Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 131
PHÁP HỘI VÔ NGÔN BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI SÁU
Lúc ấy trong đại hội có một Bồ Tát tên là Liên Hoa nói với Vô Ngôn Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Vừa rồi Đại Sĩ hỏi Phật. Đức Thế Tôn đã phân biệt giải nói. Đại Sĩ có mừng chăng ?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Tôi cũng chẳng hỏi chẳng nghe một pháp thì thế nào có lòng mừng”.
Liên Hoa Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Ngài ở chỗ đức Phật chẳng có nghe pháp
sao?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Chư Phật Như Lai đều không có nói, làm sao tôi có nghe. Tại sao, vì tôi chẳng phải là pháp khí vậy”.
Liên Hoa Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Nay Ngài chẳng phải là pháp khí, vậy là khí gì?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Nay Đại Sĩ chẳng phải là chơn pháp khí thí làm
sao được Vô thượng Bồ đề?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Vô thượng Bồ đề cũng chẳng phải là khí. Nầy Đại Sĩ! Nếu rời Phật pháp mà có Bồ đề nên biết là có khí. Tất cả Phật pháp tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Phật pháp. Nầy Đại Sĩ! Vì thế nếu tôi xa lìa phiền não chẳng thấy Phật pháp chẳng thấy Bồ đề. Phiền não Phật pháp và Bồ đề không có sai biệt. Nếu trong phiền não mà thấy Bồ đề tức là như như kiến. Nếu rời phiền não thấy Bồ đề là điên đảo kiến”.
Liên Hoa Bồ Tát hỏi: “Thưa Đại Sĩ! Thế nào là đảo kiến?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Thấy ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, rời ngoài các thứ ấy riêng có tham dục, sân hận, ngu si đây gọi là đảo kiến. Tất cả pháp tánh và Bồ đề tánh không có sai
biệt, vô tác vô thọ. Ngã tánh, nhơn tánh, chúng sanh
tánh, thọ mạng tánh tức là tham dục, sân hận, ngu si. Các pháp như vậy tức là Bồ đề đây gọi là như như kiến.
Chính ở trong tứ đại và trong tứ đại sở tạo mà cầu Bồ đề chẳng ở chỗ khác cầu.
Thế nào gọi là cầu? Lúc cầu chẳng thấy tất cả các vật. Chẳng thấy ấy tức là vô xứ. Vô xứ ấy tức là vô trụ. Vô trụ ấy tức là tánh của tất cả pháp. Tất cả pháp nếu là vô tánh tức là thiệt tướng. Thiệt tướng ấy chẳng phải thuờng chẳng phải đoạn gọi là cứu cánh tiết. Nếu có thể thấy được các tiết như vậy, nên biết người ấy chẳng lưu chẳng tán. Chẳng lưu chẳng tán tức là không sanh diệt, tức là Niết bàn, tức là Chơn như. Tất cả các pháp nếu là như vậy, người được Niết bàn tức là Thánh, nhập vào Niết bàn. Vì vậy nên trong khế kinh đức Như Lai nói: tự chẳng điều phục có thể điều phục người, tự chẳng giải thoát có thể giải thoát người, tự chẳng tịch tĩnh có thể tịch tĩnh người, tự chẳng Niết bàn làm cho người được Niết bàn thì không bao giờ có lẽ ấy. Nếu tự điều phục rồi khiến người điều phục, tự đã giải thoát khiến người giải thoát, tự đã tịch tĩnh khiến người tịch tĩnh, tự đã Niết bàn khiến người Niết bàn đây thì có lẽ vậy.
Thưa Đại Sĩ! Đại Bồ Tát tu Bồ đề hạnh hiểu rõ sở hành của tất cả chúng sanh, nơi các pháp tướng và pháp giới chẳng sanh phân biệt. Lúc tu hành tất cả thiện pháp cũng chẳng thấy có các đồ chúng ma. Dầu cầu Phật pháp mà chẳng thấy người cầu. Dầu điều phục chúng sanh mà không thấy ngã và nhơn. Dầu hành các pháp mà
phiền não chẳng nhiễm ô. Dầu thuận thế pháp mà chẳng nhiễm thế gian. Dầu mang gánh ngũ ấm cũng không có sở trụ. Dầu lìa các giới mà chẳng động pháp giới. Dầu tu các môn giải thoát mà chẳng thối thất thiện pháp. Dầu thấy rõ tam giới mà chẳng rời phiền não. Dầu hành Đàn Ba la mật mà chẳng sanh kiêu mạn nhẫn đến hành Bát Nhã Ba la mật cũng như vậy. Dầu tùy theo tất cả hành mà thiệt thì chẳng hành nơi tất cả hành. Nếu có thể tu hành các hạnh như vậy thì nên biết là hành Bồ đề đạo. Nơi Bồ đề đạo và Bồ đề hạnh chẳng sanh phân biệt. Nếu tu hành Bồ đề đạo hạnh như vậy thì ở trong các pháp chẳng thấy có ngã không,
tham không, sân không, oán không thân không có chướng ngại.
Nếu không có chướng ngại thì tức là hạnh vô vi. Nếu hạnh vô vi tức là chơn thiệt Bồ Tát vậy”.
Liên Hoa Bồ Tát hỏi: “Thưa Đại Sĩ! Nhơn duyên gì mà gọi là Bồ Tát ?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Hay làm cho chúng sanh giác ngộ chỗ chẳng giác ngộ thì gọi là Bồ Tát. Vì hay giác
ngộ vô minh thùy miên chúng sanh nên gọi là Bồ Tát. Vì diễn thuyết tùy thuận pháp Bồ đề nên gọi là Bồ Tát. Hay làm cho
chúng sanh rất thích tịch tĩnh đây gọi là Bồ Tát. Tăng trưởng lời Phật dạy, dựng tràng chánh
pháp, hộ niệm Thánh chúng, nơi Bồ đề tâm không có động chuyển, chẳng trụ tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật, trọn chẳng bỏ lìa tâm chí thành phát nguyện cứu cánh, hay độ người chưa độ, hay hiểu người chưa hiểu, vì người không có chỗ nương về hay làm chỗ nương về, hay diệt chỗ chưa diệt, hay điều phiền não mà chẳng lìa phiền não, quán lỗi sanh tử cũng cầu các cõi, tu không tam muội mà chẳng bỏ chúng sanh, tu tập vô tướng mà chẳng bỏ tướng Bồ đề, tu tập vô nguyện mà rất thích các cõi, dầu thích Phật pháp mà ở nơi tham chẳng tham, biết các hữu vi có nhiều tội lỗi mà nơi nội tâm chẳng bỏ hữu vi, dầu lìa các mê tối mà chẳng được đại minh, được đại trí huệ dung làm giáp mặc và binh khí, rất ưa bố thí phát đại trang nghiêm tịnh Phật thế giới, đầy đủ tịnh giới đầy đủ thệ nguyện, đầy đủ nhẫn nhục hay điều phục tất cả chúng sanh chẳng nhẫn nhục, siêng tu tinh tiến cầu bất hoại thân, hay phá hoại Dục giới thích thọ thân cõi Sắc, dầu thọ các cõi mà tâm chẳng hối, khéo biết phương tiện thường tự điều phục cầu Bồ đề, vì các chúng sanh
mà tu tập tâm từ, vì trừ khổ cho chúng sanh mà tu tập tâm bi, vì điều người chẳng điều mà tu tập tâm hỉ, chẳng phải cứu cánh xả mà tu tập tâm xả, thông đạt rõ ràng hiểu nghĩa thậm thâm chẳng phải cảnh giới Thanh Văn, Duyên
Giác, y nơi nghĩa nơi pháp nơi kinh liễu nghĩa và trí mà
chẳng y nơi thế pháp, cũng vì
chúng sanh mà làm chỗ y chỉ, vì các chúng sanh mà trang nghiêm thân khẩu, như thuyết mà làm trang nghiêm nơi tâm, vì các chúng
sanh mà trang nghiêm thần thong, làm lợi ích chúng sanh như đại địa, hay làm sạch tất cả như nước trong, đốt các phiền não như ngọn lửa, nơi pháp vô ngại như gió mạnh, nơi pháp bình đẳng như hư không, được đà la ni trì tất cả pháp được nghe, lạc thuyết vô ngại khiến người thích nghe, chí tâm niệm Phật để tịnh tâm niệm, tự sống oai nghi thanh tịnh, tu hành vô tránh tam muội rất thích tịch tĩnh, ưa điều phục chúng sanh lìa
nói lời thế tục, thấy người thích thế tục thì quở trách dạy bảo, đủ bảy thánh tài tâm ấy nhu nhuyến, hành bố thí kiên cố chẳng thối bỏ, quyến thuộc chẳng hư thân cận thiện hữu biết ơn báo ơn, quán nghiệp quá khứ tùy theo ý chúng sanh hay phá lòng nghi, quán sát sanh tử nhiều tội lỗi, chỗ làm thì chí tâm,
hiểu tất cả ngữ ngôn, tu tập Đại thừa, chẳng nghi Tam thừa, được chúng sanh thích
thấy theo lời hỏi mà giải thích được vô ngại trí, được chư Phật hộ niệm nói đúng thời tiết chẳng nói nhiều, sáng rỡ mát mẽ như thu nghuyệt, đầy đủ thiện pháp như trăng tròn, chúng
sanh thích thấy như trăng sáng, tăng
trưởng thiện pháp như trăng đầu tháng, nhứt vị ngọt ngon như trăng nhứt vị, quán tất cả pháp nhhư trang hiện trong nước, thanh tịnh vô cấu như trăng không mờ, dễ cùng nói năng các căn đầy đủ, nơi tất cả pháp như cây cầu hay độ chúng sanh qua bốn dòng nước chảy, vì các chúng
sanh mà làm Phật sự, tâm vẫn chẳng động cảnh giới Bồ Tát, do các nghĩa như vậy nên gọi là Bồ Tát”.
Liên Hoa Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vô Ngôn Bồ Tát nói thâm pháp như vậy nên biết chẳng lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân diệu bửu vô thượng. Nếu có ai hay tin thọ trì pháp của Vô Ngôn Bồ Tát nói thí cũng sẽ được công đức như vậy”.
Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay, nầy Liên Hoa! Như lời ông nói, Vô Ngôn
Bồ Tát được huệ đăng tam muội, vì vậy nếu muốn trong vô lượng kiếp nói nghĩa một câu chẳng thể cùng tận”.
Liên Hoa Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngưỡng mong đức Như Lai rủ lòng thương người vì tăng trưởng các thiện pháp chúng sanh,
vì trang nghiêm kinh Đại Tập vô thượng mà vì đại chúng khai thị phần ít huệ đang tam muội. Nếu Bồ Tát có trí huệ được nghe cũng sẽ được tam muội ấy, được rồi cũng sẽ mau được Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật nói: “Nầy Liên Hoa! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà phân biệt nói ít phần.
Huệ đăng tức là trí đăng. Trí đăng tức là phá tối. Không có tối tức là phá nghi, phá nghi tức là huệ đăng. Huệ đăng ấy tức là các pháp không có hai tướng vậy.
Nầy Liên Hoa! Trí tỏ rỏ, trí chẳng nghi, trí chẳng mất, trí chẳng kéo níu, trí chẳng tùy, trí không tối, trí thánh, trí mạnh mẽ lanh lẹ, trí mau chóng, trí rành rẽ, trí rộng lớn, trí thuần nhứt, trí biết tất cả, trí biết quá khứ, trí biết vị lai, trí biết hiện tại, trí tam thế bình đẳng, trí tam giới, trí bạch môn giải thoát, trí tam huệ, trí tam bửu, trí tam thừa, trí tam nhãn, trí ba nhơ, trí ba cặn, trí ba tụ, trí tâm ý thức, trí ấm nhập giới, trí nhơn duyên hòa hiệp, trí thấy cứu cánh, trí như pháp giới, trí tự tướng, trí đệ nhứt nghĩa, trí phương tiện, trí nhứt thiết thanh ngữ, trí nhứt thiết tự, trí vô ngại, trí ngữ bất hoại, trí hay thuyết pháp, trí thượng trung hạ căn, trí vô tác vô thọ, trí nhứt thiết chú, trí nhứt thiết y, trí tất cả thế sự, trí trang nghiêm đà la ni, trí nhựt nguyệt tam muội, trí nhập tam muội, trí thánh, trí
thánh tam muội, trí kim cương tam muội, trí vô tránh tam
muội, trí tâm đẳng tam muội, trí hoại ma tam muội, trí nhựt quang tam muội, trí vô tưởng tam muội, trí bửu tràng tam muội, trí nhứt thiết pháp môn tam muội, trí nhứt thiết pháp khí tam muội, trí vô biên
quang tam muội, trí phước đức tam muội, trí vô trụ tam muội, trí lạc kiến tam muội, trí thiện kiến tam muội, trí vô tận khí tam muội, trí cứu cánh tận, nhứt thiết trí, vô động trí, trí na la
diên tam muội, trí tất cả đều thấy, sáu vạn môn tam muội trí như vậy, lúc xưa ta thấy Phật Nhiên Đăng liền được các môn tam muội như vậy. Các tam muội môn như vậy đều được nhiếp trí tất cả nơi huệ đăng tam muội.
Nầy Liên Hoa! Như mặt nhựt mọc lên hay làm bốn việc: một là phóng ánh sang
lớn, hai là trừ diệt tối tăm, ba là hiển bày các sắc tượng, bốn là hay khiến chúng sanh làm
các công việc.
Đại Bồ Tát trụ trong tam muội nầy cũng hay làm bốn việc: một là xuất đại huệ quang, hai là phá tất cả phiền não tối tăm, ba là chỉ bày các công hạnh cho tất cả chúng sanh, bốn là khai thị cho chúng sanh đạo và phi đạo.
Nầy Liên Hoa! Ví như bửu châu để trên tràng cao ánh
sáng của nó chiếu khắp bốn do tuần, ban cho chúng sanh các thứ vật cần dung, mà thể tướng của bửu châu vẫn không tăng giảm.
Huệ đăng tam muội cũng như vậy. Đại Bồ Tát trụ tam muội nầy dứt hẳn tất cả phiền não tập khí, tịnh giới, tịnh định, tịnh huệ, tịnh thân tâm, tịnh các phương tiện, tịnh đà la ni, tu tập đại bi, phóng đại quang minh chiếu khắp vô lượng chư Phật thế giới, tùy theo ý chúng sanh mà làm các Phật sự. Bồ Tát dầu làm các sự việc như vậy mà tướng tánh Bồ Tát vẫn không tăng giảm.
Nầy Liên Hoa! Ví như hư không dụng thọ Phật độ không có chướng ngại. Cũng chẳng chướng ngại tất cả giọt mưa, hỏa tai, thủy tai, phong tai,
vô lượng vô biện tất cả chúng sanh.
Huệ đăng tam muội cũng như vậy. Đại Bồ Tát trụ tam muội nầy vì các chúng sanh
nói tất cả pháp không có chướng ngại. Phương tiện giáo hóa tất cả chúng sanh. Vì người có sức thiện nhơn mà diễn nói phương tiện khiến họ giải thoát điều phục thành thục. Vì kẻ tà định mà phương tiện diễn nói khiến phá tà định. Vì người không có nhơn lành phương tiện diễn nói khiến gieo nhơn lành. Người không pháp khí
khiến làm pháp khí. Vì người pháp khí phân biệt tuyên nói Vô thượng Bồ đề. Với người cầu Thanh Văn thì phương tiện thuyết pháp cho họ được bốn quả Sa Môn. Với người cầu Duyên Giác thì phương tiện dạy bảo cho họ được Bích Chi Phật đạo. Lại vì các người cầu Nhị thừa ấy phương tiện thuyết pháp tiệm kiến khiến họ đều phát tâm Vô thượng Bồ đề trụ bực bất thối. Thông đạt tám vạn bốn ngàn pháp môn, vì
phá tâm nghi của các chúng sanh mà khai thị phân biệt giải thuyết chánh pháp. Giải thuyết một sự trong vô lượng kiếp chẳng thể cùng tận. Dầu làm vô lượng sự như vậy mà tam muội ấy cũng không có
tăng giảm.
Nầy Liên Hoa! Ví như sức một ngọn đèn lớn hay hiển thị các sắc tượng.
Huệ đăng tam muộicũngnhư vậy, Bồ Tát trụ tam muội nầy, trong một tâm có thể nơi vô lượng thế giới chư Phật thị hiện các loại sắc tượng mà tam muội nầy không có khuynh động.
Vì vậy, nên trong Tứ niệm xứ, pháp niệm xứ làm đầu, trong Tứ chánh cấn chưa sanh thiện pháp hay sanh thiện pháp làm đầu, trong Tứ như ý túc thân tâm tịch tĩnh gọi là đứng đầu, trong Ngũ căn, Ngũ lực thì huệ căn và huệ lực làm đầu, trong Bát chánh đạo thì chánh kiến làm đầu. Tất cả hàng ngoại đạo chỗ có những xa ma tha thì tỳ bà xá na làm đầu. Trong tứ chơn đế thì diệt đế làm đầu. Trong Tứ y thì y nghĩa làm đầu. Trong Tứ vô ngại trí thì nghĩa vô ngại trí làm đầu. Trong Lục thần thông thì lậu tận thông làm đầu. Trong Tứ vô lượng tâm thì bi tâm đứng đầu. Trong tu hành Phạm hạnh thì trí huệ đứng đầu. Trong các Ba la
mật thì Bát Nhã đứng đầu. Trong tất cả Phương tiện thì biết tâm chúng sanh đứng đầu. Trong tất cả các Lực thì xứ phi xứ lực đứng đầu. Trong Tứ vô sở úy thì thuyết nhứt thiết trí vô úy đứng đầu.
Trong Bất cộng pháp thì vô ngại đứng đầu. Trong ba mươi hai tướng thì vô kiến đảnh tướng đứng đầu. Trong tám mươi tùy hảo thì thuyết pháp chẳng luống uổng đứng đầu. Trong trang nghiêm khẩu thì hiểu tất cả ngữ ngôn đứng đầu. Trong trang nghiêm tâm thì phá kiêu mạn đứng đầu. Trong tất cả pháp thì trí huệ đứng đầu. Đây gọi là huệ đăng tam muội vậy”.
Lúc đức Phật nói pháp ấy, Liên Hoa Bồ Tát và một vạn Bồ Tát được huệ đang tam muội. Đại địa khắp Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách. Tất cả đại chúng đem hoa hương các thứ kỹ nhạc cúng dường đức Phật Thế Tôn và kính trọng tán thán.
Chư Bồ Tát trong đại hội đều nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ trước đến nay chúng tôi chưa từng được nghe tên hiệu của tam muội nầy, huống là được nghe phân biệt rộng nói huệ đăng tam muội. Nay chúng tôi đều được tam muội ấy nên vì báo ơn mà làm sự cúng dường nầy. Nếu có người được nghe danh hiệu huệ đăng tam muội thì có thể được lợi ích lớn chẳng mất tâm Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay, đúng như lời các ông nói. Nầy chư thiện nam tử! Nếu có chúng sanh đã ở chỗ vô lượng vô biên chư Phật vun trồng thiện căn thân cận thiện tri thức rồi sau mới được nghe diễn nói tam muội huệ đăng nầy”.
Lúc nói lời trên, trong rún của Phật xuất hiện một Bồ Tát thân màu chơn kim đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi tùy hảo phóng đại quang minh nào bằng. Bồ Tát ấy kính lễ chưn Phật hữu nhiễu bảy vòng quỳ dài chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đức Huệ Kiều Như Lai chuyên ý vô lượng thăm hỏi Thế Tôn đi đứng nhẽ nhàng thân không có bịnh hoạn, đại chúng có an ổn chăng?.
Nay cõi nầy của tôi có sáu vạn ức chư Bồ Tát đến nghe thọ kinh điển Đại Tập thâm diệu và cũng muốn thấy Vô Ngôn Bồ Tát cùng chư Bồ Tát từ mười phương đến, đồng thời được nghe huệ đăng tam muội.
Lành thay, lành thay, đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn mong được khai thị khiến các người đều đến được huệ đăng tam muội trở lại cõi nầy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Huệ Kiều Như Lai ở phương nào cách đây bao xa, thế giới ấy tên gì, Bồ Tát này tên là gì,
sáu vạn ức chư Bồ Tát ở tại đâu?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Phật ấy ở phương Đông cách đây số thế giới bằng số cát sông Hằng trong những sông Hằng bằng số cát một sông Hằng. Thế giới tên là Kim Cương Kiên Căn, Phật hiệu Huệ Kiều Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nầy Xá Lợi Phất! Có nhơn duyên gì mà thế giới ấy tên là Kim Cương Kiên Căn?
Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới ấy đất bằng kim cương, do nguyên lực của Huệ Kiều Như Lai làm thành. Thân thể của Phật ấy và thân của Bồ Tát của chúng sanh đều là kim cương nên thế giới ấy có tên như vậy.
Bồ Tát nầy hiệu là Kim Cương Tê. Bồ Tát nầy có thể trong một niệm phá hoại tất cả núi kim cương, thẳng đến vô lượng thế giới chư Phật thị hiện trong rún của chư Phật mà đi ra. Do thần lực của Phật và tự nguyện lưc nên hiệu là Kim Cương Tê vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Vừa rồi ông có hỏi chư Bồ Tát như vậy nay ở tại chỗ nào. Ông nên hỏi Bồ Tát Kim Cương Tê sẽ được giải đáp cho ông”.
Tôn giả Xá Lợi Phất liền hỏi Kim Cương Tê Bồ Tát: “Thưa Đại Sĩ! Ngài nói sáu vạn ức Bồ Tát ấy, nay ở tại đâu!”.
Kim Cương Tê Bồ Tát nói: “Thưa Đại Đức! Như Lai nói Đại Đức là bực trí huệ nhứt, Đại Đức nên dung thánh
trí xem coi chư Bồ Tát ấy ở tại đâu?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất liền dùng thánh trí để xem mà chẳng thấy, liền nói với Kim Cương Tê Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Tôi đã dung tận thánh trí mà chẳng thấy”.
Kim Cương Tê Bồ Tát nói: “Đồng học của Đại Đức là Tôn giả A Nâu Lâu Đà có
thiên nhãn đệ nhứt nên bảo xem coi ở tại chỗ nào?”.
Lúc ấy Tôn giả A Nâu Lâu Đà dung thiên nhãn xem khắp Đại Thiên thế giới rồi nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: “Tôi dùng thiên
nhãn xem mà chẳng thấy được”.
Kim Cương Tê Bồ Tát nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: “Bạn đồng học của Đại Đức nếu chẳng thấy được thì chẳng nên gọi là thiên nhãn mà nên gọi là nhục nhãn”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thưa Đại Sĩ! Thiên nhãn của Đại Sĩ có nghĩa là
gì?”.
Kim Cương Tê Bồ Tát nói: “Thưa Đại Đức! Thiên nhãn của tôi, những sắc mà hang Thanh Văn các ông chẳng thấy được, tôi đều có thể thấy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thưa Đại Sĩ! những sắc gì tôi chẳng thấy được mà Đại Sĩ thì thấy”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi : “Thưa Đại Đức! Nay đại đức có thấy thế giới Kim Cương Kiên Căn, Phật Huệ Kiều và chúng Bồ Tát ở thế giới ấy chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : “Tôi không thấy, thưa Đại Sĩ. Tôi chỉ nghe danh mà chẳng được thấy”.
Kim Cương Tê Bồ Tát nói: “Thưa Đại Đức! Phật độ ấy cùng Phật và chư Bồ Tát cùng các chúng
sanh ở cõi ấy, thiên nhãn của tôi đều thấy rõ cả. Đây gọi là Bồ Tát thanh tịnh thiên nhãn.
Thiên nhãn như vậy, hàng Thanh Văn
và Duyên Giác không có được”.
Lúc nói pháp ấy, có sáu vạn chúng sanh cầu Thanh Văn liền bỏ chí cũ mà phát tâm Vô thượng Bồ đề, đều nói rằng: nguyện tôi được vô ngại Phật nhãn mà chẳng cần chướng ngại nhãn của Thanh Văn và Bích
Chi Phật.
Kim Cương Tê Bồ Tát liền nhập tam muội, đời thần thông lực của Phật và tự nguyện lực làm cho đại chúng tất cả đều thấy sáu vạn ức chư Bồ Tát ở tại trong thân Phật ngổi đài liên hoa chí tâm chuyên niệm nghe lời nói của Phật, mà chẳng bức chạm thân Phật, thân của Phật cũng không tăng không giảm không có chướng ngại. Đại chúng thấy rồi, cúng dường cung kính hoan hỉ tán than sự việc của Như Lai bất khả tư nghị. Đại chúng còn đồng nói rằng: “Thân Như Lai, trí huệ tam muội Như Lai tất cả thảy đều bất khả tư nghị. Tại sao, vì sáu ức chư Bồ Tát đều ở tại trong thân Phật mà không chướng ngại”.
Quan sát đại chúng, Kim Cương Tê Bồ Tát nói: “Thưa đại chúng! Các Ngài chẳng bình đẳng thân Như Lai như hư không chăng? Thân
Như Lai là thân vô biên,
là thân không chướng ngại, là thân rộng, là thân pháp,
là thân không có tướng mạo, là thân vô lượng.
Thưa đại chúng! Đức Như Lai nếu muốn nạp tất cả vật như là quốc độ, thành ấp, thôn xóm, tụ lạc, núi sông, cây cỏ, để trong thân cũng
không có chướng ngại, vì vậy nên Như Lai bất khả tư nghị.
Thưa đại chúng! Mười phương thế giới vô lượng tịnh độ vô lượng Bồ Tát đến chỗ Như Lai nghe kinh Đại Tập thành tựu diệu sắc đủ hai mươi tám tướng đại nhơn, đức Như Lai cũng nạp để trong thân của mình. Tại sao, vì nếu để chúng sanh cõi Ta Bà nầy cả đến hang Đế Thích, Phạm Thiên, các Thiên Vương mà thấy thì họ sẽ hổ thẹn, vì vậy mà chẳng cho thấy một người”.
Lúc ấy do công đức lực của Phật và oai thần lực của Kim Cương Tê Bồ Tát đều làm cho đại chúng thấy sáu vạn ức chư Bồ Tát ấy từ một lỗ lông của Phật đi ra. Ra rồi lễ Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi ngồi một phía.
Kim Cương Tê Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nhơn duyên gì mả Vô Ngôn Bồ Tát có tên là Vô Ngôn?”.
Đức Phật nói: “Nầy Kim Cương Tê! Ông tự nên hỏi Vô Ngôn Bồ Tát, ông ấy sẽ giải đáp cho ông”.
Kim Cương Tê Bồ Tát liền hỏi Vô Ngôn Bồ Tát: “Thưa Đại Sĩ! Nhơn duyên gì mà Ngài
tên là Vô Ngôn ?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nín lặng. Hỏi lần thứ hai lần thứ ba, Vô Ngôn Bồ Tát vẫn nín lặng như vậy.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Thưa Đại Sĩ! Sao Ngài không đáp?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Tôi tìm ngôn từ trọn không thể được, vì vậy nên tôi nín lặng không chỗ tuyên nói”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Thưa Đại Sĩ! Nếu tìm ngôn từ không thể được sao lại có lời nói là không thể được ấy?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Tôi đáp tất cả Phật ngữ, tất cả thế ngữ.
Thế nào gọi là đáp Phật ngữ?
Tôi dung niệm lực thọ trì chỗ nói của tất cả chư Phật chẳng quên chẳng mất mà trọn chẳng thấy âm thanh tự cú, vì lưu bố mà tuyên nói đó, cũng vì chúng sanh phá hoại âm thanh tự cú ấy mà diễn thuyết pháp.
Thế nào gọi là đáp thế ngữ?
Hiểu các loại ngôn ngữ âm thanh của tất cả chúng sanh, tùy theo ngữ ngôn của họ mà diễn thuyết pháp”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Thưa Đại Sĩ! Ngài có thể tùy thuận thuyết pháp như vậy từ bao lâu rồi?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Tôi từ lúc trừ diệt giác quán thì có thể tùy thuận thuyết pháp như vậy”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Do nhơn duyên gì mà thuyết pháp như vậy?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Nếu không có giác quán thì âm thanh làm sao phát xuất. Vì nhơn duyên ấy mả thuyết pháp như vậy”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Luận về âm thanh phát xuất ấy, là từ thân phát xuất hay từ nơi tâm phát xuất?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Luận về âm thanh thì nó chẳng ở thân và tâm. Tại sao, vì thân như cỏ cây còn tâm thì như ảo hóa, do các nhơn duyên có âm thanh
phát xuất. Nếu từ nhơn duyên mà phát xuất tức là vô thường. Nếu là vô thường tức là vô định. Vô thường vô định tức là rỗng không không có. Luận về âm thanh ấy dường như hư không chẳng thể nhìn thấy được cúng dường thể tuyên nói được, nhhư hư không tất cả các pháp cũng như vậy. Nếu âm thanh không có
thì pháp do âm thanh biểu thị cũng không có. Vì âm thanh rỗng không nên tất cả pháp rỗng không. Vì âm thanh tịch tĩnh nên tất cả pháp tịch tĩnh. Vì âm thanh chẳng thấy được nên tất cả pháp cũng chẳng thể thấy. Vì âm thanh chẳng xuất sanh nên tất cả pháp cũng chẳng xuất sanh. Nếu chẳng xuất sanh thì không khứ lai. Nếu không khứ lai thì là thậm thâm mười hai nhơn duyên không tạo tác không hệ thuộc. Nếu không có tác thuộc thì không có sanh
xuất. Không sanh không xuất tức là câu không có. Nếu là câu không có tức là chẳng sanh nhãn sắc và thức, chẳng sanh nhĩ thanh và thức, chẳng sanh tỷ hương và thức, chẳng sanh thiệt vị và thức, chẳng sanh thân xúc và
thức, chẳng sanh ý, pháp và ý thức. Không có các khổ sanh lão bịnh tử. Không có quan niệm nhựt nguyệt quang minh oán thân, dứt tất cả hành, khó nhìn thấy được, chẳng gần chẳng xa”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Thưa Đại Sĩ! Các lời nói như vậy là nói những gì?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Như vậy tức là cứu cánh chẳng xuất”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Những gì gọi là cứu cánh chẳng xuất?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Chẳng gần chẳng xa là cứu cánh chẳng xuất”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Nhựng gì gọi là chẳng gần chẳng xa?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Tức là hư không vậy. Nếu thấy các pháp như hư không thì gọi là bình đẳng”.
Kim Cương Tê Bồ Tát hỏi: “Do nghĩa gì mà
gọi tất cả pháp như hư không?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Pháp quá khứ không có chung cánh, pháp vị lai và pháp hiện tại cũng không có chung cánh. Tam thế vô chung tức là thiệt tướng tức là không có hai. Luận về hai ấy tức là nhãn sắc, nhĩ thanh, tỹ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp.
Nếu có hai tức là nói được. Nếu không hai tức là chẳng nói được. Chẳng nói được tức là không có thức không có tâm
không có ý. Vì nghĩa ấy nên chẳng tuyên nói được.
Luận về có nói được tức là hai pháp, còn
chẳng nói được tức là không hai”.
Kim Cương Tê Bồ Tát nói: “Ai làm
hai ấy?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Luận về không hai thì chẳng có thể làm hai, mà hai cũng chẳng có thể làm không hai. Nhu vững chắc chẳng thể làm mỏng manh, mà mỏng manh cũng chẳng thể làm vững chắc. Pháp sanh tử chẳng thể làm không hai, pháp Niết bàn chẳng thể làm hai. Tánh chánh kiến chẳng làm tà kiến, tánh tà kiến chẳng làm chánh kiến”.
Kim Cương Tê Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vô Ngôn Bồ Tát phàm có giải quyết tợ như đã được huệ đăng tam muội như vậy”.
Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay, nầy Kim Cương Tê! Ông cho rằng Vô Ngôn Bồ Tát chẳng được huệ đăng tam muội chăng?”.
Lúc đó chư Bồ Tát chúng của Huệ Kiều Như Lai ở Kim Cương Kiên Căn thế giới hỏi Vô Ngôn Bồ Tát : “Thưa Đại Sĩ! Ngài trụ địa nào có thể đáp như vậy?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Như lời Phật có nói Bồ Tát trụ giới địa thì có thể đáp như vậy”. Chư Bồ Tát nói: “Lành
thay, lành thay, thưa Đại Sĩ! Mong được giải nói giới địa như vậy”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Nếu không có thân trụ tâm trụ ý nội trụ ngoại trụ và nội ngoại trụ tức là trụ nơi giới vậy.
Nếu vô tướng vô mạng vô tác vô hành tức là trụ nơi giới vậy.
Nếu Bồ Tát trụ giới như vậy tức là vô trụ. Nếu là vô trụ thì hẳn chẳng quan niệm rằng tôi hay phát ra
tiếng có chỗ diễn thuyết.
Thưa chư Đại Sĩ! Như các Ngài có hỏi trụ tại địa nào có thể đáp như vậy? Tôi trụ pháp tánh thiệt tướng pháp giới nên có thể đáp như vậy. Nếu biết pháp chơn thiệt như vậy thì không giác quán, nếu không giác quán thì làm sao có nói”.
Chư Bồ Tát hỏi: “Lúc nói như vậy là nói những gì?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Lúc nói như vậy là nói hai pháp.
Đó là diệt tận và bất xuất, là quá khứ và vị lai, vì hiện tại chẳng trụ nên chẳng nói được.
Pháp quá khứ chẳng thể duyên lấy, pháp vị lai và pháp hiện tại cũng như vậy. Giả như có người ở nơi pháp tam thế mà duyên lấy có tướng tức là điên đảo. Vì vậy nên nghĩa của tất cả pháp chẳng thể tuyên nói được. Nghĩa của tất cả pháp thân khẩu ý v.v… chỗ chẳng nói được. Tại sao, vì không
nghiệp không tác không có sắc mạo không có khẩu nghiệp không có giác quán, vì như vang như hóa.
Chư Phật và Bồ Tát phàm có ngôn
thuyết đều trái nghịch thế ngữ, vì vậy nên chư Phật chư Bồ Tát bất khả tư nghị. Chư Phật chư Bồ Tát chỗ có trí huệ bất khả tư nghị bất khả cùng tận, chẳng động pháp giớI”.
Chư Bồ Tát đồng lên tiếng tán than Vô Ngôn
Bồ Tát: “Lành thay, lành thay, Vô Ngôn Bồ Tát khéo có thể phân biệt pháp môn như vậy làm cho chúng tôi được lợi ích lớn và được ty vô lượng đại Bồ Tát như vậy”.
Kim Cương Tê Bồ Tát nói với Vô Ngôn Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Tôi muốn cùng Ngài trở về Kim Cương Kiên Căn thế giới để lễ kính cúng dường Huệ Kiều Như Lai ”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Kim Cương Kiên Căn thế giới tức là nơi đây Ta Bà thế giới, Huệ Kiều Như Lai tức là Thích Ca Mâu
Ni Như Lai, tôi cần gì qua thế giới kia”.
Kim Cương Tê Bồ Tát nói: “Phật thế giới nầy đất chẳng phải kim cương, sao lại nói tức là thế giới kia”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Thần thông của Ngài có thể phá hoại vô lượng núi kim cương đi thẳng qua vô ngại. Nay Ngài thử phá hoại với trần cõi này. Như với trần nầy bị phá hoại vậy sau mới biết tên hiệu Ngài là Kim Cương”.
Nói xong, Vô Ngôn Bồ Tát liền nhập kim cương tam muội biến hết cõi nầytất cả núi rừng cỏ cây vi trần đều là kim cương.
Kim Cương Tê Bồ Tát tận thần lực mình nhẫn đến chẳng phá hoại được một vi trần.
Kim Cương Tê Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thần lực của tôi có thể phá hoại tất cả thế giới kim cương và các núi vách. Do cớ gì nay ở cõi nầy nhẫn đến chẳng hoại được một vi trần, là chỗ thần lực của Như Lai hay là do đạo lực của Vô Ngôn Bồ Tát ?”.
Đức Phật nói: “Nầy Kim Cương Tê! Đây là do Vô
Ngôn Bồ Tát nhập kim cương tam muội, vì sức tam muội ấy làm cho Đại Thiên thế giới nầy tất cả sở hữu đều là kim cương, nếu muốn lại làm cho vô lượng thế giới làm kim cương sức tam muội ấy cũng có khả năng”.
Kim Cương Tê Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát có đủ mấy pháp thì có thể được tam muội ấy?”.
Đức Phật nói: “Đại Bồ Tát có bốn pháp thì có thể được kim cương tam muội như vậy: một là chí tâm niệm Bồ đề, hai là thiện pháp được làm thí cứu cánh, ba là chí tâm trang nghiêm thiện pháp nguyện hướng Bồ đề, bốn là có thể quán mười hai nhơn duyên.
Còn có bốn pháp: một là thành tựu thần thông, hai là tu hành bạch môn giải thoát, ba là trì giới tinh tiến thường quán pháp giới, biết tất cả pháp không có căn
bổn, không có giác quán chẳng tuyên nói được, bốn là biết nghĩa biết thời biết thiệt biết tất cả pháp thảy đều bình đẳng.
Còn có bốn pháp: theo tâm đại bi cầu đại trí huệ, hai là theo thiện phương tiện cầu bạch mươi bảy pháp trợ Bồ đề, ba là theo tâm đại từ quán tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, bốn là từ tâm xả quán từ chơn đế.
Còn có bốn pháp đó là thân nghiệp khẩu nghiệp ý nghiệp và Bồ đề tâm chẳng bị trở ngại hư hoại đều như kim cương.
Nầy Kim Cương Tê! Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ những pháp như vậy thì có thể được kim cương tam muộI”.
Lúc đức Phật nói pháp ấy, sáu vạn ức Bồ Tát đều được kim cương tam muội.
Bấy giờ Vô Ngôn Bồ Tát thưa cha mình là Sư Tử Tướng Quân rằng: “Thưa Tôn Trưởng! Phật xuất thế tức là đầy đủ vô lượng công đức, khối đại công đức tức là Như Lai.
Lúc Phật xuất thế vô lượng chúng sanh được đại lợi ích, đại lợi ích ấy tức là Niết bàn. Luận về Niết bàn ấy thường chẳng biến đổi. Cớ sao Tôn Trưởng chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề?”.
Người cha đáp rằng: “Lúc ta sơ sanh đã phát tâm vô thượng Bồ đề rồi.
Lúc ấy cũng có vô lượng chư Thiên đến bảo rằng:
Như Ngài vậy không có khác. Sự việc như vậy chỉ có Phật chứng biết.
Quyến thuộc theo Sư Tử Tướng Quân số đủ năm trăm người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Vô Ngôn Bồ Tát khen quyến thuộc mình: “Lành thay, lành thay, khéo có thể trang nghiêm tâm Bồ đề”.
Các quyến thuộc hỏi: “Thế nào gọi là trang nghiêm tâm Bồ đề?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Có bốn mươi sự trang nghiêm tâm Bồ đề.”.
Những gì là bốn mươi? Đó là:
Tin Phật chẳng nghi. Chẳng động pháp giới. Cúng dường Thánh chúng.
Thân cận thiện hữu. Nơi chư Bồ Tát quan niệm là y vương. Nơi các chúng sanh tâm mình bình đẳng. Cúng dường cung kính các Sư trưởng, Hòa thượng, cha mẹ có đức. Thuận thọ lời dạy bảo của các bực ấy. Hộ pháp, cầu pháp, chí tâm
nghe pháp. Đã thọ trì rồi vì người diễn nói rộng. Cúng dường cung kính người hộ pháp. Vì người thuyết pháp chẳng có ý tham. Phá hoại kiêu mạn. Biết ơn báo ơn. Thường khéo tư duy. Như pháp mà trụ. Hay xả thí vật khó xả thí. Chí tâm hô giới. Tinh tiến siêng tu tất cả pháp lành. Đầy đủ thành tựu công đức trang nghiêm. Tâm
không tật đố. Hộ trì chúng sanh. Phòng ngừa chế ngự phiến não. Điều phục tâm mình và tâm người. Điều phục chúng sanh. Hay dứt phiền não. Tri túc tịch tĩnh. Tu tịch phạm hạnh. Chẳng dứt giống Thánh. Thế pháp chẳng ô nhiễm. Cúng dường cung kính người thuyết pháp. Tùy thuận thế gian. Xa lìa giải đãi. Không có
phóng dật. Chẳng cầu tâm Bồ đề hạ thừa. Tâm Vô thượng Bồ đề trọn chẳng động chuyển. Ở tại sanh tử long chẳng nhàm hối. Xa lìa tất cả pháp bất thiện. Đầy đủ tất cả diệu pháp thuần thiện. Trang nghiêm phạm hạnh. Đây gọi là bốn mươi sự trang nghiêm tâm Vô thượng Bồ đề vậy”.
Sư Tử Tướng Quân nói với Vô Ngôn Bồ Tát: “Đại Sĩ nên luôn luôn thường thị hiện thân mình để cho chúng tam muội chẳng thối tâm Vô thượng Bồ đề”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Thưa Tôn Trưởng! Nếu có đủ mười pháp thì thường được thân cân thận Phật và Bồ Tát. Những gì là mười? Đó là:
Tự xả bỏ vật vui thích của mình để ban cho chúng sanh. Tu tập nhẫn nhục hộ trợ kẻ vô lực. Thường khuyên chúng
sanh tu tập thiện pháp. Hóa đạo tất cả xu hướng Bồ đề. Nguyện cho chúng sanh trước được Vô thượng Bồ đề, tôi sẽ cúng dường nghe họ thuyết pháp thọ trì ủng hộ rồi sau tôi sẽ thành đạo vô thượng. Biết thiện pháp tánh. Vì hộ pháp mà chẳng tiếc thân mạng. Nghe thâm pháp giới chẳng sanh kinh sợ. Quán không có Bồ đề không có người được. Quán mình bình đẳng tất cả chúng sanh cũng bình đẳng. Do chúng sanh bình đẳng quán pháp giới cũng bình đẳng. Do pháp bình đẳng quán hư không bình đẳng. Quán sanh tử khổ cũng chẳng bỏ lìa. Thấy lỗi sanh tử long không thối hối. Đầy đủ các thiện pháp như vậy thì thường thấy chư Phật chư Bồ Tát và thường thân cận”.
Lúc nói pháp ấy, tướng quân và quyến thuộc được nhu thuận nhẫn.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Nầy A Nan! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả kinh điển như vậy. Tại sao, trong kinh điển nầy phân biệt diễn nói tất cả pháp tướng, cũng làm cho vô
lượng vô biên chúng
sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Nếu có người ở chỗ vô lượng chư Phật trồng các thiện căn, người ấy mới có thể ở nơi kinh nầy thọ trì đọc tụng biên chép rộng phân biệt nói nghĩa ấy. Người thọ trì kinh nầy có ba sự: quyết định phát tâm Vô thượng Bồ đề, hai là tâm bất thối, ba là hay hộ trì chánh pháp”.
Đại chúng nghe lời nầy, có bảy na do tha Bồ Tát đứng dậy bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi có thể sau khi Như Lai diệt độ thọ trì đọc tụng thơ tả kinh nầy”.
Vô Ngôn Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như Lai Thế Tôn được những pháp gì mà khiến chư Bồ Tát nầy thọ trì đọc tụng thủ hộ?”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Ngôn! Nếu có thể hộ người trì pháp ấy tức là hộ pháp. Đó là người biên chép người đọc tụng người giải nói văn tự. Văn tự nói được còn pháp thì chẳng nói được.
Nầy Vô Ngôn! Có hai hạng người có khả năng hộ pháp, đó là người như pháp mà trụ và người tụng văn tự nầy. Nếu không có văn tự pháp chẳng thể nói được”.
Nghe Phật nói xong, tất cả đại chúng và Sư Tử Tướng Quân các quyến thuộc chư Thiên thế nhơn đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment