NGHI THỨC TỤNG

KINH A DI ĐÀ

 

TÁN LƯ HƯƠNG

 

Lò hương vừa nhen nhúm

Pháp giới đã được xông

Các Phật trong hải hội đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Các Phật hiện toàn thân.

 

NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT. (3 lần)

 

KỆ KHAI KINH

 

Pháp vi diệu rất sâu vô lượng

Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp

Con nay nghe thấy được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như Lai.

 

Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ tát. (3 lần)

 

 

PHẬT NÓI

KINH A DI ĐÀ (1)

 

Hán dịch: Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch. (2)

 

1. KỲ VIÊN ĐẠI HỘI (3)

 

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc đại A La Hán mọi người đều quen biết, như là:

 

Trưởng lão Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nâu Lâu Đà, những vị đại đệ tử như thế.

 

Và hàng Đại Bồ tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ tát, Càn Đà Ha Đề Bồ tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát... cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích Đề Hoàn Nhơn, v.v... đại chúng cùng đến dự hội. (4)

 

 

2. Y BÁO CHÁNH BÁO (5)

 

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

 

 

3. Y BÁO TRANG NGHIÊM

 

Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc?

 

Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. (6)

 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. (7)

 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.

 

Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

 

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch. (8)

 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la.

 

Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành. (9)

 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

 

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già, Cọng mạng những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.

 

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, v.v... Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

 

Xá Lợi Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?

 

Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá Lợi Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi. (10)

 

Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí dụ như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung.

 

Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

 

Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

 

 

4. CHÁNH BÁO VÔ LƯỢNG THÙ THẮNG

 

Xá Lợi Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

 

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

 

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà. (11)

 

Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.

 

Xá Lợi Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

 

Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

 

Trong đó có rất nhiều vị bực Nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói thôi!

 

Xá Lợi Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.

 

Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ. (12)

 

 

5. NHƠN HẠNH VÃNG SANH

 

Xá Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.

 

Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.

 

Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó.

 

Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. (13)

 

Xá Lợi Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

 

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

 

 

6.  SÁU PHƯƠNG PHẬT ĐỒNG KHUYÊN TIN

 

Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: “Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

 

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

 

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bửu Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

 

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

 

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Dưới, có đức Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Mạ Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

 

Xá Lợi Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bửu Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bửu Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này". (14)

 

Xá Lợi Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

 

Xá Lợi Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Xá Lợi Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

 

Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

 

Xá Lợi Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

 

 

7. THUYẾT KINH RẤT KHÓ

 

Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời này: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, mà Ngài chứng được ngôi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này".

 

Xá Lợi Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác Ngũ trược thực hành việc khó này: đặng thành bậc Vô thượng Chánh giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! (15)

 

Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá Lợi Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A tu la, v.v... nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.

 

 

BT NHT-TH NGHIP-CHƯỚNG

CĂN-BN ÐC SANH TINH ÐÔ ÐÀ-LA-NI

 

Nam-mô a di đa bà d. Ða tha dà đa d, Ða đit d tha. A di r đô bà tỳ. A di r đa, tt đam bà tỳ, A di r đa tỳ ca lan đế, A di r đa tỳ ca lan đa, Dà di n, dà dà na. Ch đa ca l, ta bà ha. (7 ln)

 

 

A DI ÐÀ PHẬT TÁN

 

Tây phương Giáo Chủ Tịnh độ Năng nhơn,

Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh.

Phát nguyện thệ hoằng thâm.

Thượng phẩm thượng sanh,

Ðồng phó Bửu Liên thành.

 

Chí Tâm Ðảnh Lễ: (Mỗi câu đều đọc)

 

1. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Lượng Quang Như Lai.

 

2. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Biên Quang Như Lai.

 

3. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Ngại Quang Như Lai.

 

4. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Ðối Quang Như Lai.

 

5. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Diệm Vương Quang Như Lai.

 

6. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Thanh Tịnh Quang Như Lai.

 

7. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Hoan Hỉ Quang Như Lai.

 

8. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Trí Huệ Quang Như Lai.

 

9. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Nan Tư Quang Như Lai.

 

10. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Bất Ðoạn Quang Như Lai.

 

11. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Xưng Quang Như Lai.

 

12. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai.




 

Thích Nghĩa Kinh A Di Đà



(1) Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật A Di Đà Phật.

 

(2) Triều Tấn (Tàu), Dao Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Dao Tần.

 

Bực thông hiểu tam tạng: kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp Sư.

 

Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.

 

(3) Ông Cấp Cô Độc Trưởng giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái tử, con vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tinh xá để thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy.

 

Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại A La Hán này là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.

 

(4) A Dật Đa là tên của đức Di Lặc Bồ tát.

 

Càn Đà Ha Đề Bồ tát là ngài Bất Hưu Tức Bồ tát.

 

Thích Đề Hoàn Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.

 

(5) Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao vườn, v.v... gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước Cực Lạc.

 

Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú, v.v... trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh văn, v.v...

 

(6) Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ, v.v... Trái lại, bên cõi Cực Lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.

 

KHỔ Ở CÕI TA BÀ

 

1. Tam Khổ:

 

- Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai này đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét, v.v...

 

- Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xoay chuyển, như sương đầu cỏ, như móc buổi mai.

 

- Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không dừng...

 

2. Bát Khổ:

 

- Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng đau khổ trăm bề.

 

- Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, thần hôn, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc...

 

- Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không ổn...

 

- Tử khổ: ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút...

 

- Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong...

 

- Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly...

 

- Oán tắng tội khổ: oan gia đối đầu, cừu thù gặp gỡ.

 

- Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng không khác.

 

VUI Ở CỰC LẠC

 

1. Tam Lạc:

 

- Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện...

 

- Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...

 

- Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh trí bất động...

 

2. Bát lạc:

 

- Sanh lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh...

 

- Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...

 

- Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau...

 

- Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...

 

- Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thực tự nhiên...

 

- Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời...

 

- Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng Thiện Nhân, đồng tâm xứng ý...

 

- Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời...

 

Không đâu khổ bằng Ta bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta bà mà nguyện về chốn Cực Lạc!

 

(7) Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc, v.v... hoặc có thứ cây thân bằng vàng lá bạc, nhánh lưu ly, v.v...

 

Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.

 

(8) Trong đây nói đất (địa) đó là chỉ thuận theo tiếng này mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng... Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi.

 

Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: 1) trong sạch, 2) nhẹ nhàng, 3) mát mẻ, 4) ngon ngọt, 5) đượm thuần, 6) êm đềm hòa huỡn, 7) uống vào hết đói khát, 8) bổ khỏe thân tâm.

 

(9) Người trong nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới.

 

Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp và Tăng v.v... Đi kinh hành có hai điều lợi ích: 1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và 2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.

 

(10) Ngũ căn: Tín, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức này thời vững chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ).

 

Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh).

 

Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Định, và Xả.

 

Bát Thánh Đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định.

 

Ở trong cõi Ta bà này, những loài chim nhiếp thuộc vào Súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.

 

(11) Đoạn này là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A Di Đà, vì có hai điều vô lượng: 1) Vô lượng quang, 2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là A Di Đà.

 

(12) A bệ bạt trí (Phạn âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cực Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy).

 

Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.

 

(13) Cõi Cực Lạc rất thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát... phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cực Lạc.

 

- Niệm Phật không còn có móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là Nhứt tâm bất loạn.

 

(14) Người tu Tịnh độ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc) Trong ba điều này, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.

 

- Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sông lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.

 

- Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?

 

- Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới (1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới).

 

Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta bà (Phạm âm) dịch là Kham nhẫn ngụ ý rằng trong cõi này có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.

 

(15) Ngũ trựơc:

 

1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ.

 

2) Kiến trược: Những điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo.

 

3) Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín.

 

4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,...) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng.

 

5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở.

 

Năm món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).

 

PHỤ LỤC VÀI TÍCH VÃNG SANH CÓ CHỨNG NGHIỆM

Những sự tích của các vị tu Tịnh độ được vãng sanh mà chúng ta được đọc đến, hầu hết là trích dịch ở sách Tàu mà những vị được vãng sanh kia là người Tàu. Người trong nước ta tu Tịnh độ, từ xưa đến nay há lại không có người được vãng sanh ư? Nếu có, sao không thấy sách nào ghi đến? Có vãng sanh cùng chép vào sách là 2 chuyện. Từ xưa đến nay Người trong nước ta tu Tịnh độ được vãng sanh rất nhiều, nhưng vì thiếu sót sự ký lục, thiếu sự lưu truyền, nên dầu có nhiều mà ít người được biết, có biết cũng chỉ riêng nơi nhóm người được mục kích, nhưng rồi nó cũng theo thời gian mà phai lần.

 

Nhưng chính tôi cũng từng nghe biết nhiều người tu Tịnh độ khi lâm chung có chứng nghiệm chắc chắn được vãng sanh nhưng vì không ghi chép, không thường lập lại trong trí, nên nay thấy sự khuyết điểm như vừa nói ở trên, muốn tường thuật lại thời đã quên lãng gần hết, hoặc nhớ người mà quên tên họ, năm tháng v.v... Ghi chép mà không rành rẽ tên họ chỗ nơi, thời làm thế nào mà thủ tín được!

 

Vài sự tích chép dưới đây may chăng nó có thể làm tiền phong bổ cứu điều khuyết điểm trên, mà từ đây về sau, lần lượt mọi người được đọc những trang tiểu sử vãng sanh có chứng nghiệm của các nhà đạo tâm vì mục đích vị tha tường thuật, để thiệt nghiệm lời Phật đã dạy và nẩy nở tín tâm của mình.

 

Ngày 10-10 Mậu Tý (1948 D.L)

 

NÁN LẠI MỘT NGÀY

Bà Nguyễn thị Danh pháp danh Đạt Nhiên, người làng Thanh Hà hạt Chợ lớn, gần 60 tuổi mới phát tâm cầu đạo thọ pháp với Sự Cụ chùa Tôn Thạnh chuyên tâm tu tịnh nghiệp. Đến năm Ất Dậu 1945 D.L (năm bà 68 tuổi), bà nhuốm bịnh. Biết trước giờ vãng sanh. Ngày 7 tháng 4, bà sai người đến chùa Tôn Thạnh thỉnh Sư Cụ Liễu Thoàn rằng: “Ngày mùng 8 tháng 4 này, bà theo Phật, xin thỉnh Sư Cụ đến ngày đó xuống nhà để bà từ tạ”.

 

Nhưng vì ngày mùng 8 tháng 4 là ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca, Sư Cụ mắc ở lại chùa hành lễ, nên thành ra sáng mùng 9 Sư Cụ mới xuống đến. Thấy Sư Cụ bà mừng rỡ mà bạch rằng: “Từ hôm qua tới nay, tôi trông Thầy lắm. Trước khi về Phật, tôi muốn gặp Thầy để tạ từ. Đáng lẽ tôi đã đi hồi trưa hôm qua song vì chờ Thầy nên tôi phải nán lại tới hôm nay. Bây giờ tội sắp đi, xin nhờ Thầy hộ cho một biến kinh”.

 

Sư Cụ cùng vài người đệ tử lên trước bàn Phật tụng kinh A Di Đà, vừa xong quyển, thời bà ngồi chắp tay niệm Phật mà quy Tây. Có hai người con trai đều xuất gia, hiện đương coi chùa Linh Phong tại làng Tân Hiệp, tỉnh Mỹ Tho.

 

Ý NGUYỆN VÃNG SANH

Bà Trần Thị Lai, người ở làng Tân Kim hạt Chợ Lớn, năm 45 tuổi phát tâm tu hành. Có lời nguyện rằng: “Tôi quyết chí tu hành, xin Phật cho tôi được vãng sanh vào ngày vía Đức A Di Đà Phật” (17 tháng 11).

 

Quả nhiên, đến ngày 17 tháng 11 năm Đinh Hợi (1947 D.L), bà niệm Phật mà từ trần.

 

Con cháu của bà đều xuất gia, hiện nay đang tu tại chùa Pháp Tánh (làng Tân Kim Chợ Lớn).

 

BIẾT TRƯỚC NGÀY GIỜ VÃNG SANH

Ông Hồ Văn Định, người làng Long An (Chợ Lớn), năm 42 tuổi phát tâm mộ đạo, chuyên ròng niệm Phật tụng kinh.

 

Đến năm Mậu Tý (1948 D.L) ngày mùng 3 tháng 9, ông nói trước vợ con rằng: “Đến giờ Thân, thời tôi về Phật”.

 

Thật giờ Thân ông chắp tay niệm Phật mà vãng sanh.

 

Ba tích vãng sanh trên đây là của Sư Cụ Liễu Thoàn (Hòa thượng chùa Tôn Thạnh ở Cần Giuộc) tường thuật. Sư Cụ tự nói rằng những người tu Tịnh độ lúc lâm chung có thiệt nghiệm là được vãng sanh. Sư Cụ tường thuật đây, đều là tận mắt Sư Cụ mục kích trong khi Sư Cụ đến hộ niệm. Ngoài ra Sư Cụ còn thuật thêm 7 người nữa, như ông Nguyễn Văn Xá (làng Quy Đức) niệm Phật chờ mây trắng đến mà từ trần. Cô Nguyễn Thị Sao (làng Mỹ Lệ) trước giờ lâm chung thấy ba lằn mống bạc xẹt ngang mình từ Đông sang Tây, vân vân...

 

Ôi! Sanh không biết từ đâu đến, chết không biết rồi sẽ về đâu, hãi hùng kinh sợ, giật mình lăn lộn, mắt trợn ngược, miệng kéo xếch, ngột hơi cứng lưỡi, chơn rút, tay vinh vân vân... kể sao cho hết cảnh trạng thống khổ trong khi sắp chết của một phần đông trong số người cả đời không biết gì là điều lành, là đạo đức.

 

Muốn “tử an” há lại dễ được lắm ư! Câu tử khổ từ xưa đức Phật đã từng răn nhắc! muốn khỏi “tử khổ” phải làm thế nào?

 

Kinh nói: “khi con người sắp chết, thời tất cả cảnh tượng của những điều ác hay lành trọn trong đời của người đó gây tạo đều tuần tự phô diễn lại trong trí của người đó. Nếu cảnh dữ thời sẽ chết một cách đau khổ, sợ sệt. Còn cảnh lành thời đi một cách yên vui vững vàng”. Biết trước ngày giờ mình sẽ từ giã thân ô trược này, khi đi thong dong tự tại, là những điều dành riêng cho những người hành đạo chơn chánh và đã đắc lực, mà dễ được nhứt là người tu về PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ (niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc).

 

Ngày thường đã tu Tịnh độ thời là đã vun trồng chánh nhơn Tịnh độ. Nhơn thành thời kết quả. Trong kinh đức Phật có dạy: “Này Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà... nơi cõi nước kia hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về”.

 

Lời của đức Phật, đấng Thiên Nhơn Sư, phán ra quyết định là đúng thật, đó là điều mà từ xưa đến nay, người có chánh tín, không ai là không công nhận PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ (niệm Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc) là pháp môn vừa thù thắng nhứt vừa giản tiện nhứt đó là lời các vị Tổ Sư thường nói.

 

Thù thắng nhứt, vì người tu Tịnh độ mau chứng bực “bất thối”, mau “thành Phật”. Cho đến ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền là bực Pháp Vương Tử mà còn nguyện sanh thay!

 

Giản tiện nhứt, vì mọi người, bất luận là trí, ngu, nam, nữ, đều có thể thật hành và đều có thể thành tựu.

 

Xem như nguyện của Bà Danh v.v... đến già mới phát tâm. Thời gian tu hành không bao lâu, mà đều có phần tự tại an vui khi lâm chung: người thời ngừng sự chết lại, người thời y như chỗ mình nguyện cầu, người biết rõ giờ khắc... Những sự tự tại an vui khi lâm chung của người tu Tịnh độ là thoại ứng được vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc vậy.

 

Người tu Tịnh độ được như thế là do nhờ sức đại nguyện của đức Phật A Di Đà nhiếp thọ.

 

Trong kinh “Vô Lượng Thọ Phật”. Đức A Di Đà khi tu hạnh Bồ tát có phát 48 điều đại nguyện để nhiếp sanh. Ngài đã thật hành đầy đủ 48 điều đó, và hiện tại cũng như vị lai Ngài vẫn dung 48 điều đại nguyện đó bủa khắp pháp giới để tiếp độ muôn loài.

 

48 Điều Đại Nguyện Của Đức Phật A Di Đà

1. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, trong cõi nước của Ta còn có Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

2. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta sau khi mạng chung còn phải đọa vào ba ác đạo thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

3. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà tất cả thân thể của hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng thuần vàng ròng cả thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

4. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hình sắc của hàng Trời, Người trong nước Ta có tốt xấu không đồng nhau thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

5. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng biết túc mạng, ít nhất là biết những việc trong trăm nghìn ức vô số kiếp thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

6. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đặng thiên nhãn, ít nhứt là thấy trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

7. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đặng thiên nhĩ, ít nhứt là nghe lời thuyết pháp của trăm nghìn ức vô số chư Phật và chẳng thọ trì trọn vẹn được, thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

8. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đặng tha tâm trí, ít nhứt là rõ biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

9. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đặng thần túc, ít nhứt là khoảng một niệm qua đến trăm nghìn ức vô số nước Phật thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

10. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp nơi thân mình thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

11. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta, chẳng trụ trong dòng chánh định mãi đến lúc thành Phật, thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

12. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, ánh sáng của Ta còn có hạn lượng, ít nhứt chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

13. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, thọ mạng của Ta còn có hạn lượng, ít nhứt là trăm nghìn ức vô số kiếp thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

14. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà có người tính đếm biết được số của hàng Thanh văn trong nước Ta, hoặc giả nhẫn đến tất cả chúng sanh trong cõi Tam thiên Ðại thiên đều thành bực Duyên giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết rõ được số Thanh văn ấy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

15. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, thọ mạng của hàng Trời, Người trong nước Ta không có hạn lượng, trừ khi họ có bổn nguyện riêng, dài ngắn tự tại theo ý muốn. Nếu chẳng như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

16. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta nhẫn đến nghe có tên bất thiện thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

17. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của Ta thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

18. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước Ta nhẫn đến trong mười niệm, nếu không được vãng sanh thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác. Chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và chê bai chánh pháp.

 

19. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước của Ta. Đến lúc người đó mạng chung, nếu Ta chẳng cùng với đại chúng vây quanh hiện ra nơi trước người đó. Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

20. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của Ta, chuyên nhớ nước Ta, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước Ta mà chẳng được toại nguyện thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

21. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đều thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

22. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở cõi nước khác sanh về nước Ta rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ thoát tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ trụ nơi đạo chánh chơn Vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu tập công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

23. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta thừa thần lực Phật mà đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

24. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

25. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta không thể diễn nói nhứt thiết trí thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

26. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta chẳng đặng thân Kim Cương bền chắc thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

27. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, trong nước Ta những hàng Trời, Người và tất cả muôn vật đều đẹp đẽ, trong sạch, sáng rỡ hình sắc lạ thường, rất nhiệm, rất mầu, không ai có thể cân lường được, dầu là người có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

28. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Bồ tát trong nước Ta, nhẫn đến những người công đức kém ít mà chẳng thấy biết được đạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

29. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

30. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước Ta mà có hạn lượng thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

31. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, nước Ta thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

32. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước Ta đều dùng vô lượng châu báu, trăm nghìn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng Trời, Người. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

33. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh Ta chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng Trời, Người. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

34. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu Ta mà chẳng được Bồ tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

35. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu Ta vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

36. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu Ta sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

37. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu Ta rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

38. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợi tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

39. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ Kheo thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

40. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát nước Ta tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

41. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

42. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát Tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

43. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

44. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

45. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta thảy đều chứng được phổ đẳng Tam muội, an trụ trong Tam muội này đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

46. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở trong nước Ta tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

47. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta mà chẳng liền được đến bực bất thối chuyển thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

48. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

 

Trong kinh lại nói: Sau khi thuật 48 điều đại nguyện xong đức Phật phán tiếp: “Này A Nan! Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo (tiền thân của đức Phật A Di Đà) vừa phát nguyện và nói tụng xong, liền đó khắp cõi đại địa sáu điệu vang động. Trời rưới hoa báu để rải trên mình Ngài Pháp Tạng. Âm nhạc tự nhiên trên hư không vang ra tiếng khen rằng: quyết định chắc chứng thành quả Vô thượng Chánh giác! Đó rồi Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo tu hoàn toàn đầy đủ các đại nguyện như thế chắc thiệt chẳng dối... Pháp Tạng Bồ tát nay đã thành Phật hiện ở nước Cực Lạc bên phương Tây, cách đây mười muôn ức cõi...”

 

Mười phương chư Phật ba đời

Di Ðà bực nhứt chẳng rời quần sanh

Sen vàng chín phẩm sẵn dành

Oai linh đức cả đã thành vô biên

Nay con dưng tấm lòng thiềng.

Nam Mô Lạc Bang Giáo Chủ Đại Từ Bi Phụ A Di Đà Phật.

Comments

Popular posts from this blog