Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 132
PHÁP HỘI BẤT KHẢ THUYẾT BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI BẢY
Như vậy, tôi nghe một lúc Phật Thích Ca Mâu Ni
Thế Tôn ở tại Đại Bửu Phường Đình giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới cùng chúng đại Tỳ Kheo câu hội. Vô lượng đại Bồ Tát từ mười phương Phật thế giới vân tập. Đại chúng vi nhiễu nghe Phật thuyết pháp thậm thâm vi diệu Đại Tập kinh điển.
Lúc bấy giờ trong đại hội có một Bồ Tát tên Bất Khả Thuyết từ chỗ ngồi đứng dậy chỉnh lại y phục trịch y vai hữu chưn Phật rồi quỳ dài chấp tay hướng lên đức Phật mà nói kệ rằng :
Trí tuệ vô ngại hành vô ngại
Như tánh hư không bất khả thuyết
Tam thế bình đẳng không giác quán
Nay tôi kính lễ đấng Vô Thượng
Quán pháp vô tướng thích tịch tĩnh.
Điều phục các căn xa lìa tướng
Rõ các pháp tướng không có hai
Nay tôi kính lễ đấng Pháp Vương
Quán chúng sanh tánh và pháp tánh.
Hai tánh như vậy không sai biệt
Tâm bình đẳng quán các chúng sanh
Khiến tôi dứt hẳn tất cả tánh
Bồ đề đã được vô sở đắc
Như tánh Bồ đề sắc cũng vậy
Vô tướng trang nghiêm
trang nghiêm tướng
Nay tôi kính lễ đấng Vô Thượng
Tất cả pháp giới không giác quán
Phàm phu thấy pháp có tướng hành
Tánh của pháp giới chẳng phá hoại
Phật chơn thiệt biết nên tôi lễ
Như lai thân ngiệp bất khả thuyết
Khẩu nghiệp ý nghiệp cũng như vậy
Tất cả pháp tánh và chúng sanh
Đấng Vô Thượng đều biết tỏ rõ
Như Lai trụ nơi bục chơn thiệt
Pháp được Phật nói không tiếng chữ
Chúng sanh thích nghe được lợi lớn
Vì thế Như Lai khó nghĩ bàn
Pháp được Phật nói không tướng mạo
Điều phục chúng sanh dứt các tướng
Khéo nói chúng sanh pháp tánh không
Vì thế tôi lạy đấng Vô Thượng
Nói kệ xong, Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Chư Bồ Tát trong đại hội này đã đều thỉnh hỏi rồi. Nay tôi ở trong kinh Đại Tập nầy còn muốn hỏi chút ít, mong đức Như Lai thương xót hứa khả cho”
Đức Phật nói : “Lành thay lành thay, nầy Bất Khả Thuyết ! Cứ theo chỗ nghi mà hỏi, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói”.
Được Phật hứa khả, Bất Khả Thuyết Bồ Tát liền nhập định ý. Do sức định ý khiến đại chúng ngồi đài báu lớn thăng lên hư không mưa rải các thứ hoa hương kỹ nhạc để cúng dường đức Phật, lại phát tiếng rằng : Đại Bồ Tát Bất Khả Thuyết nầy nay ở trong đại hội muốn hỏi đại sự.
Bất Khả Thuyết đại Bồ Tát bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Chư Phật Bồ đề thanh tịnh tĩnh thanh tịnh vô cấu quang minh không
tối chơn thiệt như vậy. Bồ đề tánh bình đẳng vi diệu thậm thâm không giác quán, xa lìa cấu nhiễm chẳng tuyên nói được, không chữ không câu không có
âm thanh quảng đại vô lượng, không có biên tế rời lìa tất cả biên tế, chẳng tăng chẳng giãm, chẳng đến chẳng lui, không có dừng ở, không cao không bằng, không có không
không có, kiên cố không hư hoại, không có ngã ngã
sở, không có thủ không có xã, không rộng không hẹp, không có pháp không có chúng sanh, vô tận không cứu cánh tận, chẳng rỗng không tánh rỗng không, chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải tâm chẳng phải tác, chẳng phải sanh chẳng phải diệt, như địa thủy hỏa phong không có biên tế chẳng thể đo lường được, bình đẳng khắp có không có chướng ngại dường như hư không, chẳng phải nhãn thức giới cho đến chẳng phải ý thức giới, dứt tất cả cõi, chẳng ví dụ được lìa tất cả ví dụ vì như tất cả chư Phật chơn thiệt biết vậy. Chẳng phải chẳng là như, tại sao, vì tất cả chúng sanh thảy đều được vậy. Chẳng phải khác như, tại sao, vì tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng vậy. Tánh nó là có, tại sao, vì là tánh
chơn thiệt vậy. Tánh nó là thiệt, tại sao, vì không có
quá khứ tế, vị lai tế, hiện tại tế vậy. Không tác, không thọ, không sắc, không tâm, không có tưởng. Không có thọ, dứt tất cả thọ. Không có tưởng, dứt tưởng. Không có hành,
dứt hành. Không có thức, dứt thức. Không có ấm nhập giới, dứt ấm nhập giới. Không có sơ trung hậu, lìa các ma nghiệp, không có lưu bố, là vô lậu, chẳng phải nhiếp, chẳng phải hành, chẳng phải dụng, không có tranh, không có tội, thường trụ tự tánh không có phân
biệt, không sanh không có năng sanh, không diệt không có năng diệt, không có căn bổn, không thượng không hạ, không có y chỉ, không vuông không tròn, chẳng phải trí chẳng phải huệ cũng chẳng phải huệ hành, chẳng phải nhiếp thuộc thánh đấ, chẳng phải nhiếp thuộc sanh tử, không có đối trị, không có đủ công đức, xa lìa các tướng.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu những nghĩa như vậy là Bồ đề thì câu vô biên,
câu vô giác, câu vô tham, câu vô tranh, câu kiên cố, câu bất hoại, câu bất động, câu bất tác, câu vô thân,
câu vô sanh, câu bình đẳng, câu vô nhị, câu vô phân biệt, câu nhứt vị, câu nhứt sự, câu nhứt thừa. Câu vô tận, câu tam thế bình đẳng, câu phân biệt tam thế, câu không, câu vô tướng, câu vô nguyện, câu vô hành, câu
tịch tĩnh, câu tánh, câu nhu, câu vô sanh, câu vô xuất, câu tận, câu vô y chỉ, câu pháp, câu thiệt tánh, câu tự thân tánh, câu vô
thân, câu vô tác, câu vô tướng, câu vô tranh,
câu vô đoạn, câu vô thường, câu thập nhị nhơn duyên, câu khả quan, câu định, câu thượng, câu thắng, câu vô tội, câu vô thượng, câu cứu cánh, câu tịnh, câu vô đảnh, câu vô thắng, câu vô đẳng, câu vô y, câu niệm, câu vô tương tợ, câu thắng nhứt thiết thế gian, câu vô cú,
câu sở y của tất cả câu.
Bạch đức Thế Tôn ! Bồ đề như vậy chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc, chẳng phải dài vắn vuông tròn, không
có quy củ, chẳng nhiếp thuộc tam giới, chẳng phải đạo, chẳng phải cứu cánh, chẳng phải đi, chẳng phải đến, chẳng phải có xứ sở, chẳng phải thủ, chẳng phải xả, lìa tất cả phiền não không có sầu sợ, dứt tất cả hỷ, không chơn không ngụy, lìa tất cả nhập, không có ngã ngã
sở, không có chúng sanh thọ mạng sĩ phu, vô lượng vô biên bất khả tư nghị, không có phần giới dường như hư không, tánh nó cứu cánh chẳng tuyên nói được. Thành tựu vô lượng pháp như vậy mới gọi là Bồ đề”.
Lúc nói pháp nầy, Đại Thiên thế giới cả đại địa chấn động sáu cách. Tất cả chư thiên cúng dường nhiều thứ hoa hương kỹ nhạc đồng nói :
Lành thay lành thay ! Bất Khả Thuyết đại Bồ Tát nói pháp rất tốt.
Lúc ấy trong đại hội có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát được vô tận khí đà la ni, nhứt thiết pháp tự tại tam muội và vô ngại giải thoát pháp môn.
Nếu có ai tin được như vậy, thì người ấy cũng sẽ được pháp lợi như vậy.
Bất Khả Thuyết đại Bồ Tát lại bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Giới Bồ Tát chẳng tuyên nói được, tại sao, vì bổn tánh của thân chẳng thể nói được vậy, vì thế nên thân giới chẳng thể tuyên nói. Bổn tánh của khẩu chẳng thể nói vì thế nên khẩu giới chẳng thể tuyên nói được. Bổn tánh của ý chẳng thể nói vì thế nên ý giới chẳng thể tuyên nói được.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu Bồ Tát lúc tu hành đạo Vô thượng Bồ đề thủ hộ mười pháp lành cũng chẳng thể tuyên nói. Nếu đem mười thiện nghiệp khuyên dạy các chúng sanh,
thì chúng sanh được khuyến hóa ấy cũng chẳng thể tuyên nói. Tu tập tâm từ bi hỉ xả cũng chẳng thể tuyên nói, tại sao, vì tu tập từ tâm quán không có
chúng sanh, tu tập bi tâm vô tác vô thọ, tu tập hỉ tâm lìa kiêu mạn, tu tập xả tâm lìa hai tướng vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát tu tập tứ vô lượng tâm như vậy tức là tu tập thamh tịnh phạm hạnh, trụ ở phạm đạo, là phạm phương tiện thắng tất cả phạm, thường được chư Phạm cúng dường, tại sao, vì thắng hơn tất cả các phạm hạnh vậy, vì chẳng tu chúng sanh duyên từ vậy, vì vhẳng tu chư pháp duyên bi vậy, vì chẳng tu nhị tướng duyên hỉ vậy, vì chẳng tu nội ngoại duyên xả vậy, vì lìa tất cả thế gian hành vậy, vì lìa bò các phạm hạnh thế gian vậy, vì thế nên thường được chư Phạm cúng dường.
Bạch đức Thế Tôn ! Do nhơn duyên ấy nên giới Bồ Tát chẳng thể tuyên nói. Giới Bồ Tát ấy trọn không tự dối phỉnh cũng chẳng dối phỉnh Phật. Tại sao, vì tự tức là vô tánh, vô
tánh tức là không có, không có tức là vô xuất, vô xuất tức là không có nhơn duyên. Không có
nhơn duyên tức là không có chữ, không có chữ tức là chẳng thể tuyên nói. Nếu có Bồ Tát có thể học như vậy tức là chẳng tự dối phỉnh.
Thế nào gọi là chẳng dối phỉnh chư Phật ?
Đức Như Lai biết rõ tất cả các phi pháp và
các chẳng phải phi pháp. Nếu là phi pháp và chẳng phải phi pháp tức là bình đẳng. Bình đẳng như vậy thì chẳng thể tuyên nói. Nếu Bồ Tát học như vậy thì gọi là chẳng dối phỉnh chư Phật Như Lai.
Còn nữa, tự ấy là vô ngã và không có ngã sở. Tri ấy cũng vô ngã va không ngã sở. Nếu có thể tu tập học như vậy cũng là vô ngã và
không ngã sở. Nếu có thể tư duy quán như vậy tức là chẳng tự dối phỉnh.
Như lai ấy là có thể tùy thuận nơi như, tùy nơi nhu tức là tùy chúng sanh, tùy chúng sanh tức là tùy thuận tất cả pháp , tùy tất cả pháp tức là chẳng xuất chẳng diệt chẳng trụ pháp. Nếu pháp chẳng xuất chẳng diệt chẳng trụ tức là vô vi. Vì vậy nên nói pháp vô
vi có ba tướng đó là không xuất không diệt và không trụ, do nghĩa như vậy nên gọi là vô vi. Vô vi tức là Thánh. Thánh gọi là không có oán. Vì Như Lai xa lìa tất cả nên gọi là Thánh. Oán ấy là nói vô minh,
Như Lai xa lìa tất cả vô minh. Vì vậy nên chẳng bị tất cả oán thù xâm hại. Hàng phàm phu có
đủ vô minh nên thường bị oán thù làm hại. Như Lai Thế Tôn hay quán thù oán giới và trí huệ giới, biết phiền não giới và tịch tĩnh giới, biết sanh tữ giới và Niết bàn giới, biết chúng sanh giới và pháp giới, biết rõ ma giới và Phật giới, quán sắc giới và nhãn giới, nhĩ giới và thanh giới, thân giới và xúc giới, ý giới và pháp giới, biết vô minh giới và trí huệ giới, tất cả thảy đều bình đẳng, tức là Phật giới là bất khả thuyết giới. Danh sắc giới và trí danh sắc giới đều bình đẳng tức là Phật giới là bất khả thuyết giới. Biệt lục nhập giới và lục thần thông giới đều bình đẳng tức là Phật giới là bất khả thuyết giới. Xúc giới và quả giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả thuyết giới. Thọ giới và diệt giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả thuyết giới. Ai giới và diệt giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả thuyết giới. Thủ giới và diệt giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả thuyết giới. Hữu giới và diệt giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả thuyết giới , sanh giới và diệt giới thảy đều bình đẳng là Phật giới là bất khả thuyết giới. Lão tử giới và diệt giới đều bình đẳng tức là Phật giới là bất khả thuyết giới.
Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu có thể quán như vậy thì liền được nhập vào tất cả các giới.
Bồ Tát nếu nhập vào các giới như vậy thì thấy người có tham chẳng sanh sân, thấy người dứt tham cũng chẳng sanh ái. Thấy người có sân chẳng sanh tâm sân, thấy người dứt sân chẳng sanh tâm ái. Thấy người có si chẳng sanh tâm sân, thấy người dứt si chẳng sanh tâm ái. Tại sao, vì đại Bồ Tát ở nơi những hai thứ như vậy đều biết tỏ rõ. Bồ Tát như vậy biết rõ va tụ. Bồ Tát học như vậy thì chẳng dối phỉnh Như Lai. Tại sao, vì biết các pháp sở học của Như Lai mà Bồ Tát nầy tùy thuận học theo vậy, thế nên Bồ Tát nầy chẳng dối Như Lai”.
Lúc ấy trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Vô Sở Uy hỏi Bất Khả Thuyết Bồ Tát rằng : “Thưa Đại sĩ ! Đại Bồ Tát học thế nào gọi là dối phỉnh Như Lai ?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói : “Nếu có Bồ Tát tự nói rằng tôi trì giới còn người kia phá giới, Bồ Tát nầy tức là dối phỉnh Như Lai.
Nếu nói rằng tôi là người bố thí còn kia thì
xan tham, tôi tu nhẫn nhục còn kia thì sân hận, tôi thì tinh tiến còn kia thì giải đãi, tôi thì tu chánh định còn kia thì loạn động, tôi tu trí huệ còn kia thì ngu si, tôi là người trí túc thiểu dục thích tịch tĩnh dễ nuôi dễ đủ khất phục thực phấn tảo y chỉ có ba y, chẳng ở trong chúng đông
người, học nhiều tịnh ngữ, lới nói dịu dàng chúng sanh
thích thọ nhận, tôi có đủ niệm huệ, tịnh các oai nghi và các khẩu nghiệp, có đủ tứ nhiếp pháp từ bi hỉ xả chơn ngữ thiệt ngữ như lời mà trụ, tôi biết cảnh giới ma biết mình xa lìa, tôi thường có thể tu học sáu Ba la mật, hay khéo thuyết pháp, vì các
chúng sanh mà phát thệ nguyện lớn, hay giáo hóa chúng sanh chẳng cho phóng dật.
Nếu nói những lời tự khen tài đức mình mà chê bai người khác như vậy, thì gọi là Bồ Tát phỉnh dối Như Lai.
Còn nữa, nếu Bồ Tát nói rằng tôi có thể quán sát các pháp như vậy, xa lìa, tu tập diệt. Đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai. Tại sao, vì chư Phật xuất thế và chẳng xuất thế pháp tánh thường trụ, vì thường trụ nên tất cả pháp giới chẳng thể thấy biết, chẳng thể xa lìa, chẳng thể tu diệt.
Nếu Bồ Tát nói ngã và ngã sở, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì tướng vô nhị vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi đã được chứng, tôi đã xa lìa,
đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì tánh
thanh tịnh vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi có Tứ niệm xứ, đây cũng là phỉng dối Như Lai, tại sao, vì Như Lai biết rõ tất cả pháp không có niệm vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi có Tứ chánh cần, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì Như Lai biết rõ tất cả pháp bổn tánh ly vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi có Tứ như ý túc, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì Như Lai biết rõ tất cả pháp vô phân biệt vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi có đủ Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát chánh đạo, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì Như Lai Thế Tôn tánh vô vi vậy.
Nếu Bồ Tát nói ngã khác đạo khác, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì thân tức là đạo vậy.
Nếu Bồ Tát nói vô minh khác với hữu ái, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì vô minh
cùng với ái tức là trí huệ, tức là giải thoát vậy.
Nếu Bồ Tát nói ba độc khác ba môn giải thoát, đây cũng là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì không vô
tướng và vô nguyên tức là tham, sân và
si vậy.
Nếu Bồ Tát nói tứ đảo khác với tứ quả, đây cũng gọi là dối phỉnh Như Lai, tại sao, vì tứ đảo tức là tứ quả vậy.
Nếu Bồ Tát nói bát tà khác bát chánh, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì phá bát tà tu bát chánh vậy.
Nếu Bồ Tát nói chúng sanh cửu địa khác cửu thứ đệ định, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì không có
hai tánh vậy.
Nếu Bồ Tát nói thập thiện khác mười pháp vô học, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai,tại sao, vì tất cả pháp không có tu học vậy.
Bồ Tát nếu học các pháp như vậy thì gọi là phỉnh dối Như Lai.
Tất cả chúng sanh với một chúng sanh không có hai không có khác, tại sao, vì tánh vô
ngã vậy.
Nếu nói một chúng sanh thì tất cả pháp không hai không khác. Nếu nói một pháp thì tất cả pháp giới không hai không khác. Một Phật Thế Tôn tất cả pháp giới không hai không khác. Nói một Phật giới tất cả Phật giới không hai không khác. Nói một phước điền tất cả phước điền không hai không khác. Tất cả phước điền với hư không, không hai không khác. Tất cả thánh nhơn xa lìa phiền não tất cả phàm phu không hai không khác. Tâm một chúng sanh bổn tánh thanh tịnh tâm tất cả chúng sanh không
hai không khác. Bổn tánh thanh tịnh một giới tất cả giới, một nhập tất cả nhập, một chúng sanh hành tất cả chúng sanh hành không hai không khác.
Nếu Bồ Tát nói các pháp nhẫn đến không có một niệm tạm trụ, chẳng tạo một tội ác chẳng thủ trước thiện pháp, chẳng sanh kiêu mạn, trong bất khả đắc chẳng quan niệm có đắc, trong bất khả chúng chẳng quan niệm có chúng, biết sanh tử với Niết bàn vô tác vô thọ, biết các phiền não không có căn
bổn, không có sợ sanh tử. Tùy thuận giới giới, tâm giới, huệ giới. Xa lìa phiền não chẳng bỏ chúng sanh, tịnh Đà ba la mật. Không có giới nơi giới, tịnh Thi la ba la mật. Không có nhơn nơi nhơn và không có ngã, tịnh Nhẫn ba la mật. Không có tạo tác nơi tạo tác, tịnh Tinh tiến Ba la mật. Không có tịnh tĩnh nơi tịnh tĩnh, tịnh Thiền Ba la mật. Không có hành nơi hành, tịnh Bát Ba la mật. Vô tận vô sanh mà được nhẫn nhục, được tâm vô ký mà thọ ký biệt. Chẳng nhập vào chánh vị mà chẳng thối chuyển nhứt sanh bổ xứ, chẳng sanh cung trời Đâu Suất Đà, chẳng từ trời xuống ở thai mẹ,nơi tất cả pháp tâm vô sở trụ. Cũng chẳng tự nói ta đã vượt quá sanh lão bịnh tử, chẳng đi bảy bước, cũng chẳng chỉ trời chỉ đất nói ta là bực tôn vô thượng thế gian, chẳng ở trong cung cùng vui với thể nữ, chẳng tập các sự nghề nghiệp thế gian, thị hiện người già để phá tham thân, thị hiện người bịnh khổ để phá tham thọ, thị hiện người chết để phá tham dục và ngã ngã sở, thị hiện Sa Môn để khiến chúng sanh chẳng cầu báo Thích, Phạm, Nhơn, Thiên, mà siêng cầu pháp xuất thế vô thượng. Leo ra khỏi cung thành là thị hiện xuất ly tam giới hệ phược và thị hiện tâm bi. Ngó trước nhìn sau là thị hiện không có sân và ái. Ba mươi hai tướng trang nghiêm thân mình là vì chúng sanh mà thị hiện phước điền lành tốt. Cởi vương phục bỏ chuỗi ngọc khiến Xiển Đà dắt ngựa Kiều Trắc trở về là thị hiện xa lìa tất cả phiền não. Cạo bỏ tóc râu là hiển thị chẳng tham trước tất cả pháp. Nhận mặc ca sa là hiển thị điều phục chúng sanh. Theo bên các ông Uất Đà Già A la Lã hỏi học là hiển thị phá hoại tâm tự cao đại. Sáu năm khổ hạnh là để phá ngoại đạo. Nhận món ăn uống là hiển thị tuỳ thuận pháp thế gian. Nhận bó cỏ là hiển thị tri túc. Ngồi trên nệm cỏ là hiển thị phá kiêu mạn. Chư Thiên Long Thần tán thán ngưỡng vọng là hiển thị quả báo công đức trang nghiêm. Hàng phục ma oán là hiển thị sức dũng mãnh. Tay hữu chỉ đất là hiển thị phước lực. Đại địa chấn động là hiển thị báo ơn. Được đạo Vô thượng Bồ đề là hiển thị biết rõ tất cả pháp tướng quán các pháp
bình đẳng gọi đó là Phật. Trí huệ của Phật không gì hơn được do nghĩa ấy mà gọi là Như Lai. Tỏ rõ thấy biết pháp thiện pháp bất thiện gọi là Thiên Nhơn Sư. Chẳng ra ngoài các
pháp gọi là chuyển pháp luân. Vì không có chuyển không có thuyết nên gọi là chuyển thuyết. Nhập không có nhập gọi là pháp. Nhập môn không có môn gọi là pháp môn. Tác không có tác gọi là pháp tác. Thiền không có thiền gọi là chánh thiền. Thoát không có thoát gọi là giải thoát. Tất cả các pháp tánh không có hệ không có phược, nếu là diệt pháp tức là quá khứ tức là bất sanh đây gọi là Phật. Xuất không có xuất tức gọi là Phật xuất.
Nếu Bồ Tát có thể học được như vậy thì gọi là chẳng dối phỉnh chư Phật Như Lai”.
Đức Phật nói : “Lành thay lành thay ! Bất Khả Thuyết khéo phân biệt nói Như Lai xuất thế. Nếu có ai tin được Phật xuất như vậy, người ấy chẳng thấy có tướng một pháp nhỏ. Người chẳng thấy ấy mới biết rõ được Như Lai xuất thế. Tại sao, vì xuất không có xuất tức là Phật xuất, không có tác giả, không có ái không ái giả, không có lậu không lậu giả, không có tranh, không có thấy, không có nhập, không có chuyển, không có sanh, không có diệt, không có Bồ đề, không có đấu, không có phỉnh, không có tâm ý thức, không có nhãn, không có hai, không có nhãn hành nhẫn đến ý hành, không có
thyết không có giáo, đây gọi là Phật xuất”.
Vô úy Bồ Tát bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như lời Phật nói, Như Lai xuất thế và Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói Phật xuất ấy, ai sẽ nói đó ?”.
Lúc ấy Bửu Nữ bảo Vô Úy rằng : “Nầy pháp huynh ! Như Lai xuất thế bất khả tư nghị, khó trang nghiêm được, khó chứng đắc được. Nếu là người gỉai đãi tâm chẳng chơn chánh hư ngụy, siểm khúc, kiêu mạn, ưa sân hận, ganh ghét, xan tham, chẳng biết ơn nghĩa, thọ ơn chẳng báo, ba giới cấm chẳng thanh tịnh, tham trước ba cõi bị ba cấu uế làm ô nhiễm. Chẳng kính Tam bữu, chẳng tu ba môn giải thoát, ngang nguợc ác khẩu, thích nói lời vô nghĩa, chẳng biết tàm quí, vì lợi dưỡng mà bề ngoài hiện tế hạnh, tự phỉnh gạt người tham nơi cúng dường, các căn chẳng điều, thích cầu pháp Thanh Văn thừa, pháp Bích Chi Phật thừa, tâm chẳng chơn thiệt, ít học ngu si không nhớ hay quên, chẳng biết phương tiện, chẳng tu từ bi hỉ xả các tâm vô lượng, thường hành ma giới, tham trước ngã nhơn chúng sanh thọ mạng, nó là không có
nhơn quả không có nghiệp hành duyên, tâm họ phóng dật ưa làm việc ác, bỏ lìa đầu đà, ưa làm thế pháp, tự khen thân mình mà
khinh chê thân người, tham thân mạng sắc v.v năm thứ, ưa ngủ nghỉ, ưa nghe thế pháp, chẳng biết thời tiết, thân cận ác hữu, chẳng thể tu hành Tứ nhiếp pháp.
Nầy Vô Úy pháp huynh ! Người như vậy chẳng biết Phật xuất, chẳng tin Phật xuất”.
Vô Úy Bồ Tát nói : “Nầy Bửu Nữ ! Nay cô đã xa lìa được các ác pháp như vậy chẳng ?”.
Bửu Nữ nói : “Nầy Pháp huynh ! Tôi đã xa lìa các ác pháp như vậy. Xa lìa thế nào ? Như bất tham tế. Thế nào là bất tham ? Như tham tế. Thế nào là tham tế ? Như chơn thiệt tế. Thế nào là thiệt tế ? Như ngã kiến tế. Thế nào là ngã kiến? Như quá khứ tế. Thế nào là quá khứ ? Như vô minh tế. Thế nào là vô minh ?
Như tham ái tế. Thế nào là vô minh tế tham ái tế ? Như trí huệ tế giải thoát tế. Thế nào là trí huệ tế giải thoát tế ? Như ảo huyễn tế”.
Vô Úy Bồ Tát nói : “Nầy Bửu Nữ ! Ảo huyễn chẳng phải tâm chẳng phải ý, còn trí huệ giải thoát tức là tâm ý”.
Bửu Nữ nói : “Nầy Pháp huynh ! Tất cả chúng sanh tâm ý trí huệ giải thoát thảy đều như ảo huyễn cả”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi : “Nầy Bửu Nữ ! Như lời nói của Bất Khả Thuyết Bồ Tát cô có tin được chăng ?”.
Bửu Nữ nói : “Nầy Pháp huynh ! Ngài Bất Khả Thuyết trọn không có nói. Như ngài ấy có nói thì chẳng phải là bất khả thuyết. Nếu Ngài bất khả thuyết mà có nói thì làm
sao được gọi là Bất Khả Thuyết, lẽ ra nên gọi là thuyết. Vì Ngài Bất Khả Thuyết thiệt không có nói, thế nên gọi là Bất Khả Thuyết vậy.
Nếu Ngài Bất Khả Thuyết thiệt không có nói, tôi nay là nghe những gì, nếu không có nghe gì
thì tin những gì ư !”.
Vô Úy Bồ Tát nói : “Nầy Bửu Nữ ! Bất Khả Thuyết Bồ Tát ấy thiệt có nói, nay có người chúng biết đó là đại chúng,. Tất cả đại chúng thảy đều được nghe Bất Khả Thuyết Bồ Tát ấy tuyên nói”.
Bửu Nữ nói : “Nầy pháp huynh ! Trong đại chúng đây nếu có ai nói tôi nghe lời nói của Ngài Bất Khả Thuyết ấy nói thì là hư vọng, tại sao, vì Ngài Bất Khả Thuyết thiệt không có nói làm
sao đại chúng lại nói là có nghe !”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi : “Nầy Bửu Nữ ! Nay cô có tin lời Phật chăng ?”.
Bửu Nữ nói : “Nầy pháp huynh ! Nếu có người thế gian không tin tức là Phật vậy, tại sao, vì tin ấy là tham dục sân hận. Như Lai không có tham dục sân hận thế nên không có tin.
Nếu không có tin tức là không có chứng. Nầy pháp huynh! Không vô tướng vô nguyện chơn thiệt không có chứng, thế nên Như Lai cũng không có
chứng.
Nầy pháp huynh ! Pháp giới thiệt tánh vô tác vô vi, các pháp hư không chơn thiệt không có chứng thế nên Như Lai cũng không có
chứng”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi : “Nầy Bửu Nữ ! Lấy gì là chứng ?”.
Bửu Nữ nói : “Nầy pháp huynh ! Nếu có người chẳng thấy vô lượng Phật pháp, người như vậy khả dĩ là chứng”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi : “Nầy Bửu Nữ ! Các Tôn gỉa Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên là chứng tin chăng ?”.
Bửu Nữ nói : “Nầy pháp huynh ! Đúng như vậy, đúng như vậy, là chứng là tin, tại sao, vì giới của người Thanh Văn có biên
tế, còn giới của Như Lai không có biên
tế. Như giới, những định huệ giải thoát và giải thoát tri kiến cũng như vậy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Bửu Nữ rằng : “Nầy Bửu Nữ ! Người Thanh Văn cũng có
ba môn giải thoát, đức Như Lai cũng có ba môn
giải thoát, nay cớ chi cô cho người Thanh Văn là chứng tin mà chẳng nói là Như Lai ?”.
Bửu Nữ nói : “Thưa Đại Đức ! Như ao A Nậu Đạt có nước tám vị mưa xuống Diêm Phù Đề. Mưa rồi tất cả cỏ cây lùm rừng đều được tăng trưởng. Nước mưa như vậy có sai biệt chăng ?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : “Không có sai biệt”.
Bửu Nữ nói : “Thưa Đại Đức ! Như nước ao A Nâu Đạt vốn có một vị, mà người có đức dùng nước ấy thì có các thứ vị ngon ngọt, cón người bạc đức dùng nước ấy thì cảm thấy mùi vị không ngon.
Thưa Đại Đức ! Ba môn giải thoát của Như Lai và hàng Thanh Văn cũng như vậy. Thế nên đức Như Lai và hàng Thanh
Văn có sai biệt, mà pháp giới tánh thiệt không có sai biệt”.
Đức Phật nói : “Lành thay lành thay ! Bửu Nữ khéo có thể phân biệt tuyên nói nghĩa ấy”.
Lúc Bửu Nữ nói pháp ấy, trong trời và người có ba vạn ba ngàn pháp tâm
Vô thượng Bồ đề.
Bửu Nữ lại nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng : “Thưa Tôn giả ! Như đại hải, nước biển một vị, có nhiều châu báu, cũng có
châu thủy tinh giá rẻ.
Pháp giới cũng vậy, dầu là bình đẳng mà chư Phật học đó thì được vô giá bữu, còn hàng Thanh Văn học đó thì được báu hạ giá.
Thưa Đại Đức ! Như núi Tu Di, trên núi có chư Thiên hưởng nhiều khoái lạc, cũng có chư Thiên hưởng ít khoái lạc, mà núi Tu Di thiệt không có sai biệt.
Pháp giới cũng vậy, dầu không có sai biệt mà Như Lai ở nơi ấy thọ vô lượng lạc, còn hàng Thanh
Văn ở nơi ấy hưởng vui hữu lượng.
Thưa Đại Đức ! Như Chuyển Luân Vương dầu có ngàn Vương Tử, cũng chẳng được đều xưng nối ngôi vua. Hàng Thanh Văn cũng vậy, dầu có trí tuệ mà chẳng được gọi là Phật .
Thưa Đại Đức ! Như đĩa đốt ngọn đèn, nếu bằng vàng thì ánh sáng màu vàng, nếu bằng đồng thì ánh sáng màu đỏ. Màu sắc dầu khác mà ngọn đèn không có sai biệt. Pháp giới cũng vậy, chư Phật đốt lên thì trí quang
vô biên, còn hàng Thanh Văn đốt lên thì trí quang hữu biên. Nhưng pháp giới tánh thiệt không sai biệt.
Thưa Đại Đức ! Như Chuyển Luân Vương lúc vào thành ấp tất cả nhơn dân đầu hay biết. Còn người bạc đức lúc vào thành ấp cho đến người thân hậu còn chẳng hay biết. Lúc Như Lai Thế Tôn nhập pháp giới cũng như vậy, tất cả thiên nhơn thảy đều hay biết, che trùm tất cả ngoại đạo dị học hơn cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật. Còn người Thanh Văn lúc vào
thành ấp, các Thanh Văn còn chẳng hay biết huống là người khác.
Thưa Đại Đức ! Như trong túi có tiến sư tử rống, có tiếng kêu của các loại chim, tiếng người, tiếng bò, tiếng lừa, tiếng ngựa, âm vang tùy theo tiếng phát ra. Âm vang thiệt không có sai biệt mà tùy theo tiếng phát ra nên âm vang chẳng đồng.
Tam giải thoát môn của Như Lai và Thanh Văn
cũng như vậy. Như Lai có thể phá tất cả ma chúng, thắng tất cả ngoại đạo tà kiến, hay biết tâm niệm của tất cả chúng sanh, hay biết các loại sở hành của tất cả chúng sanh, hay điều các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, hay phát âm
thanh chư Phật Thế Tôn. Người Thanh Văn dầu đồng pháp giới mà chẳng đồng làm các sự như vậy.
Thưa Đại Đức ! Như cây mía, vị ngọt của nó dầu là một, mà sản xuất bạch thạch mật cho người phước đức, sản xuất hắc thạch mật cho người bạc đức.
Pháp giới nhứt vị cũng như vậy, đại Bồ Tát thì được vị đại trí cam lộ chẳng tạp vị Thanh Văn, vị Bích Chi Phật. Còn hàng Thanh Văn chỉ được vị trí hữu biên.
Thưa Đại Đức ! Như Đại Thiên thế giới có nhiều đại hải làm lợi cho vô lượng vô biên chúng
sanh, cũng có những con sông nhỏ lợi ích cho phần ít chúng sanh. Pháp giới cũng như vậy.
Thưa Đại Đức ! Như nhật nguyệt tinh tú đều ở trên không, sáng của tinh tú không bằng nhựt nguyệt, tánh hư không ấy thiệt không có sai biệt.
Pháp giới cũng vậy, Như Lai và Thanh Văn dầu đều đi ở nơi ấy mà trí huệ quang minh thiệt chẳng đồng chẳng bằng nhau, nhưng pháp giới tánh vẫn không sai biệt.
Thưa Đại Đức ! Như có hai người đồng học một nghề, một người khéo giỏi được nhiều lợi ích, một người vụng dở được lợi không bao nhiêu.
Như Lai Thanh Văn và
pháp giới cũng vậy.
Thưa Đại Đức ! Như bông vải không có sai biệt. Do phương tiện khéo nên được y thượng giá, vì phương tiện vung nên được y hạ giá.
Pháp giới nhứt tánh cũng như vậy. Như Lai do dùng trí huệ phương tiện đại từ đại bi nghiệp nhơn duyên ấy nên được đại tịch tĩnh vô giá trí huệ. Hàng Thanh Văn được hạ trí huệ mà chẳng thanh tịnh.
Thưa Đại Đức ! Như trong đại hải có La Hầu A Tu La Vương mà cũng có các
loại chúng sanh khác, nhưng chỉ có A Tu La Vương là có thể đứng đến đáy biển, các loại khác thì không được. Pháp giới cũng vậy, Như Lai thì được cứu cánh trí huệ, còn Thanh Văn thì
không được.
Thưa Đại Đức ! Như đại địa sản xuất hoa ngàn cánh cũng sản xuất hoa bảy cánh, chư Thiên và thế nhơn thấy hoa ngàn cánh đều vui mừng. Như Lai Thanh Văn pháp
giới cũng như vậy. Chư Thiên và thế nhơn thấy Phật đều vui mùng lòng ưa mến, hàng Thanh Văn chẳng được như vậy.
Thưa Đại Đức ! Do những nghĩa như vậy, nên Như Lai trí huệ vô lượng vô biên, còn pháp giới tánh vẫn không sai biệt”.
Vô Úy Bồ Tát nói với Bửu Nữ rằng : “Này Bửu Nữ ! Bất Khả Thuyết Bồ Tát ấy quyết định là thầy của cô, hay dùng diệu pháp điều phục nơi cô”.
Bửu Nữ nói : “Thưa pháp huynh ! Bất Khả Thuyết Bồ Tát không có chỗ điều phục, tại sao, Bồ Tát như vậy chẳng thấy tự chẳng thấy tha và chẳng thấy đây kia, như thế ấy thì dùng gì điều phục.
Nầy pháp huynh ! Nếu người chẳng thấy biết tất cả cảnh giới và tự cảnh giới, người như vậy thì có thể điều phục.
Còn nữa, nầy pháp huynh ! Nếu có thể thấy biết tất cả pháp chẳng thấy có ngả và ngả sở, người như vậy thì có thể điều phục.
Còn nữa, nầy pháp huynh ! Nếu người có thể siêng tu khổ hạnh, cũng khuyên người siêng tu khổ hạnh rồi mà chẳng sanh cao, người như vậy thì có thể điều phục.
Còn nữa, nầy pháp huynh ! Như chư Bồ Tát vì chúng sanh nên ở sanh tử liền được giải thoát chẳng hiện Niết bàn, người như vậy thì có thể điều phục, đây gọi là đệ nhứt thiệt nghĩa điều phục”.
Đức Phật nói : “Nầy Vô Úy ! Bửu Nữ ấy chơn thiệt từ Bất Khả Thuyết Bồ Tát kia mà được điều phục. Vì điều phục nên vị lai sẽ được Vô thượng Bồ đề”.
Bửu Nữ bạch đức pháp rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Đại Bồ Tát thiệt không có điều phục. Nếu điều phục ấy tức là đại bi. Bi hay điều phục chẳng phải người ấy vậy.
Người Thanh Văn thì cần phải điều phục, tại sao, vì không có
đại bi vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Như trái trên cây am
la, trái chín thì vị ngọt ngon người ta ưa thèm, còn nếu là trái sống thì vị đắng người chê bỏ. Trí huệ Như Lai từ đại bi sanh vì vậy mà tự điều chẳng do nơi người”.
Vô Úy Bồ Tát nói với Bửu nữ rằng : “Cô cũng có thể báo đáp ơn cho Bất Khả Thuyết Bồ Tát chẳng ?”.
Bửu Nữ nói : “Thưa pháp huynh ! Nếu tôi biết ơn đâu được chẳng báo. Nếu có ai chẳng thể tu hành đạo Bồ đề, người như vậy thì chẳng thể báo”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi : “Nầy Bửu Nữ ! Thế nào gọi là tu Bồ đề đạo ?”.
Bửu Nữ nói : “Ba mươi hai nghiệp gọi là Bồ đề đạo. Những gì là ba mươi hai nghiệp ? Đó là :
Trọn chẳng thối thất tâm Bồ đề, chẳng ham tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật, chí tâm tu hành
không có siểm khúc, phàm chỗ tu hành không có chướng ngại, vì chúng sanh mà
làm tâm không có nhàm hối, dầu hiện hành sanh tử mà lìa tâm tham sân, với các chúng sanh tâm luôn bình đẳng đều có thể hóa để điều phục họ, dùng tứ nhiếp pháp để nhiếp lấy họ, vì cho chúng sanh được vui mà tu từ tâm, vì cứu khổ chúng sanh mà tu đại bi, như thuyết mà hành, tinh tiến kiên cố, trọn chẳng khi dối tất cả chúng sanh, những trang nghiêm được tu vì trợ Bồ đề chẳng cầu tất cả sự vui thế gian, tâm chẳng tham trước thế gian lợi dưỡng, chẳng vì tự thân mà gây tạo các sự ác, chẳng tham thọ mạng, chẳng thấy lỗi người, tâm mình điều phục, tịnh ba loại giới, trang nghiêm tu tập nghiệp tướng hảo, thường nhớ xuất gia báo đáp nghiệp lành đời trước, thường thích tịnh tĩnh, học nhiều không phàm, trí huệ hay lợi ích thân mình thân người, phàm có thuyết pháp không có ý tưởng ăn uống, hay xả bỏ tất cả chẳng cầu quả báo, tinh nơi giới tụ, chẳng sanh kiêu mạn, trọn chẳng tự khen công đức của mình, vì người mà siêng tu nhẫn nhục, vì tịnh Phật độ nên siêng hành tinh tiến, vì biết phương tiện nên cầu Nhứt thiết trí, dứt hẳn tất cả phiền não tập khí, vì được thần thông để hộ trì chánh pháp, thân cận thiện hữu thiện tâm tư duy, xa lìa ma
nghiệp như pháp mà trụ, được vô sanh diệt vi diệu trí huệ.
Nếu người chẳng thể hành những pháp như vậy, nên biết người ấy chẳng thể báo ơn, lại còn chẳng biết được ơn Như Lai.
Có hai hạng người quyết định chết chẳng trị chữa được rốt ráo chẳng thể biết ơn và báo ơn :
Một là hàng Thanh Văn và hai là hàng Duyên Giác.
Nầy pháp huynh ! Ví như có người sa vào hố sâu, người ấy chẳng thể tự lợi lợi tha. Hàng Thanh
Văn và Duyên Giác cũng như vậy, sa vào hố giải thoát chẳng thể tự lợi và lợi tha”.
Lúc ấy Vô Úy Bồ Tát liền cởi thượng y cùa mình đang
mặc để báo đáp ơn thuyết pháp của Bửu Nữ.
Bửu Nữ chẳng chịu nhận y ấy.
Vô Úy Bồ Tát nói : “Ta vì pháp vậy, mong nhận lấy đó”.
Bửu Nữ nói : “Thưa pháp huynh ! pháp
lìa nơi tham, vì vậy nên chẳng nên thuyết pháp mà thọ nhận, pháp không có lấy vì vậy nên chẳng nên lấy vật cúng dường, pháp không có tham vì vậy nên chẳng nên tham vật cúng dường, pháp vô ngã và
ngã sở vì vậy nên chẳng nên đem vật ngã sở để cúng dường, pháp thanh tịnh vì vậy nên chẳng nên đem vật bất tịnh để cúng dường, pháp không có thân tâm vì vậy nên thân tâm làm là chẳng pải cúng dường vậy, pháp chẳng phải tâm ý thức nên tâm ý thức chẳng phải cúng dường vậy, pháp không kéo níu nên có kéo níu là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng hữu vô vì vậy nên pháp hữu là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng phải các hữu và vậy nên tướng hữu là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng phải giác quán người có giác quán là chẳng phải cúng dường vậy, pháp không tăng
giảm người có tăng giảm là chẳng phải cúng dường vậy, pháp không cao hạ người có caoi hạ là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng nói được chẳng nghe được không có văm tự, xả bỏ tất cả âm thanh lắng nghe, lìa xa thánh đạo vì vậy chẳng thể đem y cúng dường được, pháp không có cảnh giới chẳng phải nhãn cảnh giới nhẫn đến ý cảnh giới không có chỗ y trụ vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường, pháp tức là mười hai nhơn duyên chẳng phải thường chẳng phải đoạn vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường, pháp không chướng ngại, chẳng điên chẳng đảo, chẳng thể lường đo, không có ngã
nhơn chúng sanh thọ mạng, bất sanh bất diệt bất xuất vô vi vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường.
Vô Úy Bồ Tát nói : “Nầy Bửu Nữ ! Đức Như Lai Thế Tôn cũng thọ pháp cúng dường như vậy”.
Bửu Nữ nói : “Đức Như Lai dầu thọ pháp cúng dường, như pháp giới tánh mà chẳng phân biệt”.
Vô Úy Bồ Tát nói : “Thế nào là phân biệt pháp giới ?”.
Bửu Nữ nói : “Nếu nói pháp khác, cúng dường khác, người thọ khác, người thí khác, đây thì
gọi là phân biệt pháp giới. Nếu chẳng phân biệt pháp và cúng dường chẳng phân biệt người thọ người thí, đây thì gọi là bất phân biệt pháp giới”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi : “Nếu pháp giới ấy không có phân biệt sao lại nói phân biệt pháp giới và bất phân biệt pháp giới ?”.
Bửu Nữ nói : “Tánh pháp giới ấy dầu không có phân biệt, mà vì các chúng sanh tâm họ điên đảo sanh ra phân biệt. Như có món đồ nên gọi là có bể hư, nếu có tạo tác có thủ trước thì gọi là phá hư gọi là phân biệt. Như món đồ hư hoại mà hư không trong món đồ trọn chẳng bị hư hoại. Tánh pháp giới cũng như vậy”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment