
khổ
Tham dục là cội gốc
Nếu dứt được tham-dục
Khổ không chỗ nương đỗ
Dứt hết hẳn các khổ
Gọi là đế thứ ba
Vì chứng diệt-đế vậy
Mà tu
hành đạo-đế
Lìa hết các khổ phược
Gọi đó là
giải-thoát
Người đó nơi pháp gì
Mà nói được giải-thoát?
Chỉ xa rời hy-vọng
Gọi đó là
giải-thoát
Kỳ thực chưa phải được
Giải-thoát hẳn tất cả
Ðức Phật nói người đó
Chưa phải thật diệt-độ
Vì người đó chưa được
Ðạo quả vô-thượng vậy.
Ý của ta
không muốn
Cho đó đến diệt-độ,
Ta là đấng Pháp-Vương
Tự-tại nơi các
Pháp
Vì an-ổn
chúng-sinh
Nên hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Pháp-ấn của ta đây
Vì muốn làm lợi-ích
Cho thế-gian nên
nói
Tại chỗ ông đi
qua
Chớ có vọng
tuyên-truyền.
Nếu có người nghe đến
Tùy-hỷ kính nhận lấy
Phải biết rằng người ấy
Là bậc bất-thối-chuyển
Nếu có người tin nhận
Kinh pháp
vô-thượng này.
Thời người đó đã từng
Thấy các Phật quá-khứ
Cung-kính
và cúng-dàng
Cũng được nghe
pháp này.
Nếu người nào có
thể
Tin chịu lời ông nói
Thời chính
là thấy Ta
Cũng là
thấy nơi ông
Cùng các
chúng Tỷ-khiêu
Và các
hàng Bồ-tát.
33.- Phật vì người trí sâu
nói kinh
Pháp-Hoa này
Kẻ thức cạn nghe đến
Mê-lầm không
hiểu được.
Tất cả hàng
Thanh-Văn
Cùng với
Tích-Chi-Phật
Ở trong
kinh pháp này
Sức kia
không hiểu được.
Chính ông
Xá-Lợi-Phất
Hãy còn nơi kinh
này
Dùng lòng
tin được vào
Huống là
Thanh-văn khác.
Bao nhiêu
Thanh-Văn khác
Do tin
theo lời Phật
Mà tùy
thuận kinh
này
Chẳng phải trí của mình.
34.- Lại này
Xá-Lợi-Phất!
Kẻ kiêu-mạn biếng lười
Vọng so chấp lấy ngã
Chớ vì nói
kinh này,
Hạng
phàm-phu biết cạn
Quá mê
năm món dục
Nghe pháp
không hiểu được
Cũng chẳng nên vì
nói.
Nếu có người không
tin
Khinh hủy chê
kinh này
Thời là dứt tất cả
Giống Phật ở thế-gian.
Nếu có người sịu mặt
Mà cưu lòng
nghi-hoặc
Ông nên
lóng nghe nói
Tội báo của người đó
Hoặc Phật còn tại-thế
Hoặc sau khi
diệt-độ
Nếu có người chê bai
Kinh điển như thế này
Thấy có người đọc tụng
Biên chép
thụ trì kinh
Rồi khinh
tiện ghét
ghen
Mà cưu lòng kết hờn
Tội báo của người đó
Ông nay lại lóng
nghe.
Người đó khi
mệnh-chung
Sa vào ngục A-tỳ
Ðầy đủ một kiếp chẵn
Kiếp mãn hết lại sinh
Cứ xoay vần như thế
Nhẫn đến vô-số kiếp.
Từ trong địa-ngục ra
Sẽ đọa vào
súc-sinh,
Hoặc làm
chó, dã-can
Thân-thể nó ốm gầy
Ðen điu
thêm ghẻ lác
Bị người thường chọc ghẹo
Lại còn phải bị người
Gớm nhờm và
ghét-rẻ
Thường ngày
đói khát khổ
Xương thịt đều
khô-khan,
Lúc sống chịu khổ sở
Chết bị ném ngói
đá
Vì đoạn mất giống Phật
Nên thụ tội báo đó
Hoặc sinh
làm lạc-đà
Hoặc sinh
vào loài lừa
Thân thường mang
kéo nặng
Lại thêm bị đánh đập
Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ
Ngoài ra
không biết gì
Vì khinh
chê kinh này
Mà mắc tội như vậy
Có khi
làm dã-can
Ði vào
trong xóm làng
Thân-thể đầy ghẻ lác
Lại chột hết một mắt
Bị bọn trẻ nhỏ vây
Theo đánh
đập liệng ném
Chịu nhiều các đau
khổ
Hoặc có lúc
phải chết
Ở đây vừa chết rồi
Liền lại thụ thân rắn
Thân thể nó dài lớn
Ðến năm
trăm do-tuần
Ðiếc ngây và
không chân
Lăn lóc
đi bằng bụng
Bị các loài
trùng nhỏ
Cắn rúc ăn
thịt máu
Bị khổ cả ngày đêm
Không tạm có ngừng nghỉ
Vì khinh
chê kinh này
Mà mắc tội như vậy.
Nếu được sinh
làm người
Các căn đều ám độn
Lùn xấu lại lệch què
Ðui điếc thêm lưng gù
Có nói ra
lời gì
Mọi người không
tin nhận
Hơi miệng thường hôi thối
Bị quỉ mỵ dựa nhập
Nghèo
cùng rất hèn hạ
Bị người sai khiến luôn,
Nhiều bệnh thân ốm gầy
Không có
chỗ cậy nhờ
Dù nương gần với người
Mà người chẳng để ý
Nếu có được điều chi
Thời liền lại quên mất,
Nếu học qua nghề thuốc
Theo đúng
phép trị bịnh
Mà bệnh người nặng thêm
Hoặc có khi
đến chết,
Nếu tự mình có
bệnh
Không người chữa lành được
Dù có uống thuốc hay
Mà bệnh càng
thêm nặng,
Hoặc người khác phản-nghịch
Cướp giật trộm lấy của
Các tội dường thế đó
Lại tự mang vạ lây.
Những người tội như đây
Trọn không
thấy được Phật
Là vua
trong hàng Thánh
Thường nói
pháp giáo-hóa
Những người tội như đây
Thường sinh
chỗ hoạn-nạn
Tâm cuồng-loạn, tai điếc
Trọn không
nghe pháp được,
Trải qua
vô-số kiếp
Như số cát sông
Hằng
Sinh ra
liền điếc câm
Các căn
chẳng đầy đủ
Thường ở trong địa-ngục
Như dạo chơi vườn nhà,
Ở tại các đạo khác
Như ở nhà cửa mình
Lạc-đà, lừa, lợn, chó
Là chỗ kia thường đi
Vì khinh
chê kinh này
Mắc tội dường thế đó.
Nếu được sinh
làm người
Ðiếc, đui lại câm, ngọng
Nghèo
cùng các tướng suy
Dùng đó tự
trang-nghiêm.
Sưng bủng bệnh khô
khát
Ghẻ, lác,
cùng ung-thư
Các bệnh như trên đó
Dùng làm
y-phục mặc,
Thân-thể thường
hôi-hám
Nhơ-nhớp không hề sạch
Lòng chấp ngã sâu
chặt
Thêm nhiều tính giận-hờn
Tình
dâm-dục hẫy hừng
Ðến chẳng chừa cầm-thú,
Vì khinh
chê kinh này
Mắc tội dường thế đó.
35.- Bảo cho
Xá-Lợi-Phất!
Người
khinh-chê kinh này
Nếu kể nói tội kia
Cùng kiếp cũng chẳng hết
Vì bởi
nhân-duyên đó
Ta vẫn bảo các ông
Trong
nhóm người vô-trí
Chớ nên nói
kinh này
Nếu có người lợi-căn
Sức trí-tuệ
sáng-láng
Học rộng và nhớ dai
Lòng mong
cầu Phật-đạo
Những hạng người như thế
Mới nên vì
đó nói
Nếu có người đã từng
Thấy trăm
nghìn ức Phật
Trồng các cội đức lành
Thâm-tâm
rất bền vững
Hạng người được như thế
Mới nên vì
đó nói.
Nếu có người tinh-tấn
Thường tu tập lòng từ
Chẳng hề tiếc thân-mệnh
Mới nên vì
đó nói
Nếu có người
cung-kính
Không có
sinh lòng khác
Lìa xa
các phàm phu
Ở riêng
trong núi chầm
Những hạng người như thế
Mới nên vì
đó nói
Lại Xá-Lợi-Phất này!
Nếu thấy có người nào
Rời bỏ ác
tri-thức
Gần-gũi bạn hiền-lành
Người được như thế ấy
Mới nên vì
đó nói.
Nếu thấy hàng Phật-tử
Giữ giới hạnh trong
sạch
Như
minh-châu sáng sạch
Ham cầu kinh đại-thừa
Những người được như thế
Mới nên vì
đó nói.
Nếu người không
lòng giận
Chắc thực ý dịu-hòa
Thường thương xót mọi loài
Cung-kính
các đức Phật
Hạng người tốt như thế
Mới nên vì
đó nói.
Lại có hàng
Phật-tử
Ở tại trong đại-chúng
Thuần dùng
lòng thanh-tịnh
Các món
nhân cùng duyên
Thí-dụ và lời lẽ
Nói pháp
không chướng-ngại
Những người như thế ấy
Mới nên vì
đó nói
Nếu có vị Tỷ-khiêu
Vì cầu nhất-thiết-trí
Khắp bốn phương cầu pháp
Chắp tay
cung-kính thụ
Chỉ ưa muốn thụ-trì
Kinh-điển về đại-thừa
Nhẫn đến không hề thụ
Một bài kệ kinh
khác
Hạng người được như thế
Mới nên vì
đó nói.
Như có người chí tâm
Cầu Xá-Lợi của Phật
Cầu kinh
cũng như thế
Ðược rồi đỉnh lễ thụ
Người đó chẳng còn lại
Có lòng cầu Kinh
khác
Cũng chưa từng nghĩ tưởng
Ðến sách vở ngoại đạo
Người được như thế ấy
Mới nên vì
đó nói.
Bảo cùng
Xá-Lợi-Phất!
Ta nói
các sự tướng
Của người cầu Phật-đạo
Cùng kiếp cũng chẳng hết
Những người như thế đó
Thời có thể tin hiểu
Ông nên
vì họ nói
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa.
PHẨM ‘TÍN GIẢI’
THỨ TƯ
1.- Lúc bấy giờ, các
Ngài Tuệ-Mệnh Tu-Bồ-Ðề, Ðại
Ca-Chiên-Diên, Ðại Ca-Diếp, Ðại Mục-Kiền-Liên, từ nơi Phật được nghe
pháp chưa từng có. Ðức Thế-Tôn dự ghi cho
Ngài Xá-Lợi-Phất sẽ thành
Vô-lượng
chính-đẳng
chính-giác, sinh lòng hi-hữu hớn-hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y-phục trịch bày
vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chấp tay cúi
mình cung-kính chiêm-ngưỡng
dung-nhan Phật mà bạch cùng
Phật rằng:
'Chúng con ở đầu trong
hàng Tăng, tuổi đều già lụn, tự cho đã được Niết-bàn
không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng cầu thêm đạo vô-thượng
chính-đẳng
chính-giác.'
Ðức Thế-Tôn thuở trước nói
pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi toà
thân-thể mỏi-mệt, chỉ nhớ nghĩ ba
pháp: không, vô-tướng,
vô-tác, đối với các
pháp du-hí thần-thông,
tịnh cõi nước Phật, độ thoát
chúng-sinh của Bồ-tát,
lòng chúng con không ưa thích.
Vì sao? Ðức Thế-Tôn khiến chúng
con ra khỏi ba cõi
được chứng Niết-bàn, lại nay đây
chúng con tuổi đã già
nua ở nơi đạo vô-thượng
chính-đẳng
chính-giác của Phật dạy Bồ-tát
không hề sinh một niệm ưa thích.
Chúng con
hôm nay ở trước Phật nghe thụ-ký cho
Thanh-Văn sẽ được vô-thượng
chính-đẳng chính-giác,
lòng rất vui mừng được pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay
bỗng nhiên
được pháp
hi-hữu, tự rất mừng may được lợi lành lớn, vô-lượng trân
báu chẳng tìm cầu mà tự được.
2.- Thế-Tôn!
chúng con hôm nay xin nói thí-dụ để chỉ rõ nghĩa
đó.
Thí như có người tuổi thơ bé, bỏ cha chốn đi qua ở lâu nơi nước khác,
hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đã lớn lại thêm
nghèo cùng khốn khổ, giong
ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn-quốc.
Người cha từ trước đến nay,
tìm con không được bèn ở lại tại một thành
trong nước đó. Nhà
ông giầu lớn của báu
vô-lượng, các
kho đụn, vàng,
bạc, lưu-ly,
san-hô, hổ-phách,
pha-lê, châu v.v... thảy đều đầy tràn;
tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông,
voi, ngựa, xe cộ bò dê
nhiều vô-số. Cho vay
thâu vào lời lãi khắp đến nước khác,
khách thương buôn
bán cũng rất đông
nhiều.
Bấy giờ, gã
nghèo kia dạo đến các tụ-lạc, trải qua xóm
làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở.
Người cha hằng nhớ con,
cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà
ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ
già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân
báu, kho đụn tràn đầy, không
có con cái, một mai mà
chết mất thời của cải tản thất không
người giao
phó. Cho nên ân-cần nhớ luôn đến con.
Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp được con ủy-phó của cải, thản nhiên
khoái-lạc không
còn sầu lo.
3.- Thưa Thế-Tôn! Bấy giờ gã
cùng-tử làm thuê
làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà người cha bèn
đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư-tử, ghế báu đỡ chân,
các hàng Bà-la-môn, sát-đế-lợi, cư-sĩ đều
cung-kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuổi ngọc chân-châu giá trị nghìn vạn để
trang-nghiêm, kẻ lại-dân
tôi-tớ tay cầm phất-trần trắng đứng hầu hai
bên. Màn báu che trên, những phan đẹp thòng
xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh
hoa, các vật báu chưng bày,
phát ra, thâu vào, lấy, cho
v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, uy-đức rất tôn-trọng.
Gã cùng-tử thấy cha có
thế lực lớn liền sanh
lòng lo sợ, hối-hận về việc đến nhà
này, nó thầm nghĩ rằng: 'Ông
này chắc là vua,
hoặc là bậc đồng vua,
chẳng phải là chỗ của ta làm
thuê mướn được tiền vật.
Chẳng bằng ta qua
đến xóm
nghèo có chỗ cho ta
ra sức dễ được đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai
ta làm'. Gã nghĩ như thế rồi, liền chạy mau đi
thẳng.
4.- Khi
đó, ông Trưởng-giả ngồi nơi tòa sư-tử thấy con bèn
nhớ biết, lòng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: 'Của cải kho
tàng của ta nay
đã có người giao
phó rồi, ta thường nghĩ
nhớ đứa con này
làm sao gặp được, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta
dầu tuổi già có
vẫn tham tiếc'. Ông
liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.
Lúc ấy, kẻ sứ-giả chạy mau qua
bắt, gã
cùng-tử kinh ngạc lớn tiếng kêu
oan: 'Tôi không hề xúc phạm, nhân
sao lại bị bắt?' Kẻ sứ-giả bắt đó càng
gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó
gã cùng-tử tự nghĩ
không tội chi mà
bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ-sệt mê ngất ngã xuống đất.
Người cha xa
thấy vậy bèn nói
với kẻ sứ-giả rằng:
'Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó
tỉnh lại đừng nói
chi với nó'.
Vì sao?
Cha biết con
mình chí ý hạ-liệt, tự biết mình giầu sang
làm khiếp sợ cho con.
Biết chắc là con
rồi mà dùng
phương-tiện chẳng nói với người khác biết là con
mình. Kẻ sứ-giả nói với cùng-tử: 'Nay ta
thả ngươi đi đâu
tùy ý'.
Gã cùng-tử vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm
nghèo để tìm cầu sự ăn mặc.
5.- Bấy giờ ông Trưởng-giả toan muốn dụ dẫn người con mà
bày chước phương-tiện, mật sai hai
người, hình sắc tiều tụy không
có uy-đức: 'Hai
người nên qua
xóm kia từ từ nói với gã
cùng-tử, nơi đây có
chỗ làm trả giá gấp bội. Gã
cùng-tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm
gì? Thời nên nói
với nó rằng: 'Thuê
người hốt phân,
chúng ta hai người cũng
cùng ngươi chung
nhau làm.' Khi đó hai người sứ liền tìm gã
cùng-tử, rồi thuật đủ việc như trên.
5.- Bấy giờ gã
cùng-tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân.
Người cha thấy con, thương xót và
quái lạ. Lại một ngày
khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm-o tiều-tụy, phân đất bụi-bặm dơ-dáy
không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn-màng
cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô
rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân,
tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: 'Các
ngươi phải siêng
làm việc chớ nên lười nghỉ!' Dùng
phương-tiện đó được đến gần người con.
Lúc sau lại bảo con rằng: 'Gã
nam-tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác,
ta sẽ trả thêm giá
cho ngươi; những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng
có kẻ tớ già hèn
hạ, nếu cần ta cấp cho,
nên phải an
lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo'.
Vì sao?
Vì ta tuổi tác già
lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong
lúc làm việc không
lòng dối khi trễ nải giận hờn nói lời thán
oán, đều không
thấy ngươi có các
điều xấu đó như các người làm công
khác. Từ ngày nay
nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời Trưởng-giả lại đặt tên cho
cùng-tử gọi đó là
'con'.
Khi đó gã
cùng-tử, dầu mừng việc tình cờ đó song
vẫn còn tự cho mình
là khách, là người làm
công hèn, vì cớ đó mà
trong hai mươi năm thường sai hốt phân,
sau đó lòng gã mới lần thể tin ra
vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng vẫn nguyên
chỗ cũ.
7.- Thế-Tôn! Bấy giờ Trưởng-giả có bệnh, tự biết mình
không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng-tử rằng: 'Ta
nay rất nhiều vàng bạc, trân,
báu, kho đụn tràn đầy, trong
đó nhiều ít chỗ đáng xài
dùng ngươi phải biết hết đó.
Lòng ta như thế, ngươi nên thể theo ý
ta.
Vì sao?
Nay ta cùng ngươi bèn là
không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất'.
Khi ấy cùng-tử liền nhận lời bảo-lãnh biết các của vật, vàng,
bạc, trân, báu
và các kho tàng, mà trọn không
có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm
chí hạ-liệt cũng chưa bỏ được.
8.- Lại trải qua ít
lâu sau, cha biết ý chí
con lần đã
thông-thái trọn nên chí
lớn, tự chê tâm
ngày trước. Ðến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc-vương, quan
đại-thần, dòng
sát-lợi, hàng cư-sĩ, khi
đã nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: 'Các
ngài nên rõ, người này là
con ta, của ta sinh
ra, ngày trước trong
thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó
vốn tên ấy, còn ta
tên ấy. Xưa ta ở tại thành
này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó
thực là con
ta, ta thực là cha
nó. Nay ta có tất cả bao
nhiêu của cải, đều là của con ta
có, trước đây của cải cho ra
thâu vào, con ta đây coi biết.'
Thế-Tôn! Khi
đó gả cùng-tử nghe cha
nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà
nghĩ rằng: 'Ta vốn không
có lòng mong cầu, nay
kho tàng báu này tự nhiên mà
đến'.
9.- Thế-Tôn! Ông
phú Trưởng-giả đó là đức Như-Lai, còn
chúng con đều giống như con của Phật. Ðức Như-Lai thường nói
chúng con là con.
Thưa Thế-Tôn!
Chúng con vì ba món khổ (16) nên
ở trong
sinh-tử chịu các sự đau đớn mê lầm không
hiểu biết, ưa thích
các pháp tiểu-thừa. Ngày
nay đức Thế-Tôn khiến chúng
con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp
hí-luận (17).
Chúng con ở trong đó
siêng gắng tinh-tấn được đến Niết-bàn,
cái giá một ngày.
Ðã được đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong
pháp của Phật; do
siêng-năng tinh-tấn nên chỗ được rộng nhiều.
Nhưng đức Thế-Tôn trước biết chúng
con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu-thừa, chúng
con bèn bị Phật buông bỏ chẳng vì
phân-biệt rằng: Các
ông sẽ có phần bảo tàng
tri-kiến của Như-Lai.
Ðức Thế-Tôn dùng
sức phương-tiện nói bày
trí-tuệ của Như-Lai. Chúng
con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày,
cho là nhiều rồi, đối với pháp đại-thừa này
không có chí cầu. Chúng
con lại nhân
trí tuệ của Phật, vì các
vị Bồ-tát mà
chỉ bày diễn nói, nhưng chính
tự mình lại không
có chí muốn nơi pháp
đó.
Vì sao? Ðức Phật biết chúng
con ưa nơi pháp tiểu-thừa, nên
dùng sức phương-tiện thuận theo
chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thực là Phật-tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế-Tôn ở nơi trí-tuệ của Phật không
có lẫn tiếc.
Vì sao?
Chúng con từ xưa đến nay thực là Phật-tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu-thừa, nếu chúng
con có tâm ham đại-thừa, thời Phật vì
chúng con mà nói pháp đại-thừa. Ở trong
kinh này chỉ nói pháp
nhất-thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-tát chê
trách Thanh-Văn ham pháp tiểu-thừa.
Nhưng đức Phật thực dùng đại-thừa để
giáo-hóa, vì thế nên
chúng con nói vốn không
có lòng mong cầu mà nay
báu lớn của đấng Pháp-vương tự-nhiên đến, như chỗ nên được của Phật-tử đều đã được có.
Bấy giờ ngài
Ma-ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
10.-
Chúng con ngày hôm nay
Nghe
âm-giáo của Phật
Lòng hớn-hở mừng rỡ
Ðược pháp chưa từng có.
Phật nói
hàng Thanh-Văn
Sẽ được thành
quả Phật
Ðống châu
báu vô-thượng
Chẳng cầu tự-nhiên được.
Ví như gã đồng-tử
Thơ bé không
hiểu biết
Bỏ cha trốn chạy đi
Ðến cõi nước xa khác
Nổi trôi khắp nước ngoài
Hơn năm mươi năm dài
Cha gã
lòng buồn nhớ
Kiếm tìm khắp bốn phương
Kiếm tìm đó
đã mỏi
Liền ở lại một thành
Xây dựng nên
nhà cửa
Năm món dục tự vui.
Nhà ông
giầu có lớn
Nhiều những kho
vàng, bạc
Xa-cừ, ngọc mã-não
Chân
châu, ngọc lưu-ly
Voi ngựa cùng
trâu dê
Kiệu, cán đủ xe cộ
Ruộng đất và tôi
tớ
Nhân dân
rất đông
nhiều
Xuất nhập thâu lời lãi
Bèn khắp đến nước khác
Khách thương người buôn
bán
Không xứ nào
không có,
Nghìn
muôn ức chúng hội
Vây quanh
cung kính ông,
Thường được bậc vua
chúa
Mến yêu nhớ tưởng đến,
Các quan,
hạng hào tộc
Ðều cũng đồng tôn trọng
Vì có các
sự duyên
Người tới lui rất đông,
Giầu mạnh như thế đó
Có thế lực rất lớn
Mà tuổi đã già
nua
Lại càng buồn nhớ con
Ngày đêm
luống suy
nghĩ
Giờ chết toan sắp đến
Con thơ dại bỏ ta
Hơn năm mươi năm
tròn,
Các của vật kho
tàng
Sẽ phải làm thế nào?
11.- Bấy giờ gã
cùng-tử
Ði tìm cầu ăn mặc
Ấp này đến ấp khác
Nước này
sang nước nọ,
Hoặc có khi
được của
Hoặc có khi
không được,
Ðói thiếu hình gầy gò
Thân-thể sanh ghẻ lác.
Lần lựa đi trải qua
Ðến thành
cha gã ở
Xoay vần làm
thuê mướn
Bèn đến trước nhà
cha.
Lúc ấy ông Trưởng-giả
Ðang ở trong
nhà ông
Giăng màn
châu báu lớn
Ngồi tòa sư-tử cao
Hàng quyến thuộc vây
quanh
Ðông người đứng hầu hạ,
Hoặc có người tính
toán
Vàng, bạc, cùng vật báu
Của cải ra hoặc vào
Biên chép
ghi giấy tờ.
Gã cùng-tử thấy cha
Quá mạnh giầu tôn
nghiêm
Cho là vị quốc-vương
Hoặc là đồng bậc vua,
Kinh sợ tự trách thầm
Tại sao lại đến đây?
Lại thầm tự nghĩ rằng:
Nếu ta đứng đây
lâu
Hoặc sẽ bị bức ngặt
Ép buộc sai khiến làm.
Suy-nghĩ
thế đó rồi
Rảo chạy mà đi
thẳng
Hỏi thăm
xóm nghèo-nàn
Muốn qua làm
thuê mướn.
12.- Lúc
bấy giờ Trưởng-giả
Ngồi trên
tòa sư-tử
Xa trông
thấy con
mình
Thầm lặng mà ghi
nhớ,
Ông liền bảo kẻ sứ
Ðuổi theo bắt đem về.
Gã cùng-tử sợ kêu
Mê ngất ngã
trên đất
Người này
theo bắt tôi
Chắc sẽ bị giết chết
Cần gì đồ ăn mặc
Khiến tôi đến thế này!
Trưởng-giả biết con
mình
Ngu dại lòng hẹp hèn
Chẳng chịu tin lời ta
Chẳng tin ta
là cha
Ông liền dùng phương-tiện
Lại sai hai
người khác
Mắt chột, thân
lùn xấu
Hạng không
có uy-đức!
Các người nên bảo nó
Rằng ta sẽ thuê nó
Hốt dọn các
phân nhơ
Trả giá bội cho nó.
Gã cùng-tử nghe rồi
Vui mừng theo sứ về
Vì dọn các
phân nhơ
Sạch sẽ các
phòng nhà
Trưởng-giả trong cửa sổ
Thường ngó thấy con
mình
Nghĩ con mình
ngu dại
Ưa thích
làm việc hèn.
Lúc đó
ông Trưởng-giả
Mặc y-phục cũ rách
Tay cầm đồ hốt phân
Qua đến chỗ con làm
Phương-tiện lần gần-gũi
Bảo-rằng: rán
siêng làm!
Ðã thêm
giá cho ngươi
Và cho dầu thoa
chân
Ðồ ăn uống đầy đủ
Thêm đệm chiếu đầy ấm
Cặn kẽ nói thế này:
Ngươi nên
siêng làm việc!
Rồi lại dịu-dàng bảo
Như con thực của ta.
13.- Ông
Trưởng-giả có trí
Lần lần cho ra
vào
Trải qua hai
mươi năm
Coi sóc
việc trong
nhà,
Chỉ cho biết vàng, bạc,
Ngọc
trân-châu, pha-lê
Các vật ra hoặc vào
Ðều khiến gã biết rõ.
Gã vẫn ở ngoài cửa
Nương-náu nơi am
tranh
Tự nghĩ phận
nghèo-nàn
Ta không
có vật đó.
Cha biết lòng
con mình
Lần lần đã rộng lớn
Muốn giao
tài vật cho
Liền nhóm cả thân-tộc
Quốc-vương các đại-thần
Hàng
Sát-Lợi, cư-sĩ
Rồi ở trong
chúng này
Tuyên nói
chính con ta
Bỏ ta đi nước khác
Trải hơn năm mươi năm,
Từ gặp con đến nay
Ðã hai mươi năm rồi
Ngày trước ở thành
kia
Mà mất đứa con này
Ta đi tìm
khắp nơi
Bèn đến ngụ nơi đây
Phàm của-cải ta có
Nhà cửa cùng
nhân-dân
Thảy đều phó cho
nó
Mặc tình nó
tiêu dùng.
Người con nhớ xưa nghèo
Chí ý rất kém hèn
Nay ở nơi cha
mình
Ðược quá nhiều
châu-báu
Và cùng với nhà cửa
Gồm tất cả tài vật,
Lòng rất đỗi vui mừng
Ðược điều chưa từng có.
14.- Ðức Phật cũng như thế
Biết con ưa tiểu-thừa
Nên chưa từng nói rằng
Các ngươi sẽ thành Phật
Mà chỉ nói
chúng con
Ðược có đức vô-lậu
Trọn nên quả tiểu-thừa
Hàng
Thanh-Văn đệ-tử
Ðức Phật bảo chúng
con
Nói đạo pháp tối-thượng
Người tu-tập pháp
này
Sẽ được thành
Phật quả
Chúng con
vâng lời Phật
Vì các Bồ-Tát lớn
Dùng các
món nhân-duyên
Cùng các
món thí dụ
Bao nhiêu
lời-lẽ hay
Ðể nói đạo Vô-thượng.
Các hàng
Phật-tử thảy
Từ nơi con
nghe pháp
Ngày đêm
thường suy-gẫm
Tinh-tấn siêng
tu-tập.
Bấy-giờ các đức Phật
Liền thụ-ký cho
kia:
Các ông ở đời sau
Sẽ được thành
Phật-đạo.
Pháp mầu rất bí tàng
Của tất cả các Phật
Chỉ để vì Bồ-tát
Mà dạy việc thực đó,
Nhưng chẳng vì
chúng con
Nói pháp
chân yếu này
Như gã
cùng-tử kia
Ðược gần bên người cha
Dầu lãnh biết các vật
Nhưng lòng
chẳng mong cầu,
Chúng con
dầu diễn nói
Tạng pháp
báu của Phật
Tự mình
không chí-nguyện
Cũng lại như thế đó.
15.-
Chúng con diệt bề trong
(18)
Tự cho là
đã đủ
Chỉ xong được việc này
Lại không
biết việc khác.
Chúng con
dầu có nghe
Pháp tịnh cõi nước Phật
Cùng
giáo-hóa chúng-sinh
Ðều không
lòng ưa vui.
Như thế là vì sao?
Vì tất cả các pháp
Thảy đều là
không lặng
Không
sinh cũng không diệt
Không lớn cũng
không nhỏ
Vô-lậu và
vô-vi,
Suy nghĩ
thế đó rồi
Chẳng sinh
lòng ưa muốn.
Chúng con
đã từ lâu
Ðối với trí-huệ Phật
Không
tham không ưa thích
Không lại có
chí-nguyện,
Mà đối với pháp
mình
Cho đó là
rốt-ráo.
Chúng con
từ lâu nay
Chuyên
tu-tập pháp
không
Ðược thoát
khỏi hoạn-nạn
Khổ não của ba cõi
Trụ trong
thân rốt sau
Hữu-dư-y Niết-bàn
(19)
Ðức Phật dạy bảo ra
Chứng được đạo chẳng luống
Thời là đã
có thể
Báo được ơn của Phật.
Chúng con
dầu lại vì
Các hàng
Phật-tử thảy
Tuyên nói
pháp Bồ-tát
Ðể cầu chứng Phật-đạo
Mà mình đối pháp đó
Trọn không
lòng ham muốn
Ðấng Ðạo-sư buông bỏ
Vì xem biết lòng
con
Ban đầu không
khuyên gắng
Nói những lời có thực
Như ông Trưởng-giả giầu
Biết con chí
kém hèn
Bèn dùng
sức phương-tiện
Ðể hoà phục tâm con
Vậy sau mới giao
phó
Tất cả tài vật báu
Ðức Phật cũng thế đó
Hiện ra việc ít có
Biết con ưa tiểu-thừa
Bèn dùng
sức phương-tiện
Ðiều phục tâm của con
Rồi mới dạy trí lớn.
Chúng con
ngày hôm nay
Ðược pháp chưa từng có
Chẳng phải chỗ trước mong
Mà nay tự-nhiên được
Như gã
cùng-tử kia
Ðược vô-lượng của báu
16.- Thế-Tôn!
Chúng con nay
Ðược đạo và chứng quả
Ở nơi pháp
vô-lậu
Ðược tuệ-nhãn
thanh-tịnh
Chúng con
từ lâu nay
Gìn tịnh-giới Phật chế
Mới ở ngày hôm
nay
Ðược hưởng quả báo đó,
Trong
pháp của Pháp-Vương
Lâu
tu-hành phạm-hạnh
Ngày nay
được vô-lậu
Quả báo lớn vô-thượng
Chúng con
ngày hôm nay
Mới thực là
Thanh-văn
Ðem tiếng đạo của Phật
Cho tất cả đều nghe
Chúng con
ngày hôm nay
Thực là
A-La-Hán
Ở nơi các thế-gian
Trời, người và ma,
phạm,
Khắp ở trong
chúng đó
Ðáng lãnh
của
cúng-dàng
Ơn lớn của Thế-Tôn
Ðem việc ít có
này
Thương xót dạy bảo cho
Làm lợi-ích
chúng con
Trải vô-lượng ức kiếp
Ai có thể đền được.
Tay lẫn chân
cung cấp
Ðầu đỉnh lễ
cung-kính
Tất cả đều
cúng-dàng
Ðều không
thể đền được.
Hoặc dùng đầu đội Phật
Hai vai
cùng cõng vác
Trong kiếp số hằng-sa
Tận tâm mà
cung-kính,
Lại đem dưng đồ ngon
Y phục báu
vô-lượng
Và các thứ đồ nằm
Cùng các
món thuốc thang
Gỗ ngưu-đầu
chiên-đàn
Và các vật trân-báu
Ðể dựng xây
tháp miếu
Y báu lót
trên đất
Như các việc trên
đây
Ðem dùng
cúng-dàng Phật
Trải kiếp số hằng-sa
Cũng
không đền đáp được.
Các Phật thật ít có
Ðấng vô-lượng
vô-biên
Ðến bất khả tư nghì
Ðủ sức thần-thông lớn,
Bậc vô-lậu vô-vi
Là vua của các Pháp
Hay vì kẻ hạ liệt
Nhẫn việc cao-thượng đó,
Hiện lấy tướng
phàm-phu
Tùy cơ nghi dạy nói
Các Phật ở nơi pháp
Ðược sức rất tự-tại
Biết các
hàng chúng-sinh
Có những điều ưa muốn
Và chí lực của nó
Theo sức nó kham
nhiệm
Dùng vô-lượng thí-dụ
Mà vì
chúng nói pháp
Tùy theo
các chúng-sinh
Trồng căn
lành đời trước
Lại biết đã
thành thục
Hay là chưa thành
thục
Suy lường những điều đó
Phân biệt biết rõ rồi
Ở nơi đạo nhất-thừa
Tùy cơ nghi nói
ba.
KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA
QUYỂN THỨ NHẤT
Bậc thượng căn
lãnh ngộ, Hàng
trung hạ nổi nghi, mở quyền bày thực hội ba thời. Pháp mầu tuyệt sự nói suy,
của báu
không riêng tư, toàn
giao phó cho con nhà.
Nam-mô
Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)
Ðức Như-Lai dụ nói ba
cõi làm nhà, ngoài cửa ba cõi
bày ba thứ xe, các
con đua giành ồn-ào, Trưởng-giả mừng khoe, Thụ-ký quả Phật không
sai.
Nam-mô Vị-Lai
Hoa-Quang Phật. (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Pháp-Hoa
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
THÍCH NGHĨA
(1 ) LẬU
TẬN:
Nhiễm
tâm phiền-não
đã hết
sạch,
đồng
nghĩa với:
'vô-lậu'.
(2 ) Thân
Phật
sắc
vàng tử-kim
đủ
32 tướng
tốt.
(3 ) Trí của
Phật
có 10 lực
dụng:
1. Thị-xứ
phi-xứ
trí-lực,
2. Nghiệp
trí-lực,
3. Thuyền-định
trí-lực,
4. Căn-tính
trí-lực,
5. Nguyện
dục
trí-lực,
6. Giới
trí-lực,
7. Ðạo
chí xử
trí-lực,
8. Túc-mệnh
trí-lực,
9.
Thiên-nhãn trí-lực,
10. Lậu-tận
trí-lực.
(4 ) BẤT
CộNG:
Bồ-tát
cùng Thanh-văn Duyên-giác đều không có, riêng Phật
là có 18 pháp này.
(5 ) BỒ-TÁT:
'Bồ-đề':
Giác; 'tát đõa': Hữu-tình; nói tắt
là Bồ-tát,
tức
là bậc
đã tự
hay giác-ngộ và có thể
cứu
độ
giác ngộ
loài hữu
tình.
(6 ) Tức
là Bà-la-môn.
(7 ) Tên của
Ma-Vương
ở
đầu
cõi dục.
(8 ) NGŨ UẨN:
Sắc
uẩn,
thụ
uẩn,
tưởng
uẩn,
hành uẩn,
thức
uẩn.
Cũng gọi
là ngũ ấm.
(9 ) NGŨ DụC:
1. Tài (sắc), sắc, danh, thực
(sự
ăn), thùy (ngủ nghỉ). 2. Sắc,
thanh, hương,
vị,
xúc.
(10) Bốn
đức
vô-sở-úy
của
Phật:
1. Nhất-thiết-trí
vô-úy,
2. Lậu
tận
vô-úy,
3. Thuyết
đạo
vô-úy,
4. Thuyết
khổ
tận
đạo
vô-úy.
(11) NĂM
CĂN: Tín căn, tinh-tấn căn, niệm
căn, định
căn, tuệ
căn. NĂM LỰC: tín lực, tinh tấn
lực,
niệm
lực,
định
lực,
tuệ
lực.
BẨY
GIÁC CHI: Trạch pháp, niệm, tinh tấn,
hỉ,
khinh an, định, xả. TÁM
CHÍNH ÐẠO:
chính kiến,
chính tư
duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh,
chính niệm,
chính
Tinh tấn,
chính định.
(12) Súy:
Cú tai mèo; Hiêu, Ðiêu, Thứu: Loài chim dữ,
tiếng
xấu.
THƯỚC:
Chim khách.
CƯU:
Tu-hú.
CÁP: Bồ
câu.
NGOAN-XÀ: Rắn
độc.
PHÚC-YẾT:
Bò-cạp.
NGÒ-CÒNG:
Rít.
DO-DIÊN: Trùng,
rận
ở
trong áo tơi.
DỨU
-LY: Chồn,
cáo.
H"-THỬ:
Giống
chuột.
KHƯƠNG-LƯƠNG:
Bọ
hung.
(13)
Thiên-nhãn minh, Túc-mệnh minh, Lậu-tận
minh.
(14)
Thiên-nhãn thông, thần-túc thông, thiên-nhĩ
thông, tha-tâm thông, túc-mệnh thông, lậu-tận
thông.
(15) TIN:
lòng tin.
(16) Khổ
khổ,
hoại
khổ,
hành khổ.
(17) HÍ-LUẬN:
Lời
luận
nói suông không sự thực,
đồng
nghĩa với
Hư-vọng.
(18) Diệt
lòng phiền-não:
1. Kiến
sở
đoạn
2. Tư
sở
đoạn.
(19) NIẾT-BÀN:
Tịch
tịnh;
viên tịch,
nghĩa là vắng bặt. Còn vọng
động
phiền-não
là còn tạo
nghiệp
thự
báo
sanh-tử.
Dứt
hẳn
vọng
động
phiền-não
khỏi
báo sanh-tử yên lặng nhàn vui nên gọi
Niết-bàn.
HỮU-DƯ
Y: Thân người hiện còn thừa
lại
rốt
sau cả.
Sự
Tích Tả
Kinh Thoát Khổ
Nhà Ðường,
niên-hiệu
Long-sóc năm thứ ba, xứ
Trường-An,
mẹ
vợ
ông Lưu-Công-Tín
chết.
Không bao
lâu cô họ
Trần,
vợ
ông Tín, cũng bỗng chết,
thần-hồn
đi đến
một
ngục
đá, thấy
mẹ
mình ở
trong cửa
đá thụ
nhiều
sự
khổ.
Khóc bảo
con gái rằng: 'Mau vì mẹ tả
một
bộ
kinh Pháp-Hoa ngõ hầu thoát khỏi
tội
này'. Nói vừa xong cửa đá liền
khép lại.
Cô họ
Trần
sống
lại,
thuật
chuyện
gặp
mẹ
với
chồng.
Ông Tín nhờ ông Triệu-Sư-Tử
tả
kinh, ông Triệu bèn đem một bộ
kinh Pháp-Hoa hiện đã thành tả
rất
tốt
giao cho ông Tín sửa sang, mà bộ
kinh đó vốn là của một
người
họ
Phạm
ra tiền
mướn
tả,
mà ông Tín thực chưa biết
cũng tin là ông Triệu tả
cho mình.
Không bao
lâu, cô họ Trần lại
nằm
chiêm bao thấy mẹ đòi kinh, cô nói rằng
đã tả
xong rồi.
Mẹ
liền
khóc rằng:
'Mẹ
chính vì bộ kinh đó mà càng bị khổ
thêm. Bộ
kinh đó vốn là nhà của họ
Phạm
tu phước,
sao lại
cướp
làm công của mình?' 'Sau khi thức dậy,
cô Trần
và ông Tín đi hỏi thăm lại,
thời
quả
thực
họ
Phạm
ra hai trăm tả kinh mà chính là bộ trên đó.
Vợ
chồng
liền
thuê người
tả
một
bộ
khác để
cúng-dàng hồi-hướng công-đức
cho mẹ.
Than-ôi! Công-đức tả kinh hay ấn tống lớn biết là dường nào? tội nặng bị khổ ở địa-ngục nhờ người tả một bộ kinh Pháp-Hoa mà còn có đủ phước để thoát khổ huống nữa là mình tự ra công tiền ư!
Comments
Post a Comment