NIỆM PHẬT HỒI HƯỚNG
NGHI THỨC (1)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
A Di Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân.
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải.
Quang Trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. (6)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (10 lần)
Thập phương tam thế Phật
A Di Ðà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sanh
Oai đức vô cùng cực.
Ngã kim đại quy y
Sám hối tam nghiệp tội (7)
Phàm hữu chư phước thiện
Chí tâm dụng hồi hướng. (8)
Nguyện đồng niệm Phật nhơn
Cảm ứng tùy thời hiện.
Lâm chung Tây phương cảnh
Phân minh tại mục tiền.
Kiến văn giai tinh tấn
Ðồng sanh Cực Lạc quốc.
Kiến Phật liễu sanh tử,
Như Phật độ nhứt thiết. (9)
Vô biên phiền não đoạn
Vô lượng pháp môn tu.
Thệ nguyện độ chúng sanh
Tổng giai thành Phật đạo.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng.
Tình dữ vô tình,
Ðồng viên chủng trí. (10)
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như Lai,
Tam giả quảng tu cúng dường,
Tứ giả sám hối nghiệp chướng,
Ngũ giả tùy hỷ công đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy học Phật,
Cửu giả hằng thuận chúng sanh,
Thập giả phổ giai hồi hướng. (11)
CÔNG ÐứC BảO SƠN THầN CHÚ (12)
Nam mô Phật đà da.
Nam mô Ðạt ma da.
Nam mô Tăng dà da.
Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha. (7 biến)
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng.
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát. (13)
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu.
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ. (14)
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo. (15)
Tự Quy y Phật, Đương nguyện chúng sanh, Thể giải đại đạo, Phát Vô thượng tâm.
Tự Quy y Pháp, Đương nguyện chúng sanh, Thâm nhập kinh tạng, Trí huệ như hải.
Tự Quy y Tăng, Đương nguyện chúng sanh, Thống lý đại chúng, Nhứt thiết vô ngại.
NGUYỆN
A Di Đà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà, dữ chư Thánh chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí.
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Ðại từ Ðại bi A Di Ðà Phật. (1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Ðại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Thanh tịnh Ðại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Liên trì hải hội Phật, Bồ tát nhứt thiết Hiền Thánh Chúng chư Thượng Thiện Nhơn. (1 lạy)
Thích nghĩa Nghi Thức Niệm Phật Hồi Hướng
(1) Sau khi tụng kinh xong, (hoặc Di Đà, Hồng Danh hay Phổ Môn, Kim Cang v.v...) thời tiếp tụng nghi thức này.
(2) Quán Tự Tại Bồ tát là Ngài Quan Thế Âm Bồ tát, Bát nhã Ba la mật đa là trí huệ đáo bỉ ngạn (trí huệ cứu cánh).
Ngũ uẩn là: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Xá Lợi Tử là Ngài Xá Lợi Phất. Chữ “Phất” là Phạm âm, dịch là “Tử” (con trai). Nên Xá Lợi Tử cũng như Xá Lợi Phất đồng nghĩa “con bà Xá Lợi” (tên của mẹ Ngài). Trong đây Ngài Quan Thế Âm Bồ tát nói kinh này với Ngài Xá Lợi Phất.
(3) Thọ, sắc v.v... là huyễn tưởng, không là thật tướng (tánh thể), huyễn tướng cùng thật tướng không rời nhau nên nói bất dị, mà cũng chính là nhau nên nói tức thị. Như sóng với nước.
(4) Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là sáu căn. Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp là sáu trần.
Sáu căn duyên sáu trần mà sanh sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
6 căn, 6 trần, 6 thức hiệp lại là 18 giới.
Vô minh là món thứ nhứt trong mười hai nhơn duyên, lão tử là món thứ 12 trong 12 nhơn duyên (vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử).
Khổ, tập, diệt, đạo là tứ đế, pháp tu của hàng Thanh văn. Trí là trí tuệ, đắc là chỗ chứng được, đây là trí huệ và chỗ chứng của Bồ tát.
Tâm vô quái ngại là tâm không bị trụ trước không chướng ngại mà được tự tại.
Vô hữu khủng bố là không tất cả các điều sợ hãi mà được thường hằng an vui.
Viễn ly điên đảo mộng tưởng là xa lìa những vọng niệm đảo điên mê lầm chấp trước.
Cứu cánh Niết bàn là Niết bàn rốt ráo (Phật quả).
Thần chú dứt tất cả cội gốc của nghiệp chướng đặng sanh về cõi Tịnh độ (Cực Lạc quốc).
(6) Đức Phật A Di Đà thân sắc vàng (huỳnh kim).
Tướng tốt sáng rỡ không ai sánh bẳng.
Lông trắng giữa chặn hai chơn mày uyển chuyển như năm hòn núi Tu Di.
Cặp mắt xanh biếc như bốn biển cả.
Trong hào quang có vô số đức hóa Phật.
Chúng hóa Bồ tát cũng nhiều vô biên.
Bốn mươi tám điều nguyện độ chúng sanh.
Chín phẩm đều làm cho lên bờ giác.
(xem ở đoạn sau kinh A Di Đà).
(7) Sám hối những tội do thân, khẩu và ý gây ra.
(8) Bao nhiêu phước lành đều hồi hướng nguyện sanh về nước Cực Lạc.
(9) Liễu sanh tử là thoát khỏi sự sanh tử.
(10) Chủng trí nói đủ là nhứt thiết chủng trí tức là trí của Phật.
Bài thập phương đây là của Ngài Đại Từ Bồ tát soạn ra. Độ nhứt thiết là độ tất cả chúng sanh như đức Phật.
(11) Mười điều nguyện này cũng gọi là mười điều nguyện vương của đức Phổ Hiền Bồ tát, trích trong “Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm”.
(12) Trong Đại Tập Kinh nói: Chuyên tâm tụng thần chú này thời được công đức vô lượng, hiện tiền hưởng phước vô cùng sau khi chết được sanh về cõi Cực Lạc...”
(13) Vô Lượng Quang Phật sát là cõi của đức Phật A Di Đà, tức là nước Cực Lạc. 4 câu kệ này trích trong “Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm”.
(14) Người sanh về cõi Cực Lạc thời từ trong hoa sen nơi ao thất bảo mà hóa sanh ra, có chia làm 9 phẩm: Thượng phẩm thượng sanh, thượng phẩm trung sanh, thượng phẩm hạ sanh, trung phẩm thượng sanh, trung phẩm trung sanh, trung phẩm hạ sanh, hạ phẩm thượng sanh, hạ phẩm trung sanh, hạ phẩm hạ sanh.
Ngộ vô sanh là ngộ lý vô sanh thành vô sanh pháp nhẫn (xem lời thích nghĩa sau kinh Kim Cang).
Người sanh về Cực Lạc thời được gần gũi với các bực Bất thối Bồ tát (xem lời thích nghĩa kinh A Di Đà).
(15) Bốn câu kệ năm chữ này trích trong phẩm “Hóa thành dụ” kinh Pháp Hoa quyển thứ ba.
Phỏng Dịch Bài Sám “Thập Phương” Của Đại Từ Bồ tát
Và Mười Điều Đại Nguyện Của Phổ Hiền Bồ tát.
SÁM THẬP PHƯƠNG
Thập phương tam thế Phật
A Di Ðà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sanh
Oai đức vô cùng cực.
Ngã kim đại quy y
Sám hối tam nghiệp tội (7)
Phàm hữu chư phước thiện
Chí tâm dụng hồi hướng. (8)
Nguyện đồng niệm Phật nhơn
Cảm ứng tùy thời hiện.
Lâm chung Tây phương cảnh
Phân minh tại mục tiền.
Kiến văn giai tinh tấn
Ðồng sanh Cực Lạc quốc.
Kiến Phật liễu sanh tử,
Như Phật độ nhứt thiết. (9)
Vô biên phiền não đoạn
Vô lượng pháp môn tu.
Thệ nguyện độ chúng sanh
Tổng giai thành Phật đạo.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng.
Tình dữ vô tình,
Ðồng viên chủng trí. (10)
Mười
phương
chư
Phật ba đời
Di Ðà bực nhứt chẳng rời quần sanh
Sen vàng
chín phẩm sẵn dành
Oai linh đức cả đã thành vô biên!
Nay con dưng
tấm lòng thiềng (1)
Quy y với Phật sám liền tội căn,
Phước
lành con có chi chăng,
Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây!
Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành,
Biết giờ biết khắc rõ rành.
Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chánh niệm hơn
thường,
Vãng sanh Lạc quốc đồng nương
hoa vàng,
Hoa nở thấy Phật rõ ràng,
Thoát vòng
sanh tử, độ an muôn loài.
Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,
Pháp môn tu
học, chẳng còn dư,
Chúng sinh
nguyện độ, bờ kia đến
Phật đạo cùng nhau chứng Trí, Như.
(2)
Hư
không cõi nọ dầu cùng,
Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên. (3)
Không tình
cùng có đồng nguyền, (4)
Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.
PHỔ HIỀN BỒ TÁT
THẬP CHỦNG ĐẠI NGUYỆN
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như Lai,
Tam giả quảng tu cúng dường,
Tứ giả sám hối nghiệp chướng,
Ngũ giả tùy hỷ công đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy học Phật,
Cửu giả hằng thuận chúng sanh,
Thập giả phổ giai hồi hướng. (11)
Nay con lại nguyện tu hành,
Phổ Hiền nguyện lớn sẵn dành mười
môn:
Một là nguyện lạy Thế Tôn
Hiện thân trước
Phật hết lòng kính tin.
Hai, khen
Phật đức rộng thinh,
Lời hay, tiếng tốt tận tình ngợi ca.
Ba, thời sắm đủ hương
hoa,
Tràng phan
bảo cái dưng
ra cúng dường.
Bốn, vì mê chấp lầm đường,
Tham sân
nghiệp chướng
con thường
sám luôn.
Năm, suy
công đức vàn muôn,
Của Phàm của Thánh con đồng vui ưa.
Sáu, khi Phật chứng thượng
thừa,
Pháp mầu con thỉnh đã vừa (5) truyền trao.
Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,
Cầu xin chư
Phật chớ vào vô dư!
(6)
Tám, thường
tu học Ðại thừa,
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con,
Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,
Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.
Mười,
đem tất cả công huân,
Mọi loài cùng hưởng,
khắp trần cùng vui.
Mười
điều nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen.
Chú thích sám “Thập phương” nghĩa
(1) Lòng thành
(2) Chánh trí Như Như
(3) Chẳng cùng tận, chẳng thiên chuyển
(4) Vô tình cùng hữu tình
(5) Đã vừa là đã phải thời
(6) Vô dư Niết bàn, cảnh giới của chư Phật.
BÀI TỰA
Về Văn “MƯỜI PHƯƠNG”
Bài hồi hướng. “Thập phương”, văn chữ hán (số A) vốn là của ngài Đại Từ Bồ tát soạn ra. Sau khi tụng kinh cùng niệm Phật, tụng bài này cốt để đem bao nhiêu công đức tụng niệm đều hồi hướng cầu được vãng sinh về cõi Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Tụng bài này phước đức lớn lắm nên từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như nước Tàu, trong các chốn Thiền môn, luôn luôn dùng bài
này phổ vào các thời khóa.
Còn từ “nhất giả” đến “thập giả” (số B) là mười điều nguyện rút ra trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyện” của kinh Hoa Nghiêm. Trong
kinh mỗi một nguyện ngài Phổ Hiền Bồ tát vì ngài Thiện Tài Đồng Tử và chúng hội Bồ tát mà giảng giải rất rộng, 10 câu tổng nên về mỗi nguyện thôi.
Phàm tụng văn hồi hướng, cần nhất người tụng phải hiểu rõ nghĩa lý trong văn, vì
có hiểu thời chỗ hồi hướng phát nguyện mới thiết thiệt, tâm quán tưởng mới xác thật, công đức mới tăng trưởng. Nếu tụng mà không hiểu chi hết, thời hồi hướng đó là hồi hướng về đâu? Phát nguyện đó là phát những gì và như thế nào? Thành ra chỉ có tụng theo lệ suông thôi chắc khó thành tựu công đức được.
Vì lẽ trên đây, nên tôi không quản tài sơ văn vụng phỏng theo nguyên văn và y cứ nơi nghĩa trong kinh mà dịch cả hai bài (số A và số B) ra quốc văn. Dịch xong lại còn ngại vì trong sám văn có nhiều nghĩa sâu ẩn, khuất khúc, nên viết thêm đoạn thích nghĩa sau đây, (số 20 và 21) để giải rõ bổn quốc văn, ngõ hầu khi tụng đến, tụng chữ hiểu nghĩa, tâm và lý tương tương ứng khi hiệp, lâu lâu tinh thuần, thiện căn công đức chắc chắn là vô cùng vô tận vậy.
Hân Tịnh Tỳ Kheo
Thích Trí Tịnh
Cẩn chí
Trong khoảng không gian vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta bà của đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ thật ngoài Ta bà ra còn có vô
biên thế giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một đức Phật làm giáo chủ, thế giới đã vô biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô lượng chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói: Mười phương chư Phật ba đời.
Trong vô lượng
chư
Phật ở mười
phương
ba đời đó, suy ra thời đức Phật A Di Đà là bậc nhất.
Về Phật quả thời Phật đồng chứng như nhau, đồng trí viên, đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện toàn, công đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà là bậc nhất? –Đây nói bậc nhất là cứ nơi ứng hóa thân của Phật mà so sánh thôi, chớ không phải nói đến pháp thân và báo thân, về pháp thân và báo thân của chư Phật quyết hẳn là đồng, vì hai thân đó là thật thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng hóa thân là những chiếc thân vì chúng sinh cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sinh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa của chư Phật cùng tùy đó mà sai khác, lại sự sai khác đó cũng do vì bổn nguyện của chư Phật lúc còn tu hạnh Bồ tát không đồng nhau vậy.
Về sự thù thắng nơi
ứng thân của đức Phật A Di Đà lược
kể về phần đại khái thời có 4 điều nói:
I.- Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn, như Trong kinh Tiểu bổn A Di Đà nói Quang minh của đức Phật đó vô lượng chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại, nên hiệu A Di Đà”.
Trong kinh Đại bổn A Di Đà nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà quang minh có hạn lượng, ít nhất là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha cõi nước của chư Phật, thời ta nguyện không chứng quả chính giác” (điều
nguyện thứ 12 trong 48 điều nguyện).
Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu một do tuần, 10 do tuần, 100, 1.000... do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100, 1.000... thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm!
Vì quang minh vô lượng nên đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Đại bổn kinh:
1. Vô Lượng Quang,
2. Vô Biên Quang,
3. Vô Ngại Quang,
4. Vô Đối Quang,
5. Viêm Vương Quang (có chỗ
để Diệm Vương
Quang),
6. Thanh Tịnh Quang,
7. Hoan Hỷ Quang,
8. Trí Huệ Quang,
9. Nan Tư Quang,
10. Bất Đoạn Quang,
11. Vô Xứng Quang,
12. Siêu Nhật Quang.
Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời đức A Di Đà được phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.
II.- Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng; hoặc 100 tuổi, 1.000 tuổi... hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp, v.v... như đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.
Còn về ứng thân của đức Phật A Di Đà, thọ mạng vô lượng. Trong Tiểu bổn kinh nói: “Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp, nên hiệu là A Di Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Đại bổn kinh nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhất không được trăm nghìn ức na do tha kiếp đó, thời ta nguyện không chứng quả chính giác”. Nên đức Phật A Di Đà cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.
Đây là thọ mạng của đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.
III.- Về phần đồng cư nơi Cực Lạc, là cõi nước của đức Phật A Di Đà cực kỳ trang nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt không có mảy may khổ não, như trong Đại bổn kinh, Tiểu bổn kinh và Quán kinh đã rộng thuật.
Lại trong bộ Yếu giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung, thọ lạc viên dung Ở nơi đồng cư độ (cõi
phàm) mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi thánh: Phương
tiện độ, Thật báo độ, Thường
tịch quang độ cõi trước
là cõi của Nhị thừa thánh nhân, kế là cõi của đại Bồ tát, sau rốt là cõi của đức Phật).
Chứ so với các cõi khác, như Ta bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính là đồng cư độ của cõi Ta bà vậy, thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát khổ, vô lượng điều khổ sở Ngũ trược v.v... lại hạng phàm phu không thể dự phần nơi cảnh Thánh.
Đây là cõi đức Phật A Di Đà, về phần đồng cư độ có phần đặc biệt trong các cõi nước ở mười phương vậy.
IV.- Nhân dân trong nước của đức Phật A Di Đà dầu là phàm, nhưng cũng đều trụ bậc “bất thối chuyển”, nghĩa là ở vào địa vị thẳng mãi đến thành Phật, không còn ngưng trệ lui sụt. Nói chi các bậc Thánh! Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc, cứ về bậc “Nhất sinh bổ xứ Bồ tát” như ngài Quán Âm Thế Chí, hay là như Di Lặc v.v... số nhiều vô hạn, huống là bậc Thập địa, Địa tiền, cùng Thanh văn Duyên
giác! Trong tiểu bổn kinh nói: “Nơi nước Cực Lạc, chúng sinh nào sinh về đó đều là bậc bất thối chuyển. A la hán và Bồ tát đều đồng vô lượng vô biên, không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói là vô lượng vô biên vô số thôi”.
Bậc Thánh trong cõi khác hoặc là có số hạn, như cõi Ta bà có 62 ức hằng hà sa vị Bồ tát v.v...
Lại nhân dân nơi Cực Lạc tuổi thọ đồng với Phật, nghĩa là vô lượng, như Tiểu bổn kinh nói: “Thọ mạng của đức Phật đó và thọ mạng của nhân dân của ngài, vô lượng, vô biên, vô số kiếp”.
Đấy là nhân dân, La hán, Bồ tát của đức Phật A Di Đà trong các cõi nước mười phương vậy.
Vì những phần đặc thắng trên đây, nên trong văn
nói:
“Mười
phương
chư
Phật ba đời, Di Đà bậc nhất.”
Đối với chúng sinh, đức Phật A Di Đà có nguyện lực độ sinh rất lớn. Nguyện lực đó rõ ràng nhất là đã nêu bày trong 48 điều nguyện của ngài: những nguyện độ khắp Thánh phàm trong mười phương! Lại trong Quán kinh có câu: “Phật tâm đó là lòng đại từ bi vậy dùng vô duyên từ nhiếp độ các chúng sinh”. Kinh lại nói: “Đức Vô Lượng Thọ Phật có 84.000 tướng, trong mỗi tướng đều có 84.000 tùy hình hảo, trong mỗi hình hảo lại có 84.000 áng sáng, mỗi ánh sáng chiếu khắp các cõi nước ở mười phương. Ánh sáng này nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật không lìa bỏ”.
Đức Phật A Di Đà có lòng từ, nguyện lớn, phóng quang minh tiếp độ chúng sinh không lìa bỏ, nên trong văn nói:
“Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sinh.”
Do nguyện lực của đức Phật A Di Đà, nên những người được sinh về cõi Cực Lạc của ngài đều từ trong hoa sen báu nơi ao thất bảo mà hóa sinh, nghĩa là mượn hoa sen làm bào thai mà cho thân hình. Đó gọi là “liên hoa thanh tịnh hóa sinh”, cũng có câu
“liên hoa vi phụ mẫu”. Vì người vãng sinh về đó nơi trí có cao thấp, nơi phước có nhiều ít không đồng nhau, nên hoa sen là chỗ thác sinh cũng có nhiều hạng, đại khái chia làm chín phẩm:
1. Thượng phẩm thượng sinh.
2. Thượng phẩm trung sinh.
3. Thượng phẩm hạ sinh (ba phẩm này thuộc bậc đại thừa Bồ tát).
4. Trung phẩm thượng sinh.
5. Trung phẩm trung sinh (hai phẩm đây thuộc hàng nhị thừa Thánh nhân).
6. Trung phẩm hạ sinh (một phẩm đây thuộc hàng có công đức lành ở đời).
7. Hạ phẩm thượng sinh.
8. Hạ phẩm trung sinh.
9. Hạ phẩm hạ sinh (ba phẩm này thuộc về hạng người
tạo ác nghiệp).
Cứ nơi chín phẩm trên thấy, thời thấy rằng từ bậc đại thừa Bồ tát, nhị thừa Thánh nhân, người lành tốt trong đời cho đến kẻ tạo ác nghiệp, phạm ngũ nghịch thập ác v.v... mà có gia công niệm Phật, thời đều được vãng sinh về cõi Cực Lạc cả (trừ người
hủy báng Tam bảo).
Đức Phật A Di Đà sẳn đức từ bi nguyện lực, dùng chn phẩm liên hoa báu để chực chờ tiếp dẫn chúng sinh về nước của ngài. Nên trong văn nói:
“Sen vàng
chín phẩm sẵn dành.”
Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức lành của Phật vô cực. Trí quang chiếu phá sự mê tối của chúng sinh khắp mười phương, đó là “oai lực”. Chúng sinh niệm Phật, thời liền hộ niệm giữ gìn cho được an ổn không thối không thất, và hiện vô lượng thân đến khắp vô lượng thế giới để tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc. Đây là “linh thông”. Tâm của Phật không lúc nào quên chúng sinh, như cha mẹ hiền nhớ con, thương con. Lại không công đức nào mà Phật không hoàn mãn đây là “đức lành”. Như tiểu bổn kinh nói: “Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nghe nói đến đức Phật A Di Đà rồi hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, chấp trì danh hiệu nhất tâm bất loạn. Người này đến lúc lâm chung, đức Phật A Di Đà và hàng Thánh chúng hiện ra nơi trước, người lúc chết tâm hồn không điên đảo, liền đặng vãng sinh về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Kinh Lăng
Nghiêm có câu: “Các đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con”. Lại có câu: “Người nào niệm danh hiệu Phật, thời hào quang của Phật chiếu đến người đó, làm cho các sự tai vạ tà ma, quỷ quái không đến gần được”.
Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức dày của Phật lại vô cực nên văn nói:
“Oai linh đức cả đã dành vô biên.”
Từ đây nhẫn lên là giải một câu kệ về phần tán thán công đức của Phật:
“Mười
phương
chư
Phật ba đời,
Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sinh.
Sen vàng
chín phẩm sẵn dành
Oai linh đất cả đã dành vô biên.”
Đã rõ nơi đức Phật A Di Đà có vô lượng công đức thù thắng nếu không quy y với Phật còn quy y với ai. Quy y là đem cả thân mạng mình nương nơi Phật, gửi nơi Phật, giao phó cho Phật. Lại dùng lòng chí thành mà
quy y. Trong văn nói:
“Nay con dưng
tấm lòng thiền, quy y với Phật...”
Từ thưở trước đến ngày nay, vì say mê nên đã
lỡ lầm gây tạo ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Ngày nay nhờ nghe kinh thấy Phật mà tỉnh ngộ, đã biết tự xét ăn năn, nên cũng mau
mau dùng lòng chí thành mà sám hối tội lỗi, nghĩa là ăn năn tội trước, chừa cải lỗi sau. Nên trong văn nói:
“Sám liền tội căn.”
Nay tự suy lấy ta – Trong những đời đã qua, chắc có lẽ ta cũng đã có tu tạo ít nhiều phước lành chớ chẳng không, vì nếu không có phước lành thời quyết hẳn là không được sinh làm người, vì loài người thuộc về thiện đạo trong lục đạo. Lại trong kinh nói: gặp được Phật pháp là điều rất khó. Rất khó mà nay ta được nghe, thời chắc chắn ta đã có căn lành sẵn rồi, dầu có nhưng vì ta mê muội nên cách đời mà quên đi. Lại trong đời này, những ngày qua, hiện tại nay, và sau này, thời ta đã có làm lành, hiện tu tập và sẽ vun trồng cội phước. Dầu thế song còn thuộc hạng phàm phu, phiền não, nghiệp chướng đầy dẫy, thời làm lành đâu dám chắc là thiệt lành, làm phước đâu dám tự hào là thiệt phước, chỉ có trí huệ của đức Phật mới có thể nhận thiệt mà thôi, nên trong văn nói:
“Phước
lành con có chi chăng?”
Nương phước mà ở mãi nơi Ta bà, thời chỉ được hưởng sự vui tạm bợ, hết phước tất phải khổ, huống trong vòng luân hồi, từ say mê càng vào mê, hễ mê thời dễ gây nghiệp, đâu bằng đem công đức hồi hướng cầu vãng sinh Cực Lạc thế giới ở Tây phương, để được hưởng sự vui thanh tịnh và bảo đảm giải thoát, đây văn nói:
“Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây.”
Từ đây trở lên là giải về bốn câu kệ quy y, sám hối và hồi hướng:
“Nay con dưng
tấm lòng thiền (thành)
Quy y với Phật, sám liền tội căn.
Phước
lành con có chi chăng?
Ít nhiều cũng quyết niệm rằng về Tây.”
Pháp lữ đề huề, thân cận thiện hữu, là điều cần thiết mà từ đức Phật đến chư Tổ đều luôn luôn nhắc nhở. Cùng dạy bảo cho nhau, những sự nghĩa chân chính, những lý thú thâm huyền. Cùng nhau đồng hành pháp sự, đồng tu tịnh nghiệp. Cùng nhau tùy hỷ khi đắc ích, khuyên răn lúc sái lười... Mến nhau như ruột thịt, coi nhau như tay chân. Vì thế nên chẳng phải chỉ nghĩ riêng về phần mình, mà tâm tâm niệm niệm không quên mong mỏi cho thiện hữu, cũng như trông cầu cho tự mình, sớm đặng kết thành ứng nghiệm lành trên đường tu tập: chính là nguyện bạn cùng mình, trong ngày hiện tại nơi đời sống này, hoặc lúc thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, cảm cách đến Phật, đến Thánh chúng, đến Cực Lạc, mà được thấy kim thân của đức Phật, hoặc thấy hào quang, hoặc thấy liên hoa, hoặc thần du cõi Cực Lạc v.v... để cho lòng tin thêm kiên cố, nguyện hành càng tiến triển. Nên trong văn nói:
“Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện ngay điềm lành.”
Có nhân tất có quả. Nhân là tu tịnh nghiệp: niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc quốc. Qủa là khi mãn báo thân trược uế được thác chất liên hoa nơi ao báu ở Tây phương Cực Lạc thế giới. Trước ngày lâm chung, nguyện đức Phật tin cho biết rõ ngày giờ, để vững lòng chờ đợi. Đến lúc lâm chung, xin đức Phật y lời bổn nguyện lực, hiện thân vàng cùng cảnh Thánh cho mình được thấy, nói pháp cho mình được đã được thấy Phật, nghe pháp rồi, thời chính niệm càng tinh tấn, bội hơn ngày thường nên văn nói:
“Biết giờ biết khắc rõ rành
Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chính niệm hơn
thường.”
Chính niệm tinh tấn, tâm không mê muội, không điên đảo liền đặng vãng sinh về nước Cực Lạc thác chất nơi hoa sen thất bảo. Sau khi hoa nở, tâm nhãn khai thông đôi mắt thanh tịnh, thấy rõ thân quang minh tướng hảo của đức Phật, được Phật vì mình mà thuyết pháp mầu, liền ngộ lý vô sinh, chứng bậc bất thối, thoát hẳn vòng sinh tử luân hồi. Rồi cũng như đức Phật, dùng thần thông trí lực, vận dụng từ bi, hiện thân đến thập phương độ khắp mọi loài chúng sinh, đồng được giải thoát như mình đã được giải thoát. Như trong văn:
“Vãng sinh
Lạc quốc đồng nương
hoa vàng
Hoa nở thấy Phật rõ ràng
Thoát vòng
sinh tử độ an muôn loài.”
Từ đây nhẫn lên là giải về 8 câu kệ vì mình vì người mà phát nguyện:
“Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành.
Biết giờ biết khắc rõ rành
Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chính niệm hơn
thường.
Vãng sinh lạc quốc đồng nương
hoa vàng
Hoa nở thấy Phật rõ ràng
Thoát vòng
sinh tử, độ an muôn loài.”
Muốn sau khi vào Cực Lạc được ở phẩm cao, thời phải có hạnh nguyện đại thừa vì ba thượng phẩm trong chín phẩm chỉ có đại thừa Bồ tát mới được dự phần. Nên người tu Tịnh độ cần phát “Tứ hoằng thệ nguyện”. Bốn nguyện này là những điều nguyện chung mà tất cả chúng đại thừa ai cũng phải đủ.
Thệ dứt tất cả phiền não, dầu là vô biên như văn nói:
“Phiền não vô biên, thệ dứt trừ.”
Nguyện học thông và tu tập tất cả pháp môn chính đạo của đức Phật truyền dạy, dầu là vô lượng như văn nói:
“Pháp môn
tu học, chẳng còn dư.”
Lợi tha là chính hạnh của đại thừa, là hoài bão của Bồ tát. Nên thệ độ tất cả chúng sinh dầu là vô tận, độ đến đâu? Độ đến giác ngạn kia. Như nói:
“Chúng sinh
nguyện độ, bờ kia đến.”
Và mục đích cuối cùng, là nguyện mình cùng tất cả muôn loài đồng viên mãn chính trí, chứng nhập như như, tức là thành Phật đạo hoàn toàn, Phật đạo Vô thượng. Như văn nói:
“Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.”
Từ đây nhẫn lên là giải về bốn câu hoằng thệ viết theo thể tứ cú để cho có phần đặc biệt, là ý muốn người tụng đến phải chú ý:
“Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,
Pháp môn tu
học, chẳng còn dư,
Chúng sinh
nguyện độ, bờ kia đến
Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.”
Từ đây nhẫn xuống là 4 câu kết thúc lập chí bền chắc, giữ nguyện kiên cố, hư không chẳng bao giờ cùng tận, cái không cùng tận mà giả tỷ cho nó cùng tận đi nữa, nhưng những điều mà đã thệ nguyện ở trên đó, quyết không cùng tận, không mảy may dời đổi. Đây là ý nguyện của ta bền chắc vững vàng hơn cõi hư không. Những loài tình thức (người, vật v.v...) cùng với những loài không tình thức (núi, sông v.v...) khắp trong thế giới, ta đều bình đẳng nguyện cầu cho tất cả đồng viên thành trí huệ nhiệm mầu của Phật. Như văn nói:
“Hư
không cõi nọ dầu cùng,
Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.
Không tình
cùng có đồng nguyền,
Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.”
Hỏi: Loài có tình thức tu tập viên thành Phật trí thì phải, còn vô tình sao cũng đồng thành?
Đáp: Có hai nghĩa:
1. Vô tình là y báo, hữu tình là chính báo. Y báo
là do chính báo cảm ra. Nên khi chính báo (hữu tình) thành Phật trí thời y báo (vô tình) cũng chuyển thành Phật cảnh. Vì nơi Phật, cảnh cùng trí không sai biệt, nên đồng viên thành Phật trí cũng không ngại, đó là lấy trí nhiếp cảnh vậy.
2. Giác tính ở nơi hữu tình thời gọi là Phật tính, ở nơi vô tình thời gọi là Pháp tính. Phật tính và pháp tính đều là giác tính. Thành Phật là viên chứng giác tính, ráo rốt bình đẳng viên dung, thời đâu còn có hữu và vô sai biệt cách ngại như phàm phu. Như thế, há lại không phải là đồng viên đồng thành đó ư?
Vì muốn cho các điều hạnh nguyện trên được dung thông pháp giới, rộng lớn tuyệt đối, nên tiếp tục mười điều nguyện vương của ngài Phổ Hiền Bồ tát tuyên thuyết nơi Hoa Nghiêm đại hội. Viên mãn 10 nguyện vương
này thời tức là mãn quả Phật vậy.
Phật dạy: chúng sinh lưu lãng trong vòng sinh tử, chính là vì trái quên tính giác và dong ruổi theo trần lao. Trần lao là món vô thường nên theo đó tất cả cũng lưu chuyển như nó. Nếu chúng sinh thức tỉnh, biết xét trở lại, rời trần lao mà xoay về giác tính thời hẳn luân hồi, vì giác tính là bổn thể bất động.
Bậc chứng cùng giác tính là đức Phật nên đều nguyện thứ nhất lễ Phật đây là biểu tượng trái trần lao hiệp giác tính. Như văn nói:
Một là nguyện lạy Thế Tôn,
“Phật Thế Tôn” là đấng Vô thượng chính giác tôn quý nhất trong thế gian và xuất thế gian.
Lạy Phật như thế nào?
Trong phẩm Hạnh nguyện, ngài Phổ Hiền có giảng giải điều đó như thế này: “Tất cả vi trần số chư Phật ở mười phương ba đời, do ta dùng sức hạnh nguyện Phổ Hiền, nên thâm tâm tin giải như đối trước mắt. Đều dùng thân, ngữ, ý ba nghiệp mà thường cung kính đảnh lễ luôn. Nơi mỗi đức Phật ta đều hiện ra vi trần số thân. Mỗi mỗi thân đảnh lễ khắp vi trần số đức Phật. Sự lễ kính của ta đây không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không xó xen hở, ba nghiệp không có nhàm mỏi”.
Trong văn tóm tắt:
Hiện thân trước
Phật hết lòng kính tin.
Điều nguyện vương thứ hai là “khen ngợi Như Lai”.
Về điều nguyện này trong “Hạnh nguyện phẩm” nói: “Tất cả cõi nước trong mười phương ba đời có bao nhiêu vi trần, trong mỗi vi trần đều có vi trần số Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật đều có hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều phải dùng sức thắng giải hiện tiền tri kiến rất sâu, đều dùng thiệt căn nhiệm mầu hơn cả Biện Tài Thiên nữ. Mỗi mỗi thiệt căn vang ra biển, âm thanh vô tận, mỗi mỗi âm thanh diễn ra biển tất cả lời nói ngợi khen tán thán biển các công đức của tất cả Như Lai, cùng tột thuở vị lai nối luôn không ngớt, tận hư không đều cùng khắp cả”.
Tóm nghĩa kinh, văn nói:
Hai, khen
Phật đức rộng thinh,
Lời hay tiếng tốt tận tình ngợi ca.
Điều nguyện vương thứ ba là “Rộng sắm cúng dường”.
Hạnh nguyện phẩm giải rằng: Trong vi trần của tất cả cõi nước mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật, đều có hải hội các hàng Bồ tát vây quanh, ta do sức hạnh nguyện Phổ Hiền mà sinh tri kiến hiện tiền tín giải rất sâu, đều đem các thức đồ cúng dường thượng diệu để mà cúng dường. Những là mây hoa, mây tràng
hoa, mây âm nhạc trời, mây tàn lọng, mây y phục trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương bột, hương xông... mỗi mỗi thứ mây đó lượng lớn như núi Tu di. Thắp các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, mỗi tim đèn lượng như hòn núi Tu di, dầu trong mỗi đèn như nước biển lớn. Dùng các thứ đồ cúng dường như thế thường đem cúng dường.
Này thiện nam tử! Pháp cúng dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là: đúng theo lời Phật dạy mà tu hành để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sinh để cúng dường, thay thế sự khổ cho chúng sinh để cúng dường, siêng tu căn lành để cúng dường, chẳng bỏ hạnh nguyện Bồ tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề để cúng dường.
Này thiện nam tử! với chừng một phần công đức của pháp cúng dường đem vô lượng phần công đức của tài cúng dường ở trước mà so sánh cũng không bằng một phần trăm, không bằng một phần nghìn, v.v...
Bởi sao? vì các đức Như Lai đều tôn trọng pháp vậy, vì tu hành đúng theo lời Phật dạy thời là xuất sinh các đức Phật vậy. Nếu các vị Bồ tát tu hành về pháp cúng dường, thời việc cúng dường đức Như Lai được thành tựu. Tu hành như thế là chân thật cúng dường. Cho nên đây là sự cúng dường rộng lớn tối thắng...”
Nơi văn lược nói:
Ba, thời sắm đủ hương
hoa,
Tràng phan
bảo cái dưng
ra cúng dường.
Điều nguyện thứ tư là “sám hối nghiệp chướng”. “Sám” là Phạm âm nói đủ là “sám ma”. Tàu dịch là “Hối quá”. Lấy chữ “sám” trong sám ma còn chữ “hối” trong hối quá mà gọi chung là ‘sám hối”, nghĩa là ăn năn chừa cải. “Nghiệp” là những việc tạo tác không lành của thân, khẩu, ý, nghiệp này nó làm ngại đường lành, nó ngăn đạo Thánh, nên gọi là nghiệp chướng.
Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:
“Bồ tát tự nghĩ như vầy: ta trong vô thỉ kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, sân hận, ngu si, phát ra nơi khẩu, ý mà đã làm ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng lành. Nếu nghiệp ác đó mà có thể tưởng thiệt, thời tất cả cõi hư không cũng không thể dung thọ cho hết. Nay ta đều đem ba nghiệp thanh tịnh, đối khắp trước tất cả chư Phật cùng chúng Bồ tát, mà thành tâm sám hối, về sau không phạm nữa, luôn trụ nơi giới pháp thanh tịnh tất cả công đức...”
Trong văn nói:
Bốn, vì mê chấp lầm đường,
Tham sân
nghiệp chướng
con thường
sám luôn.
Điều nguyện vương thứ năm là “tùy hỷ công đức”.
Thấy người khác có công đức mà mình thật tâm vui mừng tán thành, đó gọi là “tùy hỷ công đức”.
Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:
Vi trần số chư Phật Như Lai, từ khi mới phát tâm vì cầu nhất thiết chủng trí mà siêng tu phước và huệ, chẳng tiếc thân mạng, trải qua vi trần số kiếp. Trong mỗi kiếp xả thí vi trần số đầu mắt tay chân, thật hành tất cả hạnh khổ khó làm như thế. Viên mãn các môn Ba la mật, chứng nhập các trí địa Bồ tát, thành tựu đạo Vô thượng Bồ đề của chư Phật cho đến nhập Niết bàn phân chia Xá Lợi... Nơi đức Phật có bao nhiêu thiện căn thời ta đều tùy hỷ cả.
Và trong tất cả thế giới ở mười phương kia tất cả mọi loài lục đạo tứ sinh... có bao nhiêu công đức cho đến chừng một mảy trần ta đều tùy hỷ cả.
Tất cả Thanh văn và Bích Chi Phật, hàng hữu học cùng vô học trong mười phương ba đời, có bao nhiêu công đức ta đều tùy hỷ cả.
Bao quát nghĩa trên, trong
văn nói:
Năm, suy
công đức vàn muôn,
Của Phàm (tứ sinh) của
Thánh (Phật, Bồ tát)
con đồng vui ưa.
Điều nguyện vương thứ sáu là “Thỉnh chuyển pháp luân”.
“Thỉnh” là cầu thỉnh với đức Phật. “Chuyển” là diễn nói dạy trao. “Pháp luân” có hai nghĩa:
Vòng pháp, ý nói không cùng
không tận, vô thỉ vô chung, không thể phân biệt nghĩ bàn, như vòng tròn.
Bánh xe pháp. Pháp của đức Phật có thể đưa người tu hành từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh, từ khổ sang vui, từ sinh tử đến trường tồn lại hay phá trừ tứ ma các chướng v.v... Như bánh xe lăn từ đây sang kia, cán rạp chông gai sạn sỏi v.v...
Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Trong vi trần của tất cả cõi nước ở mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi nước rộng lớn, trong mỗi cõi nước niệm niệm đều có vi trần số đức Phật thành bậc Đẳng Chính Giác, mỗi đức Phật đều có tất cả hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều dùng thân, khẩu, ý đủ các phương tiện, để ân cần thỉnh tất cả chư Phật chuyển diệu pháp luân...”.
Bày nghĩa trên, văn nói:
Sáu, khi Phật chứng thượng
thừa,
Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao.
“Thượng thừa” chính là tối thượng thừa, là Phật thừa chứng Phật thừa là thành Phật. “Pháp mầu” là vi diệu pháp luân. “Đã vừa” là vừa đến thời, vừa phải cơ.
Đức Phật thành Phật là vì chúng sinh mà thành
Phật. Đã vì chúng sinh sao còn
chờ cầu thỉnh?
1. Vì muốn cho chính pháp có phần quý trọng, có quý trọng mọi người mới sinh lòng hi hữu khao khát ngưỡng vọng, có khao khát ngưỡng vọng mới có thể được lợi ích.
2. Lòng của Bồ tát lúc nào cũng tha thiết nong nả đối với sự lợi người lợi mình. Mình cùng người được lợi không gì bằng được nghe Phật thuyết pháp, nên đức Phật chưa nói, mà Bồ tát đã cầu thỉnh trước.
Điều nguyện vương thứ bảy là “thỉnh Phật trụ lại đời”.
Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “vi trần số chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời toan muốn nhập Niết bàn, và các Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, hữu học, vô học, cho đến các vị thiện tri thức... ta đều cầu thỉnh tất cả xin chớ nhập Niết bàn, xin ở mãi nơi đời trải qua vi trần kiếp vì muốn cho tất cả chúng sinh được lợi lạc...”
Như trong văn nói:
Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,
Cầu xin chư
Phật chớ vào vô dư!
“Lòng chẳng lãng xao” là tâm tâm niệm niệm cầu thỉnh luôn không ngừng không hở. “Vô dư” là vô dư y Niết bàn. “Niết bàn”, là cảnh giới sở chứng của các bậc Thánh xuất thế, nơi đó “tịch tịnh an thường”, “tịch tịnh an thường là nghĩa chính của “Niết bàn” khác hẳn với cảnh phàm phiền nhiễu loạn động.
Niết bàn có 4:
1. Hữu dư y Niết bàn
2. Vô dư y Niết bàn
3. Vô trụ xứ Niết bàn
4. Tinh tịnh Niết bàn.
Đây về vô dư y Niết bàn, là quả Niết bàn không còn thừa những báo và vô minh. Báo là thân hiện tại nơi thế. Ngoài đức Phật ra, từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đến Bích chi Phật, A la hán, đều còn vô minh. Nên cứu cánh vô dư y Niết bàn chỉ có bậc Phật là cùng tột.
Các bậc Thánh xuất thế không còn hệ lụy trong vòng sinh tử, nên muốn ở đời bao lâu vẫn được tự tại vô ngại. Do đó mới khuyến thỉnh vậy.
Điều nguyện vương thứ tám là “Thường học theo Phật”.
Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Như đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai trong cõi Ta bà này, từ khi mới phát tâm, thời tinh tấn luôn không lui sụt. Đem bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng mà bố thí. Ngài lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực, để biên chép kinh điển, chứa nhiều như núi Tu di. Vì trọng pháp mà ngài không tiếc thân mạng, huống nữa là ngôi vua, thành ấp v.v... và các hạnh khổ khó làm khác. Cho đến dưới gốc cây ngài chứng quả Bồ đề. Ngài thị hiện và các món thần thông, khởi các thứ biến hóa hiện các hạng Phật thân ở các nơi chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo tràng của các bậc đại Bồ tát, hoặc chúng hội đạo tràng Thanh văn, Bích chi Phật, cho đến chúng hội đạo tràng của Thiên, Long, bát bộ... Ở trong những chúng hội như thế, ngài dùng âm thanh viên
mãn như sấm lớn vang dội, tùy theo chỗ hạp nghi của mỗi chúng hội mà nói pháp giáo hóa chúng sinh cho đến ngài thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả công hạnh của ngài như thế ta đều học theo. Như với đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn với tất cả chư Phật ở mười phương ta cũng luôn luôn học theo cả.
Ngụ bày những ý nghĩa trên, trong văn
nói:
Nguyện thường
tu học Ðại thừa,
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con.
Đã muốn bằng Phật sẽ tất nhiên là phải học theo Phật.
Điều nguyện thứ chín là “tùy thuận chúng sinh luôn”.
“Tùy thuận” đây chính ý là thiết tha lân mẫn chúng sinh, chiều theo chỗ hạp nghi, lòng nguyện vọng trong sạch của chúng sinh, mà thi hành
những phương pháp gì để chúng sinh được lợi ích trên đường giải thoát khỏi khổ.
Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Bao nhiêu chúng sinh
chủng loại sai khác ở mười phương, những là loài tứ sinh, hoặc loài nương nơi đất, nước, gió, lửa mà sinh trụ. Hoặc là loài nương nơi hư không và cỏ cây mà an trụ... cho đến Thiên, Long bát bộ, người cùng phi nhân, hoặc loài không chân, hai
chân, bốn chân, nhiều chân, loài có sắc không sắc, có tưởng không tưởng v.v... Ở nơi các thứ như thế, ta nên tùy thuận mà thật hành những điều kính thờ, cúng dường, kính như kính cha mẹ, sư trưởng, A la hán cho đến như kính đức Như Lai không khác.
Với kẻ bệnh khổ thời ta là ông lương y; với kẻ lạc đường thời ta là người chỉ con đường chính; với kẻ trong đêm tối thời ta là người soi sáng; với kẻ nghèo cùng thời ta làm cho họ được kho báu. Bồ tát bình đẳng, lợi ích tất cả chúng sinh như thế. Tại làm sao? Vì nếu có thể tùy thuận chúng sinh, thời là tùy thuận cúng dường chư Phật, ở nơi chúng sinh nếu có thể tôn trọng thừa sự Như Lai, nếu làm cho chúng sinh sinh lòng vui mừng thời là làm cho tất cả đức Như Lai vui mừng.
Tại làm sao? Vì chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể vậy.
Nhân nơi chúng sinh mà sinh lòng đại bi, nhân nơi đại bi mà phát Bồ đề, nhân tâm Bồ đề mà thành bậc Đẳng Chính giác.
Ví như trong đồng trống sa mạc có cây thọ vương lớn, nếu như cây đó được thấm nhuần, thời nhánh lá bông trái thảy đều sum suê.
Cây thọ vương trong đồng trống sinh tử cũng lại như thế, tất cả chúng sinh là gốc rễ của cây, chư Phật, Bồ tát là bông trái. Dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sinh, thời tất có thể thành tựu bông Bồ tát cùng trái trí tuệ của chư Phật.
Bởi sao vậy? Vì nếu các Bồ tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sinh thời có thể thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế Bồ tát thuộc nơi chúng sinh, nếu không chúng sinh, thời tất cả Bồ tát trọn hẳn chẳng hề thành bậc Vô thượng chính đẳng chính giác. Này thiện nam tử! Đối với nghĩa đó, ông nên hiểu như thế.
Bởi ở nơi chúng sinh mà tâm bình đẳng, thời có thể thành tựu đức đại bi viên mãn. Dùng lòng đại bi để tùy thuận chúng sinh như thế...”
Lược nghĩa trên, văn nói:
Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,
Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.
“Pháp thân” là thân của chư Phật. Độ muôn loài viên mãn Phật quả chính là chỗ tùy thuận cứu cánh làm lợi ích cho chúng sinh vậy.
Điều nguyện vương thứ mười là “Đều hồi hướng khắp cả”.
Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Từ việc lễ bái” đầu tiên cho đến “tùy thuận chúng sinh” mà có bao
nhiêu công đức, ta thảy đều đem cả hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Ta nguyện cho chúng sinh thường được an vui, không có các bệnh khổ. Như họ có muốn làm việc ác, thảy đều không thành. Còn những nghiệp lành của họ tu, thời đều mau thành tựu. Đóng bít tất cả cửa ác đạo, mở bảy đường chính: nhân, thiên, Niết bàn.
Nếu các chúng sinh, nhân vì họ gây tạo các nghiệp mà phải cảm vời lấy quả khổ rất nặng, thời ta nguyện chịu thế, để cho chúng sinh đó đặng giải thoát, rốt ráo thành tựu đạo Vô thượng chính giác.
Bồ tát tu nguyện hồi hướng như thế...”
Gồm ý trên, trong văn nói:
Mười,
đem tất cả công huân,
Mọi loài cùng hưởng,
khắp trần cùng vui.
Trong Hạnh nguyện phẩm, sau khi giảng giải mười điều nguyện vương xong, nơi đoạn đắc ích, về trường hàng có nói như vầy: “Lại nữa, người đó lúc mạng chung đến sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tán, hoại, tất cả hàng thân thuộc đều xa lìa, tất cả oai thế đều thối thất, nào quan phụ tướng đại thần, nào cung thanh nội ngoại, voi ngựa xe cộ của báu kho đụn... tất cả những món như thế không còn theo nhau, chỉ có 10 nguyện vương chẳng xa rời nhau, trong tất cả lúc nó dẫn đường nơi trước, trong khoảng một sát na liền đặng vãng sinh về cõi Cực Lạc. Đến rồi, liền thấy đức Phật A Di Đà, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, ngài Phổ Hiền Bồ tát, ngài Quán Tự Tại Bồ tát, ngài Di Lặc Bồ tát v.v...
Và về phần kệ có những câu này:
Nguyện đến lúc tôi sắp mạng chung
Sạch trừ tất cả những chướng ngại,
Tận mắt thấy đức A Di Đà
Liền đặng vãng sinh về Cực Lạc,
Phật kia chúng hội đều thanh tịnh,
Ta liền từ thẳng liên hoa sinh,
Thấy rõ đức Phật Vô Lượng quang,
Hiện tiền trao tôi “Bồ đề ký”
Được đức Như Lai thọ ký xong,
Tôi hóa vô số trăm ức thân,
Sức trì “rộng lớn” khắp mười phương,
Lợi ích tất cả cõi chúng sinh.
Vì nương theo văn trong phẩm mà cũng chính là mục đích của người tu về pháp môn Tịnh độ, nên sau mười nguyện liên tiếp nói:
Phổ Hiền nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen.
Tất cả những đoạn giải thích trên đây, toàn là y
cứ nơi kinh cả. Hoặc khi tụng sám văn, hoặc lúc xem thích nghĩa, chính đó là tụng xem nghĩa lý trong kinh
thời công đức vô lượng. Như trong phẩm có nói: “Như có người thiện nam, người thiện nữ nào dùng của báu thượng diệu đầy đủ cả vi trần thế giới v.v... để bố thí chúng sinh trong tất cả thế giới, để cúng dường cho chư Phật, Bồ tát trong tất cả thế giới luôn luôn như vậy trải đến vi trần số kiếp không ngớt, công đức của người thiện nam hay thiện nữ này đặng sánh không bằng một phần trăm công đức, một phần nghìn công đức v.v... của người nghe nguyện vương này một phen thoáng qua tai...
Công đức của chúng sinh nào đọc tụng nguyện vương này và khắp vì người mà giảng nói, ngoài đức Phật ra không ai có thể biết được.
Dầu thế nào, đây cũng thuộc về phần tóm tắt. Nếu người nào muốn hiểu biết rõ ràng đầy đủ hơn, xin tụng đọc những bộ này:
1. Phật thuyết A Di Đà kinh, tức là tiểu bổn A Di Đà kinh.
2. Vô Lượng Thọ kinh, tức là Đại Bổn A Di Đà kinh.
3. Quán Vô Lượng Thọ kinh tức là Quán kinh.
4. Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm.
Comments
Post a Comment