Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Niết-Bàn Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
QUYỂN 9
PHẨM NGUYỆT DỤ
THỨ MƯỜI LĂM
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Ví nhu có người thấy mặt trăng lặn, cho rằng mặt trăng đã mất, nhưng thiệt ra mặt ttăng không mất, đang hiện ra ở phương khác. Chúng sanh xứ kia lại nói là mặt trăng mọc, nhưng thật ra mặt trăng không có mọc, vì bị che chướng không thấy, nên cho rằng mặt trăng có mọc, có lặn, nhưng thật ra mặt trăng không mọc không lặn.
Cũng vậy, đức Như-Lai chánh biến tri hiện ra nơi Đại-Thiên-Thế-Giới, hoặc sanh tại Diêm-Phù-Đề, có cha, có mẹ, chúng sanh đều cho rằng đức Như-Lai giáng sanh trong
Diêm-Phù-Đề . Hoặc thị hiện Niết-Bàn, chúng sanh cho rằng đức Như-Lai nhập Niết-Bàn. Nhưng thật ra, Như-Lai tánh không sanh
không diệt. Vì giáo hóa chúng
sanh nên thị hiện sanh diệt.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như xứ nầy thấy mặt trăng tròn, phương khác thấy mặt trăng khuyết, phương nầy thấy mặt trăng khuyết, phương khác thấy mặt trăng tròn. Người Diêm-Phù-Đề nều thấy bắt đầu có mặt trăng nói là ngày mùng
một, tưởng là đầu tháng. Lúc thấy trăng tròn, nói là
ngày rằm. Nhưng mặt trăng thiệt không có khuyết với tròn, vì bị che chướng mà có thêm bớt.
Cũng vậy, ở trong Diêm-Phù-Đề, Đức Như-Lai hoặc hiện giáng sanh, hoặc hiện Niết-Bàn. Lúc mới giáng sanh như mặt trăng đầu tháng. Đi bảy bước, như mặt trăng ngày mùng hai. Vào học đường, như mặt trăng ngày mùng ba.
Lúc xuất gia như mặt trăng ngày mùng tám.
Phóng ánh sáng trí huệ vi diệu, phá vô lượng chúng ma như trăng tròn ngày rằm. Thị hiện ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt để tự trang nghiêm. Rồi thị hiện nhập Niết-Bàn, như cuối tháng mặt trăng ẩn.
Chỗ thấy của chúng sanh chẳng đồng : Hoặc thấy trăng nửa, hoặc thấy trăng tròn, hoặc thấy trăng ẩn, nhưng thật ra mặt trăng không có thêm bớt, vẫn luôn là mặt trăng đầy đủ.
Cũng vậy, thân của đức Như-Lai vẫn luôn là thường trụ chẳng biến đổi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như mặt trăng tròn chiếu sáng, tất cả thành ấp, xóm làng, trong nước suối, nước đầm, trong giếng, trong ao, trong nước bồn nước chậu, tất cả đều có mặt trăng hiện. Có người đi trăm do tuần, ngàn do tuần vẫn thấy mặt trăng luôn đi theo
mình. Phàm phu ngu mê tưởng rằng ta trước kia ở trong thành ấp nhà cửa thấy mặt trăng như vậy, giờ đây ở nơi đầm trống nầy thấymặt trăng. Đây là mặt trăng trước kia hay là mặt trăng khác. Mỗi người tự nghĩ tưởng hình dáng mặt trăng lớn nhỏ, hoặc nói như miệng chậu, hoặc cho rằng lớn như bánh xe vân vân. Mặt trăng nầy vốn có một, mà chúng sanh nhận thấy hình dáng khác nhau.
Cũng vậy, đức Như-Lai xuất hiện ra đời, có người hay trời nghĩ rằng nay đây đức Như-Lai ở trước mặt chúng tôi. Cũng có những chúng sanh khác cho rằng hiện nay đức Như-Lai ở trước mặt họ. Hoặc có kẻ điếc câm cũng thấy đức Như- Lai có tướng điếc câm. Muôn loài chúng
sanh nói tiếng khác nhau, đều cho rằng đức Như-Lai đồng tiếng với mình. Cũng đều nghĩ rằng đức Như-Lai đang thọ cúng dường tại nhà tôi.
Có chúng sanh thấy thân Như-Lai rộng lớn vô lượng, có loài thấy thân Phật nhỏ bé. Có kẻ thấy Phật là hình dáng
Thanh-Văn, hoặc là hình dáng Duyên-
Giác.
Cũng có hàng ngoại đạo lại cho rằng hiện nay Đức Như-Lai xuất gia học đạo ở trong giáo phái chúng
ta.
Hoặc có chúng sanh nghĩ rằng, nay Đức Như-Lai riêng vì chúng ta mà xuất hiện nơi đời.
Thiệt tánh của Như-Lai tức là pháp thân, là thân vô sanh, là thân phương tiện, tùy thuận nơi thế gian thị hiện vô lượng nghiệp dụng, thị hiện sanh ra nơi nầy nơi khác. Như mặt trăng kia hiện ra trong tất cả chỗ có nước.
Do nghĩa nầy nên Như-Lai là thường trụ không có biến đổi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như La-Hầu-La Tu-La-Vương lấy tay che mặt trăng, người đời cho rằng mặt trăng bị nuốt. Nhưng mặt trăng vẫn luôn đầy đủ không có sứt mẻ, vì tay A-Tu-La che nên
ánh sáng chẳng hiện. Lúc A-tu-La thâu tay, người đời cho rằng mặt trăng sanh trở lại, và cho rằng mặt trăng chịu nhiều sự khổ não. Nhưng mặt trăng vẫn không có những sự ấy, giả sử trăm ngàn A-Tu-La- Vương cũng chẳng làm khổ não được mặt trăng.
Cũng vậy, đức Như-Lai thị hiện, có chúng sanh đối với đức Như-Lai sanh tâm hung ác, hại thân Phật chảy máu thành tội ngũ nghịch, hoặc hủy báng chánh pháp thành hạng nhứt-xiển-đề. Vì các chúng sanh mà thị hiện những sự phá hoại tăng đoàn dứt diệt chánh pháp, làm những điều chướng nạn. Nhưng thật ra, giả sử trăm ngàn vô lượng loài ma cũng không thể làm thân Như-Lai chảy máu. Vì thân Như-Lai không có huyết, nhục, gân mạch, xương tủy, Như-Lai chơn thật, thiệt không có sự não hoại. Chúng sanh đều cho rằng pháp và tăng bị hủy hoại, Như-Lai dứt diệt. Nhưng Như-Lai tánh chơn thật không biến đổi, không có phá hoại. Vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như hai người đấu võ, hoặc dùng dao gậy chém đập tuôn máu, dầu đánh nhau đến chết mà chẳng nghĩ tưởng là giết nhau, thời nghiệp tướng ấy nhẹ mà chẳng nặng. Đối với đức Như-Lai vốn không có tâm giết hại, dầu làm cho thân Phật ra máu, thời nghiệp nầy cũng nhẹ mà chẳng nặng. Vì giáo hoá chúng
sanh đời vị lai, nên đức Phật thị hiện nghiệp báo.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như lương y đem những phương thuốc căn bản ân cần truyền dạy cho người con, người con kính vâng lời của cha, chuyên cần học tập, hiểu rành các phương thuốc. Thời gian sau, lương y chết. Ngườicon kêu khóc mà nói thế nầy : Cha tôi dạy cho tôi những phương thuốc như vậy như vậy.
Cũng vậy, đức Như-Lai vì giáo hoá chúng
sanh mà thị hiện chế-giới luật : Phải thọ trì như vậy, chớ phạm tội ngũ nghịch, chê bai chánh pháp
và nhứt-xiển- đề. Vì đời vị lai chúng sanh khởi các tội ấy nên thị hiện như vậy, để cho các Tỳ-Kheo sau khi
Phật diệt độ, rõ biết những điều như vậy : Đây là nghĩa rất sâu của khế kinh, đây là tướng nhẹ nặng của giới luật, đây là luận phân biệt những pháp cú. Như người con của lương y.
Loài người hoặc sáu tháng một lần thấy mặt trăng bị nuốt , mà chư Thiên trong khoảng giây lát đã nhiều lần thấy mặt trăng bị nuốt. Vì thời gian của nhơn loại ngắn, còn ngày giờ của chư-thiên dài.
Nầy Thiện-nam-tử ! Trời và người đều cho rằng đức Như-Lai thọ mạng ngắn ngủi. Như chư Thiên trên trời trong khoảng giây lát thấy mặt trăng bị nuốt nhiều lần. Trong khỏang giây lát, đức Như-Lai thị hiện trăm ngàn muôn ức lần nhập Niết-Bàn, dứt ma phiền não, ma ngũ ấm, ma chết. Vì vậy nên trăm ngàn muôn ức thiên ma đều biết đức Như-Lai nhập Niết-Bàn. Đức Như-Lai lại thị hiện vô lượng trăm ngàn nhơn duyên nghiệp báo tiền thân.
Vì tùy thuận theo chủng tánh của thế gian mà thị hiện vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn như vậy, nên Như-Lai là thường trụ không biến đổi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như mặt trăng tròn sáng chúng
sanh ưa thấy, nên gọi mặt trăng là lạc-kiến.
Chúng sanh nếu có tham, sân, si thời chẳng đặng gọi là lạc-kiến.
Tánh Như-Lai thuần thiện thanh tịnh không cấu nhiễm, thời rất đáng gọi là lạc- kiến. Những chúng sanh ưa thích chánh pháp nhìn
ngó đức Như-Lai không nhàm. Những người tâm ác chẳng ưa nhìn ngó. Vì thế nên đứùc Như-Lai dụ như mặt trăng tròn sáng.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như mặt trời mọc có ba thời kỳ khác nhau, tức là xuân, hạ, và đông. Ngày mùa đông thời ngắn, ngày mùa xuân thời vừa, ngày mùa hạ thời rất dài.
Cũng vậy, ở nơi đại-thiên thế-giới nầy, đối với người thọ mạng ngắn ngủi và hàng Thanh-Văn, đức Như-Lai thị hiện tuổi thọ ngắn. Những hạng người trên đây thấy như vậy đều cho rằng đức Như-Lai thọ mạng ngắn ngủi, dụ như ngày mùa đông.
Đối với hàng Bồ-tát đức Như-Lai thị hiện tuổi thọ bực trung, hoặc một kiếp, hoặc dưới một kiếp, dụ như ngày mùa xuân.
Chỉ Phật thấy Phật thọ mạng vô lượng, dụ như ngày mùa hạ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Giáo pháp phương đẳng đại-thừa vi-mật của Như-Lai nói là đức Như-Lai thị hiện rưới mưa đại pháp nơi thế gian.
Đời vị lai nếu có người nào có thể thọ trì kinh điển nầy, giảng nói khai-thị lợi ích cho chúng sanh,
nên biết những người nầy thiệt là Bồ-Tát. Dụ như ngày thạnh- hạ rưới mưa cam-lồ.
Nếu có hàng Thanh-Văn,
Duyên-Giác nghe giáo pháp vi mật của Như-Lai thời dụ như ngày mùa đông gặp nhiều lạnh lẽo.
Hàng Bồ-Tát nếu nghe giáo pháp vi-mật : Như-Lai tánh thường trụ không biến đổi như vậy, thời dụ như ngày mùa xuân nẩy mầm, nở hoa.
Thiệt ra Như-Lai tánh không có dài ngắn, vì thuận theo thế gian mà thị hiện như vậy. Đó chính là Pháp-tánh
chơn thật của chư Phật.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như ban ngày các ngôi sao chẳng hiện ra, mà mọi người cho rằng ban ngày các ngôi sao
lặn mất, kỳ thiệt chẳng phải lặn mất, vì ánh sáng mặt trời chói sáng nên sao chẳng hiện.
Cũng vậy, hàng Thanh-Văn,
Duyên-Giác chẳng thấy được Như-Lai, như người đời ban ngày chẳng thấy sao.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lúc tối tăm, mặt trời mặt trăng chẳng hiện ra, kẻ ngu cho rằng mặt trời mặt trăng lặn mất, nhưng thiệt ra mặt trời mặt trăng chẳng phải lặn mất.
Lúc chánh pháp của Như-Lai diệt hết. Tam-bảo chẳng còn, cũng chẳng phải là dứt hẳn, lệ như mặt trời mặt trăng lúc lặn mất kia. Vì thế nên biết Như-Lai là thường trụ không có biến đổi. Vì chơn tánh của Tam-bảo chẳng bị những cấu nhơ làm ô nhiễm.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như đêm không trăng, sao chổi hiện ra, chiếu sáng giây lát rồi lặn mất, chúng sanh ngó thấy cho đó là điềm chẳng lành.
Cũng vậy, hàng Bích-Chi-Phật hiện ra đời trong thời kỳ không Phật, chúng sanh ngó thấy đều cho rằng đức Như-Lai thiệt diệt độ, nên sanh lòng buồn khổ. Nhưng thân Như-Lai thiệt chẳng diệt mất như mặt trời mặt trăng kia không có diệt mất.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như lúc mặt trời mọc lên, sương mù đều tan. Kinh Đại- Niết-Bàn vi diệu nầy cũng như vậy. Lúc kinh nầy xuất hiện ra đời, nếu có chúng sanh nào một lần được nghe, đều có thể dứt trừ tất cả tội nghiệp vô gián, tất cả những điều ác. Kinh Đại-Niết-Bàn nầy cảnh giới rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, khéo nói lên
được tánh Như-Lai vi-mật.
Do nghĩa nầy nên Thiện-nam-tử , Thiện-nữ-nhơn đối với Như-Lai phải có tâm tin nhận là thường trụ không biến đổi, chánh pháp chẳng dứt, Tăng bảo chẳng diệt. Nên phải dùng nhiều phương tiện siêng năng học tập kinh điển nầy. Người nầy chẳng bao lâu sẽ đặng thành vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì thế nên kinh nầy gọi là do vô lượng công đức kết thành, cũng gọi là chánh giác chẳng cùng tận, do vì chẳng cùng tận, nên đặng gọi là Đại-Niết-Bàn.
PHẨM BỒ TÁT
THỨ MƯỜI SÁU
Nầy Thiện-nam-tử ! Như ánh sánng mặt trời mặt trăng hơn hết trong các ánh sáng.
Ánh sáng Đại-Niết-Bàn rất là thù-thắng đối với ánh sáng của các khế kinh. Ánh sáng của các khế kinh không thể kịp được. Vì ánh sáng Đại-Niết-Bàn có thể chiếu vào các lỗ chơn lông của chúng sanh. Chúng sanh dầu không có tâm bồ- đề, nhưng có thể làm nhơn duyên cho bồ-đề, vì thế nên gọi là Đại-Niết- Bàn.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật vừa nói “ánh sáng Đại- Niết-Bàn chiếu vào các lỗ chơn lông của chúng sanh, chúng sanh
dầu không tâm bồ-đề, nhưng có thể làm nhơn duyên cho bồ-đề”. Xét ra, nghĩa trên
đây chẳng đúng.
Bạch Thế-Tôn ! Người phạm bốn giới trọng, người tạo tội ngũ nghịch và hạng nhứt-xiển-đề, ánh sáng chiếu vào thân họ làm nhơn bồ đề, thời những hạng nầy có khác gì người trì giới thanh tịnh, tu tập các hạnh lành, nếu không khác, cớ sao đức Như-Lai nói nghĩa tứ-y.
Bạch Thế-tôn ! Lại như lời Phật nói, nếu có chúng sanh một lần được nghe kinh Đại-Niết-Bàn, thời dứt trừ đặng các phiền não. Trước kia đức Như-Lai lại nói có người ở nơi hằng hà sa chư Phật mà phát tâm, nghe kinh
Đại-Niết-Bàn chẳng hiểu được nghĩa, sao lại có thể dứt tất cả phiền não ?
Nầy Thiện-nam-tử ! Trừ hạng nhứt-xiển-đề, những chúng sanh khác được nghe kinh nầy, thảy đều có thể làm nhơn duyên cho bồ-đề. Ánh sáng của tiếng pháp chiếu vào lỗ chơn lông quyết định sẽ đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì người đã có thể cúng dường cung kính vô lượng chư Phật mới đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn. Người phước bạc thời chẳng được nghe. Việc lớn như đây người đại-phước mới có thể được nghe, kẻ tiểu nhơn thời chẳng được nghe. Những gì là việc lớn ? Chính là chỉ cho tạng bí mật rất sâu của chư Phật, tức là Phật tánh.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-tôn ! Những gì làm nhơn bồ-đề cho người chưa phát tâm bồ-đề?
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu có người nghe kinh Đại-Niết-Bàn nầy, không tin nói rằng tôi chẳng cần phát bồ-đề tâm. Người đó thường ở trong chiêm bao thấy hình La-Sát, lòng rất kinh sợ. La Sát bảo rằng : Nếu ngươi chẳng phát bồ-đề tâm, ta sẽ giết ngươi. Vì sợ sệt nên khi thức giấc người nầy liền phát tâm bồ đề. Sau khi chết, nếu người nầy hoặc đọa trong ba đường ác, cùng sanh trong
loài trời, loài người tiếp tục nhớ lại tâm bồ đề đã phát. Nên biết người nầy là bực bồ- tát.
Do nghĩa trên đây, nên oai thần của kinh Đại-Niết-Bàn nầy có thể làm nhơn bồ đề cho người chưa phát tâm.
Đây gọi là Bồ-Tát có nhơn duyên mà phát tâm, chẳng phải không nhơn duyên. Do vì nghĩa nầy nên kinh điển Đại-Thừa vi diệu thiệt là của Phật nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như trên hư không kéo mây mưa xuống, nơi cây khô, núi đá, gò nổng, cao nguyên nước không đọng lại. Ruộng thấp hồ cao đều đầy chúng sanh nơi đó được lợí ích. Cũng vậy, kinh Đại-Niết-Bàn vi diệu nầy khắp nhuần chúng sanh, làm cho nẩy nở tâm bồ đề. Còn hàng nhứt-xiển-đề chẳng phát tâm bồ đề không được lợ ích.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như hột giống đã cháy, dầu có gặp mưa trọn chẳng mọc mầm. Cũng vậy, hàng nhứt-xiển-đề dầu nghe kinh Đại-Niết-Bàn vi diệu nầy, trọn không phát tâm bồ đề. Vì hạng nầy đoạn diệt tất cả căn lành như hột giống đã cháy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như ngọc minh châu để trong nước đục, thế lực của minh châu làm cho nước liền trong. Nhưng để minh châu trong bùn lầy không thể làm cho trong. Kinh Đại-Niết-Bàn vi diệu nầy cũng như vậy, có thể làm cho chúng sanh phạm tội vô gián, tứ trọng, tiêu tội được thanh tịnh phát tâm bồ đề. Không thể làm cho nhứt-xiển-đề phát bồ đề tâm, vì nhứt-xiển-đề dứt hết căn lành không phải pháp khí.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như cây thuốc Dược Vương là vua trong những thứ thuốc. Nếu đem Dược Vương hòa với lạc, hoặc tô, hoặc mật, hoặc nước, sữa, hoặc thuốc bột, thuốc huờn, hoặc dùng thoa ghẻ, thoa mắt, hoặc uống, hoặc xông, hoặc nhìn, hoặc ngửi, đều có thể làm cho chúng sanh được lành tất cả bịnh. Dược Vương ấy chẳng nghĩ rằng chúng sanh nếu lấy rễ của ta, thời chẳng nên lấy hết, cũng chẳng nghĩ rằng, nếu lấy lá chẳng nên lấy rễ, nếu lấy thân chẳng nên lấy võ, nếu lấy võ chẳng nên lấy thân. Dược Vương ấy dầu chẳng tưởng niệm mà có thể trừ tất cả bịnh khổ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Kinh Đại-Niết-bàn vi diệu nầy có thể diệt trừ tất cả ác nghiệp, bốn tội trọng, năm tội vô gián của chúng sanh. Người chưa phát bồ đề tâm nhơn kinh nầy thời đặng phát bồ đề tâm. Vì kinh nầy là vua trong các thứ kinh, như cây thuốc Dược Vương là vua trong các thứ thuốc. Nếu có người tu tập cùng chẳng tu tập kinh Đại-Niết-Bàn nầy, nếu nghe được danh tự của kinh nầy, nghe rồi sanh lòng kính tin, thời đều trừ diệt được tất cả phiền não. Nhưng chỉ chẳng thể làm cho hạng nhứt-xiển-đề an trụ nơi vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như Dược Vương kia dầu có thể chữa lành tất cả bịnh nặng, nhưng không thể cứu chữa người quyết định chết.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như người tay có ghẻ lở, bốc nắm thuốc độc, thời chất độc thấm vào thịt. Người tay không ghẻ lỡ, dầu có cầm nắm chất độc cũng chẳng thấm vào được. Hạng nhứt-xiển-đề không có nhơn bồ đề, như người tay không ghẻ không thể thấm chất độc. Chất độc dụ cho diệu nghĩa đệ nhứt.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như kim cương không gì phá vỡ được, mà kim cương có thể phá vỡ tất cả vật khác , chỉ trừ mu rùa và sừng bạch dương. Kinh Đại- Niết- Bàn vi diệu nầy có thể làm cho vô lượng chúng sanh trụ nơi đạo bồ đề, chỉ không thể khiến hạng nhứt-xiển-đề thành lập nhơn bồ đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như cỏ Mã-Xỉ, cây Ta-La-Xí, cây Ni-Ca-La, dầu chặt nhánh, đốn cây, nhưng rồi đâm chồi mọc lên như cũ, chẳng phải như cây Đa-la đốn rồi không thể mọc lại.
Cũng vậy, những chúng sanh đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn nầy, dầu phạm bốn tội nặng và năm tội vô gián, vẫn có thể sanh nhơn bồ đề, Hạng nhứt- xiển-đề thời chẳng như vậy, dầu đặng nghe kinh điển vi diệu, nhưng không thể sanh nhơn bồ đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như cây Khư-đà-la, cây Trấn-đầu-ca bị đốn thời chẳng mọc lại, và những hột giống bị cháy thời chẳng mọc mầm, cũng vậy, hàng nhứt- xiển-đề dầu đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn nầy. Nhưng không thể phát tâm bồ-đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như mưa to, nước mưa chẳng dừng ở hư không. Kinh Đại-Niết-Bàn nầy cũng chẳng dừng ở nơi hạng nhứt-xiển-đề.
Hạng nhứt-xiển-đề nầy khắp mình kín dày như chất kim cương, vật ngoài không thể lọt vào được.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như đức Phật từng nói kệ rằng :
Chẳng thấy, lành, chẳng làm. Chỉ thấy, ác, nên làm. Điều đó đáng kinh sợ. Dường như đường nguy hiểm.
Bạch Thế-Tôn ! Bài kệ đó có những nghĩa gì ?”
Phật nói : “ Nầy Thiện-nam-tử ! Chẳng thấy là chẳng thấy Phật tánh. Lành là vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chẳng làm là chẳng gần gũi thiện tri thức. Chỉ thấy là thấy không nhơn quả. Ác là hủy báng kinh điển Đại-thừa Phương- đẳng. Nên làm là hạng nhứt-xiển-đề nói không có Đại-thừa. Hạng nhứt-xiển- đề không có tâm xu hướng pháp lành thanh tịnh. Pháp lành là Đại-Niết-Bàn . Xu hướng Đại-Niêt-Bàn là nói có thể tu tập hạnh hiền-thiện. Hạng nhứt-xiển-đề không hạnh hiền-thiện, nên không thể xu hướng Đại-Niết-Bàn. Điều đó đáng kinh sợ là nói hủy báng chánh pháp : Người trí phải kinh sợ, vì người hủy báng chánh pháp không
có tâm lành, không có phương tiện tu tập, con đường nguy hiểm là nói các hành pháp.
Ca-Diếp Bồ-Tát lại bạch : Như Phật từng nói :
Thấy chỗ làm thế nào ? Đặng pháp lành thế nào ? Chỗ nào chẳng kinh sợ ? Như đường bằng vua đi.
Thế-Tôn ! Bài kệ nầy nghĩa như thế nào ?
Nầy Thiện-nam-tử ! Thấy chỗ làm là phát-lồ các tội ác : Từ vô lượng đời gây tạo các nghiệp ác thảy đều phát lộ, đến nơi rốt ráo thanh tịnh. Đó là chỗ không kinh sợ. Như đường bằng thẳng của vua đi, trộm cướp đều chạy trốn. Cũng vậy, phát lồ như trên thời tất cả tội ác đều dứt trừ.
Lại chẳng thấy chỗ làm là nói hàng nhứt-xiển-đề làm những việc ác mà chẳng tự thấy. Hàng nhứt-xiên-đề do lòng kiêu mạn nên dầu làm ác nhưng không kinh sợ. Vì thế nên hạng nầy chẳng đặng Niết-Bàn. Dụ như khỉ vượn mò nắm mặt trăng trong nước.
Nầy Thiện-nam-tử ! Giả sử vô lượng chúng sanh đồng thời chứng đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác, các đức Như-Lai nầy cũng chẳng thấy hạng nhứt-xiển-đề kia đặng thành bồ-đề. Vì nghĩa nầy nên gọi là chẳng thấy chỗ làm.
Và lại chẳng thấy chỗ làm của ai ? Đây là chẳng thấy chỗ làm của Phật. Phật vì chúng sanh nói có
Phật tánh. Hạng nhứt-xiển-đề trôi lăn trong sanh tử, không thể thấy biết Phật tánh. Vì nghĩa nầy nên gọi là chẳng thấy chỗ làm của Như-Lai.
Lại hàng nhứt-xiển-đề thấy đức Như-Lai rốt ráo nhập Niết-bàn, họ cho rằng thật vô thường, như đèn tắt, dầu mỡ đều hết. Vì hạng nầy nghiệp ác của họ chẳng giảm bớt.
Nếu có Bồ-Tát lúc làm những nghiệp lành hồi hướng vô thượng chánh đẳng chánh giác, dầu hàng nhứt-xiển-đề chẳng tin chê bai phá hoại, nhưng các vị Bồ- Tát vẫn đem công đức thí cho, muốn cùng họ đồng thành đạo vô thượng. Vì pháp của chư Phật và Bồ-Tát tự nhiên như vậy.
Làm ác chẳng liền thọ, Như sữa liền thành lạc, Như tro che trên lửa. Người ngu khinh đạp đó.
Hàng nhứt-xiển-đề gọi là kẻ không con mắt, nên chẳng thấy đạo A-La- Hán, vì không
con mắt, nên chê bai Đại-thừa chẳng muốn tu tập. Như A-La-Hán siêng tu tâm từ.
Nếu người nói rằng : Nay tôi chẳng tin kinh điển Thanh-văn, chỉ tin thọ Đai- thừa, đọc tụng giải thuyết. Vì thế nên nay tôi là Bồ-Tát. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Do có Phật tánh nên trong thân
chúng sanh bèn có mười trí lực ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt. Lời nói của tôi không khác lời nói của Phật. Nay anh cùng tôi đều phá vô lượng phiền não ác, như phá vỡ bình nước. Vì phá kiết sử nên liền đặng thấy vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Người đó dầu diễn nói như vậy, nhưng tâm nó thiệt chẳng tin có Phật tánh, chỉ vì lợi dưỡng nên nói theo văn kinh, đây gọi là người ác. Người ác như vậy chẳng liền thọ quả báo, như sữa thành lạc.
Ví như Vương sứ biện luận giỏi, nhiều chước khéo, phụng mạng qua nước khác, thà chết chớ trọn chẳng ẩn giấu lời truyền của vua. Cũng vậy, người trí ở trong hàng phàm phu, chẳng tiếc thân mạng, quyết phải tuyên nói Như-Lai tạng kinh điển Đại-thừa Phương-đẳng, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Có kẻ nhứt-xiển-đề làm dạng A-La-Hán, chê bai kinh điển đại thừa. Người phàm phu thấy đó đều cho là thiệt A-La-Hán, là đại Bồ- Tát. Bọn ác Tỳ-kheo nhứt-xiển-đề nầy, ở nơi A-Lan-Nhã phá hoại pháp A-Lan-Nhã, thấy người khác đặng lợi sanh lòng ganh ghét, nói rằng những kinh điển Đại-thừa đều là lời của Thiên-Ma Ba-Tuần nói. Họ cũng nói Như-Lai là pháp vô thường. Họ hủy diệt chánh pháp, phá hoại chúng tăng. Họ lại nói lời của Thiên-Ma Ba-Tuần chẳng phải là lời lành, lời thuận.
Bọn trên đây tuyên nói lời tà ác như vậy. Bọn nầy làm ác chẳng liền thọ báo. Như sữa thành lạc. Người như vậy gọi là nhứt-xiển-đề. Như tro trùm trên lửa, người ngu khinh đạp đó.
Vì thế nên biết kinh điển Đại-thừa vi diệu quyết định thanh tịnh. Như châu Ma-Ni ném vào nước đục, nước liền trong.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như hoa sen được mặt trời rọi đến đều nở. Tất cả chúng sanh nếu đặng thấy nghe kinh Đại-Niết-Bàn, thời đều phát Bồ-đề tâm. Vì thế nên ta nói ánh sáng Đại-Niết-Bàn chiếu vào lỗ chơn lông, quyết định làm nhơn vi diệu.
Nhứt-xiển-đề kia dầu có Phật tánh, nhưng bị vô lượng tội chướng ràng buộc, nên chẳng thể hiện ra, như con tằm ở trong kén, do nghiệp chướng đó chẳng thể sanh nhơn bồ đề, lưu chuyển mãi trong sanh tử.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như hoa sen mọc nơi bùn lầy, mà trọn chẳng bị bùn lầy àm nhơ. Nếu có chúng sanh tu tập kinh điển Đại-Niết-Bàn vi diệu nầy, dầu có phiền não, mà trọn chẳng bị phiền não làm nhơ, vì nhờ năng lực rõ biết Như-Lai tánh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như có nước kia nhiều gió mát mẻ. Nếu gió ấy thổi vào lỗ chơn lông nơi thân của chúng sanh, thời có thể trừ tất cả sự nóng bức bực bội.
Kinh điển Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy cũng lại như vậy, vào khắp lỗ chơn lông của tất cả chúng sanh, mà làm nhơn bồ-đề, trừ hạng nhứt-xiển-đề vì hạng nầy chẳng phải pháp-khí.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lương y, hiểu rõ tám thứ thuốc trị lành tất cả bịnh, chỉ trừ người quyết định chết. Cũng vậy, tất cả khế kinh, thiền định, tam muội, có thể trị tất cả phiền não tham sân, si, mà không thể trị kẻ phạm bốn tội trọng, năm tội vô gián.
Nầy Thiện-nam-tử ! Lại có lương y giỏi hơn, có thể chữa lành tất cả bịnh khổ của người, chỉ trừ bịnh quyết định chết. Cũng vậy, kinh điển Đại-thừa Đại- Niết-bàn nầy, có thể trừ tất cả phiền não, làm cho chúng
sanh an trụ nơi nhơn Như-Lai thanh tịnh, người chưa phát tâm làm cho phát
tâm, chỉ trừ hạng nhứt-xiển- đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lương y có thể dùng thuốc hay chữa trị cho các người mù, khiến mắt họ được sáng, thấy tất cả cảnh vật, chỉ chẳng thể trị lành con mắt của người sanh-manh. Cũng vậy, Kinh Đại-Niết-Bàn này có thể làm cho hàng Thanh-văn, Duyên-Giác khai phát huệ nhãn, khiến cho họ an trụ nơi vô lượng vô biên kinh điển Đại-thừa. Những người chưa phát tâm, hoặc phạm bốn tội nặng, năm tội vô gián, kinh nầy đều có thể làm cho họ phát tâm bồ đề, chỉ trừ bọn nhứt-xiển-đề, như kẻ sanh-manh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lương y hiểu rõ tám khoa trị bịnh vì trị tất cả bịnh khổ cho người, dùng các phương thuốc, theo bịnh mà trị, mà người bịnh ngu chẳng muốn uống đó. Lương y xót thương, dắt người nầy về nhà mình, ép uống thuốc, bịnh liền được lành. Phụ nữ sanh sản, lá nhau chẳng ra, nếu uống thuốc nầy lá nhau liền ra, cũng làm cho hài
nhi được an lành.
Cũng vậy, kinh điển Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy có thể trừ vô lượng phiền não cho chúng sanh, trừ bốn tội trọng, năm tội vô gián, người chưa phát tâm đều làm cho phát tâm trừ hạng nhứt-xiển-đề.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Phạm bốn tội trọng và năm tội vô gián gọi là rất nặng, rất ác. Ví như cây đa-la đã bị đốn chẳng còn mọc lại được. Những người phạm tội nầy chưa phát tâm bồ-đề thế nào có thể làm nhơn bồ- đề cho họ được ?”
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Những người phạm tội nầy, hoặc ở trong chiêm bao thấy bị đọa địa ngục, thọ những sự khổ não, liền sanh lòng ăn năn, sau khi thức dậy, tin có quả báo lớn, bèn phát tâm bồ-đề.
Như hài nhi kia, lấn lần khôn lớn, thường nghĩ nhớ rằng : Lương y đó rất giỏi, nhờ ông cho thuốc, mẹ mình đặng an lành, do đó nên mạng của mình cũng đặng toàn. Cảm thương mẹ mình chịu nhiều sự khổ não, mang thai cả mười tháng, sau khi sanh nở, nhường khô nằm ướt, hốt rửa phân dải, bú mớm nuôi nấng. Vì những công ơn ấy, ta phải báo đền, săn sóc hầu hạ, tùy thuận cúng dường mẹ ta.
Người phạm bốn tội nặng và năm tội vô gián, lúc sắp chết nhớ đến kinh Đại- Niết-Bàn nầy, dầu đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ, hay sanh trên trời, trong loài người, kinh điển nầy cũng làm nhơn bồ-đề cho người nầy, trừ hạng nhứt-xiển- đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lương y và con trai của lương y hiểu biết sâu rộng hơn các y sĩ khác, biết rành phương trừ độc : Độc rắn, độc rồng, độc rít, độc bò cạp, lại đem phương thuốc nầy thoa nơi giày dép, các độc trùng chạm đến chất độc liền tiêu, chỉ không thể tiêu được độc của đại-long.
Cũng vậy, nếu có chúng sanh phạm bốn tội nặng, năm tội vô gián, kinh Đại Niết-Bàn
nầy có thể làm cho tội tiêu diệt, an trụ nơi đạo bồ-đề. Oai thần của kinh làm cho chúng
sanh được an-lạc chỉ trừ hạng nhứt-xiển-đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người lấy chất thuốc độc thoa lên mặt trống, những người nghe tiếng trống nầy, dầu là vô tâm đều trúng độc mà chết, chỉ trừ một người.
Cũng vậy, những người nghe tiếng kinh Đại-Niết-Bàn nầy, bao nhiêu tham dục, sân- khuể, ngu si thảy đều dứt hết. Oai lực của kinh nầy có thể diệt trừ phiền não, dầu là người không lòng nghĩ nhớ. Người phạm bốn tội nặng, năm tội vô gián được nghe kinh nầy cũng thành nhơn vô thượng bồ-đề, lần dứt phiền não, chỉ trừ hạng nhứt- xiển-đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như đêm tối, tất cả công việc làm đều ngưng nghĩ. Nếu việc chưa làm xong phải chờ đến sáng ngày sau. Cũng vậy, người học Đại- thừa dầu tu tập theo khế kinh tất cả các môn thiền định, cần phải chờ nghe lời dạy vi mật của Như-Lai, nơi hội Đại-thừa Đại-Niết-Bàn rồi sau mới có thể tu tạo nghiệp nhơn bồ-đề an trụ nơi chánh pháp.
Như trời mưa nhuần thấm làm cho tất cả hột giống nẩy mầm lên cây, đơm bông kết trái, mọi người nhờ đó được no đủ, khỏi đói khát. Cũng vậy, pháp tạng của Như-Lai có thể diệt trừ tám thứ thống khổ. Kinh nầy ra đời, như những trái, hột đem sự no đủ an vui đến cho mọi người, tức là làm cho chúng sanh thấy Phật tánh. Như trong hội Pháp-Hoa tám ngàn
ThanhVăn đặng thọ ký thành Phật.
Hạng nhứt-xiển-đề không tu tập pháp lành như mùa thạnh-động.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lương y nghe con người khác bị quỷ thần bắt, liền sai một người đem thuốc đến cứu, dặn rằng : Ngươi đem thuốc nầy mau trao cho người đó, sức thuốc sẽ làm cho quỷ thần tránh xa. Nếu người chậm trể thời ta phải tự đi, quyết chẳng để người đó bị hại. Nếu người bịnh đó đặng thuốc, và oai đức của lương y, bịnh khổ liền hết. Cũng vậy, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu- bà- tắc, Ưu-bà-di, và hàng ngoại đạo có thể thọ trì đọc tụng kinh điển nầy, lại phân biệt giảng nói cho người khác, hoặc tự biên chép, khiến người biên chép, tất cả đều là nhơn bồ-đề.
Nếu người phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch, hoặc bị quỷ tà ác độc làm hại, nghe kinh điển nầy tất cả ác độc đều tiêu diệt, nên biết người nầy thật là Bồ-tát. Vì tạm đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn nầy, cũng do vì sanh lòng tưởng niệm Như- Lai thường-trụ. Tạm đặng nghe còn đặng công đức như vậy, huống là biên chép thọ trì đọc tụng, tất cả đều là Bồ-Tát, chỉ trừ hạng nhứt-xiên-đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như người điếc chẳng nghe được tiếng. Cũng vậy, hàng nhứt-xiển-đề dầu muốn nghe kinh điển vi diệu nầy, cũng chẳng đặng nghe.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lương y thông suốt tất cả phương thuốc và rộng biết vô lượng chú thuật. Lương y nầy thấy nhà vua bèn tâu rằng :” Nay Đại- Vương có bịnh nguy đến tánh mạng”. Vua nói : “ Khanh
chẳng thấy việc trong bụng ta, sao lại nói rằng có bịnh nguy đến tánh mạng”. Lương y tâu : “Nếu chẳng tin lời của thần, xin Đại-Vương uống thuốc xổ, sau khi xổ Đại-Vương tự nghiệm lấy”. Vua không bằng lòng uống.
Bấy giờ lương y dùng chú thuật làm cho hậu môn của vua sưng phồng lên vàthòng xuống, trùng máu tuôn ra.
Vua nhìn thấy kinh sợ, hết lời khen ngợi lương y: Ta rất tiếc trước chẳng dùng lời của khanh, giờ đây mới biết khanh thật lương y, nhờ khanh mà thân ta đặng an lạc. Vua bèn cung kính lương y xem như cha mẹ.
Kinh Đại-Niết-Bàn nầy cũng lại như vậy. Tất cả chúng sanh không luận hàng hữu dục hay vô dục, đều có thể làm phiền não của kia tiêu dứt.
Những chúng sanh nầy nhẫn đến trong chiêm bao, cung kính cúng dường kinh nầy, như nhà vua cung kính lương y.
Nếu vị lương y đó biết người quyết định chết thời không chữa trị. Cũng vậy, kinh Đại-Niết-Bàn nầy chẳng thể chữa trị hạng nhứt-xiển-đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lương y biết rành tám khoa trị bịnh có thể trị lành tất cả các bịnh. Chỉ chẳng thể chữa trị người quyết định chết. Cũng vậy, chư Phật, Bồ-Tát, có thể cứu độ tất cả chúng sanh có tội, chỉ không thể độ hạng nhứt-xiển - đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như lương y biết rành tám khoa trị bịnh, lại thông hiểu nhiều khoa cao siêu khác,
đem chỗ hiểu biết của mình truyền dạy cho con. Lần lần truyền dạy cả tám khoa, lại dạy thêm những khoa cao siêu khác. Cũng vậy, Đức Như-Lai trước dạy các Tỳ-kheo những phương tiện diệt trừ tất cả phiền não, dạy quán thân chẳng bền chắc, quán thân thọ khổ, quán vô ngã, khiến các đệ tử học thông thuộc chín bộ kinh, rồi sau mới dạy học tạng Như-Lai bí mật, nói Như-Lai thường trụ. Đức Như-Lai nói kinh Đại-thừa Đại-Niếât-Bàn để làm nhơn bồ-đề cho những chúng sanh đã phát
tâm và người chưa phát tâm, chỉ trừ hạng nhứt-xiển-đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Kinh Đại-Niết-Bàn nầy là giáo pháp vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chưa từng có. Nên biết kinh nầy là lương y vô thượng tôn quý nhứt hơn tất cả, là vua trong các kinh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như thuyền lớn từ bờ biển nầy đi đến bờ kia lại từ bờ biển kia trở về bở nầy. Cũng vậy, Đức Như-Lai ngồi thuyền báu Đại-thừa Đại-Niết- Bàn qua lại tế độ chúng sanh. Nơi nào chốn nào có kẻ đáng được độ thời đều làm cho đặng thấy thân Như-Lai. Vì thế nên Đức Như-Lai có hiệu làvô- thượng thuyền-sư.
Ví như có thuyền, thời có thuyền sư, do có thuyền sư thời có người đi qua biển lớn. Đức Như-Lai thường trụ hóa độ chúng sanh cũng lại như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người ở trong biển lớn, ngồi thuyền muốn đi qua, nếu đặng thuận gió, thời trong khoảnh khắc có thể đi đặng trăm ngàn do tuần. Nếu chẳng đặng thuận gió dầu ngồi thuyền trải qua nhiều năm chẳng rời khỏi chỗ cũ, có lúc thuyền hư lủng, đắm chìm mà chết.
Cũng vậy, chúng sanh ở nơi biển lớn sanh tử ngu si, ngồi trên thuyền các công hạnh, nếu gặp được gió mạnh Đại-Niết-Bàn, thời có thể mau đến bờ vô thượng đạo. Nếu chẳng gặp kinh nầy, sẽ phải luân chuyển mãi trong sanh tử. Hoặc có lúc phá hư công hạnh, phải đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người chẳng gặp gió thuận lớn, ở lâu trong biển nghĩ rằng : Nay chúng ta ắt chết tại đây. Lúc nghĩ như vậy bỗng gặp gió lớn, thuận theo gió qua khỏi biển, vui mừng nói rằng ngọn gió tốt nầy thật chưa từng có, làm cho chúng ta
đặng an ổn qua khỏi nạn biển lớn. Cũng vậy, chúng sanh từ lâu ở trong biển lớn ngu si sanh tử, nghèo cùng tiều tụy khốn khổ, lúc chưa gặp kinh Đại-Niết-Bàn thời nên nghĩ rằng : Chúng ta quyết định phải đọa nơi địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ. Lúc chúng sanh nầy suy nghĩ như vậy, bỗng gặp kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, tùy thuận tu hành vào nơi vô thượng chánh đẳng chánh giác, khen rằng : Chúng ta từ trước đến nay chưa từng được nghe tạng Như-Lai vi mật như vậy. Lúc bấy giờ mới sanh lòng tin thanh tịnh đối với kinh Đại- Niết- Bàn.
Nầy Thiện-nam-tử !Như rắn lột da, nó có chết đặng chăng ?
_ Bạch Thế-Tôn ! “ Rắn không chết”.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Cũng vậy, Đức Như-Lai phương tiện thị hiện dứt bỏ thân độc nầy, có thể nói rằng Đức Như-Lai là vô thường diệt mất ư.
_ Bạch Thế-Tôn ! Không phải vậy.
Đức Như-Lai ở trong Diêm-Phù-Đề phương tiện bỏ thân, như rắn kia lột bỏ lớp da cũ, vì thế nên Đức Như-Lai gọi là thường trụ.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như thợ kim hoàn đặng vàng thật tốt làm thành các món đồ tùy theo ý mình. Cũng vậy, Đức Như-Lai ở trong hai mươi lăm cõi, vì hóa độ chúng sanh khỏi dòng sanh tử, nên thị hiện các thứ sắc thân tùy ý tự tại, nên Đức Như-Lai có hiệu là vô-biên-thân. Dầu lại thị hiện các thứ sắc thân, nhưng cũng gọi là thường trụ không biến đổi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như cây Am-la và cây Diêm-phù. Trong một năm ba lần biến đổi; có lúc sanh bông màu
sắc sáng rỡ, có lúc mọc lá sum sê rậm rợp có lúc điêu tàn như khô chết.
Nầy Thiện-nam-tử ! Cây ấy có thiệt là khô chết chăng ?
_ Bạch Thế-Tôn ! Cây ấy không phải chết.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Đức Như-Lai ở trong ba cõi, thị hiện ba thứ sắc thân cũng lại như vậy : Có lúc mới giáng sanh, có thời kỳ lớn khôn, có thời kỳ nhập Niết- Bàn. Dầu vậy, nhưng thân Đức Như-Lai thiệt chẳng phải vô thường.
Ca-Diếp Bồ-Tát tán thán rằng : “ Lành thay ! Lành
thay ! Thiệt đúng như lời Phật
dạy : Đức Như-Lai thường trụ không có biến đổi.”
Nầy Thiện-nam-tử ! Mật ngữ của Như-Lai rất sâu khó hiểu, ví như nhà vua bảo các quan đem
Tiên-Đà-Bà đến. Danh từ Tiên-Đà-Bà chỉ cho bốn tbứ : Một là muối, hai là chén , ba là nước, bốn là ngựa. Có cả bốn thứ ấy đều đồng một danh từ Tiên-Đà-Bà. Quan hầu có trí biết rành danh từ nầy. Lúc vua muốn rửa ráy đòi Tiên-Đà-Bà, liền dưng nước. Lúc vua ăn đòi
Tiên-Đà-Bà liền dưng muối. Lúc vua ăn xong muốn uống nước ngọt, đòi Tiên-Đà-Bà liền dưng chén. Lúc vua muốn du hành đòi Tiên-Đà-Bà liền đem ngựa dưng. Quan hầu có trí hiểu rành mật ngữ của nhà vua.
Kinh Đại-thừa nầy có bốn nghĩa vô thường cũng như vậy. Hàng Phật-tử Đại- thừa phải nên biết rành. Nếu đức Phật ra đời vì chúng sanh nói Như-Lai Niết- Bàn, người trí nên biết đây là đức Như-Lai vì người chấp thường mà nói pháp quán vô thường, muốn cho các Tỳ-kheo tu pháp quán vô thường. Hoặc đức Phật lại nói chánh pháp sẽ diệt, người trí nên biết đây là đức Như-Lai vì người chấp lạc nói pháp quán về khổ, muốn cho các Tỳ-kheo tu pháp quán khổ. Hoặc đức Như-Lai nói, nay ta bịnh khổ, chúng Tăng phá hoại. Người trí nên biết đây là đức Như-Lai vì người chấp ngã nói pháp quán vô ngã, muốn cho các Tỳ-kheo tu pháp quán vô ngã. Hoặc đức Phật lại nói, pháp quán không
là chánh giải thoát. Người trí nên biết đây là đức Như-Lai nói chánh giải thoát, không hai mươi lăm cõi, muốn cho các Tỳ-kheo tu học pháp quán không. Vì
nghĩa nầy nên chánh giải thoát gọi là không, cũng gọi là bất động. Bất động là vì trong giải thoát không có khổ. Cho nên bất động là chánh giải thoát, là không có tướng. Nói rằng không tướng đó là không có sắc, thanh, hương, vị, xúc vân vân, nên gọi là không tướng. Chánh giải thoát nầy thường chẳng biến đổi. Trong giải thoát nầy không có vô thường khổ não biến đổi. Vì thế nên giải thoát hiệu là thường trụ, mát mẻ chẳng biến đổi.
Hoặc đức Phật nói rằng tất cả chúng sanh đều có Như-Lai tánh. Người trí nên biết
Đây là đức Như-Lai nói pháp thường, muốn cho các Tỳ-kheo tu tập pháp thường. Các Tỳ-kheo nầy nếu có thể tùy thuận học tập như vậy, nên biết người nầy thật là đệ-tử của Phật, biết rành tạng Như-Lai vi mật, như quan hầu có trí, biết rành ý của nhà vua.
Nầy thiện-nam-tử ! Nhà vua kia cũng có mật ngữ như vậy, huống là đức Như-Lai mà lại không có.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vì thế nên giáo pháp vi mật của Như-Lai khó có thể biết được. Chỉ người trí mới có thể hiểu được Phật pháp rất sâu vi diệu của Như-Lai, chẳng phải hạng phàm phu trong đời mà có thể tin được.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như cây Ba-la-xa cây Ca-ni-ca, cây A-thúc-ca gặp lúc nắng hạn thời chẳng sanh hoa trái. Nhẫn đến các sanh vật dưới nước trên đất thảy đều khô héo, không thể tăng trưởng, tất cả các phương thuốc không còn công hiệu.
Kinh Đai-thừa Đại-Niết-Bàn nầy cũng lại như vậy. Sau khi ta diệt độ, có các chúng sanh chẳng thể cung kính thời chẳng có oai đức. Vì các chúng sanh nầy chẳng biết tạng Như-Lai vi mật, bởi chúng sanh nầy phước đức mỏng kém.
Nầy Thiện-nam-tử ! Lúc chánh pháp của Như-Lai sắp diệt, bây giờ có số đông ác hạnh Tỳ-kheo chẳng biết tạng Như-Lai vi mật, chểnh mảng biếng nhác, chẳng thể đọc tụng tuyên dương chánh pháp của Như-Lai.
Ví như kẻ cướp ngu si, vất bỏ châu báu mà mang gánh cỏ trấu. Vì chẳng hiểu tạng Như-Lai vi mật nên biếng nhác đối với kinh nầy.
Thương thay đời vị lai rất nguy hiểm, rất đáng sợ sệt.
Khổ thay chúng sanh chẳng siêng năng thọ trì kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy.
Chỉ các vị Đại Bồ-Tát có thể ở nơi kinh nầy chẳng chấp văn tự, tùy thuận nghĩa chơn thật mà vì chúng sanh giảng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như đứa gái chăn bò vì muốn bán sữa, tham lợi nhiều nên thêm hai phần nước rồi bán cho đứa gái chăn bò khác. Đứa gái kia lại thêm hai phần nước rồi bán lại cho đứa gái ở gần thành. Đứa gái nầy lại thêm hai phần nước rồi bán lại cho đứa gái ở trong thành. Đứa gái nầy lại thêm hai phần nước rồi đem ra chợ bán. Bấy giờ có một người cần sữa tốt để đãi tân khách, nên đến chợ muốn mua sữa. Đứa gái bán sữa đòi giá mắc. Người mua nói sữa nầy pha nhiều nước, không đến giá đó, nay nhằm lúc tôi phải đãi đằng tân khách nên đành mua mắc. Mua xong đem về nhà, nấu thành cháo trọn không có mùi sữa. Dầu không có mùi sữa, nhưng cũng ngàn lần hơn vị chát đắng, vì vị sữa hơn hết trong các vị.
Nầy Thiện-nam-tử ! Sau khi ta nhập Niết-Bàn, lúc chánh pháp chưa dứt, còn tám mươi năm, kinh nầy sẽ lưu hành rộng nơi Diêm-Phù-Đề. Lúc bấy giờ sẽ có các ác Tỳ-kheo sao lược kinh nầy chia làm nhiều phần, có thể làm mất mùi vị tốt đẹp của chánh pháp. Những người nầy dầu đọc tụng kinh điển đây, nhưng lại diệt trừ yếu nghĩa thâm mật của Như-Lai, đem lời thế gian vô nghĩa văn sức lẫn lộn, sao phần trước để ở sau, sao phần sau để ở trước, phần trước phần sau để ở giữa, phần giữa để ở phía sau phía trước. Nên biết các Tỳ-kheo nầy là bạn bè của ma. Họ nhận chứa tất cả vật bất tịnh mà nói rằng đức Như-Lai đều cho chúng tôi nhận chứa. Như đứa gái chăn bò pha nhiều nước vào trong sữa. Cũng vậy, các ác Tỳ-kheo nầy đem lời thế tục xen tạp vào kinh nầy. Làm cho đa số chúng sanh chẳng đặng lời nói chơn chánh, biên chép chơn chánh, nhận lấy chơn chánh, để tôn trọng tán thán cúng dường cung kính. Ác Tỳ-kheo đây vì lợi dưỡng nên chẳng thể lưu truyền rộn kinh nầy. Dầu có lưu truyền cũng là chút ít phần chẳng đáng kể. Như các đứa gái xoay vần bán sữa. Nhẫn đến nấu thành cháo mà không có vị sữa. Cũng vậy, Kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy lần lượt lạt lẽo không có khí vị. Dầu không khí vị vẫn còn hơn những kinh khác cả ngàn lần. Như cháo không mùi sữa kia vẫn ngàn lần hơn các vị đắng. Vì kinh Đại- thừa Đại-Niết-Bàn nầy là thượng-thủ nhứt đối với kinh điển Thanh-văn. Như sũa bò hơn hết trong các vị. Vì nghĩa nầy nên gọi là Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Nầy thiện-nam-tử ! Như loài người không ai chẳng mong mõi được thân nam tử. Vì thân người nữ đều là chỗ nhóm ở của các sự nhơ xấu.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nước tiểu của con muỗi không thể làm cho mặt đất được nhuần ướt. Người nữ lòng dục khó đầy cũng như vậy. Ví như cả quả địa cầu, đem vò viên như hột đình lịch. Nam tử đông như số hột ấy, cùng dâm với một người nữ, vẫn không thể đủ.
Giả sử số nam tử như hằng sa cùng dâm với một người nữ, cũng không thể đủ.
Ví như trời mưa, trăm sông các giòng đều chảy vào biển cả, mà biển cả vẫn chưa từng đầy.
Cũng vậy, giả sử tất cả đều là nam tử, cùng dâm với một người nữ cũng không đủ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như cây A-thúc-ca, cây Ba-tra-la, cây Ca-ni-ca, mùa xuân hoa nở, có con ong hút lấy hương tế nhị của hoa chẳng chán chẳng đủ.
Cũng vậy, người nữ muốn người nam chẳng nhàm chẳng đủ.
Nầy Thiên-nam-tử ! Do nghĩa nầy nên mọi người khi nghe kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn nầy, thường phải quở trách thân nữ cầu được thân nam. Vì kinh nầy có tướng trượng phu, tức làPhật tánh. Nếu người chẳng biết Phật tánh nầy, thời không có tướng nam, ta nói những người nầygọi là nữ nhơn. Nếu có thể tự biết Phật tánh, ta nói người nầy gọi là tướng trượng phu. Nếu có người nữ biết thân mình quyết có Phật tánh, nên biết những người nầy chính là nam tử.
Kinh Đại-thừa Đại-Niết-bàn nầy chứa nhóm vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn, vì nói tạng Như-Lai vi mật. Thế nên mọi người nếu muốn mau biết tạng Như-Lai, nên phải phương tiện siêng tu kinh nầy.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn !Phải lắm, phải lắm, đúng như lời Phật nói. Nay tôi nhơn có tướng trượng phu nên đặng vào tạng Như-Lai vi mật. Hôm nay đức Như-Lai mới giác ngộ cho tôi, nhơn đây tôi liền được quyết định thông đạt.”
Phật nói : “ Lành thay !
Lành thay ! Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông tùy thuận thế gian mà nói.”
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Tôi chẳng tùy thuận pháp thế gian”.
Đức Phật khen ngợi Ca-Diếp Bồ-tát : “ Lành thay !
Lành thay ! Nay chỗ biết của ông là pháp vị vô thượng, pháp ấy rất sâu khó biết mà ông có thể biết đặng. Như con ong hút lấy mật hoa.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nước tiểu của con muỗi không thể làm cho mặt đất được thấm ướt. Đời đương-lai kinh nầy lưu truyền cũng lại như vậy. Lúc chánh pháp sắp diệt, kinh nầy sẽ trước ẩn mất nơi cõi đất nầy. Nên biết đó là tướng suy của chánh pháp.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như hết mùa hạ qua đầu mùa thu, mưa thu tầm tã. Cũng vậy, kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy vì các vị Bồ-Tát ở phương nam sẽ lưu truyền rộng, rưới pháp võ đầy khắp xứ ấy. Lúc chánh pháp sắp diệt, kinh nầy sẽ truyền đủ nơi nước Kế-Tân. Hoặc có người tin, có người chẳng tin, kinh nầy ẩn mất trong đất. Khi kinh nầy ẩn mất rồi, tất cả kinh điển Đại-thừa khác, thảy đều dứt mất. Nếu ai gặp đặng kinh nầy đầy đủ, thời người đó là đệ nhứt trong loài ngươi. Các hàng Bồ-Tát nên biết chánh pháp vô thượng của Như-Lai sắp diệt chẳng còn lâu.
Lúc bấy giờ ngài Văn-Thù Sư-Lợi bạch Phật rằng : “ Thế-tôn ! Nay ông Thuần- Đà còn có tâm nghi,
ngưỡng mong đức Như-Lai vì ông giảng giải.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Tâm nghi thế nào, ông cứ trình bày Như-Lai sẽ dạy nữa cho.
Văn-Thù Sư-Lợi nói : “ Ông Thuần-Đà nghi rằng : Đức Như-Lai là thường trụ, do vì đặng sức tri kiến Phật tánh. Nếu thấy Phật tánh mà là thường trụ, thời lúc trước chưa thấy lẽ ra là vô thường. Nếu lúc trước là vô thường, lúc sau cũng phải như vậy. Như những vật trong đời trước không nay có, có rồi trở thành không. Những vật như vậy đều là vô thường. Do nghĩa nầy nên chư Phật, Bồ- Tát, Duyên-Giác, Thanh-Văn không sai khác nhau”.
Đức Thế-Tôn liền nói kệ rằng :
Trước có nay không, Trước không nay có,Trọn không có nghĩa. Ba đời là có.
Nầy thiện-nam-tử ! Do nghĩa nầy mà chư Phật, Bồ-Tát, Duyên-Giác, Thanh-
Văn, cũng có sai khác.
Văn-Thù Sư-Lợi tán thán rằng : “ Lành thay ! Thiệt như lời dạy của Như-Lai, nay tôi mới biết chư Phật, Bồ-Tát, Duyên-Giác, Thanh-Văn cũng có sai khác, cũng không sai
khác.”
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, Chư Phật, Bồ- tát, Duyên-Giác,
Thanh-Văn, tánh không sai khác, cúi mong đức Như-Lai giảng rộng nghĩa ấy, để lợi ích, an lạc tất cả chúng sanh.”
Phật nói : “ Nầy Thiện-nam-tử ! Lóng nghe suy xét kỹ, đức Như-Lai sẽ vì ông giảng nói nghĩa ấy.
Nầy Thiện-nam-Tử ! Ví như trưởng giả nuôi nhiều bò sữa, đủ các màu lông, sai một người chăn nuôi. Một hôm người chăn vì sự cúng kiếng, vắt sữa tất cả bò đựng chung trong một thùng. Người ấy thấy sữa đồng một màu trắng, lấy làm lạ nghĩ rằng : Bầy bò mỗi con đều khác màu, sao sữa của chúng nó đều đồng màu. Người ấy gẫm kỹ, xét rằng tất cả đều do nhơn duyên nghiệp báo của chúng sanh làm cho sữa đồng một màu.
Nầy Thiện-nam-tử ! Hàng Thanh-Văn,
Duyên-Giác, Bồ-Tát, đồng một Phật tánh, như sữa của bầy bò đồng một màu. Vì đồng sạch hết phiền não. Nhưng các chúng sanh nói chư Phật, Bồ-Tát, Duyên-Giác, Thanh-Văn, sai khác nhau. Cũng có hàng
Thanh-Văn và người phàm phu nghĩ rằng : Ba thừa sao lại không sai khác. Những người nầy lâu lâu về sau tự hiểu rằng, tất cả ba thừa đồng một Phật tánh. Như người chăn bò hiểu rằng màu sữa đồng một, là do nhơn duyên nghiệp báo.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như quặng vàng, nấu lọc cặn bã, sau khi tiêu dung thành vàng, thời giá trị vô lượng. Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát đều đặng thành tựu đồng một Phật tánh, vì trừ hết phiền não , như quặng vàng trừ hết cặn bã thành vàng. Do nghĩa nầy nên tất cả chúng sanh đồng một Phật tánh không có sai
khác. Vì họ trước kia nghe tạng Như-Lai vi mật, thời gian sau thành Phật tự nhiên đặng biết, vì dứt vô lượng phiền não. Như ông Trưởng gia ûkia biết sữa đồng một màu.”
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật rằng : : Thế-tôn ! Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, thời Phật cùng chúng sanh có gì
sai khác. Người nói như vậy có nhiều lỗi lầm. Nếu các chúng sanh đều có Phật tánh, do nhơn duyên gì Ngài Xá-Lợi- Phất vân vân lại nhập Tiểu Niết-Bàn. Hàng Duyên-Giác nhập Trung Niết-Bàn, các vị Bồ-Tát nhập Đại Niết-Bàn. Ba hạng người như vậy nếu đồng Phật tánh sao lại chẳng đồng nhập Đại-Niết-Bàn như đức Như-Lai ?”
_ Nầy thiện-nam-tử ! Niết-Bàn của chư Phật Thế-Tôn chính là chẳng phải cho ãchứng của Thanh-Văn, Duyên-Giác, do nghĩa nầy nếu nhập Đại Niết-Bàn gọi là thuần-thiện. Thế gian nếu không Phật ra đời chẳng phải là không có hàng nhị thừa chứng đặng hai thứ Niết-Bàn”.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Nghĩa ấy như thế nào ?
Phật nói vô lượng vô biên vô số kiếp mới có một đức Phật hiện ra nơi đời khai thị pháp tam thừa.
Nầy Thiện-nam-tử ! như lời ông nói, Bồ-Tát, Duyên-Giác và Thanh-Văn không sai khác đó, trước kia trong tạng Như-Lai Đại-Niết-Bàn nầy ta đã có nói nghĩa đó.
Các vị A-La-Hán không có thuần thiện, vì các vị A-La-Hán đều sẽ đặng Đại- Niết- Bàn nầy, do nghĩa nầy nên nhập Đại-Niết-Bàn có lạc rốt ráo, vì có lạc rốt ráo nên gọi là nhập Đại-Niết-Bàn.
Ca-Diếp Bồ-tát bạch Phật rằng : “ Như lời Phật nói tôi nay mới biết nghĩa sai khác, cùng nghĩa không sai khác, vì tất cả Bồ-Tát Thanh-Văn, Duyên-Giác đều sẽ đồng qui nơi Đại-Niết-Bàn ở đời vị lai, như các dòng nước chảy về biển cả. Thế nên hàng Thanh-Văn,
Duyên-Giác đều gọi là thường chẳng phải là vô thường. Do nghĩa nầy nên cũng có sai khác,
cũng không sai khác.
_ Bạch Thế-Tôn ! Thế nào là tánh sai khác ?
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Thanh-Văn như sữa. Duyên-Giác như lạc, Bồ-Tát như sanh-tô thục-tô, chư Phật Thế-tôn như đề-hồ. Do nghĩa nầy nên trong Đại- Niết- Bàn nói bốn chủng tánh sai khác nhau.
_ Bạch Thế-Tôn ! Tánh tướng của tất cả chúng sanh như thế nào ?
Nầy Thiện-nam-tử ! Như bò mới sanh, sữa máu chưa sai khác. Tánh phàm
phu các phiền não xen tạp cũng lại như vậy.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch rằng : “ Trong thành Câu-Thi-La có gã chiên-đà-la tên là Hoan-Hỷ, Phật thọ ký người nầy do một lần phát tâm nên sẽ mau thành đạo vô thượng chánh giác trong số ngàn Phật ở thế giới nầy. Cớ sao đức Như-Lai chẳng thọ ký cho Tôn-Giả Xá-Lợi-Phất, Tôn-Gỉa Mục-Kiền-Liên vân vân, mau thành Phật
đạo ?
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Hoặc có Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát phát nguyện rằng : Tôi sẽ mãi mãi hộ trì chánh pháp vậy sau mới thành Phật đạo. Vì phát nguyện mau, nên thọ ký cho mau thành Phật.
Nầy Thiện-nam-tử !Ví như người buôn bán, có châu báu
vô giá đem ra chợ bán. Người ngu thấy báu chẳng biết, khinh cười. Nhà buôn xướng rằng châu báu của tôi giá trị vô số. Bọn ngu càng nghe lại khinh cười thêm bảo nhau rằng : Thứ đó không phải chơn châu hay là châu pha
lê. Cũng vậy, hàng Thanh-Văn,
Duyên- Giác nếu nghe thọ ký mau thành Phật, thời bèn giãi đãi khinh cười coi rẽ. Như bọn người ngu chẳng biết chơn châu.
Đời vị lai có hàng Tỳ-kheo chẳng thể siêng năng tu tập pháp lành. Do nghèo
cùng khốn khổ, đói khát mà xuất gia để thân được no ấm, tâm chí họ khinh tháo, tà mạn, siểm khúc, Hạng nầy nếu nghe đức Như-Lai thọ ký hàng Thanh-Văn mau
thành Phật, họ sẽ cả cười khinh mạn chê bai. Nên biết bọn nầy tức là kẻ phá giới, tự nói rằng đã chứng đặng hơn người. Do nghĩa nầy nên tùy theo người phát nguyện mau thành, thời thọ ký cho mau thành. Người hộ trì chánh pháp, thời vì thọ ký cho lâu thành.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Đại Bồ-Tát như thế nào sẽ đặng chẳng hư hoại quyến thuộc ?
Phật nói : “ Nếu các Bồ-tát siêng năng tinh tấn muốn hộ trì chánh pháp. Do nhơn duyên nầy được quyến thuộc chẳng thể hư hoại.”
_ Bạch Thế-Tôn ! Do nhơn duyên gì chúng sanh
môi miệng khô cháy ?
_ Nếu có người chẳng biết Tam-bảo là thường còn, do nhơn duyên nầy, môi miệng khô cháy. Như người miệng bịnh chẳng biết vị ngọt, đắng, cay, chua mặn, lạt. Tất cả chúng sanh ngu si vô trí chẳng biết Tam-bảo là thường còn, thế nên gọi là môi miệng khô cháy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu có chúng sanh chẳng biết Như-Lai là thường trụ, nên biết người nầy là kẻ sanh manh, nếu biết Như-Lai là thường trụ, người nầy dầu là nhục nhãn nhưng Phật nói là thiên-nhãn.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu người có thể biết Như-Lai là thường trụ nên biết người nầy từ lâu đã tu tập kinh điển nầy. Phật nói những người nầy cũng gọi là thiên nhãn.
Nếu chẳng thể biết như-Lai là thường trụ, người nầy dầu có thiên nhãn, nhưng Phật gọi là nhục nhãn. Người nầy nhẫn đến chẳng biết tay chơn chi tiết của thân mình, cũng không
thể làm cho người khác biết, do nghĩa nầy nên gọi là nhục nhãn.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đức Như-Lai thường vì tất cả chúng sanh mà làm cha mẹ. Vì tất cả chúng sanh các thứ hình loại : Hai chơn, bốn chơn, nhiều chơn, không chơn, đức Phật dùng một âm thanh mà vì thuyết pháp. Những loài chúng sanh khác nhau kia đều tự đặng nhận hiểu, đều tán thán rằng : Đức Như-Lai ngày nay vì tôi mà thuyết pháp. Do nghĩa nầy nên đức Như-Lai gọi là cha mẹ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như người sanh con trai mới được mười sáu tháng, đứa trẻ dầu biết nói nhưng chưa rành rẽ. Mà cha mẹ của đứa trẻ muốn dạy con nói, nên theo đồng tiếng của nó để dạy lần lần. Lời nói của cha mẹ đứa trẻ có phải là chẳng đúng giọng ư ?
_ Bạch Thế-tôn ! Không phải vậy .
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Chư Phật Như-Lai tùy theo các thứ tiếng nói của mọi loài chúng sanh mà thuyết pháp. Vì làm cho chúng
sanh an trụ nơi chánh pháp. Tùy theo chúng sanh đáng được thấy mà vì thị hiện các thứ hình tượng. Đức Như- Lai nói năng đồng với chúng sanh, có thể cho rằng âm thanh của Như-Lai là chẳng chánh ư ?
_ Bạch Thế-Tôn ! Không phải vậy. Vì Đức Như-Lai tùy thuận theo các thứ âm thanh của thế gian, mà vì chúng sanh diễn nói diệu-pháp.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Niết-Bàn
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment