NGHI THỨC LỄ SÁM
TRƯỚC KHI TỤNG GIỚI BỒ TÁT
(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng GIỚI BỒ TÁT, thời phước đức vô-lượng, nên trước khi tụng GIỚI BỒ TÁT cần phải LỄ SÁM, LỄ SÁM tức là làm cho ba nghiệp thanh tịnh)
THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI LỄ SÁM DIỆT TỘI
Đại-từ đại-bi mẫn chúng-sanh,
Đại-hỷ đại-xả tế hàm-thức,
Tướng hảo quang-minh dĩ tự-nghiêm,
Đệ-tử nhứt tâm quy-mạng lễ.
1) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Đông phương giải-thoát, chủ thế giới hư không Công đức mục tịnh vô cấu vi trần, Đẳng đoan chánh công đức tướng, Quang minh hoa ba đầu ma, diễm lưu ly quang sắc, Bảo thể hương, Tối thượng hương, Diệu cúng dường, Chủng chủng diệu thái trang nghiêm, Đảnh kế diệu tướng, Vô lượng vô biên, Nhựt Nguyệt quang minh, Nguyệt lực trang nghiêm, Biến hóa trang nghiêm, Quảng đại trang nghiêm, Pháp giới cao thắng, VÔ NHIỄM BẢO VƯƠNG NHƯ LAI. (1 lạy)
2) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Hào tướng thù thắng như nhựt nguyệt quang minh diệm, Bảo liên hoa quang sắc thân kiên như Kim cang, Tỳ lô giá na vô chướng ngại nhãn, Viên mãn thập phương, Phóng quang phổ chiếu, Nhất thiết Phật Sát TƯỚNG VƯƠNG NHƯ LAI. (1 lạy)
3) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Nhất thiết trang nghiêm VÔ CẤU QUANG NHƯ LAI. (1 lạy)
4) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Nam phương thế giới BIỆN TÀI ANH LẠC TƯ NIỆM NHƯ LAI. (1 lạy)
5) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương thế giới VÔ CẤU NGUYỆT TRÀNG TƯỚNG VƯƠNG DANH XƯNG NHƯ LAI. (1 lạy)
6) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Bắc phương thế giới HOA TRANG NGHIÊM TÁC QUANG MINH NHƯ LAI. (1 lạy)
7) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Đông Nam phương thế giới TÁC ĐĂNG MINH NHƯ LAI. (1 lạy)
8) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây Nam phương thế giới BẢO THƯỢNG TƯỚNG DANH XƯNG NHƯ LAI. (1 lạy)
9) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây Bắc phương thế giới VÔ ÚY QUÁN NHƯ LAI. (1 lạy)
10) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Đông Bắc phương thế giới VÔ ÚY VÔ KHIẾP MAO KHỔNG BẤT THỤ DANH XƯNG NHƯ LAI. (1 lạy)
11) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Hạ phương thế giới SƯ TỬ PHẤN TẤN CĂN NHƯ LAI. (1 lạy)
12) -NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Thượng phương thế giới KIM QUANG OAI ĐỨC TƯỚNG VƯƠNG NHƯ LAI. (1 lạy)
(Quỳ Tụng) – Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào phạm các tội Tứ trọng ngũ nghịch, Thập ác phỉ báng Tam Bảo , hàng tăng ni phạm tội Tứ khí, Bát khí, người ấy tội nặng, giả sử như đem cõi Diêm phù đề này, nghiền nát thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi là một kiếp tội, chỉ xưng lễ danh hiệu một vị Phật đầu tiên một lạy, thì bao nhiêu vi trần kiếp tội ấy điều được tiêu trừ . Huống chi ngày đêm đọc tụng, thọ trì, nhớ niệm không quên, kẻ đó sẽ được công đức không thể nghĩ bàn.
Lại nếu xưng lễ 12 lạy Danh hiệu của chư Phật trên đây, trong vòng 10 ngày Sám hối tất cả tội, khuyến thỉnh chư Phật trụ thế, và chuyển pháp luân, tùy hỉ tất cả công đức của tất cả chúng sinh, đem các căn lành mình tu, hồi hướng về giải thoát, hành trì như thế sẽ diệt được tất cả tội, sẽ trừ được tất cả nghiệp chướng, sẽ được trang nghiêm đầy đủ Phật độ, sẽ được đầy đủ đức vô úy, đầy đủ tướng hảo, đầy đủ hạnh Bồ Tát, quyến thuộc vây quanh, đầy đủ vô lượng tam muội, Đầy đủ cõi Phật trang nghiêm như ý, cho đến đầy đủ quả báo tốt đẹp, đáng ưa thích của quả Vô thượng bồ đề.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Nếu có thiện nam tử,
Cùng với thiện nữ nhơn,
Xưng lễ hiệu Phật trên.
Trong đời đời kiếp kiếp.
Sẽ được người yêu kính,
Tùy chỗ sanh ngôi vị,
Cao quý hơn tất cả.
Ánh sáng oai lực lớn,
Thành tựu đạo Bồ Đề.
NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM BẢO (3 lạy)
NGHI
TỤNG
GIỚI
BỒ TÁT
BÀI
TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật.
(3 lần)
BÀI
KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu,
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu,
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng;
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu!
Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3
lần)
Chúng
thọ Bồ-Tát giới lắng nghe !
Quy-mạng Lô-Xá-Na,
Mười phương Kim-Cương Phật.
Đảnh lễ Đức Di-Lặc
Sẽ hạ-sanh thành Phật
Nay tụng ba tụ giới
Bồ-Tát đều cùng nghe.
Giới như đèn sáng lớn
Soi sáng đêm tối tăm.
Giới như gương báu sáng
Chiếu rõ tất cả pháp.
Giới như Châu Ma-Ni
Rưới của giúp kẻ nghèo.
Thoát khổ mau thành Phật
Chỉ giới này hơn cả.
Vì thế nên Bồ-Tát
Phải tinh-tấn giữ-gìn.
- 29 tháng 4: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, nửa tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng rưỡi.
Chư
Đại-chúng ! Già chết gần kề, Phật-Pháp sắp diệt, Chư Đại-chúng, vì muốn đắc đạo
nên nhất tâm cần cầu tinh tấn. Chư Phật do nhất tâm cần cầu tinh-tấn nên đặng
chứng quả vô-thượng chánh-giác, huống là các pháp lành khác.
Nhân lúc còn mạnh khỏe, các Ngài phải gắng sức siêng tu
pháp lành. Đâu nên chẳng gấp cầu đạo lại chần chờ đợi già yếu.
Còn mong mỏi thú vui gì ?
Ngày
nay đã qua.
Mạng
sống giảm lần,
Như
cá cạn nước.
Nào
có vui chi !!
Hỏi : Chúng nhóm chưa ? ( Vị tụng giới hỏi )
Đáp : Chúng đã nhóm. ( Vị tri-sự đáp ).
Hỏi : Hòa-hiệp chăng ?
Đáp : Hòa-hiệp.
Hỏi : Chúng nhóm họp để làm gì ?
Đáp : Thuyết giới bố-tát.
Hỏi : Người chưa thọ giới Bồ-Tát và người không thanh-tịnh ra chưa ?
Đáp : Trong đây không có người chưa thọ giới Bồ-Tát và người không thanh-tịnh.
( Nếu có thì bảo ra rồi đáp rằng : - Người chưa thọ giới Bồ-Tát và không thanh-tịnh đã ra ).
Hỏi : Có bao nhiêu vị Bồ-Tát khiếm-diện thuyết-dục và thanh-tịnh ?
Đáp : Trong đây không có Bồ-Tát khiếm-diện thuyết-dục và thanh-tịnh.
( Nếu có thời ra thuyết-dục. Nên ra thưa : - Chư Đại-Đức lắng nghe cho. Tôi là Bồ-Tát ... có lãnh giữ dục cho Bồ-Tát ... những việc làm đúng pháp của Tăng, Bồ-Tát ... giữ dục và thanh-tịnh).
Chư Đại-chúng! Chắp tay chí tâm lắng nghe ! - Nay tôi sắp tụng lời tựa về pháp Đại-Thừa của Chư Phật. Đại-chúng lẳng-lặng lắng nghe. Trong đây vị nào biết mình có tội phải sám-hối. Sám-hối thời được an vui. Không sám-hối thì tội lỗi càng thêm nặng. Người không có lỗi thời yên lặng. Vì yên lặng nên biết đại-chúng thanh-tịnh.
Chư Đại-chúng
lắng nghe ! Sau khi đức Phật diệt-độ, trong thời mạt-pháp, nên phải tôn
kính Ba-La-Đề-Mộc-Xoa. Ba-La-Đề-Mộc-Xoa chính là giới pháp nầy. Trì
giới này thời như đi đêm tối gặp đèn sáng, như người nghèo được của
báu, như bịnh được lành, như người tù được thả, như kẻ đi xa được về nhà . Nên
biết rằng giới-pháp nầy là đức Thầy sáng-suốt của đại-chúng, không khác đức
phật còn ở đời.
Nếu
không có lòng sợ tội, thời tâm lành khó nẩy nở. Cho nên trong Kinh có lời
dạy : - Chớ xem thường lỗi nhỏ mà cho là không hại, giọt nước dầu nhỏ
mà lần đầy cả chum lớn. Lúc tạo tội chừng trong giây phút, mà phải nghìn muôn
năm chịu khổ nơi địa-ngục. Một phen bị đọa-lạc mất thân người, thời muôn đời
khó đặng lại.
Sắc
trẻ không dừng, dường như ngựa chạy. Mạng người vô-thường, mau hơn nước dốc.
Ngày nay dầu còn, khó bảo-đảm được ngày mai. Đại chúng, mỗi người
nên nhất tâm cần cầu tinh tấn. Chớ biếng-nhác trễ lười, phóng
túng ngủ nghỉ. Ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật tham-thiền,
chớ để thời gian luống qua vô-ích, mà sau này phải ăn-năn.
Đại-chúng
mỗi người nên nhất tâm cung-kính y theo giới nầy, như
pháp tu-hành, cần nên học tập.
- Chư Đại-chúng ! Nay là ngày thứ 29 không trăng, làm phép Bố-Tát tụng Bồ-Tát giới. Đại chúng nên nhất tâm nghe kỹ.
Ai
có tội thời phát lồ. Người không tội thời im-lặng. Vì im-lặng nên biết Đại-chúng
thanh-tịnh, có thể tụng giới Bồ-Tát. Tôi đã tụng lời tựa của giới Bồ-Tát rồi.
Nay
xin hỏi Đại-chúng đây được thanh tịnh không ? ( Hỏi
3 lần)
Thưa
Đại-chúng ! Trong đây thanh-tịnh, vì im-lặng. Việc này xin nhận biết như
vậy.
Nam-Mô Phạm-Võng Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3
lần)
PHẬT
THUYẾT
PHẠM VÕNG KINH
BỒ TÁT TÂM ĐỊA PHẨM
I.-
LÔ XÁ NA PHẬT
Bấy
giờ, đức Phật Lô-Xá-Na vì trong đại-chúng lược giảng Tâm-Địa ” như chừng đầu sợi lông
trong số trăm nghìn hằng-hà-sa bất-khả-thuyết pháp-môn.
Ngài kết “Tâm-Địa đây chính là lời
của tất cả Phật
thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật
thời hiện-tại đương giảng. Cũng là pháp-môn mà tất cả Bồ-Tát đã học, sẽ học
và đương học.
Ta đã từng trăm A-Tăng-Kỳ kiếp tu-tập tâm-địa nầy, do đó ta được hiệu là
Lô-Xá-Na. Chư Phật ! Các Ngài đem lời giảng của ta đây hầu mở con đường tâm-địa
cho hết thảy chúng-sanh “.
Liền đó, từ trên Tòa Thiên-Quang Sư-Tử rực-rỡ nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, đức Phật Lô-Xá-Na phóng ra những tia sáng.
Trong tia sáng ấy có tiếng nói với chư Phật đang ngự trên nghìn
cánh sen báu : " Các Ngài thọ-trì phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn của ta đây, rồi tuần tự đem
giảng lại cho nghìn trăm ức Thích-Ca cùng tất cả chúng-sanh. Ai nấy đều
nên thọ-trì đọc tụng và nhất-tâm vâng làm ".
Sau khi lãnh-thọ phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn, chư Phật đang ngự trên nghìn cánh sen báu cùng nghìn trăm ức đức Thích-Ca đồng đứng
dậy rời khỏi tòa Sư-Tử. Toàn thân của các Ngài chiếu ra vô-số tia
sáng. Trong mỗi tia sáng ấy đều hóa hiện vô-lượng đức
Phật, đồng thời tung lên vô-lượng hoa đẹp xanh, vàng, đỏ, trắng để
cúng-dường đức Phật Lô-Xá-Na. Cúng-dường xong, chư Phật từ tạ trở
về.
Khi rời khỏi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, chư Phật vào chánh-định thể tánh hư-không
hoa-quang, mỗi Ngài trở lại chốn cũ, dưới cội Bồ-Đề nơi cõi Diêm-Phù.
Sau khi ra khỏi chánh-định thể-tánh hư-không hoa-quang, đức Phật mới
ngự trên tòa Kim-Cương Thiên-Quang-Vương và Diệu-Quang-Đường mà giảng về Thập
Thế-Giới-Hải.
Rồi đức Phật giảng pháp Thập-Trụ nơi cung Đế-Thích, giảng
pháp Thập-Hạnh nơi cung trời Diệm-Ma, giảng pháp Thập Hồi-Hướng
nơi cung trời Đâu-Xuất, giảng pháp Thập Thiền-Định nơi cung trời
Hóa-Lạc, giảng pháp Thập-Địa nơi cung Trời Tha-Hóa, giảng pháp Thập
Kim-Cương cõi Sơ-Thiền, giảng pháp Thập-Nhẫn nơi cõi Nhị-Thiền, giảng
pháp Thập-Nguyện nơi cõi Tam-Thiền, và sau cùng ở Tứ-Thiền nơi cung của Đại-Tự-Tại
Thiên-Vương, đức Phật giảng Phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn mà thủa trước đức
Phật Lô-Xá-Na đã giảng ở thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng.
Tất
cả nghìn trăm ức đức Thích-Ca ở nơi Thế-giới của mình đều giảng nói như thế cả.
II.- THÍCH
CA MÂU NI PHẬT
Bấy
giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni, từ lúc sơ-khởi hiện thân nơi thế-giới
Liên-Hoa Đài-Tạng, rồi qua phương Đông đến tại cung của Thiên-Vương, diễn nói
kinh Ma-Thọ-Hóa. Sau đó, Ngài giáng-sanh nơi cõi Nam-Diêm-Phù-Đề tại nước Ca-Tỳ-La,
Vua Bạch-Tịnh
là thân-phụ, và Hoàng-Hậu Ma-Gia là sinh mẫu, nhũ-danh của Ngài là Tất-Đạt-Đa.
Xuất
gia bảy năm, ba mươi tuổi thành đạo hiệu Ngài là Thích-Ca
Mâu-Ni Phật.
Từ
Bửu-Tòa Kim-Cương Hoa-Quang nơi đạo-tràng Tịch-diệt nhẫn đến nơi cung của Đại-Tự-Tại
Thiên-Vương, trong mười nơi ấy đức Phật tuần-tự ngự đến thuyết-pháp.
Lúc
đó nhơn khi xem bửu-tràng mành lưới của Đại-Phạm Thiên-Vương, đức Phật vì
đại-chúng mà giảng Kinh Phạm-Võng.
Ngài dạy rằng : - Vô-lượng thế-giới dường như là lỗ lưới. Mỗi thế-giới đều khác
nhau cả, khác nhau đến số vô-lượng. Giáo-pháp của Phật cũng như vậy.
Đức Phật đã tám nghìn lần đến thế-giới Ta-Bà nầy, ngự trên Bửu-Tòa
Kim-Cương Hoa-Quang nhẫn đến ngự nơi cung của Đại-Tự-Tại Thiên-Vương, lược giảng
Tâm-Địa
Pháp-Môn cho cả thảy đại-chúng
trong những Pháp-Hội ấy.
Sau
đó từ cung của Thiên-Vương, đức Phật trở xuống ngự dưới cội Bồ-Đề nơi
cõi Diêm-Phù, vì tất cả chúng-sanh trên quả đất nầy, hạng người Phàm ngu tối
mà giảng một giới-pháp Kim-Cương Quang-Minh Bửu-Giới. Giới-Pháp nầy là lời thường
trì tụng của Phật-Lô-Xá-Na, khi Ngài mới phát Bồ-Đề tâm trong thời
kỳ tu nhân của Ngài. Giới pháp nầy cũng chính là bổn-nguyên của
tất cả Phật, là bổn-nguyên của tất cả Bồ-Tát và là chủng-tử của Phật-Tánh. Tất
cả chúng-sanh đều có Phật-Tánh.
Tất
cả ý-thức, sắc, tâm, là tình, là tâm đều vào trong phạm-vi giới-pháp Phật-Tánh.
Vì chắc-chắn thường có chánh-nhân, nên chắc-chắn Pháp-Thân thường-trụ.
Mười
Ba-La-Đề-Mộc-Xoa như thế xuất hiện trong đời. Giới-pháp nầy là chỗ
kính-trọng thọ-trì của tất cả chúng-sanh trong ba thuở.
Giờ
đây, đức Phật sẽ vì trong đại-chúng nầy mà giảng lại Giới-Phẩm Vô-Tận-Tạng,
là Giới-Phẩm của tất cả chúng-sanh, bổn-nguyên tự-tánh thanh-tịnh.
Nay
ta là Lô-Xá-Na
Đương ngồi trên đài Liên-Hoa.
Trên nghìn cánh sen đơm vòng
Lại hiện ra nghìn Thích-Ca.
Mỗi cánh sen trăm ức cõi
Mỗi cõi một Phật Thích-Ca.
Đều ngồi dưới cội Bồ-Đề
Đồng thời thành chánh-giác đạo.
Nghìn trăm ức Phật như vậy
Lô-Xá-Na là bổn thân.
Nghìn trăm ức Phật Thích-Ca
Đều đem theo vi-trần chúng
Cùng nhau đến tại chỗ ta
Để nghe ta tụng Phật-Giới,
Ta liền giảng môn Cam-Lộ.
Bây giờ nghìn trăm ức Phật,
Trở về đạo-tràng của mình,
Đều ngồi nơi cội Bồ-Đề
Tụng mười trọng, bốn-mươi-tám
Giới của Bổn-Sư Xá-Na,
Giới như vừng nhựt-nguyệt sáng,
Cũng như chuỗi báu ngọc châu,
Chúng Bồ-Tát như vi-trần
Do giới này mà thành Phật,
Đây là đức Xá-Na tụng
Ta đây cũng tụng như vậy.
Các ông tân-học Bồ-tát
Phải cung kính thọ trì-giới !
Khi thọ trì giới nầy rồi
Nên truyền lại cho chúng-sanh,
Lắng nghe ta đang trì tụng
Pháp Ba-La-Đề-Mộc-Xoa
Là giới-tạng trong Phật-Pháp.
Đại-Chúng lòng nên tin chắc :
Các người là Phật sẽ thành,
Ta đây là Phật đã thành.
Thường có lòng tin như vậy
Thời giới-phẩm đã tròn-vẹn
Tất cả những người có tâm
Đều nên nhiếp hộ Phật-Giới.
Chúng-sanh nào thọ Phật-Giới
Chính là vào hàng chư Phật.
Đã đồng hàng bực Đại-Giác
Mới thật là con chư Phật.
Đại-Chúng đều nên cung-kính
Chí tâm nghe lời ta tụng.
III.- ĐỨC
PHẬT KIẾT BỒ TÁT GIỚI
Thủa
ấy, đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, lúc mới thành đạo vô-thượng
chánh-giác trong khi ngồi dưới cội Bồ-Đề, Ngài bắt đầu kiết Bồ-Tát Giới. Ngài dạy :
Hiếu thuận với cha mẹ,
Sư-Tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận pháp chí-đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi
là cấm ngăn.
Liền
đó, từ nơi miệng, đức Phật phóng ra vô-lượng tia sáng. Bấy-giờ
có đến trăm vạn ức đại-chúng, các Bồ-Tát, mười tám Phạm-Thiên, sáu cõi Trời Dục,
mười sáu đại Quốc-vương đồng chắp tay chí tâm nghe đức
Phật tụng Giới-Pháp đại-thừa của tất cả chư Phật.
Đức
Phật nói với các vị Bồ-Tát :
Nay
ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới-pháp của chư Phật. Tất cả hàng Bồ-Tát sơ
phát tâm, nhẫn đến các Bồ-Tát thập Phát-Thú. Thập Trưởng-Dưỡng, Thập Kim-Cương,
Thập-Địa cũng tụng giới ấy. Vì thế nên giới-quang từ miệng ta phóng ra. Phóng
quang là vì có duyên do, chớ chẳng phải vô cớ. Giới-Quang ấy chẳng
phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, chẳng phải sắc-pháp, cũng chẳng phải
tâm-pháp, chẳng phải pháp-hữu, pháp-vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả.
Nó chính là bổn-nguyên của chư Phật, là căn-bổn của chúng Phật-Tử. Vì thế nên
chúng Phật-Tử phải thọ-trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới-pháp nầy.
Chúng Phật-Tử lắng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ-Tát nầy, không luận
là Quốc-Vương Thái-Tử, các Quan-chức hay Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, không luận
là chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ-dân, huỳnh-môn,
dâm-nam, dâm-nữ hay hàng nô-tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ-thần, thần
Kim-Cương hay loài súc-sanh nhẫn đến kẻ biến-hóa hễ ai nhận hiểu được lời truyền
giới của Pháp-Sư thời đều thọ đặng giới, và đều gọi là thanh-tịnh thứ nhất.
IV.- MƯỜI
GIỚI TRỌNG
Đức
Phật bảo các Phật-Tử rằng :
Có mười điều giới trọng. Nếu người thọ giới Bồ-Tát mà không tụng điều
giới nầy, thời người ấy không phải Bồ-Tát, không phải Phật-Tử. Chính ta cũng tụng
như vậy.
Tất
cả Bồ-Tát đã học, sẽ học và đương học.
Đã
lược giảng xong tướng-trạng của giới Bồ-Tát cần nên học, hết lòng kính-trọng
phụng-trì. Đức Phật dạy :
1.- GIỚI
SÁT SANH
Nếu
Phật-Tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, phương tiện giết, khen
tặng sự giết, thấy giết mà tùy-hỉ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết : Nhân giết,
duyên giết, cách-thức giết, nghiệp giết.
Phàm
tất cả loài hữu-tình có mạng sống đều không được cố ý giết. Là Phật-Tử,
lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, lập thế cứu giúp tất cả
chúng-sanh, mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát-sanh, Phật-Tử này phạm
Bồ-Tát
“Ba-La-Di tội”.
2.-
GIỚI TRỘM CƯỚP
Nếu
Phật-Tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương-tiện trộm cướp, nhẫn đến
dùng bùa chú trộm cướp : Nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp,
nghiệp trộm cướp.
Tất
cả tài-vật có chủ, dầu là của quỷ-thần hay kẻ giặc cướp, nhẫn đến một cây kim,
một ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng
từ-bi, lòng hiếu-thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được
vui, mà trái lại trộm cướp tài-vật của người, Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
3.-
GIỚI DÂM
(TẠI
GIA: GIỚI TÀ DÂM )
Nếu
Phật-Tử, tự mình dâm dục, bảo người dâm-dục, với tất cả phụ-nữ, các loài
cái, loài mái, cho đến Thiên-Nữ, Quỷ-nữ, Thần-nữ cùng phi-đạo mà hành
dâm : Nhân dâm-dục, duyên dâm-dục, cách-thức dâm-dục, nghiệp dâm-dục.
Là
Phật-Tử, đối với tất cả không được cố dâm-dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu-thuận, cứu-độ
tất cả những chúng-sanh, đem pháp thanh-tịnh khuyên dạy người, mà trái lại không
có tâm từ-bi, làm cho mọi người sanh việc dâm-dục, không lựa
súc-sanh, cho đến hành-dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân,
Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
4.-
GIỚI VỌNG
Nếu
Phật-Tử, mình nói vọng-ngữ, bảo người vọng-ngữ, phương-tiện vọng-ngữ : Nhân vọng-ngữ,
duyên vọng-ngữ, cách-thức vọng-ngữ, nghiệp vọng-ngữ.
Nhẫn
đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng-ngữ, tâm vọng-ngữ.
Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn chánh-ngữ, chánh-kiến, và cũng làm cho tất cả
chúng-sanh có chánh-ngữ, chánh-kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà-ngữ,
tà-kiến, tà-nghiệp, Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
5.-
GIỚI BÁN RƯỢU
Nếu
Phật-Tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu : Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cách-thức
bán rượu, nghiệp bán rượu.
Tất
cả rượu không được bán - Rượu là nhân-duyên sanh tội lỗi. Là Phật-Tử, lẽ
ra phải làm cho tất cả chúng-sanh có trí-tuệ sáng-suốt, mà trái lại đem
sự mê say điên-dảo cho tất cả chúng-sanh, Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
6.-
GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
Nếu
Phật-Tử, tự miệng rao nói tội lỗi, của Bồ-Tát xuất-gia, Bồ-Tát tại-gia, Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy : Nhân rao
nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách-thức rao nói tội-lỗi, nghiệp
rao nói tội-lỗi.
Là
Phật-Tử, khi nghe những kẻ ác, ngoại-đạo cùng người nhị-thừa nói những điều
phi-pháp, trái Luật trong Phật-Pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ-bi
giáo-hóa những kẻ ác ấy cho họ sanh tín-tâm lành đối với đại-thừa, mà trái
lại Phật-Tử lại tự mình rao nói những tội lỗi trong Phật-Pháp,
Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
7.- GIỚI
TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
Nếu
Phật-Tử, tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người :
Nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người.
Là
Phật-Tử, lẽ ra phải thay thế chịu những sự khinh chê khổ-nhục cho tất cả
chúng-sanh, mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật-Tử tự
phô dương tài-đức của mình mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị
khinh chê, Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
8.-
GIỚI BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
Nếu
Phật-Tử, tự mình bỏn-sẻn, bảo người bỏn-sẻn : Nhân bỏn-sẻn, duyên bỏn-sẻn,
cách-thức bỏn-sẻn, nghiệp bỏn-sẻn.
Phật-Tử
khi thấy những người bần-cùng đến cầu xin, phải cấp cho theo chỗ cần
dùng của họ. Mà Phật-Tử lại đem lòng giận ghét, cho đến không
cho một mảy, có người đến cầu học giáo-pháp cũng chẳng nói một kệ một câu, lại
còn xua đuổi quở mắng, Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
9.-
GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
Nếu
Phật-Tử, tự mình giận, bảo người giận : Nhân giận, duyên giận, cách thức giận,
nghiệp giận.
Người
Phật-Tử lẽ ra phải làm cho tất cả chúng-sanh được những căn lành không gây gổ, thường
có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận. Mà trái lại, đối với trong tất cả chúng-sanh, cho
đến trong loài phi chúng-sanh, đem lời ác mạ-nhục, còn thêm dùng tay,
chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ, cho đến nạn-nhân
kia lấy lời nhỏ nhẹ xin lỗi, cầu sám-hối tạ-tội, nhưng vẫn còn không
hết giận, Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
10.-
GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
Nếu
Phật-Tử, tự mình hủy-báng Tam-Bảo, xúi người hủy-báng Tam-Bảo : Nhân hủy-báng,
duyên hủy-báng, cách-thức hủy-báng, nghiệp hủy-báng.
Phật-Tử
nghe một lời hủy-báng Tam-Bảo của ngoại-đạo và kẻ ác, còn đau lòng như
ba trăm cây nhọn đâm vào tim mình, huống là tự miệng mình hủy-báng ! Không
có đức tin và lòng hiếu-thuận đối với Tam-Bảo, lại còn giúp sức cho
những kẻ ác, kẻ tà-kiến hủy-báng nữa, Phật-Tử này phạm Bồ-Tát “Ba-La-Di tội”.
V.- ĐỨC
PHẬT KẾT RĂN
Nầy
các Phật-Tử ! Trên đây là mười giới trọng của Bồ-Tát, các Phật-Tử cần
nên học. Trong mười giới đó không nên trái phạm một giới nào cả, dầu
một mảy nhỏ như vi-trần, huống chi phạm đủ cả mười giới ư !
Nếu
có người nào trái phạm, thời người ấy hiện đời không được phát Bồ-Đề tâm,
rồi cũng mất ngôi Quốc-Vương, ngôi Chuyển-Luân-Vương, ngôi Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni,
cũng mất những quả Thập Phát Thu, Thập Trưởng-Dưỡng, Thập Kim-Cương, Thập-Địa, tất cả diệu
quả Phật-Tánh thường-trú đều mất, đọa trong ba ác-đạo, trong hai kiếp, ba
kiếp chẳng được nghe danh-tự của cha mẹ và Tam-Bảo. Vì thế nên không
được phạm một giới nào cả. Tất cả Bồ-Tát các Ngài đã học, sẽ học và hiện nay học. Mười
giới như thế cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì.
VI.-
48 ĐIỀU GIỚI KHINH
Đức
Phật bảo các vị Bồ-Tát rằng :
Đã
giảng mười giới trọng rồi, nay tôi sẽ nói về bốn mươi tám giới khinh.
1.- GIỚI
KHÔNG KÍNH THẦY BẠN
Nếu
Phật-Tử, lúc sắp lãnh ngôi Quốc-Vương, ngôi Chuyển Luân-Vương, hay sắp lãnh chức
Quan, trước nên thọ giới Bồ-Tát. Như thế tất cả Quỷ-thần cứu hộ thân
Vua và thân các Quan, Chư Phật đều hoan hỷ.
Đã đắc giới rôài, Phật-Tử nên có lòng hiếu thuận và cung
kính. Nếu thấy có bực Thượng-Tọa, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê, những bực Đại-Đức, đồng
học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy
chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như Pháp cúng dường, hoặc tự bán
thân cho đến Quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung
cấp các bực ấy. Nếu Phật-Tử lại sanh lòng kiêu mạn, sân hận,
ngu-si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y
theo Pháp mà cúng dường, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
2.-
GIỚI UỐNG RƯỢU
Nếu
Phật-Tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sanh ra vô-lượng tội
lỗi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống sẽ mang ác báo : Năm
trăm đời không tay, huống là tự uống. Cũng chẳng tự bảo người và tất cả
chúng-sanh uống rượu, huống là tự mình uống ! Tất cả các thứ rượu, Phật-Tử
không được uống. Nếu mình cố uống cùng bảo người uống, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
3.-
GIỚI ĂN THỊT
Nếu
Phật-Tử cố ăn thịt, tất cả thịt của mọi loài chúng-sanh đều không được ăn.
Luận về người ăn thịt thời mất lòng đại từ-bi, dứt giống Phật-Tánh,
tất cả chúng-sanh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt mắc
vô-lượng tội lỗi. Vì thế nên tất cả Phật-Tử không được ăn tất cả thứ thịt
của mọi loài chúng-sanh. Nếu cố ăn thịt, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
4.-
GIỚI ĂN NGŨ TÂN
Nếu
Phật-Tử, chẳng được ăn loại “ Ngũ
tân ” loại hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ. Loại ngũ tân này gia vào trong tất
cả các thực phẩm đều không được ăn. Nếu cố ăn, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
5.- GIỚI
KHÔNG DẠY NGƯỜI SÁM TỘI
Nếu
Phật-Tử khi thấy người phạm ngũ giới, bát giới, thập giới, phá
giới, hay phạm thất nghịch, bát-nạn, tất cả tội phạm giới.
. . phải khuyên bảo người ấy sám-hối. Nếu Phật-Tử chẳng khuyên bảo người phạm
tôäi sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, đồng chúng Bồ-Tát, đồng thuyết
giới, mà không cử tôäi người ấy, không nhắc người ấy sám-hối, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
6.- GIỚI
KHÔNG CÚNG DƯỜNG THỈNH PHÁP
Nếu
Phật-Tử, thấy có vị Pháp-Sư Đại-thừa hay những bực đồng học, đồng kiến, đồng
hạnh Đại-thừa, từ trăm dặm nghìn dặm đến nơi Tăng phường, nhà cửa, thành ấp
thời liền đứng dậy rước vào, đưa đi, lễ bái, cúng dường. Mỗi
ngày ba thời cúng duờng, trăm thức uống ăn, giường ghế, thuốc men, tất
cả đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cấp hộ cho Pháp-Sư. Mỗi
ngày : Sáng, trưa và chiều, thường thỉnh Pháp-Sư thuyết
Pháp và đảnh lễ. Không hề có lòng sân hận buồn rầu. Luôn thỉnh Pháp
không mỏi nhàm, chỉ trọng Pháp chứ không kể thân. Nếu Phật-Tử không như thế
thời phạm “Khinh cấu tội”.
7.- GIỚI
KHÔNG ĐI NGHE PHÁP
Nếu
Phật-Tử, hàng Tân-học Bồ-Tát, phàm nơi nào, chốn nào có giảng Kinh, Luật,
phải mang Kinh, Luật đến chỗ Pháp-Sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc
nơi núi rừng, trong vườn cây, chùa, nhà ... Tất cả chỗ thuyết
pháp đều đến nghe học. Nếu Phật-Tử không đến nơi ấy để nghe
Pháp cùng thưa hỏi, thời phạm “Khinh cấu tội”.
8.-
GIỚI CÓ TÂM TRÁI BỎ ĐẠI THỪA
Nếu
Phật-Tử, có quan niệm trái bỏ Kinh Luật Đại-thừa thường trụ, cho
rằng không phải của Phật nói mà đi thọ trì Kinh Luật tà kiến và
tấ cả cấm giới của Thanh-văn Nhị-thừa cùng ngoại đạo ác kiến,
Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
9.- GIỚI
KHÔNG SĂN SÓC BỊNH
Nếu
Phật-Tử, thấy tất cả người tật bệnh phải tận tâm cúng dường như cúng
dường Phật. Trong tám phước điền, khán bệnh là Phước điền thứ
nhất. Nếu như cha
mẹ, sư Tăng cùng đệ-tử có bệnh, có tật, trăm thứ bệnh đau khổ, đều
nên săn sóc cho được lành mạnh, Phật-tử lại vì lòng hờn giận không
chăm nuôi, nhẫn đến thấy trong tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng đồng
nội, đường xá có người tật bệnh mà không lo cứu tế, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
10.-
GIỚI CHỨA KHÍ CỤ SÁT SANH
Nếu
Phật-Tử không đặng cất chứa những binh khí, như dao, gậy, cung, tên, búa, giáo,
... cùng những đồ sát sanh như chài, lưới, rập, bẫy ... Là Phật-Tử, dầu cho
đến cha mẹ bị người giết, còn không báo thù, huống lại đi giết tất
cả chúng-sanh ! Không được cất chứa những khí cụ sát sanh ! Nếu cố cất
chứa, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
Mười giới như thế, cần nên
học và kính trọng phụng trì.
11.-
GIỚI ĐI SỨ
Nếu
Phật-Tử, chẳng đặng vì quyền lợi và ác tâm mà đi
thông sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận, đem
binh đánh nhau làm cho vô-lượng chúng-sanh bị giết hại. Là
Phật-Tử còn không được vào, cùng qua lại trong quân trận, huống lại cố
làm môi giới chiến tranh. Nếu cố làm, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
12.-
GIỚI BUÔN BÁN PHI PHÁP
Nếu
Phật-Tử cố bán người lành, tôi trai, tớ gái, lục-súc, buôn bán quan tài, ván
cây, đồ đựng thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống lại bảo
người. Nếu cố tự buôn bán, hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
13.-
GIỚI HỦY BÁNG
Nếu Phật-Tử, vì ác tâm, nơi người tốt, người lành, Pháp-sư, Sư-tăng, hoặc Quốc-vương và hàng quý nhân, vốn vô sự mà hủy báng là phạm bảy tội nghịch, mười giới trọng. Với cha, mẹ, anh, em, lục thân phải có lòng từ-bi, lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tội nghịch, đọa nơi ác đạo, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
14.-
GIỚI PHÓNG HỎA
Nếu
Phật-Tử, vì tâm ác, phóng hỏa đốt núi, rừng, đồng nôäi. Từ tháng tư đến tháng
chín phóng hỏa. Hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng
cây của người và cung điện tài vật của Quỷ-thần. Tất cả chỗ có sanh vật không
được cố thiêu đốt. Nếu cố thiêu đóát, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
15.-
GIỚI DẠY GIÁO LÝ NGOÀI ĐẠI THỪA
Nếu
Phật-Tử, từ Phật đệ-tử, lục thân, tất cả thiện tri-thức, đến ngoại-đạo ác
nhân, đều phải khuyên bảo thọ trì Kinh Luật Đại-thừa. Nên giảng cho
hiểu nghĩa lý khiến phát Bồ-Đề Tâm, Thập-Phát-Thu, Thập Trưởng-Dưỡng
Tâm, Thập Kim-Cương Tâm. Trong ba mươi tâm ấy, giảng cho họ hiểu Pháp dụng tuần
thứ của mỗi món. Mà Phật-tử lại vì ác tâm, sân tâm đem Kinh Luật
của Thanh-Văn Nhị-thừa, cùng các bộ Luận của ngoại-đạo tà kiến để dạy
ngang cho người, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
16.-
GIỚI VÌ LỢI MÀ GIẢNG PHÁP LỘN LẠO
Nếu
Phật-Tử, phải tận-tâm học Kinh-Luật oai-nghi đại-thừa. Thông hiểu nghĩa-lý,
khi thấy có hàng tân-học Bồ-Tát từ xa trăm dặm nghìn dặm đến cầu học Kinh Luật
Đại-thừa, nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ-hạnh, hoặc đốt
thân, đốt cánh tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón
tay cúng dường chư Phật thời không phải là hàng Bồ-Tát xuất-gia.
Nhẫn đến xả thịt nơi thân mình cùng tay chân mà bố-thí cho tất cả những cọp,
sói, sư-tử đói, cùng tất cả loài quỷ đói. Rồi sau mới tuần tự theo
căn-cơ của mỗi người mà giảng chánh-pháp cho hàng tân-học ấy được mở thông
tâm-ý. Nếu Phật-tử vì quyền-lợi, đáng dạy mà không dạy, lại giảng Kinh-Luật một
cách điên-đảo, văn-tự lộn-xộn không có thứ lớp trước sau, thuyết-pháp có tánh
cách hủy-báng Tam-Bảo, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
17.-
GIỚI CẬY THẾ LỰC LẤY TIỀN CỦA
Nếu
Phật-Tử, tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi-dưỡng, danh-dự mà
thân-cận Quốc-Vương, Hoàng-Tử cùng các Quan, nương quyền cậy thế bức
người để lấy tiền của, lại bảo người khác cũng cầu lợi như vậy.
Tất cả sự cầu lợi ấy gọi là ác-cầu, đa-cầu, đều không có lòng từ-bi,
lòng hiếu-thuận, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
18.- GIỚI
KHÔNG THÔNG HIỂU MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI
Nếu
Phật-Tử, phải học mười hai phần Kinh, thường tụng giới. Mỗi ngày sáu thời,
nghiêm-trì Bồ-Tát giới, hiểu rõ nghĩa lý-tánh Phật-Tánh của giới. Nếu
Phật-Tử không hiểu một kệ một câu cùng nhân-duyên của Giới-Luật, mà dối rằng thông
hiểu, đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác. Không hiểu một
Pháp, không biết một Luật mà lại đi làm Thầy truyền giới cho người.
Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
19.-
GIỚI LƯỠNG THIỆT
Nếu
Phật-Tử, vì ác tâm, thấy Thầy Tỳ-Kheo trì-giới tay bưng lư-hương, tu hạnh
Bồ-Tát, tự đi đâm thọc hai đầu, cho sanh sự bất hòa khinh-khi người
hiền, tạo nhiều tội ác. Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
20.- GIỚI
KHÔNG PHÓNG SANH
Nếu
Phật-Tử, vì tâm từ-bi mà làm việc phóng-sanh. Tất cả nam-tử là cha ta, tất cả nữ-nhân
là mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác-sanh nơi đó. Vì lẽ ấy nên
chúng-sanh trong lục-đạo đều là cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn
thịt, thời chính là giết cha mẹ ta, mà cũng là giết thân cũ của ta. Tất
cả chất tứ-đại đều là bổn-thân bổn-thể của ta, cho nên phải thường làm việc phóng
sanh và khuyên bảo người làm. Nếu lúc thấy người đời sát sanh,
nên tìm cách cứu-hộ cho chúng được thoát khỏi nạn khổ ! Thường
đem giới Bồ-Tát giảng dạy để cứu-độ chúng-sanh.
Nếu ngày cha mẹ hay anh chị em chết, nên thỉnh Pháp-Sư giảng
Kinh-Luật Bồ-Tát giới. Người chết nhờ phước-đức ấy, hoặc được vãng-sanh Tịnh-Độ
ra mắt chư Phật, hay thác-sanh trong cõi Trời, cõi Người. Nếu
không làm các điều trên đây, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
Mười giới như thế cần nên
học tập kính-trọng phụng-trì.
21.-
GIỚI ĐEM SÂN BÁO SÂN ĐEM ĐÁNH TRẢ ĐÁNH
Nếu
Phật-Tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ anh
em hay lục-thân bị người giết cũng chẳng được báo thù, hoặc quốc chủ bị
người thí chết cũng chẳng được báo-thù. Giết sanh mạng để báo
thù sanh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo. Hãy còn không được chứa
nuôi tôi tớ, rồi đánh đập mắng nhiếc chúng, mỗi ngày tam nghiệp tạo vô
lượng tội, nhất là khẩu-nghiệp. Huống lại cố đi làm tội thất nghịch. Nếu
xuất-gia Bồ-Tát không có lòng từ-bi cố báo-thù, nhẫn đến cố báo
thù cho trong hàng lục-thân, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
22.-
GIỚI KIÊU MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP
Nếu
Phật-Tử, mới xuất-gia chưa thông hiểu Kinh-Luật, mà tự ỷ mình là
trí-thức thông-minh, hoặc ỷ mình là cao quý, lớn tuổi, hoặc ỷ mình là giòng
sang, con nhà quyền quý, hoặc ỷ mình học rộng, phước to giàu lớn .. rồi
sanh lòng kiêu-mạn mà không chịu học hỏi Kinh-Luật với các vị
Pháp-Sư học đạo trước mình. Vị Pháp-Sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà
hạ tiện, tuổi trẻ, nghèo nàn, hèn-hạ hay có tật nguyền nhưng lại
thiệt có đức hạnh cùng thông hiểu nhiều Kinh Luật. Hàng
tân-học Bồ-Tát không được nhìn vào dòng giống vị Pháp-Sư mà không chịu đến học
đạo-lý đại-thừa với vị ấy, Phật-Tử nếu như vậy thời phạm “Khinh cấu tội”.
23.-
GIỚI KHINH NGẠO KHÔNG TẬN TÂM DẠY
Nếu
Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ-Tát,
thời đối trước tượng Phật cùng tượng Bồ-Tát mà tự nguyện thọ giới.
Nên ở trước tượng Phật và tượng Bồ-Tát sám-hối trong bảy ngày, hễ được
thấy hảo tướng là đắc giới. Như chưa thấy hảo tướng thời
phải sám-hối 14 ngày, 21 ngày, hay đến cả năm, cầu thấy được hảo-tướng. Khi được
thấy hảo-tướng rồi, thời được đối trước tượng Phật, Bồ-Tát mà thọ giới.
Như chưa thấy hảo tướng thời dầu có đối trước tượng Phật thọ
giới, vẫn không gọi là đắc giới. Nếu đối trước vị Pháp-Sư đã thọ Bồ-Tát
mà thọ giới, thời không cần thấy hảo tướng. Tại sao vậy ? Vì vị
Pháp-Sư ấy là chư sự truyền giới cho nhau, nên không cần hảo tướng.
Hễ đối trước vị Pháp-Sư ấy mà thọ giới liền đắc giới, do
vì hết lòng kính trọng nên đắc giới. Nếu ở trong
vòng nghìn dặm, mà tìm không được vị Pháp-Sư truyền-giới, thời Phật-Tử đuọc
phép đối trước tượng Phật và Bồ-Tát mà tự nguyện thọ giới Bồ-Tát,
nhưng cần phải thấy hảo tướng.
Nếu các vị Pháp-Sư ỷ mình thông Kinh-Luật cùng giới-pháp đại-thừa, kết-giao với
các nhà quyền quý, khi có hàng tân-học Bồ-Tát đến cầu học nghĩa Kinh,
Luật, lại giận ghét, hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ bảo, vị nầy
phạm “Khinh cấu tội”.
24.- GIỚI
KHÔNG TẬP HỌC ĐẠI THỪA
Nếu
Phật-Tử, có Kinh Luật Đại-Thừa-Pháp chánh-kiến, chánh-tánh, chánh-pháp-thân của
Phật, mà không chịu siêng học siêng tu, lại bỏ bảy của báu, trở học những
sách luật tà-kiến của nhị-thừa, ngoại-đạo, thế-tục, đó mà làm mất giống Phật,
là nhân-duyên chướng-đạo, chẳng phải thật hành đạo Bồ-Tát. Nếu cố làm
như vậy, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
25.-
GIỚI TRI CHÚNG VỤNG VỀ
Nếu
Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt làm Pháp-Sư, Giảng-Sư, Luật-Sư, Thiền-Sư Thủ-Tọa,
Tri-Sự, Tri-Khách, phải có lòng từ-bi khéo hòa-giải trong chúng, khéo giữ-gìn
tài vật của Tam-Bảo, chớ dùng vô-độ như của riêng mình, mà trở lại khuấy
chúng gây gổ, kình-chống, lung lòng xài của Tam-Bảo, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
26.-
GIỚI RIÊNG THỌ LỢI DƯỠNG
Nếu Phật-Tử ở trước trong Tăng-phường, lúc sau thấy có khách Bồ-Tát Tỳ-Kheo đến hoặc nơi thành ấp nhà cửa của Tăng hay của Vua, nhẫn đến chỗ kiết-hạ an-cư cùng trong đại-hội ... chư Tăng ở trước phải rước đến đưa đi, cung cấp cho những đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường, ghế ...
Nếu tự mình không có, thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung cấp cho những khách Tăng ấy. Nếu có thí-chủ đến thỉnh chúng Tăng thọ trai, khách Tăng có dự phần, vị Tri-Sự phải theo thứ-tự phái Khách Tăng đi thọ trai.
Nếu chư Tăng ở trước riêng đi thọ trai mà
không phái Khách Tăng đi, thời vị Tri-Sự mắc vô-lượng tội, không đáng là hàng
Sa-Môn không phải dòng Thích-Tử, nào khác gì loài súc-sanh. Phật-Tử nầy phạm “Khinh cấu tội”.
27.-
GIỚI THỌ BIỆT THỈNH
Nếu
Phật-Tử, tất cả chẳng được nhận của cúng-dường dành riêng về mình. Của cúng-dường
nầy thuộc thập-phương Tăng, nếu nhận riêng thời là lấy của thập-phương Tăng đem
về phần mình. Và của vật trong tám phước-điền : Chư Phật, Thánh-Nhân, các
Sư-Tăng, cha, mẹ và người bịnh, tự mình riêng nhận dùng. Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
28.-
GIỚI BIỆT THỈNH TĂNG
Nếu
Phật-Tử có những hàng Bồ-Tát xuất-gia, Bồ-Tát tại gia và tất cả
đàn-việt lúc muốn thỉnh Tăng để cúng-dường cầu-nguyện, nên vào Tăng-phường thưa
với vị Tri-Sự. Vị Tri-Sự bảo rằng : Theo thứ-tự mà thỉnh thời được Thập-Phương
Hiền-Thánh-Tăng. Mà người đời thỉnh riêng năm trăm vị A-La-Hán Bồ-Tát Tăng vẫn
không bằng theo thứ-tự thỉnh một phàm-phu Tăng. Trong giáo-pháp của bảy đức
Phật đều không có pháp thỉnh Tăng riêng. Nếu thỉnh Tăng riêng đó là pháp của
ngoại-đạo, là không thuận với hiếu-đạo. Nếu Phật-Tử cố thỉnh riêng thời phạm “Khinh cấu tội”.
29.-
GIỚI TÀ MẠNG NUÔI SỐNG
Nếu
Phật-Tử dùng ác tâm vì lợi-dưỡng buôn bán nam-sắc, nữ-sắc, tự tay làm
đồ ăn, tự xay, tự giã, xem tướng, bàn mộng, đoán sẽ sanh trai hay gái, bùa
chú, pháp thuật, nghề-nghiệp, phương-pháp nuôi ó và chó săn, hòa-hiệp trăm
thứ thuốc độc, nghìn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sanh-kim, sanh-ngân, độc sâu cổ,
đều không có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận. Nếu cố làm các điều như thế, Phật-Tử
này phạm “Khinh cấu tội”.
30.-
GIỚI QUẢN LÝ CHO BẠCH Y
Nếu
Phật-Tử vì ác tâm, tự mình hủy-báng Tam-Bảo, giả tuồng kính mến, miệng thì
nói không, mà hành-vi lại ở trong có, làm Quản-lý cho hàng bạch-y, vì hàng bạch-y
làm mai làm mối cho nam cho nữ giao-hội dâm-sắc gây thành các nghiệp kiết-phược,
những ngày lục-trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi
năm, làm việc sát sanh, trộm cướp, phá-trai, phạm-giới. Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
Mười giới như thế, cần nên
học hết lòng kính-trọng phụng-trì.
31.- GIỚI
KHÔNG MUA CHUỘC
Nếu
Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt ở trong đời ác, thấy hàng ngoại-đạo,
bọn giặc cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ-Tát, cha
mẹ, đem bán Kinh Luật, đem bán Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, cùng người hành đạo Bồ-Tát,
kẻ phát tâm Bồ-Đề, để làm tay sai cho các quan hay làm tôi tớ
cho mọi người. Phật-Tử thấy những sự như thế, nên có lòng từ-bi tìm
cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật-Tử phải đi quyên tiền các
nơi để chuộc hình tượng Phật, Bồ-Tát và tất cả Kinh Luật, chuộc Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, người tu hạnh Bồ-Tát, kẻ phát tâm Bồ-Đề. Nếu
không chuộc, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
32.-
GIỚI TỔN HẠI CHÚNG SANH
Nếu
Phật-Tử, không được buôn bán dao, gậy, cung, tên những khí-giới sát-sanh. Không
được chứa cân non giạ thiếu. Không được nương thế-lực quan quyền mà lấy tài vật
của người. Không được ác tâm trói buộc người, và phá hoại việc
thành-công của người. Không được nuôi mèo, chồn, heo, chó ... Nếu cố làm các điều
trên, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
33.-
GIỚI TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN
Nếu
Phật-Tử, không đặng vì ác-tâm đi xem tất cả nam nữ ... đánh
nhau, hay quân trận binh tướng giặc cướp ... đấu chiến nhau. Cũng chẳng được đi
xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng ... cho đền bói xủ. Chẳng
được làm tay sai cho kẻ trộm cướp. Nếu cố làm các điều trên, Phật-Tử
này phạm “Khinh cấu tội”.
34.-
GIỚI TẠM BỎ BỒ ĐỀ TÂM
Nếu
Phật-Tử, ngày đêm sáu thời đọc tụng giới Bồ-Tát nầy. Nên giữ
gìn giới luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như
kim-cương, nhe đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ-Kheo bị cột bằng dây cỏ. Thường
có tín tâm lành đối với đại-thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa
thành, còn chư Phật là Phật đã thành, rồi phát Bồ-Đề-Tâm và giữ vững không
thối chuyển. Nếu có một tâm-niệm xu-hướng theo Nhị-Thừa hay ngoại-đạo, Phật-Tử
này phạm “Khinh cấu tội”.
35.- GIỚI
KHÔNG PHÁT NGUYỆN
Nếu
Phật-Tử, nên phát những điều nguyện lớn : Nguyện ở hiếu thuận với cha
mẹ, Sư-Tăng - Nguyện đặng gặp được thầy tốt - Bạn Thiện-Tri-Thức - Thường dạy
bảo tôi các Kinh Luật Đại-Thừa - dạy cho tôi về Thập-Phát-Thú -Thập-Trưởng-Dưỡng - Thập-Kim-Cương - Thập-Địa
-
Cho tôi hiểu
rõ để tu hành đúng chánh-pháp - Nguyện giữ vững giới của Phật :
Thà chết chớ không chịu phai lòng. Nếu tất cả Phật-Tử không phát những điều
nguyện trên đây thời phạm “Khinh cấu tội”.
36.- GIỚI
KHÔNG PHÁT THỆ
Nếu
Phật-Tử khi đã phát mười điều nguyện lớn trên đây rồi, phải giữ
gìn giới-cấm của Phật. Tự thệ rằng : Thà nhảy vào đống lửa, hố sâu, núi
dao, quyết không cùng với tất cả người nữ làm điều bất-tịnh để phạm điều cấm
trong Kinh Luật của Tam-Thế chư Phật.
Lại thệ rằng : Thà lấy lưới sắt nóng quấn thân mình cả nghìn lớp, quyết không để
thân nầy phá giới mà thọ những đồ y-phục của tín tâm đàn-việt.
Thà chịu nuốt hòn sắt cháy đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm nghìn kiếp quyết
không để miệng này phá giới mà ăn các thứ thực-phẩm của tín-tâm
đàn-việt. Thà nằm trên đống lửa lớn, trên tấm sắt nóng, quyết không để thân
này phá giới mà nhận lấy các thứ giường ghế của tín-tâm đàn-việt. Thà
trong một hai kiếp chịu cho cả trăm gươm giáo đâm vào mình, quyết không để thân
này phá giới mà thọ các thứ thuốc men của tín-tâm đàn-việt. Thà nhảy
vào vạc dầu sôi trong trăm nghìn kiếp quyết không để thân
này phá giới mà lãnh những phòng nhà, ruộng vườn, đất đai của tín-tâm
đàn-việt.
- Lại phát thệ rằng : Thà dùng chày sắt đập thân nầy từ đầu tới chân nát như
tro bụi, quyết không để thân nầy phá giới mà thọ sự cung-kính
lễ-bái của tín-tâm đàn-việt.
- Lại phát thệ rằng : Thà lấy trăm nghìn lưỡi gươm giáo khoét đôi mắt mình quyết
không đem tâm phá giới này mà nhìn xem sắc đẹp của người. Thà lấy
trăm nghìn dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình trải trong một hai kiếp, quyết không
đem tâm phá giới này mà nghe tiếng tốt giọng hay. Thà lấy
trăm nghìn lưỡi dao cắt bỏ lỗ mũi mình, quyết không đem tâm phá giới này
mà ngửi các mùi thơm. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt đứt lưỡi mình, quyết
không đem tâm phá giới này, mà ăn các thứ tinh-thực của người. Thà lấy
búa bén chặt chém thân thể mình, quyết không đem tâm phá giới này
mà tham mặt đồ tốt.
- Lại phát nguyện : Nguyện cho tất cả chúng-sanh đều được thành
Phật.
Nếu Phật-Tử không phát những điều thệ này, thời phạm “Khinh cấu tội”.
37.-
GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN
Nếu
Phật-Tử, mỗi năm phải hai kỳ hành đầu đà, mùa Đông mùa Hạ thời ngồi
thiền kiết-hạ an-cư. Thường dùng nhành dương, nước tro, ba
Y, bát, bình, tọa-cụ, tích-trượng, hộp lư-hương, đãy lược nước, khăn tay, con
dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh, luật, tượng Phật, tượng Bồ-Tát.
Khi Phật-tử hành đầu-đà cùng lúc du-phương đi lại trăm dặm ngàn dặm,
mười tám món này mang luôn bên mình. Đây là hai kỳ hành đầu-đà trong mỗi năm :
Từ rằm tháng Giêng đến rằm tháng Ba, và từ rằm tháng Tám đến rằm tháng Mười.
Trong hai kỳ hành đầu-đà luôn mang theo mình mười tám món ấy như chim
hai cánh.
Nếu đến ngày Bố-tát, hàng tân-học Phật-tử, mỗi nửa tháng luôn Bố-tát, tụng mười
giới trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Lúc tụng giới, nên ở trước tượng Phật và Bồ-Tát mà tụng. Chỉ có một
người Bố-Tát thời một người tụng, nếu hai người, ba người nhẫn đến trăm nghìn
người cũng một người tụng, còn bao nhiêu thời lắng nghe. Người tụng ngồi cao
người nghe ngồi thấp. Mỗi người đều đắp y hoại-sắc chín điều, bảy điều
và năm điều. Trong lúc Kiết-Hạ an-cư cũng phải mỗi việc đúng theo phép tắc.
Lúc hành đầu-đà chớ đi đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm-ác, nhà vua hung
bạo, đất đai gập-gềnh, cỏ cây rậm-rạp, chỗ có giống sư-tử, cọp, sói, cùng lụt,
bão, nạn cháy, giặc cướp, đường xá có rắn rít ... Tất cả nơi hiểm nạn ấy điều
không được đến. Chẳng những lúc hành đầu-đà, mà lúc kiết-hạ, an-cư cũng không
được vào những chỗ hiểm-nạn ấy.
Nếu cố vào những nơi ấy, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
38.-
GIỚI TRÁI THỨ TỰ TÔN TY
Nếu
Phật-Tử, phải theo thứ-tự đúng pháp mà ngồi : Người thọ giới trước thời
ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau. Không luận già, trẻ, Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, người sang như Quốc-Vương, Hoàng-Tử, nhẫn đến kẻ hèn như Huỳnh-môn,
tôi-tớ ... tất cả đều nên theo thứ-tự mà ngồi : Người thọ giới trước
thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau.
Không được như hàng ngoại-đạo, si-mê, hoặc già, hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn-xộn
không có thứ-tự, không khác cách ngồi của bọn binh-nô. Trong Phật-Pháp của Ta,
hễ người thọ giới trước thời ngồi trước, còn người thọ giới sau
thời ngồi sau.
Nếu Phật-Tử không theo thứ tự đúng pháp mà ngồi, thời phạm “Khinh-Cấu-Tội”.
39.- GIỚI
KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ
Nếu
Phật-Tử, thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo Tăng-Phường
nơi núi rừng vườn ruộng, xây dựng Phật-Tháp, chỗ an-cư, tọa-thiền
trong mùa Đông mùa Hạ, tất cả những cơ-sở hành-đạo đều nên kiến-tạo.
Người Phật-Tử phải giảng-thuyết Kinh Luật Đại-Thừa cho tất cả chúng-sanh. Lúc tật-bịnh,
nước có nạn có giặc, ngày cha, mẹ, anh, em, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê khuất-tịch, và
mỗi tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất, cũng nên giảng thuyết Kinh Luật
Đại-Thừa. Tất cả những Trai-hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi
có tai nạn lụt, bão, hỏa-hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to biển
lớn, gặp quỷ La-Sát ... đều cũng đọc tụng Kinh Luật Đại-Thừa. Nhẫn đến
tất cả tội báo, tam ác, bát nạn. Thất nghịch gông
cùm xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc người nhiều dâm, nhiều
sân, nhiều ngu si, nhiều tật bệnh, đều nên giảng Kinh Luật Đại-Thừa
nầy.
Nếu hàng tân-học Phật-Tử không thực-hành như trên đây, thời phạm “Khinh cấu tội”.
Chín giới như thế cần nên học, hết
lòng kính-trọng phụng-trì.
40.- GIỚI
KHÔNG BÌNH ĐẲNG TRUYỀN GIỚI
Nếu
Phật-Tử, lúc cho người thọ giới không được lựa chọn. Tất cả hàng
Quốc-Vương, Hoàng-Tử, các Quan, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, Tín-Nam, Tín-Nữ, Dâm-Nam,
Dâm-Nữ, Phạm-Thiên trong 18 cõi Sắc, Thiên-Tử trong sáu cõi dục, người thiếu
căn, hai căn, huỳnh-môn, tôi-tớ và tất cả Quỷ-Thần đều được thọ giới. Tất
cả y-phục ngọa-cụ nên bảo phải hòa màu : Xanh, đỏ, đen, tím nhuộm thành hoại
sắc cho hiệp với đạo.
Trong tất cả quốc-độ, theo y-phục của người trong nước mặc, y-phục của thầy Tỳ-Kheo
đều phải khác với y-phục của người thế-tục.
Khi ai muốn thọ Bồ-Tát giới, vị Sư phải hỏi rằng : Trong đời nầy
ngươi có phạm tội thất-nghịch chăng ? Bồ-Tát Pháp-Sư không được cho
người phạm tội thất-nghịch thọ giới trong đời nầy.
Đây là tội thất-nghịch : Ác-tâm làm thân Phật chảy máu, hại bực Thánh-Nhân, giết
cha, giết mẹ, giết Hòa-Thượng, giết A-Xà-Lê, phá Yết-Ma-Tăng, chuyển
Pháp-Luân-Tăng.
Nếu phạm
tội thất-nghịch, thời hiện đời không đắc giới. Ngoài ra tất
cả người đều được thọ giới.
Theo pháp của người xuất-gia, không lạy Quốc-Vương, cha mẹ, lục
thân và quỷ-thần.
Phàm hễ ai nhận được hiểu lời nói của Pháp-Sư đều được thọ giới.
Mà có người từ trăm dặm nghìn dặm đến cầu Pháp, nếu Bồ-Tát Pháp-Sư
vì ác tâm, sân tâm, mà không mau mắn truyền giới Bồ-Tát cho
người ấy, thời phạm “Khinh cấu tội”.
41.-
GIỚI VÌ LỢI LÀM THẦY
Nếu
Phật-Tử, giáo hóa người sanh lòng tin tưởng Pháp đại-thừa,
Bồ-Tát làm Pháp-Sư giáo giới cho người. Lúc thấy có người muốn thọ giới Bồ-Tát,
nên bảo người ấy thỉnh hai Đại-Sư : Hòa-Thượng và A-Xà-Lê.
Phải hỏi người ấy có phạm tội thất-nghịch không ? Nếu người ấy hiện đời
có phạm tội thất-nghịch, thời Pháp-Sư không được cho người ấy thọ
giới. Như không phạm tội thất-nghịch thời cho thọ giới. Nếu
có phạm trong mười giới trọng, phải bảo người ấy sám-hối, đối trước tượng
Phật và Bồ-Tát. Ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ-Tát tha-thiết đảnh-lễ
Tam-Thế Chư Phật cho được thấy hảo tướng. Sám-hối như thế trong bảy ngày,
mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày, nhẫn đến trọn năm mãi đến chừng
nào thấy được hảo-tướng. Đây là hảo-tướng : Thấy Phật đến xoa đầu mình, thấy
quang-minh, thấy hoa báu ... các thứ cảnh tưởng lạ. Thấy được những hảo tướng ấy
là triệu chứng tội đã tiêu diệt. Nếu không được thấy hảo
tướng, dầu có sám-hối vẫn vô ích. Người này hiện đời cũng không đắc
giới, nhưng đặng tăng ích thọ giới.
Nếu là người phạm trong bốn mươi tám điều giới khinh, đối-thú sám-hối, thời tội
đặng tiêu-diệt, không phải như tội thất-nghịch.
Vị Pháp-Sư giáo-giới ở trong những pháp này phải hiểu rõ. Nếu
không hiểu Kinh Luật Đại-thừa, những giới khinh, giới trọng, hành tướng phải,
chẳng phải, không hiểu đệ-nhất Nghĩa-đế, tập chủng-tánh, trưởng-dưỡng tánh,
tánh chủng-tánh, bất-khả hoại-tánh, đạo-chủng-tánh, chánh-pháp-tánh. Những
quán-hạnh đa, thiểu, xuất, nhập của trong các pháp đó, cùng mười chi thiền, tất
cả pháp hạnh, mỗi mỗi đều không thông hiểu. Phật-tử vì tài lợi,
vì danh tiếng, cầu quấy, cầu nhiều, tham đệ tử đông lên giả tuồng
là mình hiểu biết tất cả Kinh Luật để được cúng-dường đó là tự dối
mình mà cũng khi-dối người khác. Nếu cố làm Giáo-Sư truyền giới cho
người, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
42.-
GIỚI VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG GIỚI
Nếu
Phật-Tử, không được vì tài lợi mà đem đại giới của chư Phật
đây, nói với người chưa thọ giới Bồ-Tát, hoặc với hàng ngoại-đạo, những
người tà kiến ... trừ Quốc-Vương, ngoài ra không được nói với
tất cả hạng người ấy. Những hạng người ấy chẳng thọ giới của Phật, gọi
là súc-sanh, đời đời sanh ra không gặp được Tam-Bảo, như cây đá,
không có tâm-thức, gọi là ngoại-đạo, bọn tà-kiến, nào khác cây cối. Với những hạng
người tà ác ấy, nếu Phật-Tử giảng nói giới-pháp của chư Phật, thời phạm “Khinh cấu tội”.
43.-
GIỚI CỐ MỐNG TÂM PHẠM GIỚI
Nếu
Phật-Tử, do đức tin mà xuất gia, thọ chánh-giới của Phật, lại cố
mống tâm hủy phạm giới-pháp, thời không được thọ lãnh đồ cúng dường của
tất cả đàn-việt, cũng không được đi trên đất của Quốc-dân, không được uống nước
của Quốc-dân. Năm nghìn Đại-Quỷ luôn đứng án trước mặt người đó mà gọi
là “ Gã bợm giặc.
Nếu
khi đi
vào trong phòng nhà thành ấp, các Quỷ thường theo chà quét dấu
chân của người ấy. Tất cả người đời đều mắng người ấy là kẻ giặc trong Phật-Pháp.
Hết thảy chúng-sanh đều không muốn nhìn ngó người ấy. Người phạm giới,
khác nào loài súc-sanh, cây cỏ. Nếu cố phá-hủy giới-pháp của Phật, Phật-Tử này
phạm “Khinh cấu tội”.
44.- GIỚI
KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT
Nếu
Phật-Tử, phải thường nhất-tâm thọ-trì đọc tụng Kinh Luật Đại-thừa,
dùng giấy, vải, hàng, lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy,
chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, để biên chép Kinh Luật,
dùng vàng bạc làm hộp, rương, đựng những quyển Kinh Luật.
Nếu không y theo Pháp mà cúng-dường Kinh Luật, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
45.- GIỚI
KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SANH
Nếu
Phật-Tử, nên có lòng đại-bi, khi vào trong tất cả nhà cửa thành ấp, thấy những
loài chúng-sanh, phải xướng lên rằng : “ Các ngươi đều nên thọ Tam-Quy và Thập-Giới. Nếu gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê, .. nên tâm
nghĩ miệng nói : “ Các ngươi là súc
sanh phát Bồ-Đề-Tâm ”. Khi Phật-tử đi đến núi, rừng, sông, nội cùng tất
cả chỗ, đều làm cho hết thẩy chúng-sanh phát Bồ-Đề-Tâm.
Nếu Phật-Tử không phát-tâm giáo
hóa chúng-sanh, thời phạm “Khinh cấu tội”.
46.-
GIỚI THUYẾT PHÁP KHÔNG ĐÚNG PHÁP
Nếu
Phật-Tử, thường nên có lòng đại-bi phát tâm giáo hóa. Lúc vào nhà
đàn-việt sang giàu, cùng trong tất cả chúng hội, không được đứng thuyết-pháp
cho hàng bạch-y. Phải ngồi trên tòa cao trước chúng bạch-y.
Vị Tỳ-Kheo Pháp-Sư không được đứng dưới đất thuyết-pháp cho tứ-chúng.
Khi thuyết-pháp vị Pháp-Sư ngồi tòa cao, dùng hương hoa cúng dường,
còn tứ chúng, hàng thính-giả thời ngồi dưới. Đối với Pháp-Sư phải như là
hiếu-thuận cha mẹ, kính-thuận Sư-trưởng như Bà-La-Môn thờ lửa. Nếu Phật-Tử
thuyết-pháp mà không đúng như pháp thời phạm “Khinh cấu tội”.
47.-
GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP
Nếu
Phật-Tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc-Vương,
Hoàng-tử, các Quan, bốn bộ đệ-tử tự ỷ thế lực cao-quý, phá diệt giới-luật
Phật-Pháp, lập ra điều-luật chế, hạn chế bốn bộ đệ-tử của Phật, không
cho xuất-gia hành-đạo, cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ-Tát,
cùng Tháp và Kinh Luật. Lại đặt ra chức Quan đổng-lý hạn-chế tứ-chúng, và lập bộ
sổ ghi số Tăng Tỳ-Kheo Bồ-Tát đứng dưới đất còn Bạch-y ngồi tòa cao,
làm nhiều việc phi-pháp như binh-nô thờ chủ. Hàng Bồ-Tát này chính nên được mọi
người cúng-dường, mà trở lại bắt làm tay sai của các Quan chức,
thế là phi-pháp phi-luật.
Nếu Quốc-vương và các Quan có lòng tốt thọ-giới của Phật, chớ làm những
tội phá Tam-Bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm “Khinh cấu tội”.
48.-
GIỚI PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP
Nếu
Phật-Tử, do lòng tốt mà xuất-gia, lại vì danh tiếng cùng tài
lợi, giảng thuyết giới của Phật cho Quốc-Vương và các Quan, làm những
sự gông trói các Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, người thọ giới Bồ-Tát như cách
của ngục-tù và binh-nô. Như trùng trong thân Sư-tử tự ăn thịt Sư-tử,
chớ chẳng phải trùng ở ngoài đến ăn. Cũng thế, các Phật-Tử tự hủy phá Phật-Pháp,
không phải ngoại-đạo hay Thiên-Ma phá được.
Người đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới-luật của Phật
như ấp yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá.
Người Phật-Tử khi nghe ngoại-đạo, người ác dùng lời xấu hủy-báng giới-pháp của
Phật, thời đau đớn không khác nào cả ba trăm cây giáo nhọn đâm vào
tim mình, hay cả nghìn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình. Thà tự
cam vào ở địa-ngục đến trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy-báng giới
pháp của Phật do bọn người ác. Huống là không lòng hiếu-thuận, tự mình hủy-phá
giới-pháp của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy-phá. Nếu cố
phá giới-pháp, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
Chín giới như vậy, cầu nên học, hết
lòng kính-trọng phụng-trì.
VII.-
TỔNG KẾT
Đức
Phật dạy : Các Phật-Tử ! Đó là bốn mươi tám điều giới khinh, các người phải
thọ-trì. Chư Bồ-Tát thủa đời quá-khứ đã tụng, chư Bồ-Tát thuở đời vị-lai sẽ tụng,
chư Bồ-Tát hiện-tại đương tụng.
Các Phật-Tử lắng nghe ! Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh đây, chư
Phật trong ba thủa đã tụng, sẽ tụng và hiện đương tụng. Nay ta cũng tụng
như vậy.
VIII.-
LƯU THÔNG
Đức
Phật phán tiếp : Tất cả Đại-Chúng, Quốc-Vương, Vương-Tử, các Quan, Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, Tín-Nam, Tín-Nữ thảy, những người thọ-trì giới Bồ-Tát, nên phải thọ-trì đọc
tụng giảng-thuyết biên chép quyển giới-pháp Phật-Tánh thường-trụ để
lưu-thông mãi-mãi. Tất cả chúng-sanh xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt. Do
đây, đặng gặp chư Phật, được chư Phật trao tay. Đời đời khỏi hẳn
ba ác đạo và tám chỗ nạn. Thường được thác-sanh trong loài người,
hay cõi Trời.
Nay Ta ở dưới cội Bồ-Đề nầy, lược-giảng giới-pháp của chư Phật. Tất cả đại-chúng
phải nhất-tâm học Ba-La-Đề-Mộc-Xoa, hoan hỷ phụng hành.
Lúc đó chư vị Học-sĩ trong cõi tam-thiên ngồi lắng
nghe đức Phật tụng
giới, hết lòng kính-trọng, hoan-hỷ thọ-trì.
Đức Thích-Ca
Mâu-Ni giảng xong về mười vô-tận giới pháp trong phẩm “ Tâm-Địa Pháp-Môn ” của đức
Phật Lô-Xá-Na đã giảng nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng lúc trước, nghìn
trăm ức đức Thích-Ca cũng đồng giảng như vậy.
Từ
cung Đại-Tự-Tại Thiên-Vương đến dưới cây Bồ-Đề nầy, thuyết-pháp cả mười chỗ, vì
tất cả Bồ-Tát và vô-số đại-chúng thọ-trì đọc tụng giải-thuyết
pháp-nghĩa cũng như vậy.
Nghì trăm ức thế-giới, Liên-Hoa Đài-Tạng thế-giới, vi-trần thế-giới, chư Phật
cũng giảng-thuyết như vậy.
Tất
cả Phật-Tâm-Tạng, Địa-Tạng, Giới-Tạng, Vô-Lượng Hạnh-Nguyện-Tạng, Nhân-Quả Phật-Tánh
Thường-Trụ-Tạng. Tất cả chư Phật giảng thuyết vô-lượng pháp-tạng như
thế đã xong.
Hết thảy chúng-sanh trong nghìn trăm ức thế-giới đều thọ trì hoan-hỷ
phụng-hành.
IX.- KỆ KHEN TẶNG GIỚI PHÁP
Người
trí nhiều Định Huệ
Thọ trì được pháp này
Lúc còn chưa thành Phật
Được hưởng năm điều lợi :
Một là Thập-Phương Phật
Thương tưởng hộ-trì luôn
Hai là lúc lâm chung
Chánh niệm lòng vui vẻ
Ba là sanh chỗ nào
Cùng Bồ-Tát làm bạn
Bốn là những công-đức
Giới-độ đều thành tựu
Năm, đời này, đời sau
Đủû giới và phước-huệ
Đây là các Phật-Tử
Người trí khéo nghĩ lường
Kẻ trước tướng chấp-ngã
Không thể được pháp nầy
Người trầm không trệ-tịch
Cũng không gieo giống được.
Muốn nẩy mầm Bồ-Đề
Trí-Huệ soi thế-gian
Phải nên quan sát kỹ
Thật tướng của các pháp :
Không sanh cũng không diệt
Không thường lại không đoạn
Chẳng đồng cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Trong thể nhất-tâm ấy
Siêng tu tập trang-nghiêm,
Công-hạnh của Bồ-Tát
Phải tuần tự học tập.
Nơi học, nơi “ Vô
học ”
Chớ mống tưởng phân
biệt
Đấy là “ Đệ Nhất-Đạo,
Cũng gọi pháp Đại-Thừa
Hết thảy lỗi hý-luận
Đều từ đây dứt sạch
Vô-thượng trí của Phật
Đều do đây mà thành.
Vì thế nên Phật-Tử
Phải phát-tâm dõng-mãnh
Nghiêm trì giới của Phật
Tròn sạch như Minh-Châu.
Chư Bồ-Tát quá-khứ
Đã từng học giới này,
Hàng vị-lai sẽ học,
Người hiện-tại đương-học.
Đây là đường Phật đi
Là chỗ Phật khen ngợi.
Ta đã giảng giới xong
Phước-đức nhiều vô-lượng,
Hồi-hướng cho chúng-sanh
Đồng đến " Nhất-Thiết-Trí ",
Nguyện ai nghe
pháp này
Đều được thành Phật đạo.
X.-
PHẦN HỒI HƯỚNG
Trên
Liên-Hoa-Tạng
Đức Xá-Na Tôn
Lược giảng Tâm-Địa Pháp-môn này
Truyền lại chư Thế-Tôn
Khinh, Trọng phân rành
Tất cả được nhờ ân.
Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật Biến Pháp-giới Tam-Bảo ( 3 lần )
KIẾT
KINH KỆ
Trời,
A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp phải hết lòng
Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục mặc che thân
Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.
( Người tụng giới đứng dậy chắp
tay nói : Kính bạch đại-chúng, nay tôi là ... vưng lịnh tụng giới,
vì ba nghiệp biếng trễ, nếu có điều chi sai sót, xin đại-chúng
bố-thí hoan-hỷ ).
BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA (3 lần)
HỒI
HƯỚNG
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, PHÁP GIỚI TẠNG THÂN A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NGHI TỤNG GIỚI BỒ TÁT
CHUNG
BẢNG XƯỚNG NGÀY
BỐ TÁT
TRONG
BA MÙA MỖI NĂM
NGÀY BỐ TÁT: Nên xướng rằng
MÙA XUÂN: Sáng ngày 16 tháng chạp khời đầu mùa
Xuân.
- 30 tháng 12: Phần mùa
Xuân bốn tháng làm một mùa, nửa tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng rưỡi.
- Rằm tháng
giêng: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, một tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng.
- 30 tháng giêng: Phần mùa
Xuân bốn tháng làm một mùa, một tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm thừa lại một đêm còn lại hai tháng rưỡi.
- Rằm tháng
2: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, hai tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng.
- 30 tháng 2: Phần mùa
Xuân bốn tháng làm một mùa, hai tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng rưỡi.
- Rằm tháng 3: Phần mùa
Xuân bốn tháng làm một mùa, ba tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng.
- 30 tháng 3: Phần mùa
Xuân bốn tháng làm một mùa, ba tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn nửa tháng.
- Rằm tháng
4: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, bốn tháng đã qua, thiếu một, còn thừa lại một đêm.
MÙA HẠ: Sáng ngày 16 tháng tư khởi đầu mùa Hạ - cũng là ngày nhập Hạ, tiền An cư.
- 30 tháng 4: Phần mùa Hạ bốn tháng
làm một mùa, nửa tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng rưỡi.
- Rằm tháng
5: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, một tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng.
- 30 tháng 5: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, một tháng rưỡi đã qua,
thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng rưỡi.
- Rằm tháng
6: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, hai tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng.
- 30 tháng 6: Phần mùa Hạ bốn tháng
làm một mùa, hai tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng rưỡi.
- Rằm tháng
7: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, ba tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng. (Lễ Vu Lan tự tứ).
- 30 tháng 7: Phần mùa Hạ bốn tháng
làm một mùa, ba tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn nửa tháng.
- Rằm tháng
8: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, bốn tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm (Lễ hậu Tự tứ).
MÙA ĐÔNG: Sáng ngày 16 tháng 8 khởi đầu mùa
Đông.
- 30 tháng 8: Phần mùa
Đông bốn tháng làm một mùa, nửa tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn 3 tháng rưỡi.
- Rằm tháng
9: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, thiếu một đêm, thừa lại một đêm, còn ba tháng.
- 30 tháng 9: Phần mùa
Đông bốn tháng làm một mùa, một tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng rưỡi.
- Rằm tháng
10: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, hai tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng.
- 30 tháng 10: Phần mùa
Đông bốn tháng làm một mùa, hai tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng rưỡi.
- Rằm tháng
11: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, ba tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng.
- 30 tháng 11: Phần mùa
Đông bốn tháng làm một mùa, ba tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn nửa tháng.
- Rằm tháng 12: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, bốn tháng đã qua, thiếu một đêm còn thừa lại một đêm.
Comments
Post a Comment