Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 35
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
PHẨM KHAI HOÁ TRƯỞNG GIẢ
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Bạc Gìa Phạm an cư tạI thành Thất La Phiệt,quá ba tháng tự tứ xong, làm y phục rồi, Ngài cùng chúng đạI Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi ngườI du hóa các nước.
Đức Bạc Gìa Phạm ấy thành tựu danh xưng quảng đạI vi diệu.Ngài xuất hiện thế gian được hàng TrờI, NgườI ca tụng công đức là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Cháng Giác, Minh Hạnh Viên mãn,Thiện Thệ, Thế Gian giảI, Vô Thượng Sĩ , Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật.
Đức Bạc Gìa Phạm ấy ở sâu nơi tự chứng đầy đủ thần thông oai đức che chói tất cả thế gian chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương, A Tu La v.v…Ngài thường vì thế gian mà nói pháp vi diệu.LờI khai thị của Ngài trước sau giữa đều lành, văn nghĩa khéo hay thuần nhứt,viên mãn phạm hạnh thanh bạch.
Bấy giờ bốn bộ chúng, hàng Quốc Vương, các quan, các nhà ngoại giao đạo, Sa Môn ,Bà La Bộ v.v… đều mang vô lượng thứ y phục,thực phẩm, mền nệm,thuốc men các thứ cúng dường đẹp tốt hơn hết dâng lên đức Như Lai.
Đức Thế Tôn được đạI chúng vây quanh cúng dường cung kính tôn trọng ca ngợI du hành lần lần đến nước Ma Kiệt Đà thành Vương Xá rồi ở lại núi Linh Thứu.
Trong thành Vương Xá có Trưởng Giả tên là Hiền Thủ.Trưởng Gỉa ấy đã từng thân cận chư Phật quá khứ trồng các căn lành phước đức rất lớn,dòng lớn giàu lớn, sản nghiệp của báu đều đầy đủ.
Trưởng Gỉa Hiền Thủ nghe đạI Sa Môn dòng họ Thích chứng Vô thượng Bồ đề cùng đạI chúng đến tạI nước nầy.
Đức Phật Thế Tôn ấy xuất hiện thế gian có danh xưng rất lớn, đủ mườI hiệu,thành tựu thần thông trí huệ nói pháp vi diệu,nhẫn đến viên mãn phạm hạnh thanh bạch.
Trưởng Giả Hiền Thủ nghĩ rằng : nay tôi nên đến núi Linh Thứu để được phụng kiến đức Như Lai.Nếu tôi được thấy đức Phật tất sẽ được lợI lành.
Suy nghĩ xong,Trưởng Giả Hiền Thủ cùng năm trăm Trưởng Giả ra khỏI thành Vương Xá hướng đến núi Linh Thứu.
BuổI sáng hôm ấy , đức Thế Tôn mặc y tăng già lê mang bát cùng chúng Tỳ Kheo thị tùng rờI núi Linh Thứu hướng đến thành Vương Xá. Đức Phật đi trước đạI chúng .Oai nghi của Ngài nghiêm chỉnh bước đi an tường .Vì giáo hóa chúng sanh mà Ngài hiện thân khất thực.
Lúc đức Phật sắp vào thành, Ngài dừng lạI giữa đường ,Trưởng Giả Hiền Thủ và năm trăm Trưởng Giả từ xa trông thấy đức Phật oai nghiêm siêu việt,thân màu hoàng kim mà ai cũng thích nhìn, đủ ba mươi hai tướng đạI trượng phu,các căn tịch định,thần thái đạm bạc, như đạI long tượng,nhiếp hộ các căn thanh tịnh không náo loạn như ao suốI đứng trong, chưn Ngài bước trên hoa sen hồng trăm ngàn ức cánh do bảy báu hiệp thành, được vô số Thiên ,Nhơn,Dạ Xoa cúng dường, mưa hoa trờI lớn rảI trên đức Như Lai.Hoa trờI ấy như dòng thác đổ tràn đầy mặt đất.
Chư Trưởng Gỉa khen chưa từng có,dùng lòng thanh tịnh đến chỗ đức Phật đảnh lễ chưn Phật rồI đứng qua một bên mà bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Thiệt chưa từng có.Thần lực của đức Như Lai chói che cả chư Tiên ,chư Tiên cùng Ma Vương,Phạm Vương.Oai đức của Như Lai đủ cả danh xưng to lớn.Vầng viên quang màu đẹp lấp cả đạI chúng.Thân tướng Như Lai dường tóa núi vàng lớn, dung mạo đoan nghiêm không ai sánh bằng.Thê& Tôn thành tựu tất cả những pháp hi kỳ.Tôi suy gẫm đức Thế Tôn oai đức như vậy quan sát những tướng gì mà vứt bỏ gia nghiệp để chứng ngộ đạI Bồ đề”.
Liền đó Trưởng Giả Hiền Thủ ở trước đức Phật nói kệ rằng:
“ Xưa tôi từng nghe đức Thế Tôn
Cát tường sắc đẹp danh xưng lớn
Nay thấy oai quang hơn chỗ nghe
Như tượng chơn kim đủ mọI đức
Thân sắc Như Lai dường núi vàng
Cao rộng nghiêm tịnh nhìn không chán
Chúng Tỳ Kheo oai đức trang nghiêm
Dường như trăng tròn giữa sao trờI
Đảnh tướng Như Lai không ai thấy
Cao bày rực rỡ hơn Tu Di
Búi tóc tròn đầy tuần tự xoắn
Đảnh tướng bằng nghiêm như lọng trời
Tóc biếc mềm mướt xoay bên hữu
Như ngọc thanh bửu của Thiên Đế
Sạch chói hơn lông cổ chim công
Nay tôi chiêm ngưỡng không biết chán
Diện mạo đoan nghiêm trán bằng phẳng
Mày sáng sạch như vành cung trời
Lông trắng chặng mày chói rực rỡ
Ánh sáng chiếu suốt như vầng trăng
Mắt trong diệu hiền rất đẹp lạ
Người thấy đều sanh lòng mến thích
Nay tôi chiêm ngưỡng chẳng tạm rời
Đảnh lễ mắt Phật thế gian nương
Sống mũi cao bằng dài và thẳng
Lần rộng tròn trịa như thỏi vàng
Môi đỏ bóng sáng rất thanh tịnh
Như trái tần bà ngọc ma ni
Răng đẹp sạch trắng thêm sáng bóng
Đồng màu sữa và ngó sen non
Răng kín bằng phẳng rất sạch sáng
Do điều thuận đạI định cảm nên
Răng trong răng ngoài chưn sâu chắc
Trên dưới khít khao đều tề chỉnh
Răng nanh sáng trắng hơn tất cả
Như nhạn vương ở giữa đàn nhạn
Tướng lưỡi của Phật rất rộng dài
Che mặt mỏng sạch như hoa sen
Như màu đồng đỏ châu ma ni
Lóng lánh như gương mặt trời mọc
Vành tai của Phật rất đoan nghiêm
Cõi trời cõi người chẳng nghe thấy
Dòng giống Cồ Đàm hàm toan nghê
Vô úy dường như sư tử chúa
Tôi ngắm tướng yết hầu của Phật
Hay nhỉ chất cam lộ thế gian
Trong sạch sáng suốt không vết nhơ
Đủ đạI lực chẳng nghĩ bàn
Trước cổ ngang rộng dài và thẳng
Ở giữa đều không có lằn nhăn
Tôn quý trong ngườI trờI trong trờI
Thường ăn chất vị đệ nhứt vị
Đầu vai tròn trịa đều đầy bằng
Ngực hông hùng mạnh oai dung thạnh
Tướng của Thế Tôn đờI chưa nghe
Như trên núi
cao mặt trờI sáng
Tay chưn hai vai
và sau gáy
Bảy chỗ sáng sạch đều đầy bằng
Cánh tay tròn dài như vòi voi
Bàn tay thòng xuống rờ đụng gối
Thân mình rộng dầy như thú vương
Viên mãn như cây ni câu
luật
Sức na la diên hiệp thành thân
Đủ trọn đại lực và nhẫn lực
Lông trên thân Phật đều hướng lên
Cứ mỗi lỗ lông mọc một lông
Bụi khói chẳng đóng như hoa sen
Xoắn về bên hữu mà mịn nhuyễn
Tôi xưa nghe truyền tướng ẩn kín
Âm tạng sâu như chúa ngựa trời
Vế đùi tròn trịa lần lần thon
Tướng ấy dường như chúa nai trời
Chưn dầy nổi vun gót tròn dài
Bàn tay màn mỏng như nhạn chúa
Bằng đầy vót dài hai mươi ngón
Móng màu xích đồng như hoa sen
Hai chưn tướng vành xe ngàn căm
Sáng sạch vi diệu đủ trang nghiêm
Như Lai dạo bước nơi thế gian
Hai mắt cá chưn chẳng chạm nhau
Cách đất bốn ngón đi trên không
Những bông sen đỏ theo chưn hiện
Đoái nhìn an tường bước tượng vương
Tiến lên đoan túc như Thiên Vương
ĐạI Thánh oai nghiêm vô sở úy
Giữa chúng vượt hơn sư tử vương
Sắc đẹp chói lấp Tỳ Sa Môn
Oai quang hơn trăm ngàn
mặt trờI
Thiên Vương Phạm Vương còn không bằng
Có ai hơn được đức Như Lai
Đi đứng thuyết pháp độ chúng sanh
Thiên Tiên Long Thần đều cung kính
Hoặc trổI nhạc trờI rảI hoa trờI
Lăng xăng ngập tràn đầy hư không
Nay thấy Thế Tôn đạI thần thông
Nên tôi trộm sanh lòng nghi hoặc
Trước kia do thấy công đức gì
Mà Phật xuất gia chứng vô thượng ?”.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Trưởng Giả Hiền Thủ : “ Nầy Trưởng Giả ! Ta xem thấy tất cả chúng sanh ở thế gian bị mườI sự khổ bức bách :
Một là sanh khổ.Hai lá lão khổ.Ba là bịnh khổ.Bốn là tử khổ.Năm là sầu khổ.Sáu là oán hận.Bảy là khổ thọ.Tám là ưu thọ.Chín là thống não.MườI là khổ lớn sanh tử lưu chuyển.
Nầy Trưởng Giả! Ta thấy mườI sự khổ ấy bức bách chúng sanh.Ta vì được Vô thượng Bồ đề để xuất ly sự khổ ấy,nên ta dùng lòng tịnh tín bỏ cung dòng thích thẳng đến đạo vô thượng”.
Muốn tuyên lạI nghĩa ấy, đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“ Ta thấy các phàm phu
Bị nhốt ngục lưu chuyển
Thường bị sanh lão bịnh
Các khổ làm bức bách
Sầu lo và oán hận
Những chết chóc kéo dắt
Vì trừ khổ lao ngục
Nên ta thích xuất ly.
Lại nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian bị mười thứ não hại ghét ganh lẫn nhau.Những gì là mười ?
Một là đã từng ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại.
Hai là hiện nay ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại.
Ba là sẽ ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại.
Bốn là đã từng ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại.
Năm là hiện nay ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại.
Sáu là sẽ ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại.
Bảy là đã từng ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh lòng não hại.
Tám là hiện nay ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh lòng não hại.
Chín là sẽ ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh lòng não hại.
Mười là ở những nơi lỗi lầm mà làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy mườI điều não hạI ấy làm não hạI tất cả chúng sanh thế gian.Ta vì được Vô thượng Bồ đề để xuất ly sự não hạI ấy nên dùng lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung họ Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy nên nói kệ rằng :
“Chúng sanh ganh ghét nhau
Đều do mườI não sanh
Nơi mình và
mình ưa
Ba đờI đều não hạI
Hoặc nơi mình chẳng ưa
LạI làm những lợI ích
Oán chét do đây sanh
Ba đờI đều não hạI
Thứ mườI nơi lỗI làm
Sanh trưởng khổ oán ghét
Ta thấy những lỗI ấy
Chán sợ nên xuất gia.
LạI nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian vào trong mườI thứ rừng rậm ác kiến .Do chấp dị kiến mà chẳng tự ra khỏi.
Những gì là mườI ?
Một là rừng rậm ác kiến về ngã kiến.
Hai là rừng rậm ác kiến về hữu tình kiến.
Ba là rừng rậm ác kiến về thọ mạng kiến.
Bốn là rừng rậm ác kiến về sát thủ thú kiến
Năm là rừng rậm ác kiến về đoạn kiến
Sáu là rừng rậm ác kiến về thường kiến.
Bảy là rừng rậm ác kiến về vô tác kiến.
Tám là rừng rậm ác kiến về vô nhơn kiến.
Chín là rừng rậm ác kiến về bất bình đẳng nhơn kiến
Mười là rừng rậm ác kiến về tà kiến.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh vào trong mườI thứ rừng rậm ác kiến không tự ra được.Ta vì được Vô thượng Bồ đề để dứt hẳn những ác kiến ấy nên dùng lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung họ Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghiã ấy mà nói kệ rằng :
“Tất cả kẻ phàm phu
Vào rừng rậm ác kiến
Ngã kiến,hựu tình kiến
Đoạn kiến vớI thường kiến
Chấp vô tác kiến thảy
Vì an lập chánh kiến
Nên ta đi xuất gia.
Lại nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian từ vô số kiếp gây tạo đủ trăm ngàn na do tha câu chi tội lỗi,thường bị mười thứ tên độc lớn bắn trúng.Những gì là mười ?
Một là tên độc ái luyến
Hai là tên độc vô minh.
Ba là tên độc dục nhiễm.
Bốn là tên độc tham lam.
Năm là tên độc lỗi lầm.
Sáu là tên độc ngu si.
Bảy là tên độc kiêu mạn.
Tám là tên độc kiến chấp.
Chín là tên độc có.
Mười là tên độc không có.
Nầy Trưởng Giả ! Vì ta thấy chúng sanh bị mườI thứ tên độc ấy bắn trúng nên ta cầu Vô thượng Bồ đề để dứt hẳn những tên độc ấy.Do đó mà ta dùng lòng tịnh tín rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng.
Đức Thế Tôn muốn nói lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“ Quá câu chi đại kiếp
Chúng sanh bị tên ái
Tên vô minh làm mù
Từ tốI vào trong tốI
Tên dục thường bắn trúng
Nhiễm trước gọI tên tham
Tên lỗI lầm muộn loạn
Mang mũi tên ngu si
Cống cao phát tên mạn
Trái cãi sanh kiến chấp
Do tên có không có
Sa vào có và không
Các phàm phu ngu si
Mũi nhọn do miệng họ
Cùng nhau sanh tranh luận
Đây thiệt đây chẳng thiệt
Vì nhổ những tên độc
Như Lai hiện thế gian
Cứu ngườI trúng tên độc
Xuất gia thành thánh đạo.
LạI nầy Trưởng Giả! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian do mườI thứ ái luyến kiến lập căn bổn.Những gì là mườI ?
Đó là do ái nên cầu ,do cầu nên được,do được nên có ngã sở, do ngã sở nên nắm chặt,do nắm chặt nên tham dục,do tham dục nên say đắm,do say đắm nên bỏn sẻn,do bỏn sẻn nên thâu góp,do thâu góp
nên gìn giữ,do gìn giữ nên cầm khí giớI cãi kiện chê bai sanh ra nhiều sự khổ.LạI do nơi đây mà phát ra lờI nói ly biệt nuôi lớn những sự ác bất thiện.
Nầy Trưởng Giả! Ta thấy chúng sanh do mườI thứ ái nhiễm kiến lập căn bổn nên cầu Vô thượng Bồ đề để được pháp không căn bổn không sở y.Do đó ta dùng lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Ái nhiệm nuốt chúng sanh
Theo tìm những dục lạc
Được lợI sanh ngã sở
Do đây mà nắm chặt
Tôi phảI được phảI làm
Dục tham càng thêm lớn
Những say đắm bỏn sẻn
NốI nhau mà phát sanh
Quá tham lam bỏn sẻn
Nên chứa thâu càng nhiều
Do chứa nên giữ gìn
Sanh nhiều lỗI không hở
NgườI ngu vì giữ gìn
Khí giớI tàn hạI nhau
Gieo những nghiệp bất thiện
Do đây sanh quả khổ
Thấy nhơn duyên ái rồI
Các khổ chẳng còn sanh
Trí giác không căn trụ
Hơn hết trong trí giác.
LạI nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian do mườI thứ tánh ác tà mà kiến lập tà định.Những gì là mườI ?
Một là tà kiến.Hai là tà tư duy.Ba là tà ngữ.Bốn là tà nghiệp.Năm là tà mạng.Sáu là tà tinh tiến .Bảy là tà niệm.Tám là tà định. Chín là tà giải thoát .MườI là tà giảI thoát tri kiến.
Nầy Trường Già ! Ta thấy chúng sanh do mườI thứ tà tánh ấy kiến lập tà định,ta muốn chứng Vô thượng Bồ đề để xuất ly các tà tánh như vậy nên dùng lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung dòng Thích mà hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Chúng sanh hoài tà kiến
Tà tư duy cảnh giớI
Tuyên nói những tà ngữ
Và làm những tà nghiệp
Tà mạng tà tinh tiến
Tà niệm và tà định
Thành tựu tà giảI thoát
Và đến tà tri kiến
Tà tánh quyết định tụ
Chỗ nương của kẻ ngu
Vì khiến trụ chánh kiến
Hướng đến đạo vô thượng.
LạI nầy Trưởng Giả! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian do mườI thứ nghiệp đạo bất thiện mà hay kiến lập ở nơi tà đạo phần nhiều phảI đọa vào ác thú.Những gì là mườI ?
Một là giết chết .Hai là chẳng cho mà lấy. Ba là tà dâm. Bốn là vọng ngữ .Năm là lời ly gián. Sáu là thô ngữ .Bảy là ỷ ngữ. Tám là tham lam.Chín là giận thù.Mười là tà kiến.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh do mườI thứ nghiệp bất thiện ấy nương theo tà kiến mà xu hướng,phần đông phảI sa vào ác đạo.Ta vì muốn chứng Vô thượng Bồ đề siêu xuất tất cả các tà đạo nên dùng lòng tịnh tín rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Nào hạI mạng chúng sanh
Cướp trộm của cảI ngườI
Làm hạnh tà dâm dục
Mau đọa vào địa ngục
Thô ngữ ,ly gián ngữ
Vọng ngữ trái tịch tịnh
Những phàm phu ỷ ngữ
Bị ngu si ràng buộc
Tham lam tài sản ngườI
Thường sanh lòng giận thù
KhởI các thứ tà kiến
NgườI ấy đến ác đạo
Ba nghiệp do thân khởI
Bốn nghiệp từ miệng sanh
Ý hay thành ba nghiệp
Nên gọI là ác hạnh
Làm những ác nghiệp rồi
Dắt đến trong ác đạo
Nay ta hiện thế gian
Tế độ khiến ra khỏi.
LạI nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh thế gian do mườI pháp nhiễm ô mà ở tạI phiền não,sa vào trong phiền não.Những gì là mườI ?
Một là xan cầu nhiễm ô.
Hai là ác giới cấu nhiễm ô.
Ba là sân cấu nhiễm ô.
Bốn là giải đãi cấu nhiễm ô.
Năm là tán loạn cấu nhiễm ô.
Sáu là ác huệ cấu nhiễm ô.
Bảy là bất tuân chánh giáo cấu nhiễm ô.
Tám là tà nghi cấu nhiễm ô.
Chín là bất tín giải cấu nhiễm ô.
Mười là bất cung kính cấu nhiễm ô.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh bị mườI thứ cấu nhiễm ấy làm nhiễm ô,ta vì chứng Vô thượng Bồ đề được pháp vô nhiễm vô thượng nên dùng lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Phần đông các chúng sanh
Bị mườI thứ ô nhiễm
Thích hữu vi phiền não
Chẳng hề biết chán lìa
Xan cấu là ô nhiễm
Tất cả phàm phu dại
Phạm giới chẳng tịch tịnh
Chẳng tập tu chánh định
Sân cấu trái nhẫn nhục
Lòng họ chẳng chuyên trụ
Người tá trí ngu độn
Chẳng tuân theo lờI dạy
Của cha mẹ sư trưởng
Chúng sanh bị lướI nghi
Chẳng cầu trí chiếu thế
Chê bai pháp thâm diệu
Của đức Phật dạy truyền
Mặc lấy áo vô minh
Khinh tiện nơi thánh uẩn
Thấy được ô nhiễm ấy
Có ai thích hữu vi
PhảI siêng cầu tịch diệt
Vô vi không ô nhiễm.
LạI nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian bị mườI thứ triền phược nó trói buộc.Những gì là mườI ?
Một là lưới xan tật trói buộc.
Hai là màn vô minh che lòa.
Ba là phiền não làm mê say sa vào hố ngu si.
Bốn là dòng nước lũ ái dục đẩy trôi chìm đắm.
Năm là bị tên độc tà kiến bắn trúng.
Sáu là khói đặc giận thù xông lấp.
Bảy là ngọn lửa tham dục đốt cháy.
Tám là thuốc độc lỗi lầm làm mê loạn.
Chín là những gai độc ngũ cái làm trở ngại.
Mười là thường ở trong dòng nước sanh tử trong đồng hoang đói khát,lười mỏi đối với chánh cần.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh bị mườI thứ triền phược ấy trói buộc nên ta cầu Vô thượng Bồ đề để chứng pháp không triền phược.Ta dùng lòng tin thanh tịnh rờI bỏ cung dòng Thích hướng đến đạo vô thượng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“TuổI già nuốt trẻ mạnh
TuổI già mất tươi đẹp
TuổI già tổn niệm huệ
Trọn bị thần chết nuốt
Bịnh xô ngã thế lực
Cướp đoạt tâm dũng mãnh
Làm hư cả căn thân
Yếu đuốI không nơi dựa
Chết như quỷ La Sát
Độc hại rất đáng sợ
Thường ở mãi thế gian
Uống cạn mạng chúng sanh
Ta đã chán thế gian
Già bịnh chết bức bách
Nên cầu pháp xuất gia
An lành không già chết
ĐờI bị ba thứ lửa
Ta thấy không ai cứu
Rưới mưa pháp cam lộ
Tắt mất ba lửa độc
Thấy những kẻ lạc đường
Mù loà sanh manh thảy
Vì muốn làm mắt sáng
Dẫn đường nên xuất gia
Chúng sanh nuôi lòng nghi
Uẩn cái nó che lấp
Vì trừ hối não ấy
Nên xuất gia thuyết pháp
Kẻ ngu chống trái nhau
Rình rập hạI lẫn nhau
Vì hoà giảI oán ghét
Giúp đờI nên xuất gia
VớI cha mẹ sư trưởng
Chống khinh không cung kính
Vì dẹp tràng kiêu mạn
Nên ta đi xuất gia
Thấy tham lam hại đời
Do tiền của hạI nhau
Vì được bảy thánh tài
Dứt trừ những pháp tham
Hoặc đến nỗI hạI nhau
LợI mình trọn vô ích
Thấy vậy ta xả thân
Cầu rờI ngục tam giớI
Xưa chưa biết tam giớI
Sự lợI ích chơn thiệt
Vì mở sự lợI thiệt
Nên ta đi xuất gia
Thấy người đến địa ngục
Nghiệp nhơn ác quá nhiều
Chịu vô biên khổ não
Vì cứu mà xuất gia
Thấy các loài muôn thú
Thường giết hại lẫn nhau
Muốn làm chỗ nó nương
Thương chúng mà
xuất gia
Thấy các loài ngạ quỷ
Rất khổ vì đói khát
Vì chứng đạI Bồ đề
Thí cam lộ bất tử
Loài ngườI khổ vì cầu
Chư Thiên khổ vì chết
Thấy khổ khắp ba cõi
Vì cứu mà xuất gia
Ta thấy ngườI tham dục
RờI xa lòng tàm quý
Hiếp bức cả thân thuộc
Hoang dâm hơn heo chó
LạI thấy những kẻ ngu
Bị gái đẹp nuốt chửng
Phóng dật gây tộI ác
Vì bỏ nên xuất gia
Thấy chúng sanh kiếp trược
Ma khiến tộI ác sai
Ta muốn điều phục họ
Xuất gia thánh chánh giác
TạI gia là gốc tộI
Xuất gia đến Bồ đề
Nên bỏ cả quốc thành
Để hết hẳn sanh tử ».
Năm trăm Trưởng Giả nghe lời đức Phật dạy chưa từng có,mới biết đức Như Lai là bực chơn giác.Các Trưởng Giả liền ở trứơc đức Phật khác miệng đồng lời nói kệ rằng :
« Chúng tôi kinh sợ già chết bức
Xin Phật tuyên dạy hết khổ ấy
Phật khỏi tam giới đến thanh tịnh
Tánh thanh tịnh rời hẳn tam giới
Xin cứu chúng sanh thoát tam giới
Và người tại gia bị nhốt giam
Thế Tôn ly nhiễm giải thoát nhứt
Rời xa trần cấu lòng thanh tịnh
Điều ngự lớn trong pháp điều ngự
Xin mở cửa cam lộ vi diệu
Đủ tướng diệu sắc đại trượng phu
Trời người thế gian không ai sánh
Đấng tối thắng không ai sánh bằng
Xin nói pháp mầu cứu muôn loại
Dứt hẳn ba độc hết tội lỗi
Huệ nhãn sạch trong tiêu màn lòa
Sạch bụi lìa tối mở lưới si
Xin đức Thế tôn tuyên diệu pháp
Chúng sanh quá khổ không chỗ dựa
Đắm ao tam giới không ai cứu
Mau vớt lên bờ cao an ổn
Sông to kiêu mạn nước xoáy si
Bịnh tật kiện tụng sóng gào to
Chúng sanh trôi chìm không ai vớt
Xin Phật từ bi cứu thoát hiểm
Ngàn ức mặt trờI chói núi vàng
Thân phật chói sáng hơn sáng ấy
Xin dùng phạm âm thanh thắng diệu
Tuyên bố pháp đoan nghiêm tốI thượng
Tự tánh các pháp vốn thanh tịnh
Thể tướng rỗng suốt như minh châu
Không có tác giả không thọ giả
Biến chánh giác chẳng từ ngoài được
Tự nhiên đầy đủ lực vô úy
Hiển hiện vô biên hạnh tịnh diệu
Trí giảI vô biên như hư không
Xin đấng Pháp Vương tuyên pháp diệu”.
Bấy giờ đức Thế Tôn nghĩ rằng năm trăm Trưởng Giả nầy căn lành đã thành thục có thể lãnh thọ diệu pháp.Nay ta nên nói pháp cho họ phát tâm xuất gia dứt trừ phiền não được trí huệ vô lậu.
Nghị xong , đức Phật liền bay lên ngồI kiết già trên hư không.
Các Trưởng Giả thấy Phật hiện thần biến khen chưa từng có,càng kính trọng tín ngưỡng Phật hơn.
Đức Thế Tôn bảo các Trưởng Giả rằng : “ Các ông lắng nghe ! Trong đờI có mườI sự khổ bức bách. Đó là asnh khổ,lão khổ,bịnh khổ ,tử khổ, sầu khổ, oán khổ, khổ thọ, ưu thọ và thống não sanh tử. MườI sự khổ bức bách như vậy làm khổ chúng sanh.Nay các ông có muốn giảI thoát chăng ?
LạI nầy các Trưởng Giả ! Trong đờI có mườI thứ não hại. Đó là với thân của mình từng làm sự chẳng lợI ích,nay làm sự chẳng lợI ích,sẽ làm sự chẳng lợI ích , sẽ làm sự chẳng lợI ích; vớI chỗ ta từng yêu thích làm sự chẳng lợI ích,vớI chỗ ta hiện nay yêu thích làm sự chẳng lợI ích, vớI chỗ ta sẽ yêu thích làm sự chẳng lợI ích; vớI chỗ ta từng chẳng ưa làm sự lợI ích, vớI chỗ ta hiện chẳng ưa làm sự lợI ích, vớI chỗ ta sẽ chẳng ưa làm sự lợI ích, và ở nơi tất cả lỗI chẳng lợI ích sanh lòng não hại.MườI sự não hạI ấy các ông có muốn giảI thoát chăng ?
LạI nầy các Trưởng Giả ! Trong đờI có mườI thứ rừng rậm dị kiến ác kiến. Đó là ngã kiến, chúng sanh kiến , thọ mạng kiến, sát thủ thú kiến , đoạn kiến ,thường kiến, vô tác dụng kiến,vô nhơn kiến ,bất bình đẳng kiến và tà kiến.MườI rừng rậm ác kiến ấy các ông có muốn giảI thoát chăng ?
LạI nầy các Trưởng Giả ! Trong đờI bị mườI thứ tên độc lớn bắn trúng. Đó là ái độc, vô minh độc, dục độc, tham độc, quá thất độc, ngu si độc, mạn độc, kiến độc ,hữu độc và vô độc.MườI thứ tên độc ấy các ông có muốn giảI thoát chăng ?
LạI nầy các Trưởng Giả ! Trong đờI có mườI thứ pháp ái căn bổn . Đó là do vì ái nên tìm cầu, do vì cầu nên được , do vì được nên có ngã sở hữu , do vì sở hữu nên nắm chặt,do vì nắm chặt nên tham dục,do vì tham dục nên say đắm,do vì say đắm nên bỏn sẻn, do vì bỏn sẻn nên góp chứa, do vì góp chứa nên gìn giữ, do vì gìn giữ nên dùng những khí giớI tranh chấp kiện tụng chê bai huỷ báng chia rẽ, những pháp ác bất thiện khổ não nhơn đây mà phát khởi.MườI thứ pháp ái căn bổn như vậy nay các ông có muốn giảI thoát chăng ?
LạI nầy các Trưởng Giả ! Trong đờI có mườI thứ tà tánh. Đó là tà kiến ,tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp ,tà mạng,tà tinh tiến, tà niệm, tà định, tà giải thoát , tà giải thoát tri kiến. Mười thứ tà tánh như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng ?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời có mười nghiệp đạo bất thiện. Đó là hại mạng, chẳng cho mà lấy , tà dâm ,vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, ỷ ngữ , tham dục , giận thù và tà kiến. MườI nghiệp đạo bất thiện như vậy nay các ông có muốn giảI thoát không ?
LạI nầy các Trượng Giả ! Trong đờI có mườI thứ pháp cấu uế nhiễm ô. Đó là bỏn sẻn cấu uế, phá giớI cấu uế, giận hờn cấu uế, giảI đãi cấu uế, tán loạn cấu uế , ác kiến cấu uế , chẳng tuân lờI dạy cấu uế, nghi hoặc cấu uế , bất tín cấu uế và chẳng cung kính cấu uế.MườI thứ cấu uế nhiễm ô như vậy nay các ông có muốn giảI thoát không ?
LạI nầy các Trưởng Giả ! Trơng đờI có mườI sự sanh tử lưu chuển đạI bố úy. Đó là trói buộc trong lưới bỏn sẻn ganh ghét ,che lòa trong màn vô minh, sa vào hố sâu ngu si, trôi chìm dòng
nước lũ ái dục, trúng tên tà kiến ,khói phẫn hận xông lấp ,lửa mạnh tham dục đốt cháy , độc dược lỗI lầm làm mê ,gai độc ngũ cái ngăn trở và chạy quanh trong đồng hoang đói kém.MườI sự sanh tử lưu chuyển đạI bố úy như vậy nay các ông có muốn giảI thoát chăng ?”.
Năm trăm Trưởng Giả đồng thanh nhứt tâm bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nay chúng tôi muốn được giãi thoát mườI sự khổ bức bách như là sanh già v.v…nhẫn đến sự bức bách đi quanh trong đồng hoang đói kém chúng tôi
đều muốn được giảI thoát tất cả”.
Đừc Phật phán dạy : “ Nầy các Trưởng Giả ! Các ông nghe kỹ.Nay ta sẽ nói chánh pháp yếu.
Nấy các Trưởng Giả ! Nhãn chẳng cầu giảI thoát , vì nhãn không tác không dụng, nhãn chẳng suy nghĩ được chẳng hay biết được.Vì thế nên nhãn chẳng phảI là ta, các ông phảI thọ trì như vậy.Cho đến nhĩ tỷ thiệt thân và ý đều chẳng cầu giảI thoát, vì nhĩ đến ý không tác không dụng, chẳng suy nghĩ được chẳng hay biết được .Vì thế nên nhĩ đến ý cũng chẳng phảI là ta , các ông phảI thọ trì như vậy.
LạI nầy các Trưởng Giả ! Sắc chẳng cầu giảI thoát ,vì sắc không tác không dụng , không suy nghĩ được không hay biết được .Vì thế nên sắc chẳng phài là ta, các ông phảI thọ trì như vậy. Như sắc, năm trần thanh hương vị xúc và pháp cũng đều chẳng cầu giảI thoát vì đều không tác không dụng ,không suy nghĩ được không hay biết được, đều chẳng phảI là ta, các ông phảI thọ trì như vậy.
LạI nầy các Trưởng Giả ! Sắc uẩn chẳng cầu giảI thoát, vì sắc uẩn không tác không dụng không suy nghĩ được không hay biết được, chẳng phảI là ta ,các ông phảI thọ trì như vậy.Bốn uẩn thọ tưởng hành và thức cũng đều chẳng cấu giảI thoát, vì không tác không
dụng không suy nghĩ được không hay biết được chẳng phảI là ta , các ông phảI thọ trì như vậy.
LạI nầy các Trưởng Giả ! Địa đạI chẳng cầu giảI thoát ,vì không tác không dụng không suy nghĩ được không hay biết được không phảI là ta ,các ông phảI thọ trì như vậy .Thủy đạI, hoả đạI, phong đạI ,không đạI vì thức đạI cũng đều chẳng cần giảI thoát,vì đều không tác không dụng, không suy nghĩ được không hay biết được chẳng phảI là ta, các ông phảI thọ trì như vậy.
LạI nầy các Trưởng Giả ! Các pháp đều chẳng thiệt, do phân biệt mà sanh khởI, nó nương theo các duyên không có
năng lực,nó chuyển đổI theo các duyên.Nếu có các duyên thì giả lập các pháp , nếu không các duyên thì không các pháp giả.
Nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp chỉ là giả đặt ra để ra.Trong ấy không có gì sanh gì lão gì tử gì tận gì khởI cả. Chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử đáng dùng để quy y. Các ông phảI biết như vậy.
Nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp đều chẳng thiệt ,do phân biệt mà sanh khởI ,y cứ theo các duyên ,nó yếu kém không năng lực theo các duyên mà chuyển đổi. Nếu có các duyên thì giả lập các pháp .Nếu không các duyên thì không pháp giả.
Nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp chỉ là giả lập,trong ấy đều không có gì sanh gì laõ gì tử gì tận gì khởI . Chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử, đáng dùng để quy y.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu có phân biệt chẳng thiệt thì có tác ý giả lập bất chánh.Nếu không phân biệt chẳng thiệt thì không tác ý giả lập bất chánh.Nếu có tác ý bất chánh thì có vô minh giả lập.Nếu không tác ý bất chánh thì không vô minh giả lập.Nếu có vô minh thì có hành giả lập.Nếu không vô minh thì không các hành giả lập: Nếu có các hành thì có thức giả lập.Nếu không các hành thì không
thức giả lập.Nếu có thức giả lập thì có danh sắc giả lập.Nếu không thức thì không danh sắc giả lập.Nếu có danh sắc thì có sáu nhập giả lập.Nếu không danh sắc thì không sáu nhập giả lập.Nếu có sáu nhập thì có xúc giả lập.Nếu không sáu nhập thì không xúc giả lập.Nếu có xúc thì có thọ giả lập.Nếu không xúc thì không thọ giả lập.Nếu có thọ thì có ái giả lập.nếu không thọ thì không ái giả lập.Nếu có ái thì có thủ giả lập.Nếu không ái thì không thủ giả lập.Nếu có thủ thì có hữu giả lập.Nếu không thủ thì không hưũ giả lập. Nếu có hữu thì có sanh giả lập.Nếu không hữu thì không sanh giả lập.Nếu có sanh thì có laõ tử giả lập. Nếu không sanh thì không laõ
tử giả lập.
Nầy các Trưởng Giả ! Thế nào là laõ ? Đó là tình thức tối suy , đấu bạc tóc rụng,da dùn mặt nhăn , thọ mạng tổn giảm,các căn suy kém, hàng động bất tiện, đó gọi là già.
Thế nào là tử ? Đó là diệt mất đổi dời các uẩn tan rã hư hoại bỏ chúng đồng phận , đó gọi là chết.
Laõ ấy tử ấy là hiệp lại gọi là laõ tử .
Nầy các Trưởng Giả ! Nếusanh mà có thìcó giả lão tử .Nếu sanh mà không thì không giả lão tử.
Thế nào là sanh ? Đó là sanh ấy đồng sanh khởi các uẩn xuất hiện và có các căn xứ hội hiệp chúng đồng phận , đó gọi là sanh.
Nầy các trưởng Giả ! nếu hữu mà có thì có giả sanh.Nếu hữu mà không thì không giả sanh .
Thế nào là hữu ? Đó là dục hữu sắc hữu và vô sắc hữu, phước nghiệp phi phước nghiệp và bất đồng nghiệp, đó gọi là hữu.
Nấy các Trưởng Giả ! Nếu thủ mà có thì có giả hữu.Nếu thủ mà không thì không giả hữu.
Thế nào là thủ ? Đó là dục thủ kiến thủ giới cấm thủ và ngã thủ, đó gọi là thủ.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu ái mà có thì có giả thủ .Nếu ái mà không thì không giả thủ.
Thế nào là ái ? Đó là sắc ái thanh ái hương ái vị ái xúc ái vá pháp ái, đó gọi là ái.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu thọ mà có thì có giả ái.Nếu thọ mà không thì không giả ái.
Thế nào là thọ ? Đó là nhãn xúc sanh ra thọ, nhĩ xúc tỷ xúc thiệt xúc thân xúc ý xúc sanh ra thọ, đó gọi là thọ.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu xúc mà có thì có giả thọ.Nếu xúc mà không thì không giả thọ.
Thế nào là xúc ? Đó là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc,
đó gọi là xúc.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu sáu nhập mà có thì có giả xúc.Nếu sáu nhập mà không thì không giả xúc.
Thế nào là sáu nhập ? Đó là nhãn nhập, nhĩ nhập , tỷ nhập, thiệt nhập , thân nhập và ý nhập , đó là sáu nhập , cũng gọi là sáu xứ, là sáu căn.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu danh sắc mà có thì có giả sáu nhập . Nếu danh sắc mà không thì không giả sáu nhập.
Thế nào là danh sắc ? Đó là thọ tưởng tư xúc tác ý bốn đại chủng và sắc sở tạo của bốn đại chủng tạo ra, đó là danh sắc.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu thức mà không thì không giả danh sắc.
Thế nào là thức ? Đó là nhãn thức nhĩ thức tỷ thức thiệt thức thân thức và ý thức, đó gọi là thức.
Nầy các Trường Giả ! Nếu hành mà có thì có giả thức.Nếu hành mà không thì không giả thức.
Thế nào là hành ? Đó là sắc tư thanh tư hương tư vị tư xúc tư và pháp tư, đó gọi là hành.
Nầy các trưởng Giả ! Nếu vô minh mà có thì có hiả hành.Nếu vô minh mà không thì không giả hành.
Thế nào là vô minh ? Đó là tiền tế không biết ,hậu tế không biết, tiến tế hậu tế không biết ,nội không biết ,ngoại không biết ,nội ngoại không biết,khổ không biết, tập không biết , diệt không biết, đạo không biết, duyên không biết ,duyên khởi không biết, với pháp duyên sanh hoặc đen hoặc trắng, có duyên khôngduyên, có quang ảnh không quan ảnh, có tội không tội, đáng thân cận không đáng thân cận, không biết không thấy không nhìn rõ không thấu hiểu , đó gọi là vô minh.
Nầy các Trưởng Giả ! Tác ý bất chánh nếu mà có thì có giả lập vô minh . Nếu tác ý bất chánh mà không thì không giả lập vô minh .
Thế nào là tác ý bất chánh ? Đó là quan niệm rằng ở quá khứ ,ta dòng gì chỗ nào loài nào ? Đến vị lai , ta dòng gì chỗ nào loài nào. Lại đối với nội sanh thân sanh nhiều nghi hoặc : Thế nào gọi là ta , ta là ai, là có hay là không , là hư hay là thiệt , là dòng gì , là chỗ nào , là loài nào , xưa ta chỗ nào đến ở chỗ nọ ? Phát khởi những tác ý bất chánh như vậy.
Từ trong sáu kiến giải tùy sanh ra một kiến giải nào rồi chấp là có ngã, chấp là không ngã ,hoặc y nơi ngã mà cho là ngã, hoặc chẳng y nơi ngã mà cho là ngã.Lại hư vọng phát khởi kiến chấp như vầy : ngã tức thế gian hoặc do duyên phát khởi là thường là hằng chẳng chuyển chẳng biến còn hoài mãi mãi. Đó gọi là tác ý bất chánh.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu có phân biệt chẳng thiệt thì có giả lập tác ý bất chánh. Phân biệt chẳng thiệt nếu không thì không giả lập tác ý bất chánh.
Thế nào gọi là phân biệt chẳng thiệt ? Đó là ngã , hữu tình chúng sanh, thọ mạng giả, trượng phu , sát thủ, sanh giả, ý sanh, nhơn, tác giả , thọ giả, đó gọi là chẳng thiệt .Mà lại có phàm phu không học hiểu hư vọng phát khởi phân biệt là ngã ,là nhơn, là hữu tình, là mạng giả, phân biệt là trượng phu, là sát thủ, là sanh giả, là ý sanh, là tác giả ,là thọ giả, đó là phân biệt chẳng thiệt.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu phân biệt chẳng thiệt ấy mà có thì có giả lập tác ý bất chánh. Nếu phân biệt chẳng thiệt mà không thì không giả lập tác ý bất chánh.
Nầy Trưởng Giả ! Nếu tác ý bất chánh mà có thì có giả lập vô minh .Nếu tác ý bất chánh mà không thì không giả lập vô minh .
Nếu vô minh mà có thì có giả lập các hành.Nếu vô minh mà không thì không giả lập các hành.
Nếu các hành mà có thì có giả lập thức.Nếu các hành mà không thì không giả lập thức.
Như vậy nhẫn đến nếu sanh mà có thì có giả lập lão tử.Nếu sanh mà không thì không
giả lão tử”.
Đức Phật phán dạy : “ Nầy các Trưởng Giả ! Nay các ông phảI biết tất cả các pháp đều do phân biệt chẳng thiệt phát khởI , đều y theo các duyên , nó yếu kém vô lực theo các duyên mà chuyển. Nếu có các duyên thì có giả pháp, nếu không các duyên thì không giả pháp.
Nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp chỉ là giả lập , trong ấy đều không có gi sanh gì lão gì tử gì tận và không có gì phát khởI, chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử đáng được quy y.
Nầy các Trưởng Giả ! Ví như ao nước lớn, các loài tôm cá y nơi sức gì để ở ?”.
Các Trưởng Giả thưa : “ Bạch đức Thế Tôn ! Các tôm cá ấy y nơi sức nước để ở”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy .Nầy các Trưởng Giả ! Nước ấy có nghĩ rằng tôi có sức lực chăng ?”.
Các Trưởng Giả thua : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nước ấy vô lực vô năng, nào có suy nghĩ gì”.
Đức Phật phán : “Đúng như vậy.Nầy các Trưởng Giả ! Các pháp do phân biệt chẳng thiệt phát khởI cũng như vậy,chỉ là giả đặt bày , nó không lực không năng theo các duyên mà chuyển.Có các duyên thì có giả pháp. Hông các duyên thì
không giả pháp.
Nầy các Trưởng Giả ! Các pháp chỉ là giả lập.Trong ấy đều không có gì sanh gì lão gì tử gì tận gì khởi. Chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử đáng được quy y.Vì thế nên các ông phảI chánh quan sát các duyên như vậy chẳng phảI là chỗ an ổ khó bảo trì được, rồI rất sợ sệt đào tẩu lánh xa nó.
Các ông lạI phảI quan sát đó là pháp gì, do sợ pháp gì mà chạy đến đây ? Lúc các ông chánh quán như vậy thì không pháp để được, không sợ không bỏ.TạI sao ? Tất cả các pháp đều là bất khả đắc, vì tất cả thứ cầu mong đều bất khả đắc ; tất cả pháp không ngã vì rờI lìa trần cấu ; các pháp không chúng
sanh vì xa rờI ngã; các pháp không thọ mạng vì ra khỏI sanh già bịnh sầu lo khổ não bức bách ; các pháp không sát thủ thú vì ba đờI dứt đoạn ; các pháp không danh tự vì tất cả ngôn âm không thể nói , các pháp vô trước vì không sở duyên ; các pháp tịch tịnh vì là tướng tịch diệt ; các pháp phổ biến vì là tánh hư không ; các pháp tánh
không vì không địnhthuộc ; các pháp vô động vì không sở y; các pháp y cứ nơi thiệt tế an trụ nơi thiện trụ vì tương ưng vớI vô động ; các pháp chẳng thể khai xiển vì rờI lià tướng sóng tràn ; các pháp chẳng thể hiển thị vì không tướng không hình không có quang ảnh rờI lìa các hành; các pháp chẳng phảI sở hữu của ngã vì rờI ngã sở, các pháp chẳng thể phân biệt vì rờI tâm ý thức; các pháp không ái tàng vì siêu quá nhãn thức nhẫn đến nhĩ tỷ thiệt thân và ý thức ; các pháp chẳng thể cất dờI vì rờI sanh trụ hoạI ; các pháp không tác dụng vì rờI tâm ý thức ; các pháp thuộc nơi duyên vì tánh yếu kém.
Nầy các Trưởng giả ! Ta nói về nhãn ấy , là pháp , do bốn đạI chủng tạo ra , nó là pháp vô thường vô trụ vô hằng chẳng bền chắc yếu kém mau hư khó , bảo tín được,là chỗ hợp của các sự khổ não nhiều bịnh nhiều tai hại.Nhãn ấy đã như vậy , các ông chớ nên y chỉ nó .VớI nhĩ tỷ thiệt thân và ý cũng như vậy, các ông chớ nên y chỉ nó. Các ông phảI quán sát như vậy.
LạI nầy các Trưởng Giả ! Nhãn như đống bọt nước chẳng rờ nắm được ; nhãn như bóng nước nổI chẳng dừng lâu ; nhãn như dương diệm do nghiệp cảm ái sanh ; nhãn như cây chuốI tánh chất chẳng bền ; nhãn như ảo thuật từ điên đảo phát khởI ; nhãn như cảnh mộng chỉ hư vọng thấy ; nhãn như vang hệ thuộc các duyên ; nhãn như bóng sáng do ánh sáng nghiệp ảnh hiện ; nhãn như mây nổI tụ họp tán loạn ; nhãn như chớp nháng sát na bèn dứt ; nhãn không có chủ như đất ; nhãn không có ngã như nước ; nhãn chẳng phảI hữu tình như lửa, nhãn chẳng phảI thọ mạng như gió ; nhãn chẳng phảI sát thủ thú như hư không ; nhãn chẳng thiệt y cứ nơi các đạI chủng ; nhãn là rỗng không rờI ngã và ngã sở ; nhãn là vô tri như cỏ cây đâ&t đá ; nhãn không tác giả do gió cơ quan chuyển vận ; nhãn ấy hư giả là đống mục nhơ ; nhãn ấy dốI trá là pháp tan rã bể hư dứt mất ; nhãn như gò giếng thường bị sự già suy bức ngặt ; nhãn không ở yên trọn về nơi mòn dứt.
Nầy các Trưởng Giả ! Nhãn có nhiều lỗI, các ông phảI quan sát như vậy , nhẫn đến ý và tất cả các pháp cũng phảI quan sát như vậy.
LạI nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp chỉ có vộng dục.Kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục nên họ lầm gọI là nhãn ,lầm gọI là nhĩ , nhẫn đến lầm gọI là ý.
Nầy các Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi , mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọI là sắc , là thanh , là hương vị xúc pháp.
Nầy các rưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọI là sắc uẩn, là thọ uẩn , là tưởng hành thức uẩn.
Nầy các Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi ,mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọI là địa đạI chủng ,là thuỷ hỏa phong không thức đạI chủng.
Nầy các Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi , mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọI là hữu vi ,là vô vi .Nhẫn đến cả các pjhap cũng như vậy.
Nầy các Trưởng Giả ! Nay các ông phảI bỏ vọng dục mà hướng đến vô dục. VớI vợ con nhà cửa của cảI ,các ông phảI biết rõ là hư vọng chẳng nên chấp trước .Và chẳng chấp trước nên dùng lòng tịnh tín rờI bỏ gia pháp đến nơi phi gia thì sẽ được vô dục.
Nầy các Trưởng Giả ! Những gì gọI là xuất gia vô dục ? Đó là an trụ nơi giớI biệt giảI thoát nhiếp trì đầy đủ oai nghi đi đứng , rất sợ phạm tộI nhỏ , thọ học luật nghi thành tựu giớI uẩn.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu các ông phụng trì giớI được rồI thì đốI vớI sáu căn sáu cảnh năm uẩn và sáu đạI chủng biết rõ là hư giả đều chẳng chấp trước.Vì chẳng chấp trước nên gọI là pháp xuầt gia vô dục.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu chẳng chấo trước nơi nhãn nhẫn đến thức đạI chủng thì chẳng bảo hộ.Chẳng bảo hộ những gì ? Đó là nhãn chẳng bảo hộ nhẫn đền thức đạI chủng chẳng bảo hộ.Vì chẳng bảo hộ nên không phiền não .Nếu không phiền não thì gọI là nhẹ nhàng.
Gì là nhẹ nhàng ? Đó là không sở kiến. Nếu không sở kiến thì chẳng y cứ nơi vật mà phát khởi lòng sân hại. Do không sân hạI thì không tự hại ,chẳng nghĩ hại người, chẳng nghĩ hại cả mình và người .Vì không hại nên bèn chứng nhập nơi vô dư đại Niết Bàn.
Nầy các Trưởng Giả ! Các ông phải biết ai chứng nhập nơi Niết Bàn ?
Nầy các Trưởng Giả ! Nhãn chẳng nhập Niết Bàn .Nhĩ tỷ thiệt thân và ý chẳng nhập Niết Bàn .Nhưng nhơn nơi nhãn nhơn nơi nhĩ tỷ thiệt thân và ý phát khởi vọng chấp : hoặc chấp là ngã , hoặc chấp là ngã sở.Nếu xa rời hẳn tức là Niết Bàn.
Xa rời những gì mà là Niết Bàn ?
Nếu xa rời tham tức là Niết Bàn . Nếu xa rờI sân tức là Niết Bàn .Nếu xa rờI si tức là Niết Bàn. Nếu rờI xa vô trí tức là Niết Bàn.
LạI nầy các Trưởng Giả ! Quá khứ vô trí chẳng thể xa rờI được, vị lai vô trí chẳng thể xa rờI được , hiện tạI vô trí chẳng thể xa rờI được .Nhưng cần phảI nhơn nơi xa rờI vô trí mà chánh trí phát
khởi.
Nầy các Trưởng Giả ! Những gì là trí ? Đó là tận trí. Những gì là tận trí ? Quá khứ chẳng phảI tận trí , vị lai chẳng phảI tận trí , hiện tạI chẳng phảI tận trí , nhưng nhơn nơi xa rờI vô trí mà tận trí ấy pháp sanh.Trí ấy chẳng xa rờI trí.Nhơn vì xa rờI nhãn vô trí mà trí ấy phát sanh.
LạI nầy các Trưởng Giả ! Nhãn chẳng phảI là ngã sở.Nếu đã chẳng phảI ngã sở, thì chẳng nắm lấy.Nếu chẳng nắm lấy tức là tốI thượng.Nếu là tốI thượng tức là giảI thoát .Chỗ nào giảI thoát ? Ở chỗ ngã chấp mà được giảI thoát , ở chỗ chúng sanh chấp , ở chỗ thọ mạng chấp, ở chỗ sát thủ chấp , ở chổ đoạn thường chấp , ở chỗ tất cả chấp , nhẫn đến ở chỗ phân biệt chấp mà được giảI thoát.
Hành giả nếu có thể ở nơi chấp mà được giải thoát thì chẳng phân biệt.Nếu chẳng phân biệt thì chẳng phải phân biệt chẳng phải chẳng phân biệt.
Những gì là chẳng phân biệt ?
Đó là chẳng phân biệt ngã và ngã sở.
Lúc bấy giờ hành giả ở nơi tất cả pháp đều ly tán mmà chẳng chứa để, bỏ mà chẳng lấy.Vì xả nên tịch diệt giải thóat trừ khiển tối thắng giải thoát rời các hệ phược.
Ở những chỗ nào gọi là trừ khiển ?
Ở chỗ tất cả khổ mà được trừ khiển .
Các ông nếu cầu xuất ly thì chớ ở nơi một pháp nào mà sanh lòng nắm lấy cả.Tại sao ? Vì nếu có nắm lấy thì có bố úy,nếu không nắm lấy thì không bố úy.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Nhãn chẳng phải tịch diệt , nhĩ tỷ thiệt thân và ý chẳng phải tịch diệt ,sắc thanh v.v…chẳng phải tịch diệt, nhẫn đến thức đại chủng chẳng phải tịch diệt.Nhưng nhơn nơi nhãn v.v…phát khởi chấp trước ; hoặc chấp làm ngã ,hoặc chấp làm ngã sở. Nếu xa rời chấp ấy tức là tịch diệt.
Xa rời những gì mà được tịch diệt ?
Đó là xa rời tham mà được tịch diệt ,xa rời sân mà được tịch diệt, xa rời si mà được tịch diệt, xa rời si xa rời vô trí mà được tịch diệt.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Quá khứ vô trí chẳng thể xa rời được, vị lai vô trí chẳng thể xa rời được, hiện tại vô trí chẳng thể xa rời được.Nhưng xa rời vô trí mà được trí phát sanh.
Nầy các Trưởng Giả ! Gì là trí ? Đó là tận trí.Gì là tận trí ? Quá khứ chẳng phải tận trí, vị lai chẳng phải tận trí , hiện tại chẳng phải tận trí.Nhưng , nầy các Trưởng Giả ! Do vì rời vô trí ấy mà được phát sanh.Trí ấy chẳng rời xa trí .Nhơn vì xa rời nhãn vô trí chẳng rời xa trí.Nhơn vì xa rời nhãn vô trí nhẫn đến thức đại vô trí ấy được phát sanh.Nhãn v.v… nhẫn đến thức đại ấy chẳng phải là ngã sở.Nếu chẳng phải ngã sở thì chẳng phải nắm lấy.Nếu chẳng phải nắm lấy tức là tối thượng.Nếu là tối thượng tức là giaỉ thoát .Chỗ nào giải thoát ? Ở chỗ ngã chấp mà được giải thoát . Ở chỗ hữu tình chấp , ở chỗ thọ mạng chấp v.v… nhẫn đến ở chỗ tất cả phân biệt chấp mà được giải thoát.
Hành giả nếu có thể ở nơi chấp được giải thoát thì chẳng phân biệt .Nếu chẳng phân biệt thì chẳng phải phân biệt chẳng phải chẳng phân biệt.
Những gì là chẳng phân biệt ? Đó là chẳng phân biệt ngã và ngã sở.
Lúc bấy giờ hành giả ly tán chẳng chứa để bỏ mà chẳng lấy.Vì bỏ nên tịch diệt giải thoát trừ khiển tối thắng giải thoát rời các hệ phược.
Ở chỗ nào trừ khiển ? Ở chỗ tất cả khỏ mà được trừ khiển.
Các ông nếu cầu xuất ly chờ ở nơi một pháp nào mà sanh lòng nắm lấy cả.Tại sao ? Vì nếu có nắm lấy thì có bố úy,nếu không thủ trước thì không nắm lấy ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy nên nói kệ rằng :
« Nắm lấy sanh bố úy
Do đây vào ác đạo
Thấy có bố úy nầy
Trí giả chẳng nên lấy
Các ông tu thánh đạo
Cần phải khéo quan sát
Thấy như vậy thì được
Khác đây thì chẳng được
Tất cả chỗ đều không
Hư động chẳng chơn thiệt
Tham dốI gạt thế gian
Nơi ấy chớ sanh loạn
Ta đã biết pháp không
Rõ các pháp chẳng bền
Lăng yên được an lành
Chứng diệu lạc vô động
Nếu biết rõ các pháp
Đều rỗng không như vậy
Thì giảI thoát các khổ
Và dứt hết tranh luận
Muốn ái thọ tất cả
Thì sanh các tai hoạnh
Vì ái thọ chấp thủ
Chấp thủ sanh các hữu
Do hữu mà có sanh
Vì sanh xa tịch diệt
Có đủ lão bịnh tử
Các khổ lớn như vậy
Không dục nên không thủ
Không thủ nên không hữu
Không hữu nên không sanh
Lão bịnh tử cũng không
Tu tập đồ sanh sống
Đều vứt bỏ tất cả
Và bỏ vợ con yêu
Giữ oai nghi Tỳ Kheo
Chớ tham thân và của
Lành thay nhớ tri túc
Chớ như Chiên Đà La
Tham sân tâm hạ tiện
Chớ cậy mình trì giới
Khinh hủy ngườI phạm giới
Ỷ giới lấn người khác
Đây là thiệt phá giới
Ví như nai bị bắt
Hoặc trói hoặc bị giết
Người mắc lưới kiêu mạn
Bị trói giết cũng vậy
Mạn làm hư tâm lành
Lại tổn tự tha thiện
Nên chớ khinh phá giới
Huống người gìn phạm hạnh
Phải học bực đại tiên
Thường ở chỗ không nhàn
Chớ tiếc luyến thân mạng
Hướng tịch tịnh giả thoát
Phải xa rời luận bổn
Của Thuận Thế , Ni Kiền
Nên mến pháp thậm thâm
Tương ưng với chơn không
Mười hai xứ trong ngoài
Tôi nói tâm làm gốc
Kia lạI do nghiệp sanh
Nghiệp do tư tưởng có
Nhãn sắc đều làm duyên
Mà sanh khởi nơi thức
Thiếu duyên thì chẳng sanh
Ví như lửa do củI
Các pháp sanh như vậy
Hoà hiệp sanh lẫn nhau
Không tác giả thọ giả
Hiện tác dụng như huyễn
Tất cả pháp trong ngoài
Ta đã biết là không
Kẻ ngu điên đảo chấp
Cho là ngã ngã sở
Trong nhãn không hữu tình
Các xứ ngoài cũng không
Chẳng ngã chẳng thọ mạng
Các pháp đều như vậy
Nhãn chẳng nghĩ giảI thoát
Nhĩ tỷ thiệt cũng vậy
Thân ý không tác giả
Quán các pháp cũng vậy
Ví như trong biển lớn
Sóng dậy thành đống bọt
NgườI sáng suốt thấy rõ
Biết đống bọt chẳng bền
Thể chất của năm uẩn
NgườI trí biết chẳng bền
Nên giảI thoát sanh tử
Sầu ưu tai hoạnh khổ
Xuất gia trong Phật pháp
Biết các pháp như huyễn
Chẳng hư thọ tín thí
Thì gọI cúng dường Phật”.
Năm trăm Trưởng Giả nghe pháp ấy xong,liền xa trần cấu , ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh ; như y phục sạch sẽ không màu để vào màu nhuộm thì màu ăn màu, các Trưởng Giả ấy mau được pháp nhãn thanh tịnh cũng vậy.
Đức Thế Tôn lạI bảo các Trưởng Giả : “ Nầy các Trưởng Giả ! Ta nói nhãn ấy ,tánh nó là khổ mà lạI cháy phừng.Những gì cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng,lửa sanh già bịnh chết sầu lo khổ sở cháy phừng.
Nầy các Trưởng Giả ! Như nhãn ,vớI nhĩ tỷ thiệt thân và ý, ta nói cũng vậy.
Nầy các Trưởng Giả ! Ta nói sắc ấy ,tánh nó là khổ mà lại cháy phừng.Những gì cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng ,lửa sanh già bịnh chết rầu lo khổ sở cháy phừng.Thanh hương vị xúc pháp cũng vậy.Sắc uẩn đến thức uẩn cũng vậy . Địa đạI chủng đến thức đạI chủng, ta nói tánh nó là khổ mà lạI cháy phừng.Những gì cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng ,lửa sanh già bịnh chết rầu lo khổ sở cháy phừng.
Vì thế nên, nấy các Trưởng Giả ! Nay ta chẳng chấp nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý , các ông cũng phải học theo như vậy.Nay ta chẳng chấp sắc thanh hương vị xúc pháp, các ông cũng phải học theo như vậy.Nay ta chẳng chấp sắc uẩn thọ tưởng hành thức uẩn,các ông cũng phải học theo như vậy.Nay ta chẳng chấp địa đại thủy hoả phong không thức đại, đời nầy đời sau, các ông cũng phải học theo như vậy.
Nầy các Trưởng Giả ! Ở nơi nhãn tỷ thiệt thân ý ,nếu các ông chẳng chấp trước thì chẳng y cứ nhãn mà an trụ,chẳng y cứ nhĩ tỷ thiệt thân ý mà an trụ.Lúc các ông chẳng y cứ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp thì các ông chẳng y cứ nơi tất cả pháp mà an trụ. Lúc các ông chẳng y cứ nơi sắc uẩn nhẫn đến thức uẩn ,thì các ông chẳng an trụ nơi sắc uẩn nhẫn đến thức uẩn.Lúc các ông chẳng y cứ nơi địa đại chủng nhẫn đến thức đại chủng thì các ông chẳng an trụ nơi địa đại chủng nhẫn đến thức đại chủng.Các ông chẳng y cứ nơi đời này đời sau và tất cả thế gian để an trụ, lúc các ông chẳng lấy tất cả pháp như vậy thì các ông chẳng y cứ tất cả pháp để an trụ. Nếu các ông có thể chẳng y cứ tất cả pháp để an trụ, thì gọi là chẳng phải sẽ có chẳng phải chẳng sẽ có.Các ông nếu rõ biết chẳng phải sẽ có chẳng phải chẳng sẽ có ấy,ta gọi các ông giải thoát những khổ sanh lão bịnh tử”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Sanh tử cháy phừng mạnh
Đốt cháy các thế gian
Bị khổ không cứu được
Hư mất nơi tháh đạo
Chư Như Lai chiếu thế
Lâu mớI hiện một lần
Không sát na xa rờI
PhảI khởI tinh tiến chắc
Tu tập các chánh hạnh
Huệ quán phải xét biết
Như huệ quán sẹ được
Khác đây thì chẳng được
Nếu tu tập nơi đây
Phải biết tất cả không
Thấu rõ pháp không rồi
Tâm không, Bồ đề không
Tham sân cùng vớI si
Ba thứ lửa độc ấy
Đốt người ngu thế gian
Ngủ mãi chẳng hay biết
Sanh lão bịnh và tử
Sầu ưu các tai khổ
Biết thế gian khổ rồI
Chớ an trụ các pháp”.
Năm trăm Trưởng Giả thưa : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nay chúng tôi muốn ở chỗ đức Phật xuất gia thọ giớI cụ túc tu hạnh thanh tịnh chẳng biết có được đức Thế Tôn thương xót hứa cho chăng ?”.
Đức Phật phán : “ Lành thay ! Tỳ Kheo lạI đây”.
Liền được gọI là xuất gia đủ các giớI rồI thành pháp Tỳ Kheo.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lạI nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Chấp thọ ca sa rồi
Râu tóc tự nhiên rụng
Tất cả đều cầm bát
Liền đó thành La Hán
Biết được La Hán rồi
Ở trước chúng Tỳ Kheo
Và đối hàng chư Thiên
Thế Tôn tự tuyên nói
Thuở xưa giúp ích đời
Rộng làm sự bố thí
Tùy thọ sanh chốn nào
Thường được nhiều an vui
Nay họ được gặp Phật
LạI có lòng tịnh tín
Do lòng họ thanh tịnh
Nên Phật nói diệu pháp
Nghe pháp được La Hán
Lià hẳn nơi ngã kiến
Chứng pháp không hiện tiền
Giải thoát nơi sanh tử ».
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment