GIỚI, ĐỊNH, HUỆ thoát Ta-bà,
TÍN, NGUYỆN, HẠNH sanh Cực-lạc.
I.- LÔ XÁ NA PHẬT
Bấy giờ, đức Phật Lô-Xá-Na vì trong đại-chúng lược giảng “ Tâm-Địa ” như chừng đầu sợi lông trong số trăm nghìn hằng-hà-sa bất-khả-thuyết pháp-môn.
Ngài kết “ Tâm-Địa
đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật
thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
Cũng là pháp-môn mà tất cả Bồ-Tát đã học, sẽ học và đương học.
Ta đã từng trăm A-Tăng-Kỳ kiếp tu-tập tâm-địa nầy, do đó ta được hiệu là
Lô-Xá-Na. Chư Phật ! Các Ngài đem lời giảng của ta đây hầu mở con đường tâm-địa
cho hết thảy chúng-sanh .
Liền đó, từ trên Tòa Thiên-Quang Sư-Tử rực-rỡ nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, đức Phật Lô-Xá-Na
phóng ra những tia sáng. Trong tia sáng ấy có tiếng nói với chư
Phật đang ngự trên nghìn cánh sen báu : “ Các Ngài thọ-trì phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn của ta đây, rồi tuần
tự đem giảng lại cho nghìn trăm ức Thích-Ca cùng tất cả chúng-sanh. Ai
nấy đều nên thọ-trì đọc tụng và nhất-tâm vâng làm.
Sau khi lãnh-thọ phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn, chư Phật đang ngự trên nghìn cánh sen báu cùng nghìn trăm ức đức Thích-Ca đồng đứng dậy rời khỏi tòa Sư-Tử. Toàn thân của các Ngài chiếu ra vô-số tia sáng. Trong mỗi tia sáng ấy đều hóa hiện vô-lượng đức Phật, đồng thời tung lên vô-lượng hoa đẹp xanh, vàng, đỏ, trắng để cúng-dường đức Phật Lô-Xá-Na. Cúng-dường xong, chư Phật từ tạ trở về.
Khi rời khỏi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, chư Phật vào chánh-định thể tánh hư-không
hoa-quang, mỗi Ngài trở lại chốn cũ, dưới cội Bồ-Đề nơi cõi Diêm-Phù.
Sau khi ra khỏi chánh-định thể-tánh hư-không hoa-quang, đức Phật mới
ngự trên tòa Kim-Cương Thiên-Quang-Vương và Diệu-Quang-Đường mà giảng về Thập
Thế-Giới-Hải.
Rồi đức Phật giảng pháp Thập-Trụ nơi cung Đế-Thích, giảng
pháp Thập-Hạnh nơi cung trời Diệm-Ma, giảng pháp Thập Hồi-Hướng
nơi cung trời Đâu-Xuất, giảng pháp Thập Thiền-Định nơi cung trời
Hóa-Lạc, giảng pháp Thập-Địa nơi cung Trời Tha-Hóa, giảng pháp Thập
Kim-Cương cõi Sơ-Thiền, giảng pháp Thập-Nhẫn nơi cõi Nhị-Thiền, giảng
pháp Thập-Nguyện nơi cõi Tam-Thiền, và sau cùng ở Tứ-Thiền nơi cung của Đại-Tự-Tại
Thiên-Vương, đức Phật giảng Phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn mà thủa trước đức
Phật Lô-Xá-Na đã giảng ở thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng.
Tất cả nghìn trăm ức
đức Thích-Ca ở nơi Thế-giới của mình đều giảng nói như thế cả. ( Như trong phẩm Hiền Kiếp đã nói ).
II.- THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Bấy
giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni, từ lúc sơ-khởi hiện thân nơi thế-giới
Liên-Hoa Đài-Tạng, rồi qua phương Đông đến tại cung của Thiên-Vương, diễn nói
kinh
Ma-Thọ-Hóa ”. Sau đó, Ngài giáng-sanh nơi cõi Nam-Diêm-Phù-Đề tại nước Ca-Tỳ-La,
Vua Bạch-Tịnh
là thân-phụ, và Hoàng-Hậu Ma-Gia là sinh mẫu, nhũ-danh của Ngài là Tất-Đạt-Đa.
Xuất gia bảy năm, ba mươi tuổi thành đạo hiệu Ngài là Thích-Ca Mâu-Ni Phật.
Từ Bửu-Tòa Kim-Cương Hoa-Quang nơi đạo-tràng Tịch-diệt nhẫn đến nơi cung của Đại-Tự-Tại Thiên-Vương, trong mười nơi ấy đức Phật tuần-tự ngự đến thuyết-pháp.
Lúc đó nhơn khi xem bửu-tràng mành lưới của Đại-Phạm Thiên-Vương, đức Phật vì đại-chúng mà giảng Kinh Phạm-Võng.
Ngài dạy rằng : - Vô-lượng thế-giới dường như là lỗ lưới. Mỗi thế-giới đều khác
nhau cả, khác nhau đến số vô-lượng. Giáo-pháp của Phật cũng như vậy.
Đức Phật đã tám nghìn lần đến thế-giới Ta-Bà nầy, ngự trên Bửu-Tòa
Kim-Cương Hoa-Quang nhẫn đến ngự nơi cung của Đại-Tự-Tại Thiên-Vương, lược giảng Tâm-Địa Pháp-Môn ” cho cả thảy đại-chúng trong những Pháp-Hội ấy.
Sau đó từ cung của Thiên-Vương, đức Phật trở xuống ngự dưới cội Bồ-Đề nơi cõi Diêm-Phù, vì tất cả chúng-sanh trên quả đất nầy, hạng người Phàm ngu tối mà giảng một giới-pháp Kim-Cương Quang-Minh Bửu-Giới. Giới-Pháp nầy là lời thường trì tụng của Phật-Lô-Xá-Na, khi Ngài mới phát Bồ-Đề tâm trong thời kỳ tu nhân của Ngài. Giới pháp nầy cũng chính là bổn-nguyên của tất cả Phật, là bổn-nguyên của tất cả Bồ-Tát và là chủng-tử của Phật-Tánh. Tất cả chúng-sanh đều có Phật-Tánh.
Tất cả ý-thức, sắc, tâm, là tình, là tâm đều vào trong phạm-vi giới-pháp Phật-Tánh. Vì chắc-chắn thường có chánh-nhân, nên chắc-chắn Pháp-Thân thường-trụ.
Mười Ba-La-Đề-Mộc-Xoa như thế xuất hiện trong đời. Giới-pháp nầy là chỗ kính-trọng thọ-trì của tất cả chúng-sanh trong ba thủa.
Giờ
đây, đức Phật sẽ vì trong đại-chúng nầy mà giảng lại Giới-Phẩm Vô-Tận-Tạng,
là Giới-Phẩm của tất cả chúng-sanh, bổn-nguyên tự-tánh thanh-tịnh.
Nay
ta là Lô-Xá-Na
Đương ngồi trên đài Liên-Hoa.
Trên nghìn cánh sen đơm vòng
Lại hiện ra nghìn Thích-Ca.
Mỗi cánh sen trăm ức cõi
Mỗi cõi một Phật Thích-Ca.
Đều ngồi dưới cội Bồ-Đề
Đồng thời thành chánh-giác đạo.
Nghìn trăm ức Phật như vậy
Lô-Xá-Na là bổn thân.
Nghìn trăm ức Phật Thích-Ca
Đều đem theo vi-trần chúng
Cùng nhau đến tại chỗ ta
Để nghe ta tụng Phật-Giới,
Ta liền giảng môn Cam-Lộ.
Bây giờ nghìn trăm ức Phật,
Trở về đạo-tràng của mình,
Đều ngồi nơi cội Bồ-Đề
Tụng mười trọng, bốn-mươi-tám
Giới của Bổn-Sư Xá-Na,
Giới như vừng nhựt-nguyệt sáng,
Cũng như chuỗi báu ngọc châu,
Chúng Bồ-Tát như vi-trần
Do giới này mà thành Phật,
Đây là đức Xá-Na tụng
Ta đây cũng tụng như vậy.
Các ông tân-học Bồ-tát
Phải cung kính thọ trì-giới !
Khi thọ trì giới nầy rồi
Nên truyền lại cho chúng-sanh,
Lắng nghe ta đang trì tụng
Pháp Ba-La-Đề-Mộc-Xoa
Là giới-tạng trong Phật-Pháp.
Đại-Chúng lòng nên tin chắc :
Các người là Phật sẽ thành,
Ta đây là Phật đã thành.
Thường có lòng tin như vậy
Thời giới-phẩm đã tròn-vẹn
Tất cả những người có tâm
Đều nên nhiếp hộ Phật-Giới.
Chúng-sanh nào thọ Phật-Giới
Chính là vào hàng chư Phật.
Đã đồng hàng bực Đại-Giác
Mới thật là con chư Phật.
Đại-Chúng đều nên cung-kính
Chí tâm nghe lời ta tụng.
III.- ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ TÁT GIỚI
Thủa ấy, đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, lúc mới thành đạo vô-thượng chánh-giác trong khi ngồi dưới cội Bồ-Đề, Ngài bắt đầu kiết “ Bồ-Tát Giới ”. Ngài dạy :
Hiếu thuận với cha mẹ, Sư-Tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận pháp chí-đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn.
Liền đó, từ nơi miệng, đức Phật phóng ra vô-lượng tia
sáng. Bấy-giờ có đến trăm vạn ức đại-chúng, các Bồ-Tát, mười tám Phạm-Thiên,
sáu cõi Trời Dục, mười sáu đại Quốc-vương đồng chắp
tay chí tâm nghe đức Phật tụng Giới-Pháp đại-thừa của tất cả
chư Phật.
Đức Phật nói với các vị Bồ-Tát :
Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới-pháp
của chư Phật. Tất cả hàng Bồ-Tát sơ phát tâm, nhẫn đến các Bồ-Tát thập
Phát-Thú. Thập Trưởng-Dưỡng, Thập Kim-Cương, Thập-Địa cũng tụng giới ấy. Vì thế
nên giới-quang từ miệng ta phóng ra. Phóng quang là vì có duyên
do, chớ chẳng phải vô cớ. Giới-Quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng
và đen, chẳng phải sắc-pháp, cũng chẳng phải tâm-pháp, chẳng phải pháp-hữu,
pháp-vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả. Nó chính là bổn-nguyên của
chư Phật, là căn-bổn của chúng Phật-Tử. Vì thế nên chúng Phật-Tử phải thọ-trì,
phải đọc tụng, phải học kỹ giới-pháp nầy.
Chúng Phật-Tử lóng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ-Tát nầy, không luận
là Quốc-Vương Thái-Tử, các Quan-chức hay Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, không luận
là chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ-dân, huỳnh-môn,
dâm-nam, dâm-nữ hay hàng nô-tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ-thần, thần
Kim-Cương hay loài súc-sanh nhẫn đến kẻ biến-hóa hễ ai nhận hiểu được lời truyền
giới của Pháp-Sư thời đều thọ đặng giới, và đều gọi là thanh-tịnh thứ nhất.
IV.- MƯỜI GIỚI TRỌNG
Đức Phật bảo các Phật-Tử rằng :
Có mười điều giới trọng. Nếu người thọ giới Bồ-Tát mà không tụng điều
giới nầy, thời người ấy không phải Bồ-Tát, không phải Phật-Tử. Chính ta cũng tụng
như vậy.
Tất cả Bồ-Tát đã học, sẽ học và đương học!
Đã lược giảng xong tướng-trạng của giới Bồ-Tát cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì.
Đức
Phật dạy :
1.- Giới sát sanh
Nếu Phật-Tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy-hỉ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết : Nhân giết, duyên giết, cách-thức giết, nghiệp giết.
Phàm tất cả loài hữu-tình có mạng sống
đều không được cố ý giết. Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ-bi,
lòng hiếu-thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng-sanh, mà trái lại tự
phóng tâm nỡ lòng sát-sanh, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội.
2.- Giới trộm cướp
Nếu
Phật-Tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương-tiện trộm cướp, nhẫn đến
dùng bùa chú trộm cướp : Nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp,
nghiệp trộm cướp. Tất cả tài-vật có chủ, dầu là của quỷ-thần hay kẻ giặc cướp,
nhẫn đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật-Tử, lẽ ra
phải luôn luôn có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, thường giúp cho mọi người được
phước, được vui, mà trái lại trộm cướp tài-vật của người, Phật-Tử này
phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
3.- Giới dâm
Nếu
Phật-Tử, tự mình dâm dục, bảo người dâm-dục, với tất cả phụ-nữ, các loài cái,
loài mái, cho đến Thiên-Nữ, Quỷ-nữ, Thần-nữ cùng phi-đạo mà hành dâm
: Nhân dâm-dục, duyên dâm-dục, cách-thức dâm-dục, nghiệp dâm-dục. Là Phật-Tử, đối
với tất cả không được cố dâm-dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu-thuận, cứu-độ tất cả
những chúng-sanh, đem pháp thanh-tịnh khuyên dạy người, mà trái lại không
có tâm từ-bi, làm cho mọi người sanh việc dâm-dục, không lựa
súc-sanh, cho đến hành-dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân,
Phật-Tử này phạm “
Bồ-Tát Ba-La-Di tội.
4.- Giới vọng
Nếu
Phật-Tử, mình nói vọng-ngữ, bảo người vọng-ngữ, phương-tiện vọng-ngữ : Nhân vọng-ngữ,
duyên vọng-ngữ, cách-thức vọng-ngữ, nghiệp vọng-ngữ. Nhẫn đến không thấy nói thấy,
thấy nói không thấy, hoặc thân vọng-ngữ, tâm vọng-ngữ. Là Phật-Tử, lẽ ra phải
luôn luôn chánh-ngữ, chánh-kiến, và cũng làm cho tất cả chúng-sanh có chánh-ngữ,
chánh-kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà-ngữ, tà-kiến,
tà-nghiệp, Phật-Tử này phạm “
Bồ-Tát Ba-La-Di tội.
5.- Giới bán rượu
Nếu
Phật-Tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu : Nhân bán rượu, duyên bán rượu,
nghiệp bán rượu, - Tất cả rượu không được bán - Rượu là nhân-duyên sanh tội
lỗi. Là Phật-Tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng-sanh có trí-tuệ sáng-suốt,
mà trái lại đem sự mê say điên-dảo cho tất cả chúng-sanh, Phật-Tử này
phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
6.- Giới rao lỗi của tứ chúng
Nếu
Phật-Tử, tự miệng rao nói tội lỗi, của Bồ-Tát xuất-gia, Bồ-Tát tại-gia, Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy : Nhân rao
nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách-thức rao nói tội-lỗi, nghiệp
rao nói tội-lỗi. Là Phật-Tử, khi nghe những kẻ ác, ngoại-đạo cùng người nhị-thừa
nói những điều phi-pháp, trái Luật trong Phật-Pháp, thời phải luôn
luôn có lòng từ-bi giáo-hóa những kẻ ác ấy cho họ sanh tín-tâm lành đối với đại-thừa,
mà trái lại Phật-Tử lại tự mình rao nói những tội lỗi trong
Phật-Pháp, Phật-Tử này phạm “
Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
7.- Giới tự khen mình chê người
Nếu
Phật-Tử, tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người :
Nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người. Là Phật-Tử,
lẽ ra phải thay thế chịu những sự khinh chê khổ-nhục cho tất cả chúng-sanh,
mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật-Tử tự phô dương
tài-đức của mình mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê,
Phật-Tử này phạm “
Bồ-Tát Ba-La-Di tội.
8.- Giới bỏn sẻn thêm mắng đuổi
Nếu
Phật-Tử, tự mình bỏn-sẻn, bảo người bỏn-sẻn : Nhân bỏn-sẻn, duyên bỏn-sẻn,
cách-thức bỏn-sẻn, nghiệp bỏn-sẻn. Phật-Tử khi thấy những người bần-cùng đến cầu
xin, phải cấp cho theo chỗ cần dùng của họ. Mà Phật-Tử lại
đem lòng giận ghét, cho đến không cho một mảy, có người đến cầu học
giáo-pháp cũng chẳng nói một kệ một câu, lại còn xua đuổi quở mắng,
Phật-Tử này phạm “
Bồ-Tát Ba-La-Di tội.
9.- Giới giận hờn không nguôi
Nếu
Phật-Tử, tự mình giận, bảo người giận : Nhân giận, duyên giận, cách thức giận,
nghiệp giận. Người Phật-Tử lẽ ra phải làm cho tất cả chúng-sanh được những căn
lành không gây gổ, thường có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận. Mà trái
lại, đối với trong tất cả chúng-sanh, cho đến trong loài phi
chúng-sanh, đem lời ác mạ-nhục, còn thêm dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập
mà vẫn chưa hả dạ, cho đến nạn-nhân kia lấy lời nhỏ nhẹ xin
lỗi, cầu sám-hối tạ-tội, nhưng vẫn còn không hết giận, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội.
10.- Giới hủy-báng Tam-Bảo
Nếu
Phật-Tử, tự mình hủy-báng Tam-Bảo, xúi người hủy-báng Tam-Bảo : Nhân hủy-báng,
duyên hủy-báng, cách-thức hủy-báng, nghiệp hủy-báng. Phật-Tử nghe một lời hủy-báng
Tam-Bảo của ngoại-đạo và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây nhọn đâm
vào tim mình, huống là tự miệng mình hủy-báng ! Không có đức tin và
lòng hiếu-thuận đối với Tam-Bảo, lại còn giúp sức cho những kẻ ác, kẻ tà-kiến hủy-báng
nữa, Phật-Tử này phạm “
Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
V.- ĐỨC PHẬT KẾT RĂN
Nầy
các Phật-Tử ! Trên đây là mười giới trọng của Bồ-Tát, các Phật-Tử cần
nên học. Trong mười giới đó không nên trái phạm một giới nào cả, dầu
một mảy nhỏ như vi-trần, huống chi phạm đủ cả mười giới ư ! Nếu có
người nào trái phạm, thời người ấy hiện đời không được phát Bồ-Đề tâm, rồi
cũng mất ngôi Quốc-Vương, ngôi Chuyển-Luân-Vương, ngôi Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni,
cũng mất những quả “
Thập Phát Thu ”, “ Thập Trưởng-Dưỡng ”, “ Thập Kim-Cương ”,
“ Thập-Địa ”, tất cả diệu quả Phật-Tánh thường-trú đều mất, đọa trong ba ác-đạo,
trong hai kiếp, ba kiếp chẳng được nghe danh-tự của cha mẹ và Tam-Bảo.
Vì thế nên không được phạm một giới nào cả. Tất cả Bồ-Tát các Ngài đã học, sẽ học
và hiện nay học. Mười giới như thế cần nên học, hết lòng kính-trọng
phụng-trì. ( Trong phẩm Bát Nạn Oai
Nghi có giảng rộng )
VI.- 48 ĐIỀU GIỚI KHINH
Đức
Phật bảo các vị Bồ-Tát rằng : Đã giảng mười giới trọng rồi, nay
tôi sẽ nói về bốn mươi tám giới khinh.
1.- Giới không kính thầy bạn
Nếu Phật-Tử, lúc sắp lãnh ngôi Quốc-Vương, ngôi Chuyển Luân-Vương, hay sắp lãnh chức Quan, trươcù nên thọ giới Bồ-Tát. Như thế tất cả Quỷ-thần cứu hộ thân Vua và thân các Quan, Chư Phật đều hoan hỷ.
Đã đắc giới rôài, Phật-Tử nên có lòng hiếu thuận và cung
kính. Nếu thấy có bực Thượng-Tọa, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê, những bực Đại-Đức, đồng
học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy
chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như Pháp cúng dường, hoặc tự bán
thân cho đến Quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung
cấp các bực ấy. Nếu Phật-Tử lại sanh lòng kiêu mạn, sân hận,
ngu-si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y
theo Pháp mà cúng dường, Phật-Tử này phạm Khinh cấu tội.
2.- Giới uống rượu
Nếu
Phật-Tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sanh ra vô-lượng tội
lỗi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống sẽ mang ác báo : Năm
trăm đời không tay, huống là tự uống. Cũng chẳng tự bảo người và tất cả
chúng-sanh uống rượu, huống là tự mình uống ! Tất cả các thứ rượu, Phật-Tử
không được uống. Nếu mình cố uống cùng bảo người uống, Phật-Tử này phạm Khinh cấu tội.
3.- Giới ăn thịt
Nếu Phật-Tử cố ăn thịt, tất cả thịt của mọi loài chúng-sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thời mất lòng đại từ-bi, dứt giống Phật-Tánh, tất cả chúng-sanh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt mắc vô-lượng tội lỗi. Vì thế nên tất cả Phật-Tử không được ăn tâát cả thứ thịt của mọi loài chúng-sanh. Nếu cố ăn thịt, Phật-Tử này phạm Khinh cấu tội .
4.-
Giới ăn ngũ-tân :
Nếu
Phật-Tử, chẳng được ăn loại “ Ngũ tân ” loại hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ. Loại ngũ tân này
gia vào trong tâát cả các thực phẩm đều không được ăn. Nếu cố ăn, Phật-Tử
này phạm “ Khinh cấu tội ”.
5.- Giới
không dạy người sám tội :
Nếu
Phật-Tử khi thấy người phạm ngũ giới, bát giới, thập giới, phá
giới, hay phạm thất nghịch, bát-nạn, tất cả tội phạm giới
v. v. . . , phải khuyên bảo người ấy sám-hối. Nếu Phật-Tử chẳng khuyên bảo người
phạm tôäi sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, đồng chúng Bồ-Tát,
đồng thuyết giới, mà không cử tôäi người ấy, không nhắc người ấy sám-hối,
Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
6.- Giới
không cúng dường thỉnh Pháp :
Nếu
Phật-Tử, thấy có vị Pháp-Sư Đại-thừa hay những bực đồng học, đồng kiến, đồng
hạnh Đại-thừa, từ trăm dặm nghìn dặm đến nơi Tăng phường, nhà cửa, thành ấp
thời liền đứng dậy rước vào, đưa đi, lễ bái, cúng dường. Mỗi
ngày ba thời cúng duờng, trăm thức uống ăn, giường ghế, thuốc men, tất
cả đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cấp hộ cho Pháp-Sư.
Môãi ngày : Sáng, trưa và chiều, thường thỉnh Pháp-Sư thuyết Pháp và đảnh
lễ. Không hề có lòng sân hận buồn rầu. Luôn thỉnh Pháp không mỏi
nhàm, chỉ trọng Pháp chứ không kể thân. Nếu Phật-Tử không như thế thời phạm “ Khinh Cấu Tội ”.
7.- Giới
không đi nghe Pháp :
Nếu
Phật-Tử, hàng Tân-học Bồ-Tát, phàm nơi nào, chốn nào có giảng Kinh, Luật,
phải mang Kinh, Luật đến chỗ Pháp-Sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi
rừng, trong vườn cây, chùa, nhà v.v. .. Tất cả chỗ thuyết pháp đều đến
nghe học. Nếu Phật-Tử không đến nơi ấy để nghe Pháp cùng thưa hỏi, thời
phạm “ Khinh cấu tội ”.
8.-
Giới có tâm trái bỏ Đại-Thừa :
Nếu
Phật-Tử, có quan niệm trái bỏ Kinh Luâät Đại-thừa thường trụ,
cho rằng không phải của Phật nói mà đi thọ trì Kinh Luật tà kiến và
tâá cả cấm giới của Thanh-văn Nhị-thừa cùng ngoại đạo ác kiến,
Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
9.- Giới
không khán bịnh :
Nếu
Phật-Tử, thấy tất cả người tật bệnh phải tận tâm cúng dường như cúng
dường Phật. Trong tám phước điền, khán bệnh là “ Phước điền thứ nhất ”. Nếu như cha mẹ, sư Tăng cùng đệ-tử có bệnh, có tật, trăm thứ bệnh đau
khổ, đều nên săn sóc cho được lành mạnh, Phật-tử lại vì
lòng hờn giận không chăm nuôi, nhẫn đến thâáy trong tăng phường,
thành ấp, nơi núi rừng đồng nội, đường xá có người tật bệnh mà không
lo cứu tế, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
10.-
Giới chứa khí cụ sát-sanh :
Nếu
Phật-Tử không đặng cất chứa những binh khí, như dao, gậy, cung, tên, búa, giáo,
v.v... cùng những đồ sát sanh như chài, lưới, rập, bẫy v.v... Là
Phâät-Tử, dầu cho đến cha mẹ bị người giết, còn không báo
thù, huống lại đi giết tất cả chúng-sanh ! Không được cất chứa những khí cụ sát
sanh ! Nếu cố cất chứa, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
Mười giới như
thế, cần nên học và kính trọng phụng trì. ( Trong sáu phẩm sau có giảng
rộng )
11.-
Giới đi sứ :
Nếu
Phật-Tử, chẳng đặng vì quyền lợi và ác tâm mà đi
thông sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận, đem
binh đánh nhau làm cho vô-lượng chúng-sanh bị giết hại. Là
Phật-Tử còn không được vào, cùng qua lại trong quân trận, huống lại cố
làm môi giới chiến tranh. Nếu cố làm, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
12.-
Giới buôn bán phi pháp :
Nếu
Phật-Tử cố bán người lành, tôi trai, tớ gái, lục-súc, buôn bán quan tài, ván
cây, đồ đựng thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống lại bảo
người. Nếu cố tự buôn bán, hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
13.-
Giới hủy-báng :
Nếu
Phật-Tử, vì ác tâm, nơi người tôát, người lành, Pháp-sư, Sư-tăng, hoặc Quốc-vương
và hàng quý nhân, vốn vô sự mà hủy báng là phạm bảy tội nghịch, mười
giới trọng. Với cha, mẹ, anh, em, lục thân phải có lòng từ-bi,
lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tôäi nghịch, đọa
nơi ác đạo, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
14.-
Giới phóng hỏa :
Nếu
Phật-Tử, vì tâm ác, phóng hỏa đốt núi, rừng, đồng nôäi. Từ tháng tư đến tháng chín
phóng hỏa. Hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của
người và cung điện tài vật của Quỷ-thần. Tất cả chỗ có sanh vật không được cố
thiêu đốt. Nếu cố thiêu đóát, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
15.-
Giới dạy giáo-lý ngoài Đại-Thừa :
Nếu
Phật-Tử, từ Phật đệ-tử, lục thân, tất cả thiện tri-thức, đến ngoại-đạo ác
nhân, đều phải khuyên bảo thọ trì Kinh Luật Đại-thừa. Nên giảng cho
hiểu nghĩa lý khiến phát Bồ-Đề Tâm, Thập-Phát-Thu, Thập Trưởng-Dưỡng
Tâm, Thập Kim-Cương Tâm. Trong ba mươi tâm ấy, giảng cho họ hiểu Pháp dụng tuần
thứ của mỗi món. Mà Phâät-tử lại vì ác tâm, sân tâm đem Kinh Luật
của Thanh-Văn Nhị-thừa, cùng các bộ Luận của ngoại-đạo tà kiến để dạy
ngang cho người, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
16.-
Giới vì lợi mà giảng pháp lộn lạo :
Nếu
Phật-Tử, phải tận-tâm học Kinh-Luật oai-nghi đại-thừa. Thông hiểu nghĩa-lý,
khi thấy có hàng tân-học Bồ-Tát từ xa trăm dặm nghìn dặm đến cầu học Kinh Luật
Đại-thừa, nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ-hạnh, hoặc đốt
thân, đốt cánh tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón tay cúng
dường chư Phật thời không phải là hàng Bồ-Tát xuất-gia. Nhẫn đến
xả thịt nơi thân mình cùng tay chân mà bố-thí cho tất cả những cọp, sói, sư-tử
đói, cùng tất cả loài quỷ đói. Rồi sau mới tuần tự theo căn-cơ của mỗi
người mà giảng chánh-pháp cho hàng tân-học ấy được mở thông tâm-ý. Nếu Phật-tử
vì quyền-lợi, đáng dạy mà không dạy, lại giảng Kinh-Luật một cách điên-đảo,
văn-tự lộn-xộn không có thứ lớp trước sau, thuyết-pháp có tánh cách hủy-báng
Tam-Bảo, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
17.-
Giới cậy thế-lực quyên tởi :
Nếu
Phật-Tử, tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi-dưỡng, danh-dự mà
thân-cận Quốc-Vương, Hoàng-Tử cùng các Quan, nương quyền cậy thế bức
người để lấy tiền của, lại bảo người khác cũng cầu lợi như vậy.
Tất cả sự cầu lợi ấy gọi là ác-cầu, đa-cầu, đều không có lòng từ-bi,
lòng hiếu-thuận, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
18.- Giới
không thông hiểu mà làm thầy truyền giới :
Nếu
Phật-Tử, phải học mười hai phần Kinh, thường tụng giới. Mỗi ngày sáu thời,
nghiêm-trì Bồ-Tát giới, hiểu rõ nghĩa lý-tánh Phật-Tánh của giới. Nếu
Phật-Tử không hiểu một kệ một câu cùng nhân-duyên của Giới-Luật, mà dối rằng thông
hiểu, đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác. Không hiểu một
Pháp, không biết một Luật mà lại đi làm Thầy truyền giới cho người.
Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
19.-
Giới lưỡng thiệt ( Lưỡi đôi chiều ) :
Nếu
Phật-Tử, vì ác tâm, thấy Thầy Tỳ-Kheo trì-giới tay bưng lư-hương, tu hạnh
Bồ-Tát, tự đi đâm thọc hai đầu, cho sanh sự bất hòa khinh-khi người
hiền, tạo nhiều tội ác. Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
20.- Giới
không phóng-sanh :
Nếu
Phật-Tử, vì tâm từ-bi mà làm việc phóng-sanh. Tất cả nam-tử là cha ta, tất cả nữ-nhân
là mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác-sanh nơi đó. Vì lẽ ấy nên
chúng-sanh trong lục-đạo đều là cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn
thịt, thời chính là giết cha mẹ ta, mà cũng là giết thân cũ của ta. Tất
cả chất tứ-đại đều là bổn-thân bổn-thể của ta, cho nên phải thường làm việc phóng
sanh và khuyên bảo người làm. Nếu lúc thấy người đời sát sanh,
nên tìm cách cứu-hộ cho chúng được thoát khỏi nạn khổ ! Thường
đem giới Bồ-Tát giảng dạy để cứu-độ chúng-sanh.
Nếu ngày cha mẹ hay anh chị em chết, nên thỉnh Pháp-Sư giảng
Kinh-Luật Bồ-Tát giới. Người chết nhờ phước-đức ấy, hoặc được vãng-sanh Tịnh-Độ
ra mắt chư Phật, hay thác-sanh trong cõi Trời, cõi Người. Nếu
không làm các điều trên đây, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
Mười giới như
thế cần nên học tập kính-trọng phụng-trì. ( Như trong phẩm “ Diệt tội ”
giảng rõ mỗi giới )
21.-
Giới đem sân báo sân đem đánh trả đánh :
Nếu
Phật-Tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ anh
em hay lục-thân bị người giết cũng chẳng được báo thù, hoặc quốc chủ bị
người thí chết cũng chẳng được báo-thù. Giết sanh mạng để báo thù sanh
mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo. Hãy còn không được chứa nuôi tôi tớ,
rồi đánh đập mắng nhiếc chúng, mỗi ngày tam nghiệp tạo vô
lượng tội, nhất là khẩu-nghiệp. Huống lại cố đi làm tội thất nghịch. Nếu
xuất-gia Bồ-Tát không có lòng từ-bi cố báo-thù, nhẫn đến cố báo thù cho
trong hàng lục-thân, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
22.-
Giới kiêu mạn không thỉnh Pháp :
Nếu
Phật-Tử, mới xuất-gia chưa thông hiểu Kinh-Luật, mà tự ỷ mình là
trí-thức thông-minh, hoặc ỷ mình là cao quý, lớn tuổi, hoặc ỷ mình là giòng
sang, con nhà quyền quý, hoặc ỷ mình học rộng, phước to giàu lớn
v.v.. rồi sanh lòng kiêu-mạn mà không chịu học hỏi Kinh-Luật với các
vị Pháp-Sư học đạo trước mình. Vị Pháp-Sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà
hạ tiện, tuổi trẻ, nghèo nàn, hèn-hạ hay có tật nguyền nhưng lại
thiệt có đức hạnh cùng thông hiểu nhiều Kinh Luật. Hàng
tân-học Bồ-Tát không được nhìn vào dòng giống vị Pháp-Sư mà không chịu đến học
đạo-lý đại-thừa với vị ấy, Phật-Tử nếu như vậy thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
23.-
Giới khinh ngạo không tận tâm dạy :
Nếu
Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ-Tát,
thời đối trước tượng Phật cùng tượng Bồ-Tát mà tự nguyện thọ giới.
Nên ở trước tượng Phật và tượng Bồ-Tát sám-hối trong bảy ngày, hễ được
thấy hảo tướng là đắc giới. Như chưa thấy hảo tướng thời
phải sám-hối 14 ngày, 21 ngày, hay đến cả năm, cầu thấy được hảo-tướng. Khi được
thấy hảo-tướng rồi, thời được đối trước tượng Phật, Bồ-Tát mà thọ giới.
Như chưa thấy hảo tướng thời dầu có đối trước tượng Phật thọ
giới, vẫn không gọi là đắc giới. Nếu đối trước vị Pháp-Sư đã thọ Bồ-Tát
mà thọ giới, thời không cần thấy hảo tướng. Tại sao vậy ? Vì vị
Pháp-Sư ấy là chư sự truyền giới cho nhau, nên không cần hảo tướng.
Hễ đối trước vị Pháp-Sư ấy mà thọ giới liền đắc giới, do
vì hết lòng kính trọng nên đắc giới. Nếu ở trong vòng nghìn
dặm, mà tìm không được vị Pháp-Sư truyền-giới, thời Phật-Tử đuọc phép đối trước tượng
Phật và Bồ-Tát mà tự nguyện thọ giới Bồ-Tát, nhưng cần phải thấy hảo
tướng.
Nếu các vị Pháp-Sư ỷ mình thông Kinh-Luật cùng giới-pháp đại-thừa, kết-giao với
các nhà quyền quý, khi có hàng tân-học Bồ-Tát đến cầu học nghĩa Kinh,
Luật, lại giận ghét, hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ bảo, vị nầy
phạm “ Khinh cấu tội ”.
24.- Giới
không tập học Đại-Thừa :
Nếu
Phật-Tử, có Kinh Luật Đại-Thừa-Pháp chánh-kiến, chánh-tánh, chánh-pháp-thân của
Phật, mà không chịu siêng học siêng tu, lại bỏ bảy của báu, trở học những
sách luật tà-kiến của nhị-thừa, ngoại-đạo, thế-tục, đó mà làm mất giống Phật,
là nhân-duyên chướng-đạo, chẳng phải thật hành đạo Bồ-Tát. Nếu cố làm
như vậy, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
25.-
Giới tri-Chúng vụng về :
Nếu
Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt làm Pháp-Sư, Giảng-Sư, Luật-Sư, Thiền-Sư Thủ-Tọa,
Tri-Sự, Tri-Khách, phải có lòng từ-bi khéo hòa-giải trong chúng, khéo giữ-gìn
tài vật của Tam-Bảo, chớ dùng vô-độ như của riêng mình, mà trở lại khuấy
chúng gây gổ, kình-chống, lung lòng xài của Tam-Bảo, Phật-Tử này phạm
“ Khinh cấu tội ”.
26.-
Giới riêng thọ lợi dưỡng :
Nếu
Phật-Tử ở trước trong Tăng-phường, lúc sau thấy có khách Bồ-Tát Tỳ-Kheo đến hoặc
nơi thành ấp nhà cửa của Tăng hay của Vua, nhẫn đến chỗ kiết-hạ an-cư cùng
trong đại-hội ... chư Tăng ở trước phải rước đến đưa đi, cung cấp cho
những đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường, ghế v.v... Nếu tự mình
không có, thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung
cấp cho những khách Tăng ấy. Nếu có thí-chủ đến thỉnh chúng Tăng thọ
trai, khách Tăng có dự phần, vị Tri-Sự phải theo thứ-tự phái Khách Tăng đi
thọ trai. Nếu chư Tăng ở trước riêng đi thọ trai mà không phái Khách
Tăng đi, thời vị Tri-Sự mắc vô-lượng tội, không đáng là hàng Sa-Môn không phải
dòng Thích-Tử, nào khác gì loài súc-sanh. Phật-Tử nầy phạm “ Khinh cấu tội ”.
27.-
Giới thọ biệt thỉnh :
Nếu
Phật-Tử, tất cả chẳng được nhận của cúng-dường dành riêng về mình. Của cúng-dường
nầy thuộc thập-phương Tăng, nếu nhận riêng thời là lấy của thập-phương Tăng đem
về phần mình. Và của vật trong tám phước-điền : Chư Phật, Thánh-Nhân, các
Sư-Tăng, cha, mẹ và người bịnh, tự mình riêng nhận dùng. Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
28.-
Giới biệt thỉnh Tăng :
Nếu
Phật-Tử có những hàng Bồ-Tát xuất-gia, Bồ-Tát tại gia và tất cả
đàn-việt lúc muốn thỉnh Tăng để cúng-dường cầu-nguyện, nên vào Tăng-phường thưa
với vị Tri-Sự. Vị Tri-Sự bảo rằng : Theo thứ-tự mà thỉnh thời được Thập-Phương
Hiền-Thánh-Tăng. Mà người đời thỉnh riêng năm trăm vị A-La-Hán Bồ-Tát Tăng vẫn
không bằng theo thứ-tự thỉnh một phàm-phu Tăng. Trong giáo-pháp của bảy đức
Phật đều không có pháp thỉnh Tăng riêng. Nếu thỉnh Tăng riêng đó là pháp của
ngoại-đạo, là không thuận với hiếu-đạo. Nếu Phật-Tử cố thỉnh riêng thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
29.-
Giới tà mạng nuôi sống :
Nếu
Phật-Tử dùng ác tâm vì lợi-dưỡng buôn bán nam-sắc, nữ-sắc, tự tay làm
đồ ăn, tự xay, tự giã, xem tướng, bàn mộng, đoán sẽ sanh trai hay gái, bùa
chú, pháp thuật, nghề-nghiệp, phương-pháp nuôi ó và chó săn, hòa-hiệp trăm
thứ thuốc độc, nghìn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sanh-kim, sanh-ngân, độc sâu cổ,
đều không có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận. Nếu cố làm các điều như thế, Phật-Tử
này phạm “ Khinh cấu tội ”.
30.-
Giới quản-lý cho Bạch-Y :
Nếu
Phật-Tử vì ác tâm, tự mình hủy-báng Tam-Bảo, giả tuồng kính mến, miệng thì
nói không, mà hành-vi lại ở trong có, làm Quản-lý cho hàng bạch-y, vì hàng bạch-y
làm mai làm mối cho nam cho nữ giao-hội dâm-sắc gây thành các nghiệp kiết-phược,
những ngày lục-trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi
năm, làm việc sát sanh, trộm cướp, phá-trai, phạm-giới. Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
Mười giới như
thế, cần nên học hết lòng kính-trọng phụng-trì. ( Trong phẩm “ Chế Giới ”
có giảng rõ )
31.- Giới
không mua chuộc :
Nếu
Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt ở trong đời ác, thấy hàng ngoại-đạo,
bọn giặc cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ-Tát, cha
mẹ, đem bán Kinh Luật, đem bán Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, cùng người hành đạo Bồ-Tát,
kẻ phát tâm Bồ-Đề, để làm tay sai cho các quan hay làm tôi tớ
cho mọi người. Phật-Tử thấy những sự như thế, nên có lòng từ-bi tìm
cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật-Tử phải đi quyên tiền các
nơi để chuộc hình tượng Phật, Bồ-Tát và tất cả Kinh Luật, chuộc Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, người tu hạnh Bồ-Tát, kẻ phát tâm Bồ-Đề. Nếu không chuộc,
Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
32.-
Giới tổn hại chúng-sanh :
Nếu
Phật-Tử, không được buôn bán dao, gậy, cung, tên những khí-giới sát-sanh. Không
được chứa cân non giạ thiếu. Không được nương thế-lực quan quyền mà lấy tài vật
của người. Không được ác tâm trói buộc người, và phá hoại việc
thành-công của người. Không được nuôi mèo, chồn, heo, chó ... Nếu cố làm các điều
trên, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
33.-
Giới tà nghiệp giác quán :
Nếu
Phật-Tử, không đặng vì ác-tâm đi xem tất cả nam nữ v.v... đánh
nhau, hay quân trận binh tướng giặc cướp v.v... đấu chiến nhau. Cũng chẳng được
đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng v.v... cho đền bói xủ.
Chẳng được làm tay sai cho kẻ trộm cướp. Nếu cố làm các điều trên, Phật-Tử
này phạm “ Khinh cấu tội ”.
34.-
Giới tạm bỏ Bồ-Đề tâm :
Nếu
Phật-Tử, ngày đêm sáu thời đọc tụng giới Bồ-Tát nầy. Nên giữ gìn giới
luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như kim-cương,
nhe đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ-Kheo bị cột bằng dây cỏ. Thường
có tín tâm lành đối với đại-thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa
thành, còn chư Phật là Phật đã thành, rồi phát Bồ-Đề-Tâm và giữ vững không
thối chuyển. Nếu có một tâm-niệm xu-hướng theo Nhị-Thừa hay ngoại-đạo, Phật-Tử
này phạm “ Khinh cấu tội ”.
35.- Giới
không phát nguyện :
Nếu
Phật-Tử, nên phát những điều nguyện lớn : Nguyện ở hiếu thuận với cha
mẹ, Sư-Tăng - Nguyện đặng gặp được thầy tốt - Bạn Thiện-Tri-Thức - Thường dạy
bảo tôi các Kinh Luật Đại-Thừa - dạy cho tôi về “ Thập-Phát-Thu ”
- “ Thập-Trưởng-Dưỡng
” - “Thập-Kim-Cương ” - “ Thập-Địa ”
- Cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng chánh-pháp - Nguyện giữ vững
giới của Phật : Thà chết chớ không chịu phai lòng. Nếu tất cả Phật-Tử không
phát những điều nguyện trên đây thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
36.- Giới
không phát thệ :
Nếu
Phật-Tử khi đã phát mười điều nguyện lớn trên đây rồi, phải giữ gìn giới-cấm
của Phật. Tự thệ rằng : Thà nhảy vào đống lửa, hố sâu, núi dao, quyết không
cùng với tất cả người nữ (nam) làm điều bất-tịnh để phạm điều cấm trong Kinh Luật
của Tam-Thế chư Phật.
Lại thệ rằng : Thà lấy lưới sắt nóng quấn thân mình cả nghìn lớp, quyết không để
thân nầy phá giới mà thọ những đồ y-phục của tín tâm đàn-việt.
Thà chịu nuốt hòn sắt cháy đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm nghìn kiếp quyết
không để miệng này phá giới mà ăn các thứ thực-phẩm của tín-tâm
đàn-việt. Thà nằm trên đống lửa lớn, trên tấm sắt nóng, quyết không để thân
này phá giới mà nhận lấy các thứ giường ghế của tín-tâm đàn-việt. Thà
trong một hai kiếp chịu cho cả trăm gươm giáo đâm vào mình, quyết không để thân
này phá giới mà thọ các thứ thuốc men của tín-tâm đàn-việt. Thà nhảy
vào vạc dầu sôi trong trăm nghìn kiếp quyết không để thân này phá
giới mà lãnh những phòng nhà, ruộng vườn, đất đai của tín-tâm đàn-việt.
- Lại phát thệ rằng : Thà dùng chày sắt đập thân nầy từ đầu tới chân nát như
tro bụi, quyết không để thân nầy phá giới mà thọ sự cung-kính
lễ-bái của tín-tâm đàn-việt.
- Lại phát thệ rằng : Thà lấy trăm nghìn lưỡi gươm giáo khoét đôi mắt mình quyết
không đem tâm phá giới này mà nhìn xem sắc đẹp của người. Thà lấy
trăm nghìn dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình trải trong một hai kiếp, quyết không
đem tâm phá giới này mà nghe tiếng tốt giọng hay. Thà lấy
trăm nghìn lưỡi dao cắt bỏ lỗ mũi mình, quyết không đem tâm phá giới này
mà ngửi các mùi thơm. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt đứt lưỡi mình, quyết
không đem tâm phá giới này, mà ăn các thứ tinh-thực của người. Thà lấy
búa bén chặt chém thân thể mình, quyết không đem tâm phá giới này
mà tham mặt đồ tốt.
- Lại phát nguyện : Nguyện cho tất cả chúng-sanh đều được thành
Phật.
Nếu Phật-Tử không phát những điều thệ này, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
37.-
Giới vào chỗ hiểm nạn :
Nếu
Phật-Tử, mỗi năm phải hai kỳ hành đầu đà, mùa Đông mùa Hạ thời ngồi
thiền kiết-hạ an-cư. Thường dùng nhành dương, nước tro, ba
Y, bát, bình, tọa-cụ, tích-trượng, hộp lư-hương, đãy lược nước, khăn tay, con
dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh, luật, tượng Phật, tượng Bồ-Tát.
Khi Phật-tử hành đầu-đà cùng lúc du-phương đi lại trăm dặm ngàn dặm,
mười tám món này mang luôn bên mình. Đây là hai kỳ hành đầu-đà trong mỗi năm :
Từ rằm tháng Giêng đến rằm tháng Ba, và từ rằm tháng Tám đến rằm tháng Mười.
Trong hai kỳ hành đầu-đà luôn mang theo mình mười tám món ấy như chim
hai cánh.
Nếu đến ngày Bố-tát, hàng tân-học Phật-tử, mỗi nửa tháng luôn Bố-tát, tụng mười
giới trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Lúc tụng giới, nên ở trước tượng Phật và Bồ-Tát mà tụng. Chỉ có một
người Bố-Tát thời một người tụng, nếu hai người, ba người nhẫn đến trăm nghìn
người cũng một người tụng, còn bao nhiêu thời lắng nghe. Người tụng ngồi cao
người nghe ngồi thấp. Mỗi người đều đắp y hoại-sắc chín điều, bảy điều
và năm điều. Trong lúc Kiết-Hạ an-cư cũng phải mỗi việc đúng theo phép tắc.
Lúc hành đầu-đà chớ đi đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm-ác, nhà vua hung
bạo, đất đai gập-gềnh, cỏ cây rậm-rạp, chỗ có giống sư-tử, cọp, sói, cùng lụt,
bão, nạn cháy, giặc cướp, đường xá có rắn rít ... Tất cả nơi hiểm nạn ấy điều
không được đến. Chẳng những lúc hành đầu-đà, mà lúc kiết-hạ, an-cư cũng không
được vào những chỗ hiểm-nạn ấy.
Nếu cố vào những nơi ấy, Phật-Tử này phạm
“ Khinh cấu tội ”.
38.-
Giới trái thứ tự tôn ty :
Nếu
Phật-Tử, phải theo thứ-tự đúng pháp mà ngồi : Người thọ giới trước thời
ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau. Không luận già, trẻ, Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, người sang như Quốc-Vương, Hoàng-Tử, nhẫn đến kẻ hèn như Huỳnh-môn,
tôi-tớ v.v... tất cả đều nên theo thứ-tự mà ngồi : Người thọ giới trước
thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau.
Không được như hàng ngoại-đạo, si-mê, hoặc già, hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn-xộn
không có thứ-tự, không khác cách ngồi của bọn binh-nô. Trong Phật-Pháp của Ta,
hễ người thọ giới trước thời ngồi trước, còn người thọ giới sau
thời ngồi sau.
Nếu Phật-Tử không theo thứ tự đúng pháp mà ngồi, thời phạm “ Khinh-Cấu-Tội ”.
39.- Giới
không tu phước-huệ :
Nếu
Phật-Tử, thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo Tăng-Phường
nơi núi rừng vườn ruộng, xây dựng Phật-Tháp, chỗ an-cư, tọa-thiền
trong mùa Đông mùa Hạ, tất cả những cơ-sở hành-đạo đều nên kiến-tạo.
Người Phật-Tử phải giảng-thuyết Kinh Luật Đại-Thừa cho tất cả chúng-sanh. Lúc tật-bịnh,
nước có nạn có giặc, ngày cha, mẹ, anh, em, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê khuất-tịch, và
mỗi tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất, cũng nên giảng thuyết Kinh Luật
Đại-Thừa. Tất cả những Trai-hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi
có tai nạn lụt, bão, hỏa-hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to biển
lớn, gặp quỷ La-Sát v.v... đều cũng đọc tụng Kinh Luật Đại-Thừa. Nhẫn
đến tất cả tội báo, tam ác, bát nạn. Thất nghịch gông cùm xiềng
xích trói buộc tay chân, hoặc người nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu
si, nhiều tật bệnh, đều nên giảng Kinh Luật Đại-Thừa nầy.
Nếu hàng tân-học Phật-Tử không thực-hành như trên đây, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
Chín giới như thế cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì. ( Trong
phẩm “ Phạm Đàn ” có giảng rộng )
40.- Giới
không bình đẳng truyền giới :
Nếu
Phật-Tử, lúc cho người thọ giới không được lựa chọn. Tất cả hàng
Quốc-Vương, Hoàng-Tử, các Quan, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, Tín-Nam, Tín-Nữ, Dâm-Nam,
Dâm-Nữ, Phạm-Thiên trong 18 cõi Sắc, Thiên-Tử trong sáu cõi dục, người thiếu
căn, hai căn, huỳnh-môn, tôi-tớ và tất cả Quỷ-Thần đều được thọ giới. Tất
cả y-phục ngọa-cụ nên bảo phải hòa màu : Xanh, đỏ, đen, tím nhuộm thành hoại
sắc cho hiệp với đạo.
Trong tất cả quốc-độ, theo y-phục của người trong nước mặc, y-phục của thầy Tỳ-Kheo
đều phải khác với y-phục của người thế-tục.
Khi ai muốn thọ Bồ-Tát giới, vị Sư phải hỏi rằng : Trong đời nầy
ngươi có phạm tội thất-nghịch chăng ? Bồ-Tát Pháp-Sư không được cho
người phạm tội thất-nghịch thọ giới trong đời nầy.
Đây là tội thất-nghịch : Ác-tâm làm thân Phật chảy máu, hại bực Thánh-Nhân, giết
cha, giết mẹ, giết Hòa-Thượng, giết A-Xà-Lê, phá Yết-Ma-Tăng, chuyển
Pháp-Luân-Tăng Nếu phạm tội thất-nghịch, thời hiện đời không đắc
giới. Ngoài ra tất cả người đều được thọ giới.
Theo pháp của người xuất-gia, không lạy Quốc-Vương, cha mẹ, lục thân và
quỷ-thần.
Phàm hễ ai nhận được hiểu lời nói của Pháp-Sư đều được thọ giới.
Mà có người từ trăm dặm nghìn dặm đến cầu Pháp, nếu Bồ-Tát Pháp-Sư
vì ác tâm, sân tâm, mà không mau mắn truyền giới Bồ-Tát cho
người ấy, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
41.-
Giới vì lợi làm thầy :
Nếu
Phật-Tử, giáo hóa người sanh lòng tin tưởng Pháp đại-thừa,
Bồ-Tát làm Pháp-Sư giáo giới cho người. Lúc thấy có người muốn thọ giới Bồ-Tát,
nên bảo người ấy thỉnh hai Đại-Sư : Hòa-Thượng và A-Xà-Lê.
Phải hỏi người ấy có phạm tội thất-nghịch không ? Nếu người ấy hiện đời
có phạm tội thất-nghịch, thời Pháp-Sư không được cho người ấy thọ
giới. Như không phạm tội thất-nghịch thời cho thọ giới. Nếu
có phạm trong mười giới trọng, phải bảo người ấy sám-hối, đối trước tượng
Phật và Bồ-Tát. Ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ-Tát tha-thiết đảnh-lễ
Tam-Thế Chư Phật cho được thấy hảo tướng. Sám-hối như thế trong bảy ngày,
mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày, nhẫn đến trọn năm mãi đến chừng nào thấy
được hảo-tướng. Đây là hảo-tướng : Thấy Phật đến xoa đầu mình, thấy quang-minh,
thấy hoa báu v.v... các thứ cảnh tưởng lạ. Thấy được những hảo tướng ấy
là triệu chứng tội đã tiêu diệt. Nếu không được thấy hảo
tướng, dầu có sám-hối vẫn vô ích. Người này hiện đời cũng không đắc
giới, nhưng đặng tăng ích thọ giới.
Nếu là người phạm trong bốn mươi tám điều giới khinh, đối-thú sám-hối, thời tội
đặng tiêu-diệt, không phải như tội thất-nghịch.
Vị Pháp-Sư giáo-giới ở trong những pháp này phải hiểu rõ. Nếu không hiểu
Kinh Luật Đại-thừa, những giới khinh, giới trọng, hành tướng phải, chẳng
phải, không hiểu đệ-nhất Nghĩa-đế, tập chủng-tánh, trưởng-dưỡng tánh, tánh chủng-tánh,
bất-khả hoại-tánh, đạo-chủng-tánh, chánh-pháp-tánh. Những quán-hạnh đa, thiểu,
xuất, nhập của trong các pháp đó, cùng mười chi thiền, tất cả pháp hạnh, mỗi
mỗi đều không thông hiểu. Phật-tử vì tài lợi, vì danh tiếng, cầu
quấy, cầu nhiều, tham đệ tử đông lên giả tuồng là mình hiểu biết tất
cả Kinh Luật để được cúng-dường đó là tự dối mình mà cũng khi-dối người khác. Nếu
cố làm Giáo-Sư truyền giới cho người, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
42.-
Giới vì người ác giảng giới :
Nếu
Phật-Tử, không được vì tài lợi mà đem đại giới của chư Phật
đây, nói với người chưa thọ giới Bồ-Tát, hoặc với hàng ngoại-đạo, những
người tà kiến ... trừ Quốc-Vương, ngoài ra không được nói với
tất cả hạng người ấy. Những hạng người ấy chẳng thọ giới của Phật, gọi
là súc-sanh, đời đời sanh ra không gặp được Tam-Bảo, như cây đá,
không có tâm-thức, gọi là ngoại-đạo, bọn tà-kiến, nào khác cây cối. Với những hạng
người tà ác ấy, nếu Phật-Tử giảng nói giới-pháp của chư Phật, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
43.-
Giới cố mống tâm phạm giới :
Nếu
Phật-Tử, do đức tin mà xuất gia, thọ chánh-giới của Phật, lại cố
mống tâm hủy phạm giới-pháp, thời không được thọ lãnh đồ cúng dường của
tất cả đàn-việt, cũng không được đi trên đất của Quốc-dân, không được uống nước
của Quốc-dân. Năm nghìn Đại-Quỷ luôn đứng án trước mặt người đó mà gọi
là “ Gã bợm giặc ”.
Nếu khi đi
vào trong phòng nhà thành ấp, các Quỷ thường theo chà quét dấu chân của
người ấy. Tất cả người đời đều mắng người ấy là kẻ giặc trong Phật-Pháp. Hết thảy
chúng-sanh đều không muốn nhìn ngó người ấy. Người phạm giới, khác nào
loài súc-sanh, cây cỏ. Nếu cố phá-hủy giới-pháp của Phật, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
44.- Giới
không cúng-dường Kinh-Luật :
Nếu
Phật-Tử, phải thường nhất-tâm thọ-trì đọc tụng Kinh Luật Đại-thừa,
dùng giấy, vải, hàng, lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy,
chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, để biên chép Kinh Luật,
dùng vàng bạc làm hộp, rương, đựng những quyển Kinh Luật.
Nếu không y theo Pháp mà cúng-dường Kinh Luật, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
45.- Giới
không giáo hóa chúng-sanh :
Nếu
Phật-Tử, nên có lòng đại-bi, khi vào trong tất cả nhà cửa thành ấp, thấy những
loài chúng-sanh, phải xướng lên rằng : “ Các ngươi đều nên thọ Tam-Quy và Thập-Giới ”. Nếu gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê, v.v.. nên tâm nghĩ miệng
nói : “ Các ngươi là súc sanh phát
Bồ-Đề-Tâm ”. Khi Phật-tử
đi đến núi, rừng, sông, nội cùng tất cả chỗ, đều làm cho hết thẩy chúng-sanh
phát Bồ-Đề-Tâm.
Nếu Phật-Tử không phát-tâm giáo hóa chúng-sanh, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
46.-
Giới thuyết-Pháp không đúng Pháp :
Nếu
Phật-Tử, thường nên có lòng đại-bi phát tâm giáo hóa. Lúc vào nhà
đàn-việt sang giàu, cùng trong tất cả chúng hội, không được đứng thuyết-pháp
cho hàng bạch-y. Phải ngồi trên tòa cao trước chúng bạch-y.
Vị Tỳ-Kheo Pháp-Sư không được đứng dưới đất thuyết-pháp cho tứ-chúng.
Khi thuyết-pháp vị Pháp-Sư ngồi tòa cao, dùng hương hoa cúng dường,
còn tứ chúng, hàng thính-giả thời ngồi dưới. Đối với Pháp-Sư phải như là
hiếu-thuận cha mẹ, kính-thuận Sư-trưởng như Bà-La-Môn thờ lửa. Nếu Phật-Tử
thuyết-pháp mà không đúng như pháp thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
47.-
Giới chế hạn phi pháp :
Nếu
Phật-Tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc-Vương,
Hoàng-tử, các Quan, bốn bộ đệ-tử tự ỷ thế lực cao-quý, phá diệt giới-luật
Phật-Pháp, lập ra điều-luật chế, hạn chế bốn bộ đệ-tử của Phật, không
cho xuất-gia hành-đạo, cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ-Tát,
cùng Tháp và Kinh Luật. Lại đặt ra chức Quan đổng-lý hạn-chế tứ-chúng, và lập bộ
sổ ghi số Tăng Tỳ-Kheo Bồ-Tát đứng dưới đất còn Bạch-y ngồi tòa cao,
làm nhiều việc phi-pháp như binh-nô thờ chủ. Hàng Bồ-Tát này chính nên được mọi
người cúng-dường, mà trở lại bắt làm tay sai của các Quan chức,
thế là phi-pháp phi-luật.
Nếu Quốc-vương và các Quan có lòng tốt thọ-giới của Phật, chớ làm những
tội phá Tam-Bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
48.-
Giới phá diệt Phật-Pháp :
Nếu
Phật-Tử, do lòng tốt mà xuất-gia, lại vì danh tiếng cùng tài
lợi, giảng thuyết giới của Phật cho Quốc-Vương và các Quan, làm những
sự gông trói các Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, người thọ giới Bồ-Tát như cách
của ngục-tù và binh-nô. Như trùng trong thân Sư-tử tự ăn thịt Sư-tử,
chớ chẳng phải trùng ở ngoài đến ăn. Cũng thế, các Phật-Tử tự hủy phá Phật-Pháp,
không phải ngoại-đạo hay Thiên-Ma phá được.
Người đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới-luật của Phật
như ấp yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá.
Người Phật-Tử khi nghe ngoại-đạo, người ác dùng lời xấu hủy-báng giới-pháp của
Phật, thời đau đớn không khác nào cả ba trăm cây giáo nhọn đâm vào
tim mình, hay cả nghìn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình. Thà tự
cam vào ở địa-ngục đến trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy-báng giới
pháp của Phật do bọn người ác. Huống là không lòng hiếu-thuận, tự mình hủy-phá
giới-pháp của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy-phá. Nếu cố
phá giới-pháp, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
Chín giới như vậy, cầu nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì.
VII.-
TỔNG-KẾT :
Đức
Phật dạy : Các Phật-Tử ! Đó là bốn mươi tám điều giới khinh, các người phải
thọ-trì. Chư Bồ-Tát thủa đời quá-khứ đã tụng, chư Bồ-Tát thuở đời vị-lai sẽ tụng,
chư Bồ-Tát hiện-tại đương tụng.
Các Phật-Tử lóng nghe ! Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh đây, chư
Phật trong ba thủa đã tụng, sẽ tụng và hiện đương tụng. Nay ta cũng tụng
như vậy.
VIII.- LƯU-THÔNG :
Đức
Phật phán tiếp : Tất cả Đại-Chúng, Quốc-Vương, Vương-Tử, các Quan, Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, Tín-Nam, Tín-Nữ thảy, những người thọ-trì giới Bồ-Tát, nên phải thọ-trì đọc
tụng giảng-thuyết biên chép quyển giới-pháp Phật-Tánh thường-trụ để
lưu-thông mãi-mãi. Tất cả chúng-sanh xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt. Do
đây, đặng gặp chư Phật, được chư Phật trao tay. Đời đời khỏi hẳn
ba ác đạo và tám chỗ nạn. Thường được thác-sanh trong loài người,
hay cõi Trời.
Nay Ta ở dưới cội Bồ-Đề nầy, lược-giảng giới-pháp của chư Phật. Tất cả đại-chúng
phải nhất-tâm học Ba-La-Đề-Mộc-Xoa, hoan hỷ phụng hành.
Như phần “ Khuyến Học ” trong phẩm “
Vô-Tướng Thiên-Vương ”
mỗi mỗi đều giảng
rõ.
Lúc đó chư vị Học-sĩ trong cõi tam-thiên ngồi lóng nghe đức Phật tụng
giới, hết lòng kính-trọng, hoan-hỷ thọ-trì. Đức Thích-Ca Mâu-Ni giảng
xong về mười vô-tận giới pháp trong phẩm “ Tâm-Địa Pháp-Môn ” của đức Phật Lô-Xá-Na đã giảng nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng lúc
trước, nghìn trăm ức đức Thích-Ca cũng đồng giảng như vậy. Từ cung Đại-Tự-Tại
Thiên-Vương đến dưới cây Bồ-Đề nầy, thuyết-pháp cả mười chỗ, vì tất cả Bồ-Tát
và vô-số đại-chúng thọ-trì đọc tụng giải-thuyết pháp-nghĩa cũng như vậy.
Nghì trăm ức thế-giới, Liên-Hoa Đài-Tạng thế-giới, vi-trần thế-giới, chư Phật
cũng giảng-thuyết như vậy. Tất cả Phật-Tâm-Tạng, Địa-Tạng, Giới-Tạng, Vô-Lượng
Hạnh-Nguyện-Tạng, Nhân-Quả Phật-Tánh Thường-Trụ-Tạng. Tất cả chư Phật giảng
thuyết vô-lượng pháp-tạng như thế đã xong.
Hết thảy chúng-sanh trong nghìn trăm ức thế-giới đều thọ trì hoan-hỷ
phụng-hành.
Còn về phần giảng rộng những hành-tướng của tâm-địa thời như trong phẩm “ Phật-Hoa Quang-Vương Thất-Hạnh ” có nói.
IX.-
KỆ KHEN TẶNG GIỚI PHÁP :
Người
trí nhiều Định Huệ
Thọ trì được pháp này
Lúc còn chưa thành Phật
Được hưởng năm điều lợi :
Một là Thập-Phương Phật
Thương tưởng hộ-trì luôn
Hai là lúc lâm chung
Chánh niệm lòng vui vẻ
Ba là sanh chỗ nào
Cùng Bồ-Tát làm bạn
Bốn là những công-đức
Giới-độ đều thành tựu
Năm, đời này, đời sau
Đủû giới và phước-huệ
Đây là các Phật-Tử
Người trí khéo nghĩ lường
Kẻ trước tướng chấp-ngã ( Phàm phu )
Không thể được pháp nầy
Người trầm không trệ-tịch ( Tiểu-Thừa )
Cũng không gieo giống được.
Muốn nẩy mầm Bồ-Đề
Trí-Huệ soi thế-gian
Phải nên quan sát kỹ
Thật tướng của các pháp :
Không sanh cũng không diệt
Không thường lại không đoạn
Chẳng đồng cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Trong thể nhất-tâm ấy
Siêng tu tập trang-nghiêm,
Công-hạnh của Bồ-Tát
Phải tuần tự học tập.
Nơi học, nơi “ Vô học ”
Chớ mống tưởng phân biệt
Đấy là “ Đệ Nhất-Đạo ”,
Cũng gọi pháp Đại-Thừa
Hết thảy lỗi hý-luận
Đều từ đây dứt sạch
Vô-thượng trí của Phật
Đều do đây mà thành.
Vì thế nên Phật-Tử
Phải phát-tâm dõng-mãnh
Nghiêm trì
giới của Phật
Tròn sạch như Minh-Châu.
Chư Bồ-Tát quá-khứ
Đã từng học giới này,
Hàng vị-lai sẽ học,
Người hiện-tại đương-học.
Đây là đường Phật đi
Là chỗ Phật khen ngợi.
Ta đã giảng giới xong
Phước-đức nhiều vô-lượng,
Hồi-hướng cho chúng-sanh
Đồng đến “ Nhất-Thiết-Trí
”
Nguyện ai nghe pháp này
Đều được thành Phật đạo
X.-
PHẦN HỒI-HƯỚNG :
Trên
Liên-Hoa-Tạng
Đức Xá-Na Tôn
Lược giảng Tâm-Địa Pháp-môn này
Truyền lại chư Thế-Tôn
Khinh, Trọng phân rành
Tất cả được nhờ ân
Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật Biến Pháp-giới Tam-Bảo ( 3 lần )
KIẾT
KINH KỆ
Trời,
A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp phải hết lòng
Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục mặc che thân
Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.
Nam-Mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát Ma-Ha-Tát ( 3 lần )
( Người tụng giới đứng dậy chắp tay nói : Kính bạch đại-chúng, nay tôi là ... vưng lịnh tụng giới, vì ba nghiệp biếng trễ, nếu có điều chi sai sót, xin đại-chúng bố-thí hoan-hỷ ).
MỤC
LỤC
Bố-Tát ngày 14 có trăng THÁNG THIẾU
- THÁNG THIẾU, Chư Đại-chúng ! Nay là ngày thứ 14 có trăng, làm phép Bố-Tát tụng Bồ-Tát giới. Đại chúng nên nhất tâm nghe kỹ.
Bố-Tát ngày 29 không trăng THÁNG THIẾU
- THÁNG THIẾU, Chư Đại-chúng ! Nay là ngày thứ 29 không trăng, làm phép Bố-Tát tụng Bồ-Tát giới. Đại chúng nên nhất tâm nghe kỹ.
Bố-Tát ngày 15 có trăng THÁNG ĐỦ
- THÁNG ĐỦ, Chư Đại-chúng ! Nay là ngày thứ 15 có trăng, làm phép Bố-Tát tụng Bồ-Tát giới. Đại chúng nên nhất tâm nghe kỹ.
Bố-Tát ngày 30 không trăng THÁNG ĐỦ
- THÁNG ĐỦ, Chư Đại-chúng ! Nay là ngày thứ 30 không trăng, làm phép Bố-Tát tụng Bồ-Tát giới. Đại chúng nên nhất tâm nghe kỹ.
BẢNG XƯỚNG NGÀY BỐ TÁT
TRONG BA MÙA MỖI NĂM
NGÀY ÂM LỊCH
NGÀY BỐ TÁT: Nên xướng rằng
MÙA XUÂN:
Sáng ngày 16 tháng chạp khời đầu mùa Xuân.
- 30 tháng 12: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, nửa tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng rưỡi.
- Rằm tháng giêng: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, một tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng.
- 30 tháng giêng: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, một tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm thừa lại một đêm còn lại hai tháng rưỡi.
- Rằm tháng 2: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, hai tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng.
- 30 tháng 2: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, hai tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng rưỡi.
- Rằm tháng 3: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, ba tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng.
- 30 tháng 3: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, ba tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn nửa tháng.
- Rằm tháng 4: Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa, bốn tháng đã qua, thiếu một, còn thừa lại một đêm.
MÙA HẠ:
Sáng ngày 16 tháng tư khởi đầu mùa Hạ
- cũng là ngày nhập Hạ, tiền An cư.
- 30 tháng 4: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, nửa tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng rưỡi.
- Rằm tháng 5: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, một tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn ba tháng.
- 30 tháng 5: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, một tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng rưỡi.
- Rằm tháng 6: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, hai tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng.
- 30 tháng 6: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, hai tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng rưỡi.
- Rằm tháng 7: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, ba tháng đã qua thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng. (Lễ Vu Lan tự tứ).
- 30 tháng 7: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, ba tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn nửa tháng.
- Rằm tháng 8: Phần mùa Hạ bốn tháng làm một mùa, bốn tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm (Lễ hậu Tự Tứ).
MÙA ĐÔNG:
Sáng ngày 16 tháng 8 khởi đầu mùa Đông.
- 30 tháng 8: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, nửa tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn 3 tháng rưỡi.
- Rằm tháng 9: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, thiếu một đêm, thừa lại một đêm, còn ba tháng.
- 30 tháng 9: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, một tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng rưỡi.
- Rằm tháng 10: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, hai tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn hai tháng.
- 30 tháng 10: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, hai tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng rưỡi.
- Rằm tháng 11: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, ba tháng đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn một tháng.
- 30 tháng 11: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, ba tháng rưỡi đã qua, thiếu một đêm, thừa lại một đêm còn nửa tháng.
- Rằm tháng 12: Phần mùa Đông bốn tháng làm một mùa, bốn tháng đã qua, thiếu một đêm còn thừa lại một đêm.
KINH PHẠM VÕNG
10 GIỚI TRỌNG
1.- GIỚI SÁT SANH
2.- GIỚI TRỘM CƯỚP
3.- GIỚI DÂM (TẠI GIA: GIỚI TÀ DÂM )
4.- GIỚI VỌNG
5.- GIỚI BÁN RƯỢU
6.- GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
7.- GIỚI TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
8.- GIỚI BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
9.- GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
10.- GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
48 ĐIỀU GIỚI KHINH
1.- GIỚI KHÔNG KÍNH THẦY BẠN
2.- GIỚI UỐNG RƯỢU
3.- GIỚI ĂN THỊT
4.- GIỚI ĂN NGŨ TÂN
5.- GIỚI KHÔNG DẠY NGƯỜI SÁM TỘI
6.- GIỚI KHÔNG CÚNG DƯỜNG THỈNH PHÁP
7.- GIỚI KHÔNG ĐI NGHE PHÁP
8.- GIỚI CÓ TÂM TRÁI BỎ ĐẠI THỪA
9.- GIỚI KHÔNG KHÁN (SĂN SÓC NGƯỜI ) BỊNH
10.- GIỚI CHỨA KHÍ CỤ SÁT SANH
11.- GIỚI ĐI SỨ
12.- GIỚI BUÔN BÁN PHI PHÁP
13.- GIỚI HỦY BÁNG
14.- GIỚI PHÓNG HỎA
15.- GIỚI DẠY GIÁO LÝ NGOÀI ĐẠI THỪA
16.- GIỚI VÌ LỢI MÀ GIẢNG PHÁP LỘN LẠO
17.- GIỚI CẬY THẾ LỰC QUYÊN GÓP
18.- GIỚI KHÔNG THÔNG HIỂU MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI
19.- GIỚI LƯỠNG THIỆT ( LƯỠI ĐÔI CHIỀU )
20.- GIỚI KHÔNG PHÓNG SANH
21.- GIỚI ĐEM SÂN BÁO SÂN, ĐEM ĐÁNH TRẢ ĐÁNH
22.- GIỚI KIÊU MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP
23.- GIỚI KHINH NGẠO KHÔNG TẬN TÂM DẠY
24.- GIỚI KHÔNG TẬP HỌC ĐẠI THỪA
25.- GIỚI TRI CHÚNG VỤNG VỀ
26.- GIỚI RIÊNG THỌ LỢI DƯỠNG
27.- GIỚI THỌ BIỆT THỈNH
28.- GIỚI BIỆT THỈNH TĂNG
29.- GIỚI TÀ MẠNG NUÔI SỐNG
30.- GIỚI QUẢN LÝ CHO BẠCH Y
31.- GIỚI KHÔNG MUA CHUỘC
32.- GIỚI TỔN HẠI CHÚNG SANH
33.- GIỚI TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN
34.- GIỚI TẠM BỎ BỒ ĐỀ TÂM
35.- GIỚI KHÔNG PHÁT NGUYỆN
36.- GIỚI KHÔNG PHÁT THỆ
37.- GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN
38.- GIỚI TRÁI THỨ TỰ TÔN TY
39.- GIỚI KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ
40.- GIỚI KHÔNG BÌNH ĐẲNG TRUYỀN GIỚI
41.- GIỚI VÌ LỢI LÀM THẦY
42.- GIỚI VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG GIỚI
43.- GIỚI CỐ MỐNG TÂM PHẠM GIỚI
44.- GIỚI KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT
45.- GIỚI KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SANH
46.- GIỚI THUYẾT PHÁP KHÔNG ĐÚNG PHÁP
47.- GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP
48.- GIỚI PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP
KINH PHẠM VÕNG
PHẨM BỒ TÁT TÂM ĐỊA- PHẦN DƯỚI
Giảng Sư
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
1 THÁNG HỌC
12 NGÀY
NGÀY THỨ 1
KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI
I. LỜI KHAI GIẢNG
II. PHẦN KHAI KINH
NGÀY THỨ 2
III. PHẦN QUY KÍNH
IV. PHẦN XƯỚNG THỜI GIAN
NGÀY THỨ 3
PHẦN NGUYÊN VĂN CỦA KINH
I. LÔ XÁ NA PHẬT
NGÀY THỨ 4
NGÀY THỨ 5
III. ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ TÁT GIỚI
IV. MƯỜI GIỚI TRỌNG
1.- GIỚI SÁT SANH
2.- GIỚI TRỘM CƯỚP
3.- GIỚI DÂM (TẠI GIA: GIỚI TÀ DÂM )
NGÀY THỨ 6
5.- GIỚI BÁN RƯỢU
6.- GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
7.- GIỚI TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
8.- GIỚI BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
9.- GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
10.- GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
NGÀY THỨ 7
VI. 48 ĐIỀU GIỚI KHINH
1.- GIỚI KHÔNG
KÍNH THẦY BẠN
2.- GIỚI UỐNG RƯỢU
3.- GIỚI ĂN THỊT
4.- GIỚI ĂN NGŨ
TÂN
5.- GIỚI KHÔNG DẠY NGƯỜI SÁM TỘI
6.- GIỚI KHÔNG
CÚNG DƯỜNG THỈNH PHÁP
7.- GIỚI KHÔNG
ĐI NGHE PHÁP
8.- GIỚI CÓ TÂM
TRÁI BỎ ĐẠI THỪA
9.- GIỚI KHÔNG
KHÁN (SĂN SÓC NGƯỜI ) BỊNH
10.- GIỚI CHỨA KHÍ CỤ SÁT SANH
NGÀY THỨ 8
11.- GIỚI ĐI SỨ
12.- GIỚI BUÔN BÁN PHI PHÁP
13.- GIỚI HỦY BÁNG
14.- GIỚI PHÓNG HỎA
15.- GIỚI DẠY GIÁO LÝ NGOÀI ĐẠI THỪA
16.- GIỚI VÌ LỢI MÀ GIẢNG PHÁP LỘN LẠO
17.- GIỚI CẬY THẾ LỰC QUYÊN GÓP
18.- GIỚI KHÔNG
THÔNG HIỂU MÀ LÀM
THẦY
TRUYỀN GIỚI
19.- GIỚI LƯỠNG THIỆT ( LƯỠI ĐÔI CHIỀU )
20.- GIỚI KHÔNG
PHÓNG SANH
NGÀY THỨ 9
21.- GIỚI ĐEM SÂN BÁO SÂN, ĐEM ĐÁNH TRẢ ĐÁNH
22.- GIỚI KIÊU MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP
23.- GIỚI KHINH
NGẠO KHÔNG TẬN TÂM DẠY
24.- GIỚI KHÔNG TẬP HỌC ĐẠI THỪA
25.- GIỚI TRI CHÚNG VỤNG VỀ
26.- GIỚI RIÊNG
THỌ LỢI DƯỠNG
27.- GIỚI THỌ BIỆT THỈNH
28.- GIỚI BIỆT THỈNH TĂNG
29.- GIỚI TÀ MẠNG NUÔI SỐNG
30.- GIỚI QUẢN LÝ CHO BẠCH Y
NGÀY THỨ 10
31.- GIỚI KHÔNG MUA CHUỘC
32.- GIỚI TỔN HẠI CHÚNG SANH
33.- GIỚI TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN
34.- GIỚI TẠM BỎ BỒ ĐỀ TÂM
35.- GIỚI KHÔNG
PHÁT NGUYỆN
36.- GIỚI KHÔNG
PHÁT THỆ
37.- GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN
38.- GIỚI TRÁI THỨ TỰ TÔN TY
39.- GIỚI KHÔNG
TU PHƯỚC HUỆ
NGÀY THỨ 11
40.- GIỚI KHÔNG BÌNH ĐẲNG TRUYỀN GIỚI
41.- GIỚI VÌ LỢI LÀM THẦY
42.- GIỚI VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG GIỚI
43.- GIỚI CỐ MỐNG TÂM PHẠM GIỚI
44.- GIỚI KHÔNG
CÚNG DƯỜNG KINH
LUẬT
45.- GIỚI KHÔNG
GIÁO HÓA CHÚNG SANH
46.- GIỚI THUYẾT PHÁP KHÔNG ĐÚNG PHÁP
47.- GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP
48.- GIỚI PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP
NGÀY THỨ 12
VII.- TỔNG KẾT
VIII.- LƯU THÔNG
IX.-KỆ KHEN TẶNG PHÁP GIỚI
X.- PHẦN HỒI HƯỚNG
Trên Liên-Hoa-Tạng
Đức Xá-Na Tôn
Lược giảng Tâm-Địa Pháp-môn này
Truyền lại chư Thế-Tôn
Khinh, Trọng phân rành
Tất cả được nhờ ân.
Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật Biến Pháp-giới Tam-Bảo ( 3 lần )
KIẾT KINH KỆ
Trời, A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp phải hết lòng
Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục mặc che thân
Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.
Nam-Mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần )
CHUNG
NGÀY THỨ 12
NGHI THỨC SÁM HỐI TRƯỚC KHI NIỆM PHẬT
Nam-Mô Hộ-Pháp Vi- Đà Tôn-Thiên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
HỘ PHÁP CHƠN
NGÔN
Nam-mô Su sít
đi Ta ri Ta ri, Măng đa Măng đa, Xóa-ha.
HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH
CHUNG
Comments
Post a Comment