Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
BÀI KHEN NGỢI KINH
Hơn sáu muôn lời, thành BẢY QUYỂN
Rộng chứa đựng vô-biên nghĩa mầu
Trong cổ nước cam-lộ rịn nhuần
Trong miệng chất đề-hồ nhỏ mát
Bên răng ngọc trắng tuôn xá-lợi
Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang
Dầu cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu-Pháp vài ba hàng.
Nam-mô DIỆU PHÁP LIÊN HOA Hội-Thượng Phật Bồ-tát. ( 3 lần )
KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA
QUYỂN 3
PHẨM “DƯỢC-THẢO-DỤ”
THỨ NĂM
1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài
Ma-Ha Ca-Diếp các vị đại đệ tử:
"Hay thay! Hay thay! Ca Diếp. Khéo
nói đặng công-đức chơn thật của đức Như Lai.
Ðúng như lời các ông
vừa nói; đức Như-Lai lại còn có
vô-lượng
vô-biên a-tăng-kỳ công đức, các
ông dầu trải qua vô
lượng ức kiếp nói
cũng không hết được".
Ca Diếp nên biết! Ðức Như Lai là
vua của các
pháp nếu có nói
ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp
dùng sức trí huệ phuơng-tiện mà diễn nói,
pháp của Phật nói thảy đều đến bực nhứt thiết
trí (1). Ðức Như-Lai xem
biết chỗ quy
thú (2) của tất cả pháp;
cũng rõ biết chỗ tâm sở
hành (3) của tất cả chúng
sanh không thấu không
ngại. Phật lại ở nơi các
pháp rốt ráo rõ
biết hết, chỉ bày tất cả trí-huệ cho các
chúng sanh.
2.- Ca Diếp! Thí như trong
cõi Tam Thiên đại thiên nơi núi,
sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra
cây cối, lùm rừng và các
cỏ thuốc, bao
nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác.
Mây dầy bủa giăng
trùm khắp cõi
tam-thiên đại-thiên (4) đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừng và các
cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh
nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc bực vừa, thân vừa, nhánh
vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc ln,
thân ln, nhánh ln, lá ln.
Các giống cây ln
nhỏ, tùy hạng thượng trung
hạ mà hấp thụ khác
nhau. Một cụm mây
tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây
cỏđặng sanh
trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các
cỏ cây đều có sai
khác.
3.- Ca Diếp nên biết! Ðức Như Lai cũng
lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây ln
nổi lên,
dùng giọng tiếng ln
vang khắp thế-gii cả trời, người,
a-tu-la, như mây ln
kia trùm khắp cõi nưc
tam-thiên đại-thiên.
Phật ở trong đại chúng
mà xưng lời nầy:
"Ta
là đấng Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Người chưa được độ thời làm cho
được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho
tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho
được an, người chưa chứng Niết Bàn thời làm cho
chứng Niết Bàn, đời nay và
đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là
bực nhứt thiết trí, bực nhứt thiết kiến, là bực tri đạo, bực khai đạo, bực thuyết đạo. Các ngươi, hàng
trời, người,
a-tu-la đều nên đến đây vì
để nghe
pháp vậy ."
Bấy giờ có vô số nghìn
muôn ức loài
chúng sanh đi đến chỗ đức Như Lai xem
xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải-đãi của chúng
sanh đó, thuận vừa sức nó kham
được mà vì
chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng đặng nhiều lợi lành.
Các chúng sanh nầy nghe
pháp rồi, hiện đời an-ổn, đời sau
sanh về chỗ lành, do
đạo được thọ hưởng vui và
cũng được thọ hưởng vui và
cũng được nghe
pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chưng ngại ở trong
các pháp theo sức mình
kham được lần lần đều được vào đạo.
Như mây ln
kia mưa rưi khắp tất cả cỏ cây lùm
rừng và các
cỏ thuốc, theo
giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.
Ðức Như Lai nói
pháp một tưng một vị, nghĩa
là: tưng giải-thoát,
tưng xa
lìa, tưng diệt, rốt ráo đến bực
"nhứt thiết chủng trí
". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như Lai hoặc thọ trì đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công-đức tự mình không hay biết.
Vì sao?
Vì chỉ có Như-Lai là
biết chủng tưng thể tánh của chúng
sanh đó: Nh việc gì? Nghĩ
việc gì? Tu
việc gì? Nh
thế nào?
Nghĩ thế nào? Tu
thế nào?
Dùng pháp
gì để nh? Dùng
pháp gì để nghĩ?
Dùng pháp gì để tu? Dùng
pháp gì đặng pháp
gì?
Chúng
sanh ở nơi các bực, chỉ có Ðức Như-Lai thấy đó đúng
như thật, rõ
ràng không bị ngại . Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia
không tự biết tánh thượng trung
hạ của nó.
Ðức Như Lai biết pháp một tưng một vị ấy, nghĩa
là: tưng giải thoát,
tưng xa
lìa, tưng diệt, tưng rốt ráo Niết Bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không,
Phật biết như thế rồi xem xét
tâm ưa muốn của chúng
sanh mà dắt dìu nó,
cho nên chẳng liền vì
chúng vội nói
" nhứt thiết chủng trí.
"
Ca Diếp! Các
ông rất là hi hữu, có thể biết rõ đức Như Lai tùy
cơ nghi nói
pháp, hay tin hay nhận. Vì
sao? Vì các đức Phật Thế Tôn tùy
cơ nghi nói
pháp khó hiểu khó biết.
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
4. Pháp
Vương phá
các cõi
Hiện ra
trong thế-gian
Theo tánh
của chúng
sanh
Dùng các
cách nói pháp
Ðức Như Lai
tôn-trọng
Trí huệ rất sâu xa
Lâu giữ pháp yếu này
Chẳng vội liền nói ra
Người trí nếu được nghe
Thời có thể tin hiểu,
Kẻ không
trí nghi hối
Thời bèn là
mất hẳn.
Ca Diếp! Vì c
đó
Theo sức chúng
nói pháp
Dùng các
món nhơn duyên
Cho chúng
đặng Chánh
Kiến
Ca Diếp ông nên
biết
Thí như vừng mây ln
Nổi lên
trong thế gian
Che trùm
khắp tất cả
Mây trí
huệ chứa nhuần
Chp
nhoáng sáng chói lòa
Tiếng sấm xa vang
động
Khiến mọi loài
vui đẹp
Nhựt quang bị che khuất
Trên mặt đất mát mẻ
Mây mù sa
bủa gần
Dường có thể nắm ti.
Trận mưa đó khắp cùng
Bốn phương đều xối xuống
Dòng nưc tuôn vô
lượng
Cõi đất đều rút đầy
Nơi núi
sông hang hiểm
Chỗ rậm rợp sanh ra
Những cây cối cỏ thuốc
Các thứ cây ln
nhỏ
Trăm giống lúa mộng mạ
Các thứ mía cùng
nho
Nhờ nưc mưa đượm nhuần
Thảy đều tươi tốt cả.
Ðất khô khắp được rưi
Thuốc cây đều sum sê
Vừng mây
kia mưa xuống
Nưc mưa thuần một vị
Mà cỏ cây lùm
rừng
Tất cả các giống cây
Hạng thượng trung
cùng hạ
Xứng theo
tánh ln nhỏ
Ðều đặng sanh
trưởng cả.
Gốc thân
nhánh và lá
Trổ bông
trái sắc vàng
Một trận mưa rưi đến
Cây cỏ đều thấm mưt
Theo thể tưng của nó
Tánh loại chia ln
nhỏ
Nưc đượm nhuần vẫn một
Mà đều được sum sê.
5.- Ðức Phật cũng như thế
Hiện ra nơi trong đời
Ví như vầng mây ln
Che trùm
khắp tất cả
Ðã hiện ra
trong đời
Bèn vì
các chúng sanh
Phân biệt diễn nói bày
Nghĩa thật của các pháp
Ðấng Ðại Thánh
Thế Tôn
Ở trong
hàng trời người
Nơi tất cả chúng hội
Mà tuyên
nói lời nầy:
Ta là bậc Như Lai
Là Ðấng lưỡng Túc
Tôn (5)
Hiện ra nơi trong đời
Dường như vừng mây ln
Thấm nhuần khắp tất cả
Những chúng
sanh khô khao
Ðều làm cho
lìa khổ
Ðặng an ổn vui sưng
Hưởng sự vui thế gian
Cùng sự vui Niết Bàn.
Các chúng
trời người nầy
Một lòng
khéo lóng nghe
Ðều nên đến cả đây
Ra mắt đấng vô thượng.
Ta là đấng Thế Tôn
Không có
ai bằng được
Muốn an ổn chúng
sanh
Nên hiện ra
trong đời
Vì các đại chúng nói
Pháp cam
lồ trong sạch
Pháp đó
thuần một vị
Giải thoát
Niết Bàn
thôi.
Dùng một giọng tiếng mầu
Diễn xưng nghĩa
nhiệm nầy
Ðều thường vì Ðại Thừa
Mà kết làm nhơn duyên.
Ta xem tất cả chúng
Khắp đều bình đẳng cả
Không có
lòng bỉ thử
Cũng
không có hạn ngại
Hằng vì tất cả chúng
Mà bình-đẳng nói
pháp
Như khi vì một người
Lúc chúng
đông cũng vậy.
Thường diễn nói
pháp luôn
Từng không
việc gì khác
Ngồi, đứng, hoặc đến, đi
Trọn không hề nhàm mỏi
Ðầy đủ cho thế gian
Như mưa khắp thấm nhuần
Sang hèn
cùng thượng hạ
Giữ gii hay
phá gii
Oai nghi
được đầy đủ
Và chẳng được đầy đủ
Người chánh
kiến tà kiến
Kẻ độn căn lợi căn
Khắp rưi cho mưa pháp
Mà không
chút nhàm mỏi .
Tất cả hàng
chúng sanh
Ðược nghe
pháp của ta
Tùy sức mình
lãnh lấy
Trụ ở các nơi các bực
Hoặc là ở trời, người
Làm Chuyển Luân
Thánh Vương
Trời Thích,
Phạm, các
vua
Ðó là cỏ thuốc nhỏ
Hoặc rõ pháp
vô lậu
Hay chứng đặng Niết Bàn
Khởi sáu
pháp thần thông
Và đặng ba món
minh
Ở riêng
trong núi rừng
Thường hành
môn thiền định
Chứng đặng bực Duyên
Giác
Là cỏ thuốc bực trung.
Hoặc cầu bực Thế Tôn
Ta sẽ đặng thành
Phật
Tu hành
tinh tấn, định
Là cỏ thuốc bực thượng
Lại có hàng
Phật tử
Chuyên
tâm nơi Phật đạo
Thường thật hành từ-bi
Tự biết mình
làm Phật
Quyết định không
còn nghi
Gọi đó là
cây nhỏ.
Hoặc an trụ thần thông
Chuyển bất thối pháp
luân
Ðộ vô lượng muôn ức
Trăm
nghìn loài chúng sanh
Bồ Tát hạng như thế
Gọi đó là
cây ln.
Phật chỉ bình đẳng nói
Như nưc mưa một vị
Theo căn
tánh chúng sanh
Mà hưởng thọ không đồng
Như những cỏ cây kia
Ðược đượm nhuần đều khác
6.-
Phật dùng
món dụ nầy
Ðể phương tiện chỉ bày
Các thứ lời lẽ hay
Ðều diễn nói một pháp
Ở nơi trí huệ Phật
Như một giọt trong
biển.
Ta rưi trận mưa pháp
Ðầy đủ khắp thế gian
Pháp mầu thuần một vị
Tùy sức riêng
tu hành,
Như thể lùm rừng kia
Và cỏ thuốc những cây
Tùy giống ln hay
nhỏ
Lần lần thêm
sum sê
Pháp của các đức Phật
Thường dùng
thuần một vị
Khiến cho các
thế gian
Ðều khắp đặng đầy đủ
Lần lựa siêng
tu hành
Rồi đều đặng đạo quả.
Hàng
Thanh Văn, Duyên Giác,
Ở nơi chốn núi rừng,
Trụ thân
hình rốt sau
Nghe Phật pháp đặng quả
Nếu các vị Bồ Tát
Trí huệ rất vững bền
Rõ suốt cả ba cõi
Cầu đặng thừa tốI thượng
Ðó gọi là cây
nhỏ
Mà đặng thêm ln
tốt.
Lại có vị trụ thiền
Ðặng sức thần thông ln
Nghe nói
các pháp không
Lòng rất sanh
vui mừng
Phóng vô
số hào quang
Ðộ các loài
chúng sanh
Ðó gọi là cây
ln
Mà đặng thêm ln
tốt
Như thế, Ca Diếp này!
Ðức Phật nói
pháp ra
Thí như vừng mây ln
Dùng nưc mưa một vị
Ðượm nhuần nơi hoa người
Ðều đặng kết trái cả .
Ca Diếp ông phải biết
Ta dùng
các nhơn duyên
Các món
thí dụ thảy
Ðể chỉ bày đạo Phật
Ðó là ta
phương tiện
Các đức Phật cũng thế
Nay ta vì
các ông
Nói việc rất chơn thiệt
Các chúng
thuộc Thanh
Văn
Ðều chẳng phải diệt độ
Chỗ các ông
tu hành
Là đạo của Bồ Tát
Lần lần tu học xong
Thảy đều sẽ thành Phật.
PHẨM “THỌ KÝ”
THỨ SÁU
1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói
bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng xưng lời thế nầy: Ông Ma
Ha Ca Diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm
muôn ức các đức Thế Tôn,
cúng dường cung
kính tôn trọng ngợi khen, rộng nói vô
lượng đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau đặng thành
Phật hiệu là
Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh-Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Nưc tên là Quang
Ðức, kiếp tên là
Ðại Trang
Nghiêm Phật thọ mười hai tiểu kiếp. Chánh
pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Cõi nưc tốt đẹp, không
có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc
cùng đồ tiện lợi chẳng sạch. Cõi
đó bằng thẳng không
có cao thấp hầm hố gò nổng, đất bằng lưu ly, cây
báu thẳng giăng
bên đường, rải các hoa
báu khắp nơi sạch sẽ.
Bồ Tát
trong nưc đó đông
vô lượng nghìn ức, các
chúng Thanh Văn cũng lại vô số. Không
có việc ma, dầu là có
ma và dân ma, nhưng đều hộ trì Phật Pháp.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
2. Bảo các Tỳ
Kheo rằng:
Ta dùng mắt của Phật
Thấy ông Ca
Diếp nầy
Ở nơi đời vị lai
Quá vô số kiếp sau
Sẽ đặng thành
quả Phật,
Mà ở đời vị lai
Cúng dường và
kính thờ
Ðủ ba trăm
muôn ức
Các đức Phật Thế Tôn.
Vì cầu trí huệ Phật
Mà tịnh tu phạm hạnh
Cúng dường đấng Tối Thượng
Nhị Túc Tôn
xong rồi
Tu tập trọn tất cả
Trí huệ bực vô thượng
Ở nơi thân rốt sau
Ðặng chứng thành
làm Phật
Cõi đó rất thanh tịnh
Chất lưu ly làm
đất
Nhiều thứ cây bằng báu
Thẳng hàng ở bên đường
Dây vàng
giăng ngăn đường
Người ngó thấy vui mừng
Thường thoảng ra hương thơm
Rải rác thứ hoa đẹp
Các món
báu kỳ diệu
Dùng để làm
trang nghiêm
Cõi đó đất bằng thẳng
Không có
những gò hầm.
Các hàng
chúng Bồ Tát
Ðông
không thể xưng kể
Tâm các vị hòa dịu
Ðến đặng thần thông ln
Phụng trì
các kinh điển
Ðại thừa của các Phật.
Các hàng
chúng Thanh Văn
Bực vô lậu thân rốt sau
Là con của Pháp Vương
Cũng chẳng thể kể hết
Nhẫn đến dùng
thiên nhãn
Cũng chẳng thể đếm biết.
Phật đó sẽ sống lâu
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Tượng pháp
trụ ở đời
Cũng hai
mươi tiểu kiếp
Ðức Quang
Minh Thế Tôn
Việc của ngài như thế.
3.- Lúc bấy giờ, ngài Ðại Mục Kiền Liên,
ngài Tu Bồ Ðề, ngài Ðại Ca
Chiên Diên v.v... thảy đều run sợ một lòng chắp tay
chiêm ngưỡng dung
nhan của Phật, mắt không hề tạm rời, liền đồng tiếng nhau
nói kệ rằng:
Thế Tôn rất hùng
mãnh
Mà ban giọng tiếng Phật.
Nói rõ
thâm tâm con
Ðược Phật thọ ký cho
Như dùng cam
lộ rưi
Từ nóng đặng mát mẻ.
Như từ nưc đói đến
Bỗng gặp cỗ tiệc vua
Còn ôm
lòng nghi sợ
Chưa dám tự ăn liền
Nếu lại đặng vua bảo
Vậy sau mi
dám ăn,
Chúng con
cũng như vậy
Hằng nghĩ lỗi tiểu thừa
Chẳng biết làm thế nào
Ðặng huệ vô thượng Phật,
Dầu nghe giọng tiếng Phật
Nói chúng
con thành Phật
Còn ôm
lòng lo sợ
Như chưa dám tự ăn
Nếu được Phật thọ ký
Mi là
khoái an vui
Thế Tôn rất hùng
mãnh
Thường muốn an thế gian
Xin thọ ký chúng
con
Như đói cần bảo ăn.
4.- Lúc bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử ln bảo các thầy Tỳ Kheo
rằng: Ông
Tu Bồ Ðề đây đến đời vị lai phụng thờ ba trăm
năm muôn ức na do
tha (6) đức Phật, cúng dường cung
kính tôn trọng ngợi khen,
thường tu hạnh thanh
tịnh, đủ đạo Bồ Tát, ở thân rốt sau đặng thành
Phật hiệu: Danh tưng Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh-biến-tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện-Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật Thế-Tôn.
Kiếp đó tên
Hữu Bửu, nưc đó tên
là Bửu Sanh.
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng lưu ly, cây
báu trang nghiêm, không có những gò, hầm, cát, sỏi., gai
chông cùng tiện lợi dơ dáy; hoa
báu trải đất khắp nơi sạch sẽ, nhơn dân cõi
đó đều ở đài báu
và lầu gác quí
đẹp. Hàng đệ tử Thanh
Văn đông vô lượng vô
biên, tính kể cùng thí
dụ đều không
thể biết. Các
chúng Bồ Tát đông
vô số nghìn
muôn ức
na-do-tha.
Ðức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chánh
pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp
cũng trụ đời hai mươi tiểu kiếp, Ðức Phật đó thường ở trên hư không vì
chúng tôi nói pháp độ thoát đặng vô lượng Bồ Tát cùng
chúng Thanh-Văn.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
5. Các
chúng Tỳ Kheo nầy!
Nay ta bảo các ông
Ðều nên phải một lòng
Lóng nghe
lời ta nói
.
Ðệ tử ln của ta
Là ông Tu
Bồ Ðề
Rồi sẽ đặng làm Phật
Hiệu gọi là Danh
Tưng
Sẽ phải cúng vô
số
Muôn ức các đức Phật
Theo hạnh của Phật làm
Lần lần đủ đạo ln.
Thân rốt sau sẽ đặng
Ba mươi hai tưng tốt
Xinh lịch đẹp đẽ lắm
Dường như núi báu
ln
Trang-nghiêm
sạch thứ nhất
Chúng
sanh nào được thấy
Không ai
chẳng ưa mến
Phật ở trong
cõi đó
Ðộ thoát vô
lượng chúng
.
Trong
pháp hội của Phật
Các Bồ Tát đông
nhiều
Thảy đều bực lợi căn
Chuyển pháp
luân bất thối .
Cõi nưc đó thường dùng
Bồ Tát để trang
nghiêm
Các chúng
Thanh Văn ln
Chẳng có thể đếm kể
Ðều đặng ba món
minh
Ðủ sáu thứ thần thông
Trụ tám pháp
giải thoát
Có oai đức rất ln .
Ðức Phật đó nói
pháp
Hiện ra vô lượng món
Pháp thần thông
biến hóa
Chẳng thể nghĩ bàn
được .
Các hàng
trời, nhơn dân
Số đông như hằng sa
Ðều cùng
nhau chắp tay
Lóng nghe
lời Phật dạy .
Ðức Phật đó sẽ thọ
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Chánh
pháp trụ lại đời
Ðủ hai mươi tiểu kiếp
Tượng pháp
trụ ở đời
Cũng hai
mươi tiểu kiếp .
6.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các
chúng Tỳ Kheo: Ta nay nói vi các ông, ông Ðại Ca Chiên Diên này ở đời sẽ ti, dùng
các đồ cúng mà
cúng dường phụng thờ tám
nghìn đức Phật cung
kính tôn trọng. Sau
khi các đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp
miếu cao một nghìn đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp
miếu cao một nghìn
do tuần, ngang
rộng ngay bằng năm
trăm do tuần, tháp
miếu đó dùng
bảy món báu
vàng, bạc, lưu ly, xa
cừ, mã não,
chơn châu và
mai khôi hiệp lại thành,
cúng dường tháp
miếu bằng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu, tràng
phan....
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trưc, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ Tát sẽ đặng làm Phật hiệu: Diêm
Phù Na Ðề Kim
Quang Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên-Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng
pha-lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm bằng dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la . Các trời cùng người rất đông,
các chúng Thanh Văn và Bồ Tát vô lượng muôn ức trang
nghiêm nưc đó. Ðức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh
pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp tượng pháp
cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trưc, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-Tát sẽ đặng làm Phật hiệu:
Diêm-Phù Na Ðề Kim
Quang Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng pha lê
cây báu trang nghiêm, vàng ròng là dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la . Các trời cùng người rất đông,
các chúng Thanh Văn và Bồ Tát vô lượng muôn ức trang
nghiêm nưc đó. Ðức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh
pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp
cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.
Lúc đó Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
7.- Các
chúng Tỳ Kheo nầy!
Ðều nên một lòng
nghe
Như lời của ta nói
Chơn thiệt không
khác lạ.
Ông Ca
Chiên Diên này
Sau sẽ dùng các
món
Ðồ cúng dường tốt đẹp
Mà cúng dường các Phật
Các đức Phật diệt rồi
Dựng tháp bằng bảy báu
Cũng dùng
hoa và hương
Ðể cúng dường Xá-lợi .
Thân rốt sau của ông
Ðặng trí huệ của Phật
Thành bực Ðẳng-Chánh-Giác
Cõi nưc rất thanh tịnh
Ðộ thoát đặng vô lượng
Muôn ức hàng
chúng sanh
Ðều được mười phương khác
Thường đến kính
cúng dường,
Ánh sáng
của Phật đó
Không ai
có thể hơn
Ðức Phật đó hiệu là:
Diêm Phù
Kim Quang Phật
Bồ Tát và
Thanh Văn
Dứt tất cả hữu lậu
Ðông vô lượng vô số
Trang
nghiêm cõi nưc đó.
8.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo trong đại chúng:
"Ta nay nói vi các ông, ông Ðại Mục Kiền Liên đây sẽ dùng các món đồ cúng, cúng dường tám nghìn các đức Phật, cung
kính tôn trọng. Sau
khi các đức Phật diệt độ đều dựng tháp
miếu cao, một nghìn
do tuần, ngang
rộng thẳng bằng năm
trăm do tuần, dùng bảy món
báu: vàng bạc, mai khôi
hiệp lại thành.
Ðem các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và
tràng phan để cúng dường tháp.
Sau lúc ấy lại sẽ cúng dường, hai
trăm muôn ức các đức Phật cũng như trưc, rồi sẽ đặng thành
Phật hiệu: Ða Ma
La Bạt Chiên
Ðàn Hương Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô-thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Kiếp đó tên
là Hỷ Mãn, nưc tên là
Ý Lạc, cõi đó
bằng thẳng, chất pha lê
là đất, cây
báu trang nghiêm, rải hoa trân
châu khắp nơi sạch sẽ, người được thấy đều vui mừng. Các
hàng trời người rất đông, Bồ Tát và
Thanh Văn số nhiều vô lượng, đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, tượng pháp
cũng trụ bốn mươi hai tiểu kiếp.
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
9. Ðệ tử của ta đây
Là Ðại Mục Kiền Liên
Bỏ thân người nầy rồi
Sẽ đặng gặp tám
nghìn
Hai trăm
muôn ức vị
Các đức Phật Thế Tôn
Ông vì cầu Phật đạo
Nên cúng
dường cung
kính
Ở nơi các đức Phật
Thường tu trì
phạm hạnh
Ở trong vô
lượng kiếp
Phụng trì
pháp của Phật.
Các đức Phật diệt rồi
Xây tháp
bằng bảy báu
Tháp vàng
rất cao rộng
Dùng hoa
hương kỹ nhạc
Ðể dùng
dâng cúng dường
Tháp miếu các đức Phật.
Lần lần đặng đầy đủ
Ðạo hạnh Bồ Tát rồi
Ở nơi nưc Ý Lạc
Mà đặng thành
quả Phật
Hiệu là Ða
Ma La
Bạt Chiên
Ðàn Hương Phật.
Ðức Phật đó thọ mạng
Hai mươi bốn tiểu kiếp
Thường vì
hàng trời người
Mà diễn nói đạo Phật
Chúng
Thanh Văn vô lượng
Như số cát sông
Hằng
Ðủ ba minh,
sáu thông
Ðều có oai
đức ln.
Bồ-Tát đông
vô số
Chí bền lòng
tinh tấn
Ở nơi trí huệ Phật
Ðều không hề thối chuyển.
Sau khi
Phật diệt độ
Chánh
pháp sẽ trụ đời
Ðủ bốn mươi tiểu kiếp
Tượng pháp
cũng như thế .
10. Các
đệ tử của ta
Bực oai đức đầy đủ
Số đó năm
trăm người
Ta đều sẽ thọ ký
Ở nơi đời vị lai
Ðều đặng chứng thành
Phật
Ta cùng vi
các ông
Ðời trưc kết nhơn duyên
Ta nay sẽ thuật nói
Các ông
khéo lóng nghe .
PHẨM “HÓA THÀNH DỤ”
THỨ BẢY
1. Ðức Phật bảo các thầy Tỳ
Kheo: "Thuở quá khứ vô lượng vô
biên bất khả tư nghì a
tăng kỳ kiếp đã qua,
lúc bấy giờ có đức Phật hiệu Ðại Thông
Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật Thế-Tôn.
Nưc đó tên
là Hảo Thành,
kiếp tên Ðại tưng. Các
Tỳ Kheo! Từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu
xa, thí như địa chủng trong
cõi tam thiên đại thiên,
giả sử có người đem mài
làm mực rồi đi khỏi một nghìn
cõi nưc ở phương đông
bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn
cõi nưc nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lầ lựa chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ý
các ông nghĩ sao? Các cõi nưc đó hoặc thầy toán có
thể biết đặng ngằn mé số đó
chăng? "
Thưa Thế Tôn!
Không thể biết!
Các
Tỳ Kheo! Những cõi nưc của người đó đi
qua hoặc có chấm mực hoặc không
chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô
biên trăm nghìn muôn ức a tăng
kỳ kiếp. Ta
dùng sức tri kiến của Như Lai xem
thuở lâu xa
đó dường như hiện ngày
nay .
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
2. Ta
nh đời quá khứ
Vô lượng vô
biên kiếp
Có Phật Lưỡng Túc
Tôn
Hiệu Ðại Thông
Trí Thắng
Như người dùng sức mài
Cõi tam
thiên đại thiên
Hết tất cả địa chủng
Thảy đều làm
thành mực
Quá hơn nghìn
cõi nưc
Bèn chấm mỗi điểm trần
Như thế lần lựa chấm
Hết các mực trần nầy .
Bao nhiêu
cõi nưc đó
Ðiểm cùng chẳng điểm thảy
Lại đều nghiền làm bụi
Một bụi làm một kiếp
Kiếp số lâu xa
kia
Lại nhiều hơn số bụi
Phật đó diệt đến nay
Vô lượng kiếp như thế
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh
Văn Bồ Tát
Như hiện nay thẩy diệt.
Các Tỳ
Kheo nên biết.
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu và vô
ngại
Suốt thấu vô lượng kiếp.
3. Ðức Phật bảo các Tỳ
Kheo: "Ðức Ðại Thông
Trí Thắng Phật thọ năm trăm
bốn mươi vạn ức na do
tha kiếp, đức Phật đó khi
trưc lúc ngồi đạo tràng
phá ma rồi, sắp đặng đạo vô thượng chánh
đẳng, chánh
giác mà Phật pháp chẳng hiện ra trưc, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân
và tâm đều không động mà các
Phật pháp
còn chẳng hiện ra trưc.
Thuở đó, các
vị trời Ðao Lợi ở dưi cội cây Bồ Ðề đã trưc vì đức Phật đó mà
trải toà Sư tử cao một do tuần (7),
Phật ngồi nơi tòa nầy sẽ đặng đạo vô thượng, chánh
đẳng, chánh
giác. Khi Phật vừa ngồi trên
tòa đó các trời Phạm Thiên Vương rưi những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu
thổi đến, thổi dẹp hoa héo
rồi rưi hoa mi
mãi như thế không ngt
mãn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt-độ thường rưi hoa nầy . Các
trời Tứ Thiên Vương vì
cúng dường Phật nên thường đánh
trống trời . Ngoài
ra các vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời, mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế.
Các Tỳ
Kheo! Ðức Ðại Thông
Trí Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện ra trưc thành đạo Vô Thượng chánh
đẳng chánh
giác.
Lúc Phật chưa xuất gia có
mười sáu người con
trai, người con cả tên
Trí-Tích. Các người con đó
đều có các
món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe
cha chứng đặng quả vô-thượng chánh
đẳng chánh
giác đều bỏ đồ báu của mình đi
đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc
theo đưa .
Ông nội là vua
Chuyển Luân
Thánh Vương, cùng
một trăm vị đại thần và trăm
nghìn muôn ức nhơn dân
khác đều vây
quanh nhau đi theo đến đạo tràng,
mọi người đều đến gần gũi đức Ðại Thông
Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung
kính tôn trọng ngợi khen.
Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt mình lạy chơn Phật, đi
vòng quanh đức Phật xong, đều chắp tay một lòng
chiêm ngưỡng dung
nhan của Phật, rồi nói kệ khen Phật:
4. Thế Tôn oai
đức ln
Vì muốn độ chúng
sanh
Trong vô
lượng ức năm
Bèn mi đặng thành
Phật
Các nguyện đã đầy đủ
Hay thay
lành vô thượng
Thế Tôn rất ít có
Một phen ngồi mười kiếp
Thân thể và tay
chơn
Yên tịnh không
hề động
Tâm Phật thường lặng
Chưa từng có tán
loạn
Trọn rốt ráo vắng bặt
An trụ pháp vô
lậu
Ngày nay
thấy Thế Tôn
An ổn thành
Phật đạo
Chúng con
được lợi lành
Mừng rỡ rất vui đẹp.
Chúng
sanh thường đau khổ
Ðui mù
không Ðạo Sư
Chẳng biết đạo dứt khổ
Chẳng biết cầu giải thoát
Lâu ngày
thêm nẻo ác
Giảm tổn các
chúng trời
Từ tối vào nơi tối
Trọn chẳng nghe
danh Phật.
Nay Phật đặng vô thượng
Ðạo an ổn vô lậu
Chúng ta
và trời người
Vì đặng lợi ln tột
Cho nên đều cúi đầu
Quy mạng (8) đấng vô thượng.
5. Bấy giờ mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp
luân, đều thưa rằng:
"Ðức Thế Tôn nói
pháp được an ổn, thương xót
làm lợi ích cho
các trời và nhơn
dân" . Lại nói kệ rằng:
Ðức Phật không
ai bằng
Trăm phưc tự trang
nghiêm
Ðặng trí huệ vô thượng
Nguyện vì đời nói
pháp
Ðộ thoát
cho chúng con
Và các
loài chúng sanh
Xin phân
biệt chỉ bày
Cho đặng trí huệ Phật
Nếu chúng
con cũng thành Phật
Chúng
sanh cũng được thế
Thế Tôn biết chúng
sanh
Thâm tâm
nghĩ tưởng gì
Cũng biết đạo chúng
làm
Lại biết sức trí huệ
Muốn ưa và tu
phưc
Nghiệp gây tạo đời trưc
Thế-Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp
Vô-thượng.
6. Phật bảo các Tỳ Kheo:
Lúc Ðức Ðại Thông
Trí Thắng Phật đặng quả Vô Thượng chánh
đẳng chánh
giác, trong mười phương, mỗi phương đều năm
trăm muôn ức các cõi
nưc Phật sáu điệu vang động. Trong
các cõi nưc đó chỗ tối tăm ánh
sáng của nhựt nguyệt không
soi ti đặng mà đều sáng rỡ, trong
đó chúng sanh đều đặng thấy nhau, đồng nói rằng:
"Trong đây tại sao bỗng sanh
ra chúng sanh?".
Lại trong
các cõi đó cung điện của chư Thiên
cho đến Phạm Cung
sáu điệu vang động, hào
quang ln soi cùng khắp đầy cõi nưc, sáng hơn ánh
sáng của trời .
7. Bấy giờ, phương Ðông,
năm trăm muôn ức các cõi
nưc, cung
điện của trời Phạm Thiên
(9) ánh sáng soi chói gấp bội hơn ánh
sáng thường ngày,
các Phạm Thiên Vương đều tự nghĩ rằng:
"Hôm nay cung điện sáng suốt từ xưa chưa từng có, vì
nhơn duyên
gì mà hiện điềm tốt
này?" Lúc đó các vị Phạm Thiên Vương liền đi đến nhau để chung
bàn việc đó.
Trong chúng có một vị Phạm-Thiên-Vương ln tên
Cứu-Nhứt-Thiết vì các
Phạm-chúng
mà nói kệ rằng:
Các cung
điện chúng
ta
Sáng suốt xưa chưa có
Ðây là nhơn duyên
gì
Phải nên chung
nhau tìm
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời
Mà ánh
sáng ln này
Khắp soi cả mười phương.
Bấy giờ, năm
trăm muôn ức cõi nưc, các vị Phạm Thiên Vương cùng
chung vi cung điện (10) mỗi vị đều lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đi đến phương Tây
suy tì tưng sáng
đó. Thấy đức Ðại Thông
Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử ở nơi đạo tràng dưi cội Bồ Ðề, hàng chư Thiên,
Long Vương, Cà
Thát Bà, Khẩn Na La,
Ma Hầu La Dà,
nhơn và phi
nhơn v.v...
cung kính vây quanh đức Phật chuyển pháp
luân; tức thời các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật đi
quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật.
Hoa của mấy ông rải nhóm như núi Diệu-Cao,
cùng để cúng-dường cây Bồ-đề của Phật, cây Bồ-đề đó cao mười do-tuần. Cúng dường hoa
xong, mỗi vị đem cung
điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng:
" Xin đức Phật đoái thương lợi-ích cho
chúng con, cung điện dưng cúng
đây xin nhận ở. "
Lúc đó,
các vị Phạm-thiên-vương liền ở trưc Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Thế Tôn rất ít có
Khó thể gặp gỡ đặng
Ðủ vô lượng công đức
Hay cứu hộ tất cả
Thầy ln của trời người
Thương xót ở trong đời
Mười phương các
chúng sanh
Khắp đều nhờ lợi ích.
Chúng con
từng theo đến
Năm trăm
muôn ức nưc
Bỏ vui thiền định sâu
Vì để cúng dường Phật
Chúng con
phưc đời trưc
Cung điện rất tốt đẹp
Nay đem dưng Thế Tôn
Cúi xin,
thương nạp thọ .
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi thưa rằng:
"Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp
luân, độ thoát
chúng sanh mở đường Niết-bàn.
"
Khi ấy, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói
kệ rằng:
Thế Hùng Lưỡng Túc
Tôn
Cúi xin
diễn nói
pháp
Dùng sức từ bi ln
Ðộ chúng
sanh khổ não .
Lúc đó đức Ðại Thông
Trí Thắng Như Lai lắng yên nhận lời
đó (11)
8. Lại nữa các Tỳ
Kheo! Phương đông
nam năm trăm muôn ức cõi nưc các vị Phạm Thiên Vương đều tự thấy cung điện mình
ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có,
vui mừng hn hở sanh
lòng hi hữu, liền cùng đến nhau
chung bàn việc đó. Lúc
ấy trong
chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương tên là
Ðại Bi, vì
các Phạm chúng
mà nói kệ rằng:
Việc đó nhơn duyên
gì
Mà hiện tưng như thế?
Các cung
điện chúng
ta
Sáng suốt xưa chưa từng có
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Chưa từng thấy tưng nầy
Nên chung
một lòng cầu
Quá nghìn
muôn ức cõi
Theo luồng sáng
tìm đến
Phần nhiều Phật ra đời
Ðộ thoát khổ chúng sanh
.
Bấy giờ, năm
trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng
chung vi cung điện, lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đến phương Tây Bắc suy tìm
tưng đó. Thấy đức Ðại Thông
Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưi cội Bồ Ðề, các
hàng chư Thiên,
Long Vương, Càn
Thát Bà, Khẩn Na La,
Ma Hầu La Dà,
nhơn cùng
phi nhơn v.v...
cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp
luân.
Khi ấy các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật, đi
quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm
như núi Diệu Cao,
cùng để cúng dường cây Bồ Ðề của Phật . Cúng
dường hoa
xong, đều đem
cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng:
"Xin Phật thương xót lợi ích cho
chúng con, những cung
điện dưng đây
cúi xin nhận ở ".
Lúc đó,
các vị Phạm Thiên Vương liền ở trưc Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thánh
Chúa vua trong trời
Tiếng Ca
Lăng Tần Già
Thương xót
hàng chúng sanh
Chúng con
nay kính lễ .
Thế Tôn rất ít có
Lâu xa một lần hiện
Một trăm
tám mươi kiếp
Luống qua không
có Phật
Ba đường dữ dẫy đầy
Các chúng
trời giảm ít.
Nay Phật hiện ra đời
Làm mắt cho
chúng sanh
Chỗ quy thú
của đời
Cứu hộ cho tất cả
Là cha của chúng
sanh
Thương xót
làm lợi ích
Nhờ phưc lành đời trưc
Nay đặng gặp Thế Tôn.
Khi đó,
các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng:
"Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả chuyển pháp
luân cho, để độ thoát
chúng sanh".
Lúc ấy, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói
kệ khen rằng:
Ðại thánh
chuyển pháp
luân
Chỉ bày các
pháp tưng
Ðộ chúng
sanh đau khổ
Khiến đặng rất vui mừng
Chúng
sanh nghe pháp này
Ðặng đạo hoặc sanh
thiên
Các đường dữ giảm ít
Bực nhẫn thiện thêm
nhiều .
Khi đó, đức Ðại Thông
Trí Thắng Phật lặng yên nhận lời .
9. Lại nữa các Tỳ
Kheo! năm trăm muôn ức cõi nưc ở phương Nam
các vị Ðại Phạm Vương đều tự thấy cung điện mình
ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có,
vui mừng hn hở sanh
lòng hi hữu liền đến cùng
nhau chung bàn việc đó. Vì
nhơn duyên
gì cung điện của chúng
ta có ánh sáng chói này?
Trong
chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương ln tên
là Diệu-pháp,
vì hàng Phạm chúng
mà nói kệ rằng:
Các cung
điện chúng
ta
Quang
minh rất oai diệu
Ðây không
phải không
nhơn
Tưng nầy phải tìm đó
Quá hơn trăm
nghìn kiếp
Chưa từng thấy tưng nầy
Là trời đại đức sanh
Hay đức Phật ra đời?
Bấy giờ, năm
trăm muôn ức Phạm Thiên Vương cùng
cung điện chung,
mỗi vị dùng đãy
đựng các thứ hoa trời đồng đến phương Bắc suy tìm
tưng đó. Thấy đức Ðại Thông
Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưi cội cây Bồ Ðề, hàng chư Thiên,
Long Vương, Càn
Thát Bà, Khẩn-na La,
Ma Hầu La Già,
nhơn và phi
nhơn v.v...,
cung kính vây quanh, cùng thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp
luân.
Khi đó,
các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lễ Phật đi
quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm
như núi Diệu Cao và
để cúng dường cây Bồ Ðề của Phật. Cúng dường hoa
xong, mỗi vị đều đem
cung điện dâng
lên đức Phật mà thưa rằng:
"Xin đức Phật đoái thương lợi ích
chúng con, cung điện của chúng
con dưng đây
cúi xin nạp xử". Bấy giờ, các vị Ðại Phạm Thiên Vương liền ở trưc Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thế Tôn rất khó thấy
Bực phá các
phiền não
Hơn trăm ba
mươi kiếp
Nay mi thấy một lần
Hàng
chúng sanh đói khát
Nhờ mưa pháp đầy đủ
Xưa chỗ chưa từng thấy
Ðấng vô lượng trí huệ
Như hoa Ưu Ðàm Bát
Ngày nay
mi gặp gỡ
Cung điện của chúng
con
Nhờ hào
quang được đẹp
Thế Tôn đại từ mẫn
Cúi xin
thương nhận ở .
Khi đó,
các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằng:
"cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp
luân làm cho tất cả thế gian các
hàng trời, ma, phạm, sa
môn, bà la môn đều được an ổn mà được độ thoát
". Lúc ấy các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng nói kệ rằng:
Cúi mong
Thiên Nhơn Tôn
Chuyển pháp
luân vô thượng
Ðánh vang
pháp cổ ln
Khắp rưi pháp vũ
ln
Ðộ vô lượng chúng
sanh
Chúng con
đều qui thỉnh
Nên nói
tiếng sâu xa
.
Khi đó, đức Ðại Thông
Trí Thắng lặng yên nhận lời đó .
10. Phương Tây
Nam nhẫn đến nưc ở thượng phương, các vị Ðại Phạm Thiên Vương thảy đều tự thấy cung điện của mình ở ánh sáng
chói rực từ xưa chưa từng có,
vui mừng hn hở sanh
lòng hi hữu, liền đi đến nhau để chung
bàn việc đó. Vì
nhơn duyên
gì cung điện của chúng
ta có ánh sáng nầy? Lúc đó
trong chúng có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là
Thi Khí vì hàng Phạm chúng
mà nói kệ rằng:
Nay vì
nhân duyên gì?
Cung điện của chúng
ta
Ánh sáng
oai đức từng có?
Tưng tốt như thế đó
Xưa chưa từng nghe
thấy
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Bấy giờ, năm
trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng
cung điện chung,
mỗi vị đều dùng
đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương dưi suy tìm
tưng sáng
đó . Thấy đức Ðại-Thông-Trí
Như- Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưi cội bồ-đề, hàng chư Thiên,
Long-vương,
Càn-thát-bà, Khẩn-na-la,
Ma-hầu-la-già,
nhơn và
phi-nhơn v.v...
cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh đức Phật chuyển pháp
luân .
Lúc đó,
các vị Phạm-thiên-vương đầu mặt lạy Phật đi
quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật . Hoa rải nhóm như núi Diệu Cao và
để cúng dường cây bồ đề của Phật . Cúng
dường hoa
xong, đều đem
cung điện dưng lên đức Phật mà bạch rằng:
"Xin đoái thương lợi ích
chúng con. Cung điện dưng đây
cúi mong Phật nạp ở ".
Lúc đó,
các vị Phạm-thiên-vương liền ở trưc Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Hay thay!
thấy các Phật
Ðấng
Thánh-Tôn cứu Thế
Hay ở ngục tam gii
Cứu khổ các
chúng sanh
Thiên Nhơn Tôn trí
khắp
Thương xót
loài quần manh
Hay khai
môn cam lộ
Rộng độ cho tất cả .
Lúc xưa vô lượng kiếp
Luống qua
không có Phật
Khi Phật chưa ra đời
Mười phương thường mờ tối
Ba đường dữ thêm
đông
A-tu-la
cũng thạnh
Các chúng
trời càng bt
Chết nhiều đọa ác đạo
Chẳng theo
Phật nghe
pháp
Thường làm việc chẳng lành
Sắc, lực, cùng
trí huệ
Các việc đều giảm ít
Vì tội nghiệp nhơn duyên
Mất vui
cùng tưởng vui
Trụ trong
pháp tà kiến
Chẳng biết nghi tắc lành
Chẳng nhờ Phật hóa độ
Thường đọa trong
ác đạo .
Phật là mắt của đời
Lâu xa mi
hiện ra
Vì thương các
chúng sanh
Nên hiện ở trong đời
Siêu việt thành
chánh giác
Chúng con
rất mừng vui
Và tất cả chúng
khác
Mừng khen
chưa từng có
Cung điện của chúng
con
Nhờ hào
quang nên đẹp
Nay đem dưng Thế-Tôn
Cúi mong
thương nhận ở
Nguyện đem
công đức này
Khắp đến cho tất cả
Chúng con
cùng chúng sanh
Ðều đồng thành
Phật đạo .
Khi đó,
năm trăm muôn ức các vị Phạm-thiên-vương nói kệ khen đức Phật rồi, đều bạch Phật rằng:
"Cúi mong đức Thế-Tôn chuyển pháp
luân, nhiều chỗ an ổn, nhiều chỗ độ
thoát". Lúc ấy các vị Phạm-thiên-vương đồng nói kệ rằng:
Thế Tôn chuyển pháp
luân
Ðánh trống pháp
cam lộ
Ðộ chúng
sanh khổ não
Mở bày đường Niết Bàn
Cúi mong
nhận lời con
Dùng tiếng vi diệu ln
Thương xót mà
nói bày
Pháp tu
vô lượng kiếp .
11. Lúc
bấy giờ, Ðại Thông
Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh của các Phạm-thiên-vương và mười sáu vị vương tử tức thời ba phen
chuyển pháp
luân mười hai
hành (12) hoặc là sa
môn, bà la môn, hoặc là trời, ma, phạm và các
thế gian
khác đều không
thể chuyển được, nói:
đây là khổ,
đây là khổ tập, đây là
khổ diệt, đây là
đạo diệt khổ .
Và rộng nói
pháp mười hai nhơn duyên:
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên
ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên
sanh, sanh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não .
Vô minh
diệt thời hành diệt, hành
diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh
diệt thời lão, tử, ưu bi, khổ não diệt.
Ðức Phật ở trong đại chúng
trời, người khi nói
pháp đó có sáu trăm muôn ức na do
tha người do vì
không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát,
đều đặng thiền định sâu mầu, ba món
minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát.
Lúc nói
pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có
nghìn muôn ức hằng hà sa
na do tha chúng sanh cũng bởi không
thọ tất cả pháp mà
nơi các lậu tâm được giải thoát.
Từ đây nhẫn sau các
chúng Thanh Văn nhiều vô lượng vô
biên, không thể tính kể được.
12. Bấy giờ mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm
Sa Di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh
tịnh, cầu đạo vô thượng chánh
đẳng chánh
giác, đều bạch cùng
Phật rằng:
"Thưa Thế Tôn! Các
vị đại đức Thanh
Văn vô lượng nghìn
muôn ức đây đã
thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng
nên vì chúng con nói pháp vô thượng chánh
đẳng chánh
giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học Thế Tôn!
Chúng con có chí mong được tri kiến của Như Lai chỗ nghĩ tưởng trong
thâm tâm, đức Phật tự chứng biết cho .
Lúc đó,
tám muôn ức người trong
chúng của Chuyển Luân
Thánh Vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia,
cũng tự cầu xuất gia,
vua liền thuận cho .
Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa Di,
qua hai muôn kiếp sau mi ở trong
hàng bổn chúng
nói kinh đại thừa tên là:
"Diệu Pháp
Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp
Phật Sở Hộ Niệm".
Ðức Phật nói
kinh đó xong, mười sáu vị Sa Di vì
đạo vô thượng chánh
đẳng chánh
giác, đều đồng thọ thì đọc tụng thông
thuộc. Lúc
nói kinh đó, mười sáu vị Sa Di Bồ Tát thảy đều tin thọ trong
chúng Thanh Văn cũng có người tin hiểu . Ngoài
ra nghìn muôn ức loại chúng
sanh đều sanh
lòng nghi lầm. Phật nói
kinh đó suốt tám
nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói
kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong
thiền định tám
muôn bốn nghìn
kiếp.
13. Bấy giờ, mười sáu vị Bồ Tát Sa
Di biết Phật nhập thất trụ trong
thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên
Pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn
kiếp vì bốn bộ chúng rộng nói
phân biệt kinh Diệu Pháp
Liên Hoa .
Mỗi vị đều độ sáu trăm
muôn ức na do
tha hằng hà sa
chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát
tâm vô thượng chánh
đẳng chánh
giác.
14. Ðức Ðại Thông
Trí Thắng Phật qua tám
muôn bốn nghìn
kiếp sau từ tam muội dậy, qua đến pháp
tòa mà ngồi an
lành, khắp bảo trong
hàng đại chúng:
"Mười sáu vị Bồ Tát Sa
Di này rất là ít
có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng
láng, đã từng cúng dường vô lượng nghìn
muôn ức số đức Phật, ở chỗ các đức Phật thường tu hạnh thanh
tịnh, thọ trì trí
của Phật để chỉ dạy chúng
sanh làm cho vào trong đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy .
Vì sao? Nếu hàng
Thanh Văn, Duyên Giác cùng các Bồ Tát có
thể tin kinh
pháp của mười sáu vị Bồ Tát Sa
Di đó nói mà thọ trì
không mất, thời người đó sẽ đặng đạo vô thượng chánh
đẳng chánh
giác trí huệ của Như
Lai".
15. Phật bảo các Tỳ
Kheo: "Mười sáu vị Bồ Tát đó
thường ưa nói
kinh Diệu Pháp
Liên Hoa nầy . Sáu
trăm muôn ức na tho
hằng hà sa
chúng sanh của mỗi vị Bồ Tát hóa
độ đó đời đời sanh ra
đều cùng Bồ Tát ở chung,
theo nghe pháp vi Bồ Tát thảy đều tin hiểu . Nhờ nhơn duyên
đó mà đặng gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngt.
Các Tỳ
Kheo! Ta nói vi các ông mười sáu vị Sa Di đệ tử của đức Phật kia nay
đều chứng đặng đạo vô thượng chánh
đẳng chánh
giác, hiện đương pháp
trong cõi nưc ở mười phương có vô
lượng trăm
nghìn muôn ức Bồ Tát
Thanh Văn để làm quyến thuộc.
Hai vị Sa Di
làm Phật ở phương Ðông:
Vị thứ nhất tên là
A Súc ở nưc Hoa Hỷ, vị thứ hai tên
là Tu Di Ðảnh. Hai vị làm Phật ở phương Ðông
Nam: Vị thứ nhứt tên là
Sư Tử Âm, vị thứ hai tên
là Sư Tử Tưng . Hai
vị làm Phật ở phương Nam: Vị thứ nhứt tên là
Thường Diệt. Hai vị làm Phật ở phương Tây
Nam: Vị thứ nhứt tên là
Ðế Tưng, vị thứ hai tên
là Phạm Tưng . Hai
vị làm Phật ở phương Tây: Vị thứ nhứt tên là
A Di Ðà, vị thứ hai tên
là Ðộ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não .
Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: Vị thứ nhứt tên là
Ða Ma La Bạt Chiên
Ðàn Hương Thần Thông,
vị thứ hai tên
là Tu Di Tưng. Hai vị làm Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhứt tên là
Vân Tự Tại, vị thứ hai tên
là Vân Tự Tại Vương. Một vị làm Phật ở phương Ðông Bắc hiệu Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy . Vị thứ mười sáu,
chính ta là Thích Ca Mâu Ni Phật ở cõi nưc Ta Bà
thành vô thượng chánh
đẳng chánh
giác.
Các Tỳ
Kheo! Lúc chúng ta làm Sa Di mỗi người giáo
hóa vô lượng trăm
nghìn muôn ức hằng hà sa
chúng sanh vì đạo vô thượng chánh
đẳng, chánh
giác theo ta nghe pháp . Những chúng
sanh đó đến nay có
người trụ bực Thanh
Văn, ta thường giáo
hóa pháp vô thượng chánh
đẳng chánh
giác. Những bọn người này
đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo .
Vì sao?
Vì trí huệ của Như Lai khó
tin khó hiểu, vô lượng hằng hà sa
chúng sanh bị hóa độ trong
thuở đó chính
là bọn ông,
các Tỳ Kheo, và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thinh
Văn trong đời vị lai .
Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không
nghe kinh này, không biết không
hay hạnh của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là
diệt độ sẽ nhập Niết Bàn.
Ta ở nơi nưc khác
làm Phật lại có tên
khác. Người đó dầu sanh
lòng tưởng là diệt độ nhập Niết Bàn, nhưng ở nơi cõi kia
cầu trí huệ của Phật, được nghe
kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không
có thừa nào khác,
trừ các đức Như Lai phương tiện nói
pháp.
Các Tỳ
Kheo! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, chúng
lại thanh tịnh lòng
tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp
không, sâu vào thiền định, bèn
nhóm các Bồ Tát và
chúng Thanh Văn mà vì nói kinh nầy . Trong
đời không
có hai thừa mà đặng diệt độ, chỉ có một Phật Thừa đặng diệt độ thôi .
Các Tỳ
Kheo nên rõ! Ðức Như Lai phương tiện sâu vào
tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham nơi năm món
dục vì hạng người này mà
nói Niết Bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận.
16. Thí
dụ đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm
trăm do tuần. Chốn ghê sợ hoang vắng không
người. Nếu chúng
đông muốn đi qua
con đường nầy đến chỗ trân bửu, có một vị đạo sư thông
minh sáng suốt khéo biết rõ tưng thông
bít của con đường hiểm, dắt chúng
nhơn muốn vượt qua nạn đó .
Chúng nhơn được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch đạo sư rằng:
"Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trưc còn xa
nay muốn lui về ".
Vị đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: Bọn này
đáng thương, làm
sao cam bỏ trân bửu ln mà
muốn lui về. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba
trăm do tuần, hóa
làm một cái
thành mà bảo chúng
nhơn rằng:
" Các người ch sợ, đừng lui về, nay
thành ln nầy có thể dừng ở trong đó
tùy ý muốn làm gì
thì làm, nếu vào
thành nầy sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng đến chỗ châu báu
đi cũng đặng
".
Bấy giờ, chúng mỏi mệt rất vui mừng khen
chưa từng có,
chúng ta hôm nay khỏi được đường dữ rất được an ổn. Ðó rồi chúng
nhơn thẳng vào
hóa thành sanh lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn .
Lúc ấy đạo sư biết chúng
nhơn đó đã được nghỉ ngơi không
còn mỏi mệt, liền diệt hóa
thành bảo chúng
nhơn rằng:
"Các người nên đi
ti, chỗ châu báu
ở gần đây,
thành ln trưc đó là của ta biến hóa ra
để nghỉ ngơi
thôi".
Các Tỳ
Kheo! Ðức Như Lai cũng
lại như thế, nay vì
các ông mà làm vị Ðại Ðạo Sư, biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa
nên vượt qua . Nếu như chúng
sanh chỉ nghe một Phật Thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gủi, mà
nghĩ thế nầy:
"Ðạo Phật dài xa
lâu ngày chịu cần khổ mi có thể đặng
thành". Phật biết tâm
chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói
hai món Niết
Bàn. (13)
Nếu chúng
sanh trụ nơi hai bực, đức Như Lai bấy giờ liền bèn vì
nói:
" Chỗ tu của các ông
chưa xong bực của các ông
ở gần vi huệ của Phật . Phải quan
sát suy lường Niết Bàn đã
đặng đó chẳng phải chơn thật vậy . Chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật Thừa phân biệt nói
thành ba . Như hai vị đạo sư kia vì
cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa
thành ln, đã biết nghỉ xong mà
bảo rằng:
" Chỗ châu báu
ở gần, thành
nầy không
phải thiệt, của ta biến hóa làm
ra đó thôi".
Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa
trên mà nói kệ rằng:
17. Ðại Thông
Trí Thắng Phật
Mười kiếp ngồi đạo tràng
Phật pháp chẳng hiện tiền
Chẳng đặng thành
Phật đạo
Các trời, thần, Long Vương
Chúng A
Tu La thảy
Thường rưi các hoa
trời
Ðể cúng dường Phật đó
Chư thiên
đánh trống trời
Và trổi các kỹ nhạc
Gió mưa thổi hoa héo
Lại mưa bông tốt mi
Quá đặng thành
Phật đạo
Các trời cùng người đời
Lòng đều sanh hn
hở .
Mười sáu người con Phật
Ðều cùng
quyến thuộc mình
Nghìn
muôn ức vây
quanh
Chung đi
đến chỗ Phật
Ðầu mặt lạy chơn Phật
Thỉnh Phật chuyển Pháp
Luân
"Ðấng Thánh
Sư mưa pháp
Lợi con và
tất cả
Thế Tôn rất khó gặp
Lâu xa một lần hiện
Vì giác
ngộ quần sanh
Mà chấn động tất cả".
Các thế gii phương đông
Năm trăm
muôn ức cõi
Phạm cung điện sáng
chói
Từ xưa chưa từng có
Phạm Vương thấy tưng này
Liền đến chỗ Phật ở
Rải hoa để cúng dường
Và dưng cung điện lên
Thỉnh Phật chuyển pháp
luân
Nói kệ ngợi khen Phật
Phật biết chưa đến giờ
Nhận thỉnh yên lặng ngồi
Ba phương cùng bốn phía
Trên, dưi cũng như thế
Rưi hoa dưng cung
điện
Thỉnh Phật chuyển Pháp
Luân:
"Thế Tôn rất khó gặp
Nguyện vì bổn từ bi
Rộng mở cửa cam lộ
Chuyển pháp
luân vô thượng.
"
18. Thế Tôn huệ vô thượng
Nhân
chúng nhơn kia thỉnh
Vì nói
các món pháp
Bốn đế, mười hai
duyên
Vô minh đến lão tử
Ðều từ sanh
duyên hữu
Những quá hoạn như thế
Các ông
phải nên biết.
Tuyên nói
pháp đó rồi
Sáu trăm muôn
ức
cai (14)
Ðặng hết các ngằn khổ
Ðều thành A
La Hán.
Thời nói
pháp thứ hai
Nghìn
muôn hằng sa
chúng
Ở các pháp
chẳng thọ
Cũng đặng A La
Hán,
Từ sau đây
đặng đạo
Số đông đến vô lượng
Muôn ức kiếp tính kể
Không thể đặng ngằn mé
19. Bấy giờ mười sáu vị
Xuất gia làm
Sa-di
Ðều đồng thỉnh Phật kia
Diễn nói
pháp đại thừa:
"
Chúng con cùng quyến thuộc
Ðều sẽ thành Phật đạo
Nguyện đặng như Thế Tôn
Huệ nhãn sạch thứ nhứt ."
Phật biết lòng đồng tử
Chỗ làm của đời trưc
Dùng vô lượng nhơn duyên
Cùng các
món thí dụ
Nói sáu
ba la mật
Và các việc thần thông,
Phân biệt pháp chơn thiệt
Ðạo của Bồ Tát làm
Nói kinh
Pháp Hoa nầy
Kệ nhiều như hằng sa .
Phật kia nói
kinh rồi
Vào tịnh thất nhập định
Tám muôn
bốn nghìn
kiếp
Một lòng ngồi một chỗ.
Các vị Sa Di đó
Biết Phật chưa xuất thiền
Vì vô lượng chúng
nói
Huệ vô thượng của Phật
Mỗi vị ngồi pháp
tòa
Nói kinh
đại thừa nầy
Sau khi
Phật yên lặng
Tuyên bày
giúp giáo hóa .
Mỗi vị Sa Di thảy
Số chúng
sanh mình độ
Có sáu
trăm muôn ức
Hằng hà sa
các chúng.
Sau khi
Phật diệt độ
Các người nghe
pháp đó
Ở các nơi cõi Phật
Thường cùng
thầy sanh
chung.
Mười sáu Sa
Di đó
Ðầy đủ tu Phật đạo
Nay hiện ở mười phương
Ðều đặng thành
chánh giác
Người nghe
pháp thuở đó
Ðều ở chỗ các Phật
Có người trụ Thanh
Văn
Lần dạy cho Phật đạo .
Ta ở số mười sáu
Từng vì các
ngươi nói
Cho nên
dùng phương tiện
Dẫn dắt đến huệ Phật
Do bổn nhơn duyên
đó
Nay nói
kinh Pháp Hoa
Khiến ngươi vào Phật Ðạo
Dè dặt ch kinh
sợ .
20. Thí
như đường hiểm dữ
Xa vắng nhiều thú độc
Và lại không cỏ nưc
Chốn mọi người ghê sợ
Vô số nghìn
muôn chúng
Muốn qua đường hiểm nầy
Ðường đó rất xa vời
Trải năm
trăm do tuần.
Bấy giờ một đạo sư
Nh dai có
trí tuệ
Sáng suốt lòng
quyết định
Ðường hiểm cứu các nạn
Mọi người đều mệt mỏi
Mà bạch đạo sư rằng:
"Các
ngươi nên đi
nữa
Ðây là
hóa thành thôi
Thấy các ngươi mỏi mệt
Giữa đường muốn lui về
Nên dùng
sức phương tiện
Ta hóa
làm thành này
Các ngươi gắng tinh tấn
Nên đồng đến chỗ báu
21. Ta
cũng lại như vậy
Ðạo sư của tất cả
Thấy những người cầu đạo
Giữa đường mà lười bỏ
Không thể vượt đường dữ
Sanh tử đầy phiền não
Nên dùng
sức phương tiện
Vì nghỉ nói Niết Bàn.
Rằng các ngươi khổ diệt
Chỗ làm đều đã xong
Ðã biết đến Niết Bàn
Ðều chứng A La
Hán
Giờ mi nhóm
đại chúng
Vì nói
pháp chơn thật
Sức phương tiện các Phật
Phân biệt nói ba
thừa
Chỉ có một Phật Thừa
Vì nghỉ nên nói
hai (15)
Vì các ngươi chưa phải diệt,
Vì nhứt thiết trí Phật
Nên phát
tinh tấn mạnh
Ngươi chứng nhứt thiết trí
Mười lực các Phật Pháp
Ðủ băm hai
tưng tốt
Mi là chơn thiệt diệt,
Các Phật là đạo sư
Vì nghỉ nói Niết Bàn
Ðã biết ngơi nghỉ rồi
Dẫn vào nơi huệ Phật.
KINH
DIỆU PHÁP
LIÊN HOA
QUYỂN THỨ BA
Một tiếng kín
bày, thần thông
giáo hóa thầm gia hộ, khắp rưi mưa pháp
nhuần các mầm, quả báo nhà
rộng lớn, chốn châu báu không xa, quyền biến hóa đồng hoa đốm hư-không.
Nam-Mô
Pháp-Hoa Hội-Thượng-Phật Bồ-Tát (3 lần)
Ba căn khắp nhuần, đệ-tử nhờ ơn, thành
biến-hóa dối bày ch
cho là chân, lại xem
nhân-duyên đức Trí-Thắng, mười sáu vị Vương-tôn
tám phương chứng thân
vàng.
Nam-Mô Đại-Thông Trí-Thắng Phật (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Pháp-Hoa
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
THÍCH NGHĨA
1. Đây tức là “nhứt-thiết chủng-trí” trí của Phật, rõ thấu rành suốt ba thuở mười
phương
tất cả thế-gian và xuất-thế-gian.
2. Chổ về đến, tức là cội nguồn.
3. Lòng tưởng
mong, suy nghĩ; mong cầu
v.v…
4. Một thái dương-hệ gọi là 1 tiểu thế gii,
1.000 tiểu thế-gii là 1 tiểu thiên thế-gii,
1.000 tiểu thiên là 1 trung-thiên,
1.000
trung-thiên là đại-thiên
thế-gii.
Vậy đại-thiên thế-gii là ba lần nhân ngàn ( 1 T-G x 1000
x 1000 x 1000), nên gọi
tam-thiên đại-thiên thế-gii, gồm có 1.000.000.000 thế-gii, là số thế-gii của cõi Ta-bà thuộc quyền giáo hóa của đức Thích-Ca.
5. LƯỠNG:
Phưc
đức và trí huệ 2 món. TÚC là đầy đủ.
6. Thành
trì do thần thông biến hóa ra, để dụ huyền giáo hóa của Phật.
7. Có 3 hạng do tuần: 1) 40 dậm Tàu, 2) 60 dậm, 3) 80 dậm.
8. Đem thân
mạng về nương,
nghĩa là chữ “Nam-mô” tiếng Phạm.
9. Cõi dục trên người
có 6 cõi trời:
1.- Trời Tứ-Thiên-Vương;
2.- Trời Đao-Lợi ( vua là Đế-Thích hay Thích-Đề-Hoàn-Nhơn)
3.- Trời Dạ-Ma;
4.- Trời Đâu-Xuất;
5.- Trời Hóa-Lạc;
6.- Trời Tha-Hóa-Tự-Tại, trên cõi dục có cõi Sắc, cõi Sắc có bốn thiền (sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền, tứ-thiền), 18 cõi Trời.
Trong Sơ-thiền có 3 cõi:
1.- Trời Phạm-chúng
2.- Phạm-Vương.
Phạm-Thiên-Vương
là vua Trời Sơ-thiền.
3.- Đại-Phạm Thiên-Vương
là vua Trời Tứ-thiền.
10. Có phưc
lành ln nên cảm báo có cung điện tuỳ thân nhỏ ln như
ý.
11. Theo
nghi biểu của Phật, ai thưa
thỉnh việc chi nếu nín thinh là chịu.
12. Ba lần TỨ-ĐẾ thành 12.
1.- Đây là
khổ, đây là Tập, đây là Diệt, đây là Đạo.
2.- Khổ nên biết, Tập nên dứt, Diệt nên chứng, Đạo nên tu.
3.- Khổ biết rồi, Tập dứt rồi, Diệt chứng rồi, Đạo tu rồi.
(13) 1.-
Thanh-văn Niết-bàn.
2.-
Duyên-giác Niết-bàn.
(14) Một trăm triệu (1000.000.000) gọi là “cai”.
(15)
Thanh-văn-thừa, Duyên-giác-thừa.
* Các danh
từ: Vô-lượng,
vô-biên, a-tăng-kỳ, vô-số,
na-do-tha, hằng-hà-sa, bất-khả tư-nghì,
bất-khả-xưng,
bất-khả-thuyết, v.v… đều là những số ln trên số muôn ức.
Sự Tích Đọc Kinh Thoát Khổ
( trích
trong Pháp-uyển)
Đời Đường,
ở Ung-Châu, huyện Trường-An
có ông Cao-Pháp-Nhãn là cháu huyền tôn của
ông Cao-Tần, quan bộc xạ đời Tuỳ. Đến niên hiệu Long-Sóc năm thứ ba, ngày 25 tháng giêng đến Trung-Đài dự thí, trưa
cỡi ngựa về nhà. Nhà ông ở góc phía Nam phường
Nghĩa-Ninh, phía Đông chùa Hóa-Độ. Giữa
đường
gặp bọn người
cỡi ngựa rượt
bắt, chạy về gần đến nhà té ngựa mê ngất rồi chết, mọi người
tri hô, người nhà vội
đến khiêng về đến sáng ngày mai mi sống lại. Ông Nhãn bảo người
nhà rằng: “Ta bị quỷ bắt đến địa-ngục thấy vua Diêm-La ngồi trên toà cao, giận mắng ta rằng: Ngươi
tại sao lại đến chùa Hóa-Độ trong phòng thầy Minh-Tạng ăn trái của thường-trụ Tăng? – Nói xong bắt ta nuốt 400 hòn sắt nóng, đương
lúc nuốt thời cổ họng nghẹn rút thân thể đỏ khô co lại biến làm màu đỏ, nuốt hết mi sống lại”.
Ngày 26 là
ngày ông mi sống lại, lại có bọn quỷ hiện đến bắt dẫn về cho vua Diêm-Vương.
Vua quở: “Tại sao ngươi
không kính tin Tam-Bảo
dám nói chuyện lỗi xấu của Tăng? Ngươi
nuốt sắt xong sẽ bị cày lưỡi”.
Đến ngày 29 tháng đó sau khi
nuốt sắt xong sống lại cho đến ngày 30 sáng sm lại chết đến địa ngục chịu cày sắt cày lưỡi
tự thấy lưỡi
mình dài đến vài dậm, người
ở bên xem thấy ông Nhãn le lưỡi
ra hơn
thưc
( thưc
Tàu). Vua lại bảo ngục tốt: “Người
này nói chuyện hay dở của Tam-Bảo đem búa ln ra chặt bỏ lưỡi
đó”. Ngục tốt chặt mãi không đứt. Vua bảo lấy búa thẻo nhỏ bỏ vào vạc nưc
sôi nấu, nấu mãi không rã. Vua lấy làm lạ hỏi, ông Nhãn thưa:
“Tôi từng đọc kinh Pháp-Hoa một lượt”.
Vua không tin tra sổ
công đức, thấy trong án có ghi. “Đọc một bộ kinh Pháp-Hoa”. Vua liền truyền thả cho về.
Ông Nhãn hiện còn, người
đến thăm xem như
đi chợ, người
nghe thấy phát tâm tu hành rất đông. Cả nhà ông Nhãn từ đó rất mực kính tin Tam-Bảo, gắng chí tin tấn tu hành, hằng răn nhắc nhau không hề nhàm mỏi.
Tam-Bảo là con thuyền từ báu đưa chúng sanh ra khỏi biển sanh tử khổ. Kính thì phưc vô lượng. Khinh… họa không nhỏ. Phật là đấng Chí-Tôn, Pháp làThánh dược, Tăng là biểu hiệu của Phật và Pháp. Oâng Nhãn khinh Tăng mà phải tội, lại nhờ đọc kinh Pháp-Hoa mà khỏi tai ương. Chỉ đọc có một bộ kinh Pháp-Hoa mà lưỡi không chặt đứt, nấu không rã, làm đến nỗi vua Diêm-Vương phải kinh sợ mà mau đưa về. Huống là người đọc tụng 2 bộ, 3 bộ đến trăm nghìn bộ ư. Nếu có người nào chí thành tụng niệm kinh Pháp-Hoa thời công đức vô lượng vô biên -Tội nghiệp đều tiêu -Phưc lành đầy đủ. Sau khi xả báo thân hiện tại, quyết chắc sẽ cảm thành thân vàng Kim-cang ở vị lai vậy.
Comments
Post a Comment