GIỚI, ĐỊNH, HUỆ thoát Ta-bà,
TÍN, NGUYỆN, HẠNH sanh Cực-lạc.
NAM MÔ PHẠM VÕNG HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT
KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI
PHẦN NGUYÊN VĂN CỦA KINH
VII.- TỔNG KẾT
Đức Phật dạy: Các Phật tử, đó là 48 điều giới khinh, các
ngươi phải thọ trì. Chư Bồ tát đời quá khứ đã tụng, chư Bồ tát đời vị lai sẽ tụng,
chư Bồ tát đời hiện tại đương tụng.
Đó là chỉ cho
48 điều giới khinh nầy mà tam thế Bồ tát đều đã tụng hết.
Các Phật tử lóng nghe: 10 giới trọng, 48 giới khinh đây, chư
Phật trong ba đời đã tụng, sẽ tụng và hiện đang tụng. Nay Ta cũng tụng như vậy.
Chẳng những
tam thế Bồ tát đã tụng, sẽ tụng và hiện đương tụng mà hiện tại Phật Thích Ca
cũng như chư Phật trong tam thế cũng đều tụng như vậy.
VIII.- LƯU THÔNG
Đức Phật phán tiếp: Tất cả Đại chúng, Quốc vương, Vương tử
các quan, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, tín nam, tín nữ thảy, những người thọ trì giới Bồ
tát, nên phải thọ trì đọc tụng biên chép quyển giới pháp Phật tánh thường trụ để
lưu thông mãi mãi…
Đây nói giới
pháp Phật tánh thường trụ tất nhiên là ở nơi giới Bồ tát nầy.
Tất cả chúng sanh xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt. Do
đây đặng gặp chư Phật, được chư Phật trao tay. Đời đời khỏi hẳn ba ác đạo và
tám chỗ nạn. Thường được thác sanh trong loài người hay cõi trời…
Nếu đúng theo
giới Bồ tát để thọ trì, tức là Phật tánh chủng tử. Mà đã thọ trì giới Bồ tát tất
nhiên là thọ trì Phật tánh chủng tử, thì nhứt định sẽ gặp chư Phật. Mà đã gặp
chư Phật rồi, thì được chư Phật thọ ký, được chư Phật tiếp dẫn, nên gọi là chư
Phật trao tay, “trao tay” tức là đưa tay. Đưa tay có hai thứ: một là tiếp dẫn,
hai là thọ ký. Đời đời khỏi hẳn ba ác đạo và tám chỗ nạn, không còn bị sa đọa nữa.
Thường được thác sanh trong loài người hay cõi trời, dần dần được thành Phật.
Nay Ta ở dưới cội Bồ đề nầy, lược giảng giới pháp của chư Phật.
Tất cả Đại chúng phải nhứt tâm học Ba La Đề Mộc Xoa hoan hỷ phụng hành. Như phần
“Khuyến học” trong phẩm “Vô Tướng Thiên Vương” đều mỗi mỗi được giảng rõ…
Đây là đức Phật
kết lại: hiện tại đây, đức Phật ở dưới cội Bồ đề, lược giảng giới pháp của chư
Phật, đây chỉ là lược giảng thôi. Nói rộng thì còn những phẩm khác, cho nên ở
dưới mới giới thiệu phần “Khuyến Học” trong phẩm “Vô Tướng Thiên Vương” mỗi mỗi
đều giảng rõ. Ba La Đề Mộc Xoa, tất nhiên là chỉ cho giới luật đây, giới Bồ tát
nầy vậy.
Lúc đó chư Học sĩ trong cõi Tam thiên ngồi lóng nghe đức Phật
tụng giới, hết lòng kính trọng, hoan hỷ thọ trì…
Chư Học sĩ là
chư Bồ tát. Phật là bậc Vô học, Bồ tát là bậc còn phải học, học tới chừng nào
thành Phật mới thôi.
Tất cả chư vị
Bồ tát trong Tam thiên, Đại thiên thế giới hiện đang có mặt trong pháp hội để
nghe đức Phật tụng giới Bồ tát nầy. Tất cả vị Bồ tát đó đều hết lòng kính trọng
hoan hỷ thọ trì.
Do đó nên khi
Bố tát lễ Phật đó, có xướng lên rằng: “Phạm Võng Hội Thượng Tam Thiên học sĩ”.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng xong về mười vô tận pháp giới
trong phẩm “Tâm Địa Pháp Môn” của đức Phật Lô Xá Na đã giảng ở thế giới Liên
Hoa Đài Tạng lúc trước: nghìn trăm ức đức Phật Thích Ca cũng đồng giảng như vậy
…
Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni ở Diêm Phù Đề nầy, giảng phẩm “Tâm Địa Pháp Môn” của Đức Phật Lô Xá
Na đã giảng ở thế giới Liên Hoa Đài Tạng thì nghìn trăm ức đức Thích Ca phân
thân trong Tam thiên Đại thiên thế giới nầy cũng đồng giảng như vậy.
Từ cung Đại Tự Tại Thiên Vương đến dưới cây Bồ đề nầy thuyết
pháp cả mười chỗ, vì tất cả Bồ tát và vô số Đại chúng thọ trì đọc tụng giảng
thuyết pháp nghĩa cũng như vậy… Nghìn trăm ức thế giới. Liên Hoa Đài Tạng thế giới…,
vi trần thế giới, chư Phật cũng giảng thuyết như vậy…
Câu nầy chỉ rõ
bất luận chư Phật nào cũng đều giảng thuyết nơi giới Bồ tát như thế cả.
Do đó ta thấy
giới Bồ tát khác với giới Thanh Văn. Giới Thanh Văn (giới Sa di, Tỳ kheo) tùy
theo các trường hợp mà thuyết giới.
Đức Phật ra đời
không có kiết giới Tỳ kheo là đức Phật Ca Diếp. Còn chế giới Tỳ kheo là do đức
Thích Ca. Đó là tùy nơi trường hợp, trình độ của người xuất gia ở mỗi thời, mỗi
chỗ khác nhau giữa giới Thanh văn và Bồ tát, Tỳ kheo có khi có ở cõi nầy, không
có ở cõi khác và có đức Phật ra đời chế giới, có đức Phật ra đời không chế giới.
Giới Bồ tát
thì không luận là quá khứ hiện tại vị lai, thập phương chư Phật bất luận cõi
nào, không luận Phật nào, đồng như vậy hết.
Tất cả Phật Tâm tạng, Địa tạng, Giới tạng, Vô lượng hạnh nguyện
tạng, Nhơn quả Phật tánh Thường trụ tạng. Tất cả chư Phật giảng thuyết vô lượng
Pháp tạng như thế đã xong…
(đã có chú
thích ở trên rồi)
Tâm tạng là : Thập
Phát Thú tâm, Thập Trưởng Dưỡng tâm, Thập Kim Cang tâm.
Địa tạng chỉ
cho Thập địa; Giới tạng chỉ cho 10 giới trọng và 48 giới khinh.
Vô lượng hạnh
nguyện tạng là lục độ vạn hạnh của Đại thừa. Nhơn quả Phật tánh thường trụ, Phật
tánh tức là thật tướng, là Nhơn của Đại thừa và cũng là quả của Đại thừa.
Hết thảy chúng sanh trong nghìn trăm ức thế giới đều thọ trì,
hoan hỷ phụng hành. Còn về phần giảng rộng như hành tướng của Tâm Địa thời như
trong phẩm “Phật Hoa Quang Vương Thất Hạnh” có nói.
Đây là nhà kiết
tập nói: những hành tướng của Tâm Địa được giảng rộng nơi phẩm “Phật Hoa Quang
Vương Thất Hạnh” vậy thì phẩm nầy nói về hành tướng của Tâm Địa (Tướng Tâm Địa
là giới luật của Bồ tát) nơi đây chỉ nói lược mà thôi.
IX.- KỆ KHEN TẶNG PHÁP GIỚI
“Người trí nhiều định huệ,
Thọ trì được pháp nầy.
Lúc còn chưa thành Phật,
Được hưởng năm điều lợi…”
Nói những người
thọ trì ở nơi giới pháp Bồ tát nầy thì lúc chưa thành Phật, được hưởng năm điều
lợi.
“Một là thập phương Phật.
Thương tưởng hộ trì luôn…”
Được chư Phật
hộ niệm. Mà được chư Phật hộ niệm thì nguyện lực của Phật luôn luôn hộ trì, giữ
gìn người đó luôn ở trong đường lành, tăng trưởng thiện căn, cho các chướng ác
không còn khởi, chủng tử Phật luôn tăng trưởng.
“Hai là lúc lâm chung,
Chánh niệm lòng vui vẻ…!”
Người thọ trì
chánh giới thì lúc lâm chung bao giờ cũng được chánh niệm, thường thường người
sắp chết tâm tán loạn. Những tạp niệm nổi lên dữ dội trong tâm làm loạn. Còn
người thọ giới Bồ tát thì chánh niệm chỉ có nghĩ đến Phật, chánh pháp chớ không
có niệm khác xen vô, gọi đó là chánh niệm. Trong lòng vui vẻ, hân hoan.
Người sắp chết
biết khổ nên ăn năn hối tiếc, sợ sệt. Còn người thọ trì giới pháp nầy thì trong
lòng hoan hỷ. Đó là điều lợi ích thứ hai.
“Ba là sanh nơi nào,
Cùng Bồ tát làm bạn…”
Bất luận là
sanh nơi nào, chỗ nào, cõi nào thì luôn được các vị Bồ tát làm bạn. Như vậy là
bảo đảm để đi đến con đường thành Phật.
“Bốn là những công đức,
Giới độ đều thành tựu…
Năm, đời nầy, đời sau
Đủ giới và phước huệ”
Giới đức đầy đủ,
nơi phước đức đầy đủ mà nơi huệ cũng đầy đủ nữa. Như thế dần dần sẽ toàn vẹn
nơi quả Phật. Phước huệ viên mãn là phước trí trang nghiêm. Huệ tức là trí mà nếu
phước trí viên mãn trang nghiêm, đó là thành tựu quả Phật. Do nơi đâu? Do nơi
giới đầy đủ, nếu giới không đầy đủ thời có xen tội vào. Nếu phước được viên mãn
mà giới không toàn vẹn thì định không do đâu mà có, định không có thì huệ làm
sao viên mãn được? Nên giới phải đầy đủ trước, rồi phước huệ mới đầy đủ sau, vì
giới là nền tảng.
“Đây là hạnh của Phật;
Người trí khéo nghĩ lường…”
Nghĩa là phải
tư duy nơi giới nầy.
“Kẻ trước tướng chấp ngã (phàm phu)
Không thể được pháp nầy…”
Phàm phu luôn
chấp ngã (kẻ trước tướng chấp ngã), chấp thân, chấp cảnh, cho nên đối với pháp
nầy khó được.
“Người trầm không trệ tịch (Tiểu thừa)
Cũng không gieo giống được…”
Hàng Tiểu thừa
không chấp tướng, chấp ngã như phàm phu nhưng lại say mê nơi cảnh giới Niết bàn
Không tịch. Sự say mê đó, gọi là trầm Không trệ tịch, cũng không thể gieo giống
Bồ đề vô thượng nầy được.
“Muốn nẩy mầm Bồ đề,
Trí huệ soi thế gian.
Phải nên quan sát kỹ,
Thiệt tướng của các pháp.
Không sanh cũng không diệt,
Không thường lại không đoạn.
Chẳng đồng cũng chẳng khác,
Chẳng đến cũng chẳng đi…”
Nói về lý tánh
của giới. Lý tánh của giới là thiệt tướng của các pháp. Như vậy người muốn nẩy
mầm Bồ đề, tức là chủng tử Phật tánh, để có trí huệ Phật soi sáng thế gian, thì
cần phải quan sát kỹ thiệt tướng của các pháp, tức là lý tánh của giới.
Về tánh thể
thì chỉ có một mà thôi, tâm và pháp cùng một tánh thể đó. Tánh thể không sanh,
không diệt, gọi là bất sanh, bất diệt, không thường cũng không đoạn. Đó là bản
tánh chơn thiệt không hề thay đổi. Dù không sanh diệt nhưng nó tùy duyên. Hễ
duyên phàm thì hiện phàm, duyên Thánh thì hiện Thánh. Cũng như duyên chúng sanh
thì thành chúng sanh, duyên Phật thì thành Phật. Theo duyên mà thành, cho nên
không phải thường. Thường là không thay đổi, rồi cũng theo duyên mà thành Phật,
như vậy không có sự dứt hẳn, gọi là không đoạn. Chẳng đồng cũng chẳng khác, chẳng
khác là sao? Nghĩa là Phật cũng đó, mà chúng sanh cũng đó. Thanh tịnh cũng vậy,
nhiễm ô cũng vậy, nên gọi là chẳng khác. Tuy nhiên không phải là không có nhiễm
ô và thanh tịnh, không phải không có phàm, Thánh, không phải không có Phật và
chúng sanh, nên gọi rằng chẳng đồng.
“Chẳng đến cũng chẳng đi”
Nếu có đến có
đi, tức là có sanh diệt. Bây giờ không sanh diệt, tất nhiên không có đến, có
đi.
Cùng khắp tất
cả chỗ, không có chỗ nào là không khắp. Nếu có đến thì đến nơi nầy, không đến đằng
kia, đây tất cả đều khắp, nên không có đến có đi.
“Trong thể nhứt tâm ấy,
Siêng tu tập trang nghiêm…”
Thể nhứt tâm ấy
là nơi thể, cái thể tánh chơn thiệt của tất cả pháp. Thể tánh không sanh, không
diệt, không thường, không đoạn, không đồng, không khác, không đến, không đi, ở
nơi thể tánh đó phải siêng tu tập cho trang nghiêm hiển lộ ra, cho tỏ ngộ, cho
chứng đắc. Đây phải siêng tu tập lắm mới thành, mới thể hiện được tánh.
“Công hạnh của Bồ tát,
Phải tuần tự học tập…”
Công hạnh của
Bồ tát, nghĩa là Bồ tát hạnh, tuần tự học tập là phải học tập và tu từng bậc, từ
thấp đến cao.
“Nơi học, nơi vô học,
Chớ móng tưởng phân biệt…”
Bởi vì nơi thể
tánh chơn thiệt, không có sự phân biệt học với vô học. Học là bậc của chư vị Bồ
tát. Vô học là Phật. Chúng sanh và Phật còn đồng, huống gì Bồ tát và Phật ư?
“Đây là Đệ nhứt đạo,
Cũng gọi là pháp Đại thừa…”
Như trên mới gọi
là Đệ nhứt đạo. Cũng gọi là Đệ nhứt nghĩa, cũng gọi rằng chí đạo, mà chính là
pháp Đại thừa đó vậy. Do đó chúng ta hiểu pháp Đại thừa như thế nào? Không phải
mình thọ giới Bồ tát hay mình tụng kinh Đại thừa mà gọi là tu Đại thừa. Đó chỉ
là hình thức thôi, còn thực chất của Đại thừa là phải làm thế nào để thể hiện
được thực chất của Đại thừa, tức là phải làm sao để hiện được thực tánh của các
pháp như trên đã nói.
“Hết thảy lỗi hý luận,
Đều từ đây dứt sạch…”
Nếu thể hiện
được thiệt tánh như trên thì không có lỗi gì nữa.
“Vô thượng trí của Phật.
Đều do đây mà thành…”
Tất nhiên cái
quả Phật cũng do nơi đây mà thành.
“Vì thế nên Phật tử,
Phải phát tâm dõng mãnh.
Nghiêm trì giới của Phật,
Tròn sạch như minh châu..”.
Phải nghiêm
trì cho hoàn toàn, cho thiệt trong cũng như là minh châu Như ý, không có tỳ vết
nhơ bợn gì cả.
“Chư Bồ tát quá khứ,
Đã từng học giới nầy.
Hàng vị lai sẽ học,
Người hiện tại đương học.
Đây là đường Phật đi.
Là chỗ Phật khen ngợi…”
Chư Phật cũng
đi trên con đường nầy, bây giờ ta muốn thành Phật cũng phải đi trên con đường nầy.
Mà chỗ Phật khen ngợi thì ta phải trân trọng để thực hành.
Việc mà người
đời khen ngợi, những người khác khen ngợi, nó không thiệt đáng khen ngợi bằng
Phật khen ngợi, bởi vì Phật đã là bậc toàn trí. Mà một khi bậc toàn trí khen ngợi
thì không có gì sai.
Có một điều là
hàng phàm phu không được pháp nầy, hàng Nhị thừa cũng không thể gieo giống nơi
giới pháp Bồ tát nầy được. Chúng ta có duyên lành để gặp và thọ giới pháp, dù
chưa phải Thánh nhưng cũng đã có thiện căn Đại thừa từ nhiều đời, nên mới khiến
cho đủ nhơn duyên ấy. Do đó chúng ta phải trân trọng giữ gìn giới pháp cho
thanh tịnh trang nghiêm. Như thế quyết định sẽ được Phật chủng ngày càng tăng
trưởng và vững vàng trên con đường thành Phật. Theo trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật có nói “Cửu Phẩm Vãng Sanh”. Nếu trong một ngày đêm thanh tịnh trì Bát
Quan Trai giới, công đức đó cũng được hồi hướng vãng sanh thế giới Cực Lạc, huống
gì đối với giới Bồ tát nầy mà thiệt thanh tịnh trì giới thì vãng sanh Cực Lạc
thế giới không phải ở nơi phẩm dưới.
Trong Đại
chúng đều nên tinh tấn, học tập, tụng đi tụng lại cho tinh tường. Bởi vì nhớ mới
có thể trì, mà nhớ và trì đó, phải đúng theo phần hiểu biết.
Do đó cho nên
quý vị có rảnh thời giờ ra thì nên lật quyển giới pháp ra để xem đi xem lại. Mỗi
lần xem một giới, hai giới, suy gẫm cho tường. Tra trước tìm sau, có điều gì
không rõ thì ghi, để rồi hỏi han những vị biết nghĩa thông suốt hơn mình mà cầu
hỏi. Như thế, ngay nơi quyển giới Bồ tát nầy cũng đủ thành Phật.
Ngày xưa có một
ông thiện tín, sanh nhằm thời kỳ không có Phật pháp lưu truyền, mà muốn học,
tìm lấy một vài pháp môn của Phật, không biết tìm nơi đâu?
Khi nghe chư
Thiên nói có một chỗ cách xa phải qua bao nhiêu con đường hiểm trở đến nơi xứ
đó, thì có một người đầy tớ gái có nhớ được một vài câu kệ của Phật. Ông ta lặn
lội nhiều ngày, chịu biết bao nhiêu gian nguy để đến đó gặp người con gái cầu
chỉ dạy cho ông. Người tớ gái đó nói rằng chỉ nhớ được có hai câu mà thôi:
“Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành”.
(Những điều ác
đừng làm,
những điều
lành thì cố gắng làm).
Chỉ có hai câu
đó thôi, mà ngài thiện tín đó phải trải qua bao nhiêu thời gian, chịu bao nguy
hiểm để hạ mình xuống cầu người tớ gái dạy. Sau khi cầu được rồi, ông liền tìm
chỗ yên lặng ở gần đó để tư duy phán xét. Tư duy quán xét tức là tu tịnh, trong
thời gian thoạt nhiên tỏ ngộ cái ý nghĩa sâu xa của hai câu đó, rồi phát thần
thông. Lúc trở về dùng thần thông đi về, khỏi phải cực nhọc. Thế mới biết chỉ
có hai câu đó, mà ông thiện tín đã thành tựu ngũ thông.
Chúng ta bây
giờ kinh sách quá nhiều nên coi thường, thiệt ra trong Phật pháp, chỉ cần một
bài kệ hay một câu nào thiết yếu, rồi nắm lấy đó mà tư duy quán xét tu trì thì
quyết định sẽ thành Phật. Như thế gọi là được một, là được tất cả.
Điều hệ trọng
nhứt, là ở nơi người học cần phải có sự tư duy, tu tập cho thiết thực, càng
ngày càng sâu vào. Sự đi sâu vào, nó quan trọng hơn là rộng, mà cạn cợt thì bị
tản mát, cái rộng đó không có lợi ích chi cho bằng ít, mà sâu thấu đáo. Hễ khi
sâu mà thấu đáo rồi thì được một tức là được tất cả.
Sự học rộng
nghe nhiều cũng cần, nhưng nó chỉ là sự trợ giúp thôi. Sự thực hành tu tâm đó mới
quan trọng, vì thấu đáo pháp môn để thực hành. Hưởng thọ là do nơi sự sâu và thấu
đáo. Tư duy là nơi đó mà suy gẫm. Suy gẫm để trụ tâm nơi đó cho tinh tường.
Thí như một
câu “Phát Bồ đề tâm”, bốn tiếng đó mình cứ tư duy phát Bồ đề tâm, nghĩa nó như
thế nào? Và lúc phát Bồ đề tâm như thế nào? Ta cứ chiêm nghiệm như thế, cho đến
khi nào sự tư duy của mình tập trung vào rồi, đi sâu vào đó rồi thì chẳng những
là phát Bồ đề tâm mà thấy cả Bồ đề tâm. Bồ đề tâm là chi? Là MINH TÂM KIẾN
TÁNH.
Thể hiện được
Bồ đề tâm, vận dụng được, tức là ta đã chứng Bồ đề rồi. Mà chứng được Bồ đề tâm
tức là thành Phật vậy.
X.- PHẦN
HỒI HƯỚNG
Trên Liên-Hoa-Tạng
Đức Xá-Na Tôn
Lược giảng Tâm-Địa
Pháp-môn này
Truyền lại chư
Thế-Tôn
Khinh, Trọng phân
rành
Tất cả được nhờ ân.
Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo.
KIẾT
KINH KỆ
Trời, A-Tu-La,
Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp
phải hết lòng
Ủng-hộ Phật-Pháp
cho thường còn
Mọi người siêng tu
lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả
đến chỗ này
Hoặc ở cõi đất hoặc
trên không
Nương theo
chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người
đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới
thường an-ổn
Pháp-trí vô-biên
lợi quần-sanh
Tất cả tội-nghiệp
đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào
viên-tịch
Thường dùng
giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục
mặc che thân
Hoa mầu trí-giác
khắp trang-nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi
thường an-lạc.
Nam-Mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.
CHUNG
BÀI GIẢNG DẠY CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
TRONG MÙA KIẾT HẠ AN CƯ NĂM ĐINH MÙI - 1967
TẠI CHÙA VẠN ĐỨC “THỦ ĐỨC” MỘT NHÓM
PHẬT TỬ NGHE GIẢNG GHI CHÉP.
GIỚI LUẬT LÀ THỌ MẠNG
CỦA PHẬT PHÁP
HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
(Bài ban từ trong Ðại
giới đàn Thiện Hòa, ngày 01-04-1993
tại Ðại Tòng Lâm, Bà Rịa
Vũng Tàu)
Ðức Phật là một đấng đại Từ Bi, Ngài xem tất cả chúng sinh mọi
loài như con một. Lòng yêu thương chúng sinh của Ðức Phật
trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, như mẹ thương con, chỉ mong làm sao cho con mình
được hết tất cả khó và hưởng tất cả vui, cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói:
"Ðức Phật không có cái tâm tưởng nào khác ngoài tâm đại Từ
đại Bi, ban vui cứu khổ cho tất cả chúng sinh".
Vì vậy Ðức Phật ra đời, cũng không ngoài mục đích ấy, vì thương
chúng sinh như con một mà phải ban vui cứu khổ, và trong kinh Pháp Hoa Ðức
Phật nói rõ:
"Ðức Phật ra đời vì muốn cho tất cả chúng sinh được Khai
Phật tri kiến, Thị Phật tri kiến, Ngộ Phật tri kiến và Nhập Phật tri kiến, được
thành Phật như Phật không khác".
Chỉ một hoài bão duy nhất đó mà Ðức Phật mới ra đời và Ðức Phật
cũng nói thập phương Chư Phật ra đời cũng một hoài bão duy nhất đó mà thôi.
Do đó, tất cả Pháp của phật nói ra cho chúng ta cũng như tất cả
chúng sinh, những người có thể tin được, có thể làm được cũng đến nơi mục đích
là hết khổ được an vui cứu cánh giải thoát, đầy đủ trí Huệ đại Từ Bi như Ðức
Phật không khác. Cho nên bổn phận hôm nay của chúng ta cũng như các vị Giới Sư,
chỉ vì mục đích duy nhất là đem Giáo Pháp của Phật truyền nói lại cho những
người kế thừa mình để cho Chánh Pháp của Phật mãi mãi lưu truyền ở thế gian
không dứt.
Ðể chi? Ðể cho những người hiện tại cũng như tất cả những người
ở tương lai và rộng đến tất cả mọi loài chúng sanh đều được nhuần nơi chánh
Pháp (ban vui cứu khổ) để hết khổ và được an vui. Như Ðức
Phật dạy:
"Sau khi Phật diệt độ, chúng ta phải coi Giới luật là bậc
Thầy sáng suốt, cũng như Phật còn tại thế không khác".
Bởi vậy, sau Phật diệt độ, nhất là trong thời kỳ mạt Pháp nầy,
nếu chúng ta có một tâm giữ gìn được Chánh Pháp của Ðức Như Lai để làm lợi ích
cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh đều được an vui hết khổ, thì trước hết
phải giữ gìn giới luật của Ðức Phật còn tồn tại ở thế gian, giới luật
có tồn tại ở thế gian thì mới có thể làm nền móng cho Chánh Pháp được tồn tại.
Muốn giữ gìn giới luật được tồn tại tại thế gian thì phải thực
hành nơi giới luật của Phật chế ra lúc Phật còn tại thế.
Do đó, mà được truyền nối đến ngày nay. Thế nên ở nơi chúng ta
là người đã thọ giới và thực hành theo giới, mà phải đem Giới luật ấy mà ban bố
lại cho những người hậu lai để có sự kế thừa liên tục. Vì vậy, nên ta phải làm
Giới Sư, phải truyền giới để cho giới đó được giới, học giới và giữ giới.
Các vị giới tử đó khi đã có giới rồi thì cũng sẽ truyền lại cho
những người khác cũng được thọ giới, học giới và giữ giới. Ðược như vậy thì
giới Pháp của Ðức Phật mới có thể tồn tại, mà Giới Pháp tồn tại thì Phật Pháp mới
còn, đây là lời nói ở trong Kinh như vậy.
Vì sự truyền giới nó rất quan trọng nên tôi xin nhắc nhở cho
toàn thể quý vị Giới Sư rằng: Dầu sao đi nữa cũng không nêu ở hoàn cảnh hay là
bất cứ những điều chi đó. Mà nó có thể chi phối được mình không làm đúng theo
giới luật, nhưng về phần truyền giới mình phải làm sao, nếu không được trọn vẹn
hết thì cũng có một phần lớn để hoàn thành những điều ở trong luật chỉ dạy
truyền giới phải như thế nào. Vì sự truyền giới có đúng Pháp thì người
thọ giới mới được đắc giới.
Như vậy, giới luật đầu tiên là ở nơi người thọ giới, mà người
thọ giới chưa được đắc giới, thì về sau làm sao có được giới thể trang nghiêm
có giới đức thanh tịnh được, do đó sự truyền giới là mối đầu tiên hết, nên phải
làm sao dầu không thể được hoàn toàn viên mãn, nhưng cũng phải làm sao để hoàn
thành những điều quan trọng nhất mà trong giới luật đã nêu ra cho những người
có bổn phận truyền giới.
Tôi cũng cầu nguyện cho toàn thể giới sư lục căn thanh tịnh, tam
nghiệp thuần hòa, giới thể trang nghiêm để đem giáo Pháp của Phật ban bố cho
hàng giới tử. Và sau đây tôi cũng có ít lời để khuyên nhắc các vị giới tử Tăng
Ni cầu giới.
Tôi xin mạn phép được gọi quý vị bằng huynh đệ, bởi vì dù sao chúng ta
cũng đều là con của Ðức Phật, đã là con của Phật thì đồng một cha, tức là anh
em với nhau cả. Quý huynh đệ ngày hôm nay, cũng như tôi trước đây, hơn nửa thế
kỷ, thì cũng khép nép cần cầu và khát muốn được thọ giới. Lòng của tôi ngày hôm
trước, và những ngày sau đó cũng chính là cái lòng của quý huynh đệ thọ giới
ngày hôm nay.
Tôi thông cảm ở nơi tâm nguyện đó của quý huynh đệ, vì rằng tôi đã trải
qua và cũng tấm lòng của tôi từ đó được ôm ấp cho tới ngày hôm nay. Vì sao? Vì
khi mà cầu giới như vậy, thì thấy lòng mình có phần nào gọi là thiết tha, thanh
tịnh đối với giới luật. Vì rằng do sự mong muốn do sự cần cầu đó mà nó có sự
khao khát và trân trọng. Quý huynh đệ nên biết rằng: Cái sơ tâm tức là bỏ
phát tâm nó rất là khó mà cũng rất quí, nhưng cũng có thể sau khi được
rồi, thì cái tâm phát khởi lúc ban đầu ấy lần lần nó bị phai nhạt đi.
Cho nên vừa rồi tôi nói lòng khát ngưỡng giới luật, cũng như tấm
lòng quí trọng nơi giới luật lần đầu tiên mình có được, tôi vẫn tâm tâm
niệm niệm ôm ấp cho đến trọn đời.
Thật ra mà nói cũng có lúc nó phai nhạt một phần nào, nhưng nhờ
sự nghĩ đến bổn phận của mình, nghĩ đến tương lai làm sao mình được siêu phàm
nhập thánh cầu mong cho được giải thoát, nhờ ở nơi tâm nguyện đó mà nó nếu kéo
lại để cho lòng tôn kính giới luật, quí báo giới luật như lúc ban đầu.
Do đó, tôi khuyên nhắc tất cả quí huynh đệ mà cầu giới hôm nay
nên ghi nhớ hẳn những giờ phút thiêng liêng mà mình cầu giới. Tâm trạng chí
nguyện như thế nào. Phải nhớ rõ ngày tháng năm, cái giờ cho đến cái
phút mà mình được thọ giới, để từ đó mình ôm chặt vào lòng giữ gìn, trân trọng
quí báu mãi mãi về sau trọn đời của mình.
Ðiều đó tôi nhắc nhở ở nơi quí huynh đệ những ngày sắp tới đây,
sau khi thọ giới và được đắc giới rồi; trở về nơi trụ xứ của mình thì lần lần,
quí huynh đệ mới thấy rằng sự quí trọng ôm ấp ở nơi giới mình đã thọ, đã
được đó rất là khó giữ trọn vẹn lắm, khó giữ bền lắm, chớ không phải là
chuyện dể đâu. Phải có chí nguyện cho kiên cường, phải có một tâm hành luôn
luôn được kiểm soát thì mới có thể trọn vẹn đối với sự giữ gìn ôm
ấp. Như quý huynh đệ cũng biết Phật dạy:
"Ở trong lục đạo chúng sinh thì chỉ có thân người, làm
người mới được xuất gia, mới được thọ giới làm Tăng hay Ni".
Giờ đây quý huynh đệ được làm thân người và cũng có duyên tốt
sắp tới đây được thọ giới mà được đắc giới, được giới nhân chánh quả Ðức Như
Lai, đó là do vì ở nhiều đời trước trồng thiện căn sâu dày, cho nên ngày hôm
nay mới được như vậy. Trước hết quý huynh đệ phải trân trọng với căn lành mà
mình đã dày công vun trồng từ nhiều đời trước đó, để cho mỗi ngày được thêm lớn
và khỏi phải có sự tốn hao. Như trong luật Ðức Phật có nói:
Tại sao người thọ giới được đắc giới?
Vì rằng, người thọ giới ở trước giới. Sự truyền giới mà lãnh
giới, nhờ có tâm kính trọng hết lòng nên đắc giới, phải
nhớ điều đó. Do vậy, giờ phút này, quý huynh đệ luôn luôn
giữ đến cái giới chỉ có Ðức Phật ra đời mới có, cái giới mà mình sắp thọ đó,
không phải là chuyện dễ có đâu.
Mình đã có rồi thì cho là dễ, nếu như không có Phật ra đời thì
không có cái giới đó ở thế gian. Vì sao? Vì chính nơi giới đó mới có thể làm
nền tảng, làm chỗ đứng đầu tiên để bước lên hàng Hiền Thánh. Bởi vì các bậc
Hiền Thánh do chánh định, chánh huệ nên mới thành bậc Hiền Thánh được.
Nếu không có giới thì chánh định không do đâu mà sanh, khi chánh
định không có thì chánh huệ từ đâu mà phát sanh, khi chánh định không có thì
chánh huệ từ đâu mà phát sanh. Cho nên nói rằng, nhân giới sanh định,
nhân định phát huệ, trong lời phát nguyện vừa rồi của quý vị tôi cũng
nghe nhắc đến điều đó.
Như vậy thì quý vị cũng đã biết được phần nào về sự quan trọng
của giới định rồi. Giới là bậc đầu tiên, không giới thì lấy đâu để có định huệ
bước lên bậc Hiền Thánh. Do có sự suy nghĩ như vậy nếu có cái lòng hết sức quan
trọng quí báu vô cùng, vì sự tôn trọng cần cầu ấy mà khi quí vị ở trước
giới Sư để thọ giới quí vị sẽ đắc giới, đó là điều ở trong giới luật có
nói.
Nguyên nhân được đắc giới là do cái lòng hết sức kính trọng,
thiếu lòng kính trọng ấy thì không thể đắc giới được, đó là mục đích của tôi
hôm nay muốn nhắc nhở quý huynh đệ. Và tôi cũng xin nhắc tiếp theo là sau khi
thọ giới rồi thì phải cố gắng học giới cho rành, nhờ có học hiểu ghi nhớ nên
mới có thể hành trì đúng với giới luật được.
Quí vị đã có sự học hiểu, hành trì đúng như giới luật thì quí vị
đã nắm được bước đầu tiên để bước lên bậc Hiền Thánh giải thoát hết khổ rồi, và
cũng chính nơi giới luật nó làm nấc thang đầu tiên cho quí vị sẽ đến nơi hoài
bảo duy nhất của Ðức Phật ra đời là muốn cho tất cả mọi người, tất cả chúng
sinh khai thị ngộ, nhập Phật tri kiến để thành Phật như Phật không khác.
Vậy tôi cầu mong cho tất cả quí huynh đệ từ giờ phút này, thân
tâm được thanh tịnh, nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căng tăng trưởng để quí vị
khi thọ giới thì được đắc giới. Và tôi cũng xin gởi lời cầu chúc đến cho
toàn thể chư Tôn Ðức quí vị hiện diện hôm nay cũng như toàn thể mọi
người, tất cả chúng sinh đều được an lành, đều được an vui, đều được
giải thoát.
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
(TAM VÔ LẬU HỌC : GIỚI, ĐỊNH, HUỆ)
Đức
Phật bảo A-Nan:
“Ông thường nghe trong giới luật của Như Lai, giảng bày ba nghĩa quyết định của
việc tu hành. Thu nhiếp tâm ý gọi là giới, nhân giới
phát định lực, nhân định có trí huệ. Đó gọi là ba môn học vô lậu.
1. ĐOẠN TRỪ DÂM TÂM
A-Nan vì sao thu nhiếp
tâm niệm, Như Lai gọi là giới? Nếu các chúng sinh trong thế giới lục đạo tâm
không dâm dục, thì sẽ không bị tương tục trong sinh tử.
Ông tu tam-muội, cốt là
để thoát khỏi trần lao. Nếu không trừ lòng dâm, không thể ra khỏi trần lao
được. Dù có nhiều trí và thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ tâm dâm,
chắc lạc vào ma đạo. Hạng trên thành ma vương, hạng giữa thành ma dân,
hạng dưới thành ma nữ.
Các loài ma kia cũng có
đồ chúng. Đều tự xưng đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ,
có nhiều loại ma dân nầy náo loạn trong thế gian. Chúng gây nhiều việc tham
dâm, xưng là thiện tri thức, khiến cho chúng sinh rơi vào hầm sâu ái kiến, lạc
mất đường đến giác ngộ.
Ông dạy người đời tu
tam-ma-địa, trước hết phải đoạn trừ tâm dâm. Đó là lời dạy bảo thanh tịnh,
quyết định thứ nhất của các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên, A-Nan, nếu
không đoạn tâm dâm mà tu thiền định, cũng như nấu cát mà mong thành cơm. Trải
qua trăm ngàn kiếp, cũng chỉ là cát nóng. Vì sao? Vì đó chẳng phải là bản nhân
của cơm, đó chỉ là cát đá.
Ông đem thân dâm dục cầu
diệu quả chư Phật, dù được diệu ngộ, cũng chỉ là gốc dâm. Cội gốc đã thành dâm,
thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi được. Còn đường nào để tu
chứng niết-bàn của Như Lai?
Ắt phải khiến cho thân
tâm đều đọan trừ hết căn dâm. Tánh đoạn cũng trừ. Mới mong chứng quả bồ-đề của
chư Phật.
Như
lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức
là lời ma ba-tuần nói.
2. PHẢI ĐOẠN TRỪ TÂM SÁT
HẠI
Lại nữa, A-Nan, nếu các
chúng sinh trong sáu cõi khắp các thế giới, nếu họ không có tâm sát hại, ắt sẽ
không tương tục theo dòng sanh tử.
Ông tu tam-muội, cốt là
ra khỏi trần lao. Tâm sát hại không trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao
được.
Dù có nhiều trí thiền
định hiện tiền, nếu như không đoạn trừ tâm sát hại, ắt rơi vào thần đạo.
Bậc cao thì làm đại lực quỷ. Bậc trung thì làm quỷ phi hành dạ-xoa và các loài
quỷ soái. Bậc thấp thì làm quỷ địa hành la-sát.
Các loài quỷ thần ấy
cũng có đồ chúng. Chúng đều tự cho rằng mình đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ,
trong thời mạt pháp, nhiều loại quỷ thần nầy sôi nổi trong thế gian. Chúng
tự tuyên bố rằng ăn thịt sẽ chứng được đạo bồ-đề.
A-Nan, Như Lai cho phép
hàng tỷ-khưu ăn năm loại tịnh nhục. Thịt ấy đều do thần lực của Như Lai hóa ra,
vốn chúng không có mạng căn. Xứ Bà-la-môn của các ông, đất đai phần nhiều ẩm
thấp và nóng, lại thêm cát đá, rau cỏ không sinh được. Như Lai dùng thần lực từ
bi gia hộ. Do tâm đại từ bi giả gọi là thịt. Các ông cũng nhận được vị như
thịt. Cớ sao sau khi Như Lai diệt độ, những người ăn thịt chúng sinh lại xưng
là Thích tử?
Các ông nên biết những
người ăn thịt đó, dù tâm được khai ngộ, như tam-ma-đề, đều là loài đại la-sát.
Khi quả báo hết, lại phải chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Họ chẳng phải là đệ
tử của Phật. Những người ấy giết hại, thôn tánh lẫn nhau, ăn nuốt nhau không
thôi. Những người như vậy làm sao ra khỏi ba cõi?
Ông dạy người đời tu
pháp tam-ma-địa, phải đoạn trừ việc sát sanh. Đó là lời dạy bảo rõ ràng thanh
tịnh, quyết định thứ hai của các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên A-Nan, nếu không
đoạn trừ việc sát hại mà tu thiền định, ví như có người tự bịt tai mình, rồi
kêu lớn tiếng, mà mong mọi người chẳng nghe tiếng mình. Loại người nầy gọi là
muốn dấu nhưng càng lộ bày.
Tỷ-khưu thanh tịnh và
các vị Bồ Tát khi đi trên đường còn không đạp cỏ non, huống là dùng tay nhổ.
Tại sao thực hành tâm đại bi mà lại lấy máu thịt chúng sinh làm thức ăn?
Nếu các tỷ-khưu không
mặc tơ lụa, là lượt của phương đông, và không dùng giày dép, áo cừu, áo len,
hay các thứ sữa, lạc, đề hồ. Những tỷ-khưu ấy, thật là giải thoát trong pháp
thế gian. Trả hết nợ cũ xong, sẽ không vào trong ba cõi nữa.
Tại sao dùng những bộ
phận thân thể chúng sinh, đều có ảnh hưởng đến chúng. Như con người ăn trăm
giống cốc loại trong đất, thì chân không rời đất. Dứt khoát thân tâm mình, đối
với thân thể hay chi phần của chúng sinh, quyết không dùng, không ăn không mặc.
Những người như vậy, Như Lai mới thật xem là giải thoát.
Như
lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức
là lời ma ba-tuần nói.
3. DỨT TRỪ TÂM TRỘM CẮP
Lại nữa A-Nan, nếu như
chúng sinh trong thế giới lục đạo, tâm không trộm cắp, thì họ sẽ không bị tương
tục trong dòng luân hồi sinh tử.
Ông tu tam-muội, cốt là
ra khỏi trần lao. Tâm trộm cắp không trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao
được.
Dù có nhiều trí thiền
định hiện tiền, nếu không đoạn trừ tâm trộm cắp, ắt phải rơi vào tà đạo.
Hạng trên thành tinh linh, hạng trung thành yêu mị, lớp dưới thành người tà
đạo, bị yêu mị gá vào.
Các nhóm tà đạo kia cũng
có đồ chúng. Họ đều tự xưng đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ,
trong thời mạt pháp, có nhiều loại yêu ma tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, lén
lút gian dối xưng là thiện tri thức. Họ đều tự xưng đã được pháp thượng nhân.
Dối gạt kẻ không biết, dọa dẫm khiến họ mất lòng tin. Chúng đi đến đâu,
gia đình người ta đều bị hao tán.
Như Lai dạy hàng tỷ-khưu
theo thứ tự khất thực, là khiến họ xả trừ lòng tham, thành tựu đạo bồ-đề. Các
hàng tỷ-khưu không tự nấu ăn, gửi cái thân sống nhờ như khách trọ trong ba cõi.
Hiện thân một lần qua lại, đi rồi không trở lại nữa.
Tại sao loại giặc ấy lại
mượn y của Phật, buôn bán Như Lai, tạo vô số nghiệp, nói rằng đó đều là Phật
pháp. Lại chê hàng xuất gia thọ giới tỷ-khưu là đạo Tiểu thừa. Do
chúng làm cho vô lượng chúng sinh mắc phải nghi lầm, nên sẽ bị đoạ vào địa ngục
vô gián.
Sau khi Như Lai diệt độ,
nếu có tỷ-khưu phát tâm quyết định tu tam-ma-đề. Có thể trước hình tượng Như
Lai, tự mình thắp một ngọn đèn, đốt một ngón tay; hay ở trên thân đốt một liều
hương. Như Lai nói người nầy, nợ nần từ kiếp lâu xa, nay được trả hết trong một
đời, xa lìa thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi các lậu hoặc. Người ấy tuy chưa hiểu
rõ đạo vô thượng giác, nhưng đối với Phật pháp đã có tâm quyết định.
Nếu không gieo được cái
nhân xả thân nhỏ bé ấy, dù có thành đạo vô vi, cũng phải sanh lại làm người,
hoàn trả các nợ cũ, như quả báo ăn lúa ngựa của Như Lai.
Ông dạy người đời, tu
pháp tam-ma-địa, sau nữa, dứt trừ tâm trộm cắp. Đó gọi là lời dạy rõ ràng thanh
tịnh, quyết định thứ ba của các Đức Phật Như Lai Thế Tôn trong quá khứ.
Cho nên A-Nan, nếu không
dứt trừ tâm trộm cắp mà tu thiền định, cũng như rót nước vào bình thủng, mà
mong cho đầy. Dù trải qua nhiều kiếp số như vi trần, rốt cục vẫn không đầy
được.
Nếu các tỷ-khưu, ngoài y
bát ra, không tích trữ mảy may. Khất thực có thừa, bố thí cho chúng sinh đói.
Nơi hội lớn đông người, chắp tay lễ bái đại chúng. Nếu có người đánh mắng, xem
như khen ngợi mình. Xem thân thịt máu xương của mình giống như thân của chúng sinh.
Nếu không đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ tỏ ngộ của mình, khiến
cho kẻ sơ học khỏi bị lầm lạc, thì Như Lai ấn chứng người ấy chân thực được
tam-muội.
Như
lời Như Lai nói đây, tức là lời của chư Phật. Nếu không đúng như lời nói đó,
tức ma ba-tuần nói.
4. DỨT TRỪ VỌNG NGỮ
A-Nan, chúng sinh trong
thế giới lục đạo như thế, tuy thân tâm không còn sát đạo dâm, ba hạnh đều đã
viên mãn, nếu mắc phải đại vọng ngữ, thì tam-ma-đề không được thanh tịnh, sẽ
thành giống ma ái kiến, và làm mất chủng tử Như Lai.
Chưa
được gọi là đã được, chưa chứng nói rằng đã chứng. Hoặc để mong cầu thế
gian Tôn trọng tột bậc, bảo người khác rằng: Nay tôi đã đắc quả Tu-đà-hoàn quả
Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, được đạo A La Hán, Bích-chi Phật thừa, hay các quả vị
Bồ Tát trong Thập địa hay trước Thập địa. Mong được mọi người lễ bái, tham được
cúng dường.
Những
kẻ nhất-điên-ca ấy tự tiêu diệt chủng tử Phật. Như người dùng dao
chặt cây đa-la. Phật ấn ký người ấy mất hẳn thiện căn, không còn chánh tri
kiến, chìm đắm trong ba bể khổ, không thành tựu được pháp tam-muội.
Sau khi Như Lai diệt
độ, dạy hàng A La Hán và Bồ Tát hãy ứng thân sinh trong đời mạt pháp,
hiện ra nhiều hình tướng khác nhau để độ những chúng sinh còn trong vòng luân
hồi.
Hoặc
làm sa-môn, cư sĩ bạch y, vua chúa, quan lại, đồng nam đồng nữ. Như vậy cho đến
làm dâm nữ, làm người quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người hàng thịt, kẻ
buôn bán. Để cùng với họ đồng sự, xưng tán Phật thừa, khiến cho thân tâm họ
nhập vào tam-ma-địa.
Rốt ráo không tự bảo
mình thật là Bồ Tát, là A La Hán. Khinh xuất nói với người chưa học, tiết lậu
mật nhân của Phật.
Chỉ
trừ khi đến lúc lâm chung, âm thầm có lời di chúc. Tại sao những
người ấy lừa gạt chúng sinh, thành tội đại vọng ngữ.
Ông dạy người đời tu
tam-ma-địa, sau rốt phải đoạn trừ nói lời đại vọng ngữ. Đó là lời dạy bảo rõ
ràng thanh tịnh, quyết định thứ tư của các Đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời
trước.
Thế nên A-Nan, nếu không
đoạn trừ lời đại vọng ngữ, như khắc phân người làm hình cây chiên đàn, mà muốn
được hương thơm. Thật không có chuyện đó.
Như Lai dạy hàng
tỷ-khưu, lấy trực tâm làm đạo tràng. Trong các hành xử từ bốn uy nghi, còn
không được hư dối. Làm sao có kẻ tự xưng là đã được pháp thượng nhân?
Ví như người bần cùng,
tự xưng là đế vương, tự chuốc lấy sự tru diệt. Huống gì là ngôi vị pháp vương,
sao dám xưng càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh co. Cầu đạo
bồ-đề của Phật, như người muốn cắn rốn, làm sao thành tựu được?
Nếu hàng tỷ-khưu, tâm
thẳng như dây đàn, hành xử mọi việc chân thật, nhập vào tam-ma-đề, ắt hẳn không
có ma sự. Như Lai ấn chứng cho người nầy, thành tựu được vô thượng trí giác của
hàng Bồ Tát.
Như lời Như Lai nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức là lời ma ba-tuần nói.
Comments
Post a Comment