Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 134
PHÁP HỘI BỬU TRÀNG
THỨ NĂM MƯƠI TÁM
PHẨM ĐIỀU PHỤC MA
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Thế Tôn Thích Ca Mâu
Ni Phật vẫn ở tại Đại Bửu Phường Đình giữa Dục giới và Sắc giới cùng đại chúng quyến thuộc câu hội thuyết pháp.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng rằng: “Thuở trước, lúc ta mới được Vô thượng Bồ đề, ta ở vườn Trúc Lâm của Ca Lan Đà Trường giả tại thành Vương Xá. Bấy giờ trong thành có hai trí giả là ông Ư Ba Đề Xá và ông Câu Luật Đà đầy đủ thành tựu mười tám nghệ thuật, năm trăm đệ tử thường theo. Hai trí giả ấy bảo nhau rằng nếu ai trước được pháp vị cam lộ thì sẽ lại ban bố cho nhau.
Có một Tỳ Kheo tên là Mã Tinh sáng sớm từ thiền định dậy vào thành Vương Xá thứ đệ khất thực.
Ông Ưu Ba Đề Xá giửa đường xa thấy Tỳ Kheo Mã Tinh liền tự nghĩ rằng ta từ trước ờ thành Vương Xá nầy chưa từng thấy có một Sa Môn hay một Bà La Môn nào mà
oai nghi tường tự như vị nầy, ta nên đến hỏi ổng thờ ai làm thấy, theo ai để học pháp.
Ưu Ba Đề Xá đến trước Mã Tinh Tỳ Kheo hỏi rằng : “Thưa Tỳ Kheo ! Thầy Ngài là ai ? Ngài
theo ai học pháp ?”.
Mã Tinh đáp rằng : “Nầy thiện nam tử ! Có Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đại Sư bực tôn Vô thượng hơn các bực xuất gia đã qua khỏi sanh tử được giải thoát có thể độ vô lượng chúng sanh gọi đó là Phật, có thể giác ngộ chúng sanh khéo làm các hạnh lành, có thể làm khô biển khổ, đả đầy đủ thành tựu những pháp như vậy là thầy của tôi, tôi học pháp theo Phật Thế Tôn ấy”.
Ưu Ba Đề Xá hỏi : “Thưa Tỳ Kheo ! Thầy của Ngài thường dạy pháp gì?”.
Mã Tinh nói : “Nầy thiện nam tử ! Nay người lắng nghe, tôi sẽ vì người mà phân biệt giải nói.
Pháp theo duyên mà sanh, thông đạt là nhơn, vì nhơn duyên diệt tức là tịch tĩnh. Thế gian là khổ, khổ nhơn gọi là tập, nếu tu bát chánh đạo thì thế gian tập dứt diệt, nếu không có khổ và tập thì gọi là Niết bàn.
Nầy thiện nam tử ! Thấy của tôi nói các pháp như vậy”.
Ưu Ba Đề Xá nghe lời ấy rồi liền được pháp nhãn tịnh gọi là Tu Đà Hoàn, bèn nói kệ rằng :
Tôi nghe Tỳ Kheo nói tứ đế
Liền qua khỏi được ba ác đạo
Xưa chỗ chưa nghe nay được nghe
Xưa chỗ chưa được nay đã được
Tôi nay đã khỏi ba ác đạo
Chơn thiệt biết rõ đạo phi đạo
Tôi nay thành tâm quy y Phật
Vì Phật hay nói pháp ấy vậy.
Nói kệ xong, lại hỏi Tỳ Kheo Thế Tôn như vậy hiện nay ở tại đâu ?
Mã Tinh nói : “Đức Thế Tôn nay ở tại thành Vương Xá vườn Trúc Lâm của Ca Lan Đà Trưởng giả cùng các Ngài Ca
Diếp một ngàn Tỳ Kheo câu hội và mười ngàn Bồ Tát, ông nên đến đó”.
Ưu Ba Đề Xá nói : “Thưa Tỳ Kheo ! Nay tôi trở về hỏi bạn đồng học và đồ chúng của tôi”.
Ưu Ba Đề Xá kính lễ Mã Tinh Tỳ Kheo hữu nhiễu ba vòng trở về trụ xứ.
Câu Luật Đà từ xa thấy Ưu Ba Đề Xá liền hỏi vói rằng : “Nầy bạn Ưu Ba Đề Xá ! Nay tôi nhìn bạn các căn tịch tĩnh thanh tịnh nhan sắc vui tươi, phải chẳng bạn đã được pháp vị cam lộ rồi chẳng ?”.
Ưu Ba Đề Xá nói : “Nầy bạn Câu Luật Đà ! Tôi đã được. Lắng nghe lắng nghe, tôi sẽ vì bạn mà nói.
Pháp theo duyên sanh, thông đạt là nhơn, vì nhơn duyên diệt tức là tịch tĩnh. Thế gian là khổ, khổ nhơn gọi là tập, nếu tu bát chánh thế gian tập diệt dứt, nếu không khổ tập gọi là Niết bàn”.
Câu Luật Đà nói : “Nầy Ưu Ba Đề Xá ! Lời nói ấy có thể hết các khổ tức là phạm hạnh, có thể dứt tà kiến tất cả nhơn duyên, cũng nói tất cả hữu vi vì đều rỗng không . Mong được bạn nói lại”.
Ưu Ba Đề Xá liền nói lập lại những lời trên.
Nghe xong, Câu Luật Đà liền được pháp nhãn tịnh thành Tu Đà Hoàn
bèn nói rằng : “Lời pháp ngữ như vậy có thể qua khỏi tứ lưu, ra khỏi sanh tử, thông đạt ngũ ấm, dứt hẳn phiền não. Pháp vị cam lộ nay tôi đã được chẳng nên còn ở đây nữa.
Nầy bạn Ưu Ba Đề Xá ! Bực Thầy như vậy nay ở tại đâu?”.
Ưu Ba Đề Xá nói : “Tôi nghe
bực Thầy ấy hiện nay ở thành Vương Xá vườn Trúc Lâm của Trưởng giả Ca Lan Đà”.
Ưu Ba Đề Xá và Câu Luật Đà bảo các đệ tử rằng : “Nầy trong xứ nầy có Thích Ca Như Lai, chúng ta đã học được pháp của Ngài nói. Các người hôm nay muốn về nơi đâu ?”.
Bấy giờ trên Thiên cung Ma vương bảo hàng chư Thiên rằng : “Nước Ma Kiệt Đà có hai đại nhơn Trí huệ tối thắng là ông Ưu Ba Đề Xá và ông Câu Luật Đà nay muốn làm đệ tử Sa Môn Cù Đàm. Nếu hai đại nhơn ấy theo thọ pháp Sa Môn Cù Đàm thì cảnh ta ắt trống rỗng, nay ta muốn đến đó xoay chuyển tâm xuất gia của hai đại nhơn ấy”.
Ma vương liền biến hóa thân mình làm
tượng Mã Tinh Tỳ Kheo
đến chỗ Ưu Ba Đề Xá va Câu Luật Đà mà bảo rằng: “Nầy các phạm chí! Trước đây ta nói như vậy là để thử trí của người thôi. Thiệt ra Thích Ca Như Lai chẳng nói như vậy. Như Lai thường nói không có nghiệp và quả thiện, không có nghiệp và quả ác, nếu người có thể gần kề vui ngũ dục thì người ấy liền được pháp vi cam lộ. Như Lai lại còn nói không có đời nầy đời sau vì thế nên không có nghiệp. Nếu không có nghiệp thì ai làm ai thọ. Đã không chửng tử làm sao có quả. Thích Ca Như Lai chỉ nói lời ấy thôi”.
Ưu Ba Đề Xá và Câu Luật Đà bảo nhau rằng : “Lời nói ấy tức là ma thuyết chẳng phải lời Như Lai, cũng chẳng phải là lởi của Mã Tinh Tỳ Kheo”.
Ma vương biết như vậy liền biến mất.
Hai người lại bảo các đệ tử rằng : “Các người thường đế quán sanh lão bịnh tử thế nhơn không ai khỏi. Nay chúng ta đã có thể dứt hẳn khổ, ngày nay các người muốn cầu điều gì?”.
Ma vương lại hiện hình Mã Tinh Tỳ
Kheo nói rằng : “Ai có thể phá hoại được sanh lão bịnh tử ! Như có người nói tôi có thể phá hoại hư không. Không bao giờ có lẽ ấy. Nếu nói có thể phá hoại sanh lão bịnh tử thì cũng như vậy”.
Câu Luật Đà nói với Ma vương rằng : “Tôi muốn thông đạt pháp thanh tịnh xa lìa các khổ. Tất cả xuất gia đều không có giải thoát được phiền não khổ như vậy. Vì thế nên nay tôi muốn đến chỗ đức Như Lai.
Nầy Ma vương ! Như chốn rừng kêu mà nói là sử tử rống, hình sắc tương tợ mà thiệt ra không phải là sư tử. Nay người dầu hiện hình Tỳ Kheo mà lời nói của người chẳng phải là lời của Tỳ Kheo.
Luận về Tỳ Kheo ấy là phá phiền não. Lời nói phá phiền não tức là thanh tịnh. Nói không có thiện ác thì chẳng phải lời của Tỳ Kheo”.
Trong hư không tất cả chư Thiên đều khen rằng : “Lành thay lành thay ! Nầy thiện nam tử ! Tất cả xuất gia thì Phật đạo là tối thắng. Phật đạo ấy tức là Niết bàn. Nay tôi chẳng nhận lời nói của ma. Lành thay lành thay !”.
Ma vương lòng rất khổ não liền ẩn mất.
Các đệ tử bạch hai thầy rằng : “Nay thầy thọ chánh pháp và Vô thượng của Cù Đàm Sa Môn,
chúng tôi cũng vậy nên đến chỗ Như Lai để hỏi học”.
Hai đại sư cùng năm trăm đệ tử đồng qua vườn Trúc Lâm Ca Lan Đà Trưởng giả.
Ma vương tại giữa đường ấy hóa làm hố lớn sâu năm thăm do tuần muốn khiến đoàn người ấy chẳng đến được chỗ Phật.
Đức Phật biết như vậy liền dùng thần thông lực làm cho đoàn người ấy thấy đường bằng phẳng không có hầm hố.
Ma vương lại hóa ra tòa núi
cao lớn ngàn dặm. Do thần lực của Phật đoàn người ấy không thấy núi.
Ma vương lại sai trăm ngàn sư tử ngăn đường. Các sư tử thấy Ưu Ba Đề Xá và Câu Luật Đà cùng năm trăm
đệ tử liền sanh thiện tâm mà nằm mọp yên lặng. Hai người và đệ tử được đến chỗ Phật.
Đến rồi, tất cả đoàn người đầu mặt lạy chưn đức Phật rồi dứng qua một phía mà bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Ngưỡng mong dức Như Lai cho tôi xuất gia, tôi muốn tu phạm hạnh thanh tịnh trong Phật pháp”.
Đức Phật nói : “Thiện lai các thiện nam tử. Tùy ý tu tập thanh tịnh phạm hạnh”.
Đức Phật nói xong, đều được đủ giới Tỳ Kheo.
Ma vương thấy hai người ấy được xuất gia rồi liền biến hóa làm tượng Trời Tự Tại Thiên hướng lên đức Phật mà nói kệ rằng :
Thế gian nếu có người trí huệ
Đầy đủ thành tựu thế phương tiện
Đều đến lễ kính cúng dường ta
Ta cũng vì họ nói tịnh đạo
Cù Đàm nếu muốn độ sanh tử
Nay nên thành tâm thấy quy y
Nay lời ta nói đạo thanh tịnh
Như Phật trước nói không có khác
Phật liền nói kệ đáp Ma vương :
Ta chơn thiệt biết bát chánh đạo
Hay vĩnh viễn lìa phá các khổ
Các người chơn thiệt chẳng biết được
Chớ dùng thân chồn sư tử hống
Ma vương ẩn tượng Tự Tại Thiên hiện hình Phạm Thiên nói kệ rằng :
Chơn thiệt xa lìa các phiền não
Hay quà Tam thiên Đại thiên giới
Chớ vì chúng sanh thọ các khổ
Phải nên yên lặng thọ thiền lạc
Thế gian nhẫn đến không một người
Kham được dựng nhận vị cam lộ
Nay ta thương xót nên bảo Ngài
Phải mau nhập vào Niết bàn
Đức Phật lại nói kệ đáp rằng :
Ta thấy thế gian nhiều chúng sanh
Hay độ biển lớn khổ sanh tử
Các loại thượng trung hạ như vậy
Được độ trước rồi Phật mới diệt.
Ma vương lòng rất rầu lo khổ não trở về bổn cung. Hàng quyến thuộc ma thấy vậy đều nói rằng vua ta cớ chi lại sầu khổ quá như vậy. Dầu bảo nhau như vậy mà không ai biết cả.
Lúc ấy các thể nữ ma số số năm trăm người, thân đeo chuỗi ngọc trang sức xinh đẹp ví Ma vương mà trỗi kỹ nhạc ca vũ đùa giỡn để làm vui.
Ma vương đưa tay ngăn lại. Các thể nữ đều yên lặng. Lần thứ hai đến lần thứ bảy cũng bị Ma vương ngăn lại không cho ca múa.
Có một thể nữ tên là Điện Quang thưa rằng : “Tâu Đại Vương có chi sầu não như là mất ngôi trời, hay là hỏa tai khởi lên chẳng ? Hay là có kẻ oán thù mà không
trừ được chăng?”.
Ma vương đáp rằng : “Ta có kẻ đại oán thù, đó là
Thích Chủng Tử. Người đại ác ấy thành tự áo thuật. Nếu không trị được người ấy thì cõi ta ắt sẽ trống rỗng”.
Thể nữ Điện Quang nói : “Thích Chủng Tử ấy lấy gì để trang nghiêm, có đạo lực gì, ai là bạn đảng mà có thể làm trống cõi của Đại Vương ?”.
Ma vương đáp : “Người ấy dùng thí giới nhẫn để trang nghiêm, dùng vô thường khổ không làm áo giáp
binh khí. Nếu phá hoại các cõi thọ sanh của chúng sanh thì ta chẳng biết họ sẽ ở đâu.
Người ấy đầy đủ vô thượng đại thần thông lực, dùng đại từ đại bi làm bạn đảng có thể độ tất cả chúng sanh trong ba cõi. Vì vậy nên có thể làm cho cõi ta trống rỗng”.
Các Thiên thể nữ ấy nghe công đức của Phật đều mang cầm hoa hương và các kỹ nhạc đồng đến chỗ Phật tận tâm cúng dường. Trong đại chúng chỉ có Phật thấy họ, chúng hội đều không có ai thấy. Đại chúng có lòng nghi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Các hương hoa kỹ nhạc cúng dường như vậy có phải là do thần lực của Ngài Xá Lợi Phất hay Ngài Đại Mục Kiền Liên làm ra chẳng ?”.
Đức Phật nói : “Chẳng phải. Đây là những món cúng dường của năm trăm thể nữ của Ma vương. Chẳng bao lâu Ma vương sẽ đến đây”.
Các Thiên thể nữ nghe lời Phật nói lòng rất vui mừng liền được chẳng mất tâm Bồ đề.
Các Thiên thể nữ qùy dài chắp tay nói kệ rằng :
Như Lai dứt hẳn các phiền não
Hay thí chúng sanh tịnh pháp nhãn
Khiến chúng sanh độ biển sanh tử
Nên tôi chí tâm ca ngợi lễ
Tất cả trời người khen cúng dường
Đấng đủ vô lượng vô biên trí
Mong Phật vì tôi khai phương tiện
Khiến tôi thoát được thân nữ nhơn
Thế Tôn tu đại không tam muội
Tỏ rõ thông đạt đệ nhứt đế
Đầy đủ Phật bửu đại Thương Chủ
Mong phá ma lực điều phục tôi.
Các Thiên thể nữ nói kệ ca ngợi đức Phật rồi trở vể ma cung mà nói kệ rằng :
Tự tại của vua chẳng phải thường
Cũng chưa lìa sanh lão bịnh tử
Các khổ phiền não vây thân vua
Thường làm ngu tối ở ác đạo
Nếu muốn qua biển sanh lão tử
Phải có lòng tin đến Như Lai
Nay tôi muốn lại đến chỗ Phật
Hỏi học cam lộ chánh pháp vị.
Ma vương sanh lòng giận ác muốn dùng năm thứ trói buộc để trói các thể nứ ấy. Do Phật thần lực nên chẳng trói được. Các thể nữ ấy liền trở lại chỗ Phật. Ma vương mắt thấy mà chẳng ngăn được. Ma vương lại ở hư không làm gió tỳ lam muốn làm cho thân các
thể nữ ấy tan nát chẳng được thấy Phật. Do Phật thần lực nên chẳng làm hại được các thể nữ ấy.
Lúc ấy ma vương khóc khổ dùng âm thanh lớn bảo các vợ con rằng : “Nay ta tan mất sức đại thần thông. Có một đậc thọ mọc ra ở thế gian vì các chúng
sanh mà nói dứt diệt thành tựu đại ảo thuật có phương tiện khéo giỏi”.
Nghe lời nói của ma vương các quyến thuộc đều tụ họp đến chỗ Ma vương hỏi rằng : “Đại Vương cớ chi sanh sầu não quá vậy. Đã không có tướng thối vị lai không có hỏa tai, trong Dục giới lại không có kẻ oán địch ?”.
Ma vương nói : “Nay các
ngươi chẳng thấy thế gian có một người ngồi Bồ đề thọ phá bốn binh chủng, dường như lửa lớn đốt cháy cỏ khô. Tất cả người trí trong đời đều quy thuộc. Người ấy tức là kẻ oán địch của ta. Các ngươi chẳng thấy năm trăm thể nữ bỏ ta mà đi quy y người ấy sao.các ngươi nếu không trị Thích Tử ấy thì cả cõi Đại Thiên như vầy chẳng bao lâu sẽ trống rỗng. Các người đều nên tự nghiêm bị vững mạnh cùng nhau tận lực trừ Thích Tử ấy”.
Các Ma tử nói : “Lành thay ! Thưa Đại Vương chúng tôi sẽ trang bị tận thần lực mình, nếu trừ được người ấy thì tốt thay vui thay. Nếu như chẳng được lại sẽ quy y người ấy”.
Ma vương nói : “Ác nhơn ! Nay sao ngươi dám thốt lời như vậy?”.
Ma tử thưa : “Tâu Đại Vương ! Sa Môn Cù Đàm ngày trước một mình ngồi cây Bồ đề còn khó làm trở ngại được, huống là ngày nay quyến thuộc vô lượng đông nhiều mà lại có thể trừ được”.
Ma vương nói : “Con thân
mến ! Nếu có thể giết chết Sa Môn Cù Đàm thì rất tốt rất hay. Nếu như không được thì chúng ta sẽ tự thủ cõi của mình”.
Lúc bấy giờ bốn binh chủng ma số đông vô lượng đầy cả Diêm Phù Đề cao tám mươi do tuần, phóng đại ác phong tuôn mưa lớn, tay vỗ núi Tu Di lay động cả tứ thiên hạ, phát âm thanh ác
lớn như tiếng đại Long Vương tiếng Dạ Xoa các quỷ, làm rúng động tất cả sông ao khe suối. Tất cả trời rồng người quỷ đều kinh sợ run rẩy.
Ma chúng ở trên núi Tu Di lấy một khối đá lớn muốn đè chụp cả thành Vương Xá vườn Trúc Lâm Ca Lan Đà.
Phật liền nhập phá ma lực thế tam muội, do sức tam muội ấy làm cho tất cả các binh khí, các khối đá lửa độc của ma chúng đều biến làm các thứ hoa, như là hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi rơi xuống thành Vương Xá, lại còn biến ra các thứ hương thơm. Biến các âm thanh ác của ma thành tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiến thần thông, tiếng Ba la mật, tiếng bất thối chuyển, tiếng Bồ Tát, tiếng phá binh ma, tiếng Niết bàn, cũng làm cho
ác phong lặng mất. Tất cả cỏ cây đều biến thành thất bửu vi diệu. Thân Phật lúc ấy cao đến Trời Sơ Thiền đủ ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp Đại Thiên thế giới, trong tất cả Trời, Người, Rồng, Dạ Xoa, A Tu La, Ca
Lâu La, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gìa, Nhơn Phi Nhơn nhẫn đến các loài địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ đều thấy thân Phật. Vô lượng chư Thiên thiết lễ cúng dường lớn như là những hoa hương phan lọng kỹ nhạc. Ba ác đạo chúng sanh xưng Nam Mô Phật liền được thoát khỏi tam đồ thọ thân trời người.
Ma chúng thấy Phật hiện thần lực như vậy đều sanh tính tâm nói
kệ rằng :
Nay tôi quy y nơi Như Lai
Đấng ba nghiệp tịnh trí vô thượng
Hay hiện ma giới bát chánh đạo
Cho chúng sanh tối ánh sáng lớn
Có đủ thập lực không ai hơn
Bình đẳng tất cả xem như con
Tâm Phật bình đẳng như hư không
Nên tôi kính lạy đại Pháp Vương
Phiền não chẳng nhiễm tu từ bi
Chứng được cát tường dạy nhơn quả
Hay ban chúng sanh chơn giải thoát
Nên nay tôi cúi đầu lễ lạy
Đại từ đại bi trời trông trời
Đấng Thế Tôn tối thắng vô thượng
Nói tất cả pháp như thủy nguyệt
Nay tôi kính lễ đại Đạo Sư
Chúng sanh bị bịnh phiền não nặng
Nên tôi quy y đại Y ương
Ác đạo chúng sanh nghèo thất tài
Nay nên quy y đấng Vô Lậu
Ngưỡng mong xót thương cho sám hối
Nơi chỗ đức Phật sanh ác tâm
Phật là cha mẹ hiền của chúng
Nay tôi xả bỏ các nghiệp ma
Tôi hay triệu thỉnh các chúng sanh
Vì họ phát khởi tâm Bồ đề
Mong vì tôi nói đạo vô thượng
Có những pháp gì được Bồ đề
Nay tôi phụng hiến diệu hương hoa
Ví chúng sanh mà cúng dường Phật
Thân cận hiện hữu thiện tư duy
Chí tâm nghe học như pháp trụ.
Năm trăm thể nữ cùng ma quyến thuộc dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật.
Những món cúng dường ấy khắp đến vô lượng hằng hà sa thế giới chư Phật, đồng thời cúng dường vô lượng chư Phật, tất cả ma chúng thảy đều nhìn thấy sắc thân chư Phật đồng như nhau không có sai khác. Chỉ có tòa sư tử thế giới rừng cây nhà cửa đền điện thì sai khác chẳng đồng.
Thấy rồi ma chúng đều rất vui mừng ngồi bên đức Phật chí tâm nghe pháp. Nghe thọ pháp rồi trở về ma cung tâu với Ma vương rằng : “Chúng tôi đến chỗ Sa Môn Cù Đàm tận thần lực cũng chẳng động được một sợi lông.
Đại Vương nên biết rằng nay chúng tôi đã
thuộc về Sa Môn Cù Đàm”.
Ma vương tâm ác sanh sân
nghĩ rằng ta sẽ làm sao giết Thích Tử ấy trừ diệt kẻ oán thù ấy.
Ma vương lòng rất lo rầu nhập vào nhà khổ.
Lúc bấy giờ ma chúng trở lại chỗ đức Phật bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi muốn Đại thừa, niệm Đại thừa lại đủ thần thông đại từ đại bi.
Bạch đức Thế Tôn ! Đại Bồ Tát có đủ bao nhiêu pháp chẳng gần ác hữu mau được thành tựu Vô thượng Bồ đề ?”.
Đức Phật nói : “Nầy các thiện nam tử ! Đại Bồ Tát có đủ bốn pháp chẳng gần ác hữu mau được Vô thượng Bồ đề.
Một là nếu Bồ Tát chẳng tham các pháp chẳng bỏ các pháp, chẳng thọ các pháp, chẳng giác các pháp, cũng không có ý tưởng ngã và ngã sở, làm bố thí chẳng cầu quả báo, chẳng sanh lòng tham trước, chẳng bỏ chẳng lấy, cũng không có
hay biết ý tưởng ngã và ngã sở, nhẫn đến Niết bàn cũng như vậy.
Hai là nếu Bồ Tát chẳng thấy chúng sanh thọ mạng sĩ phu, cũng chẳng bỏ chúng sanh giới, chẳng tham chẳng lấy, cũng chẳng hay biết ý tưởng ngã và ngã sở.
Ba là nếu Bồ Tát chẳng thấy sắc thanh hương vị xúc pháp, cũng chẳng bỏ săc thanh hương vị xúc pháp chẳng bỏ chẳng lấy, cũng chẳng hay biết ý tưởng ngã và ngã sở.
Bốn là nếu Bồ Tát có thể thâm quán sát các pháp như vậy, nơi Phật chánh trí chẳng sanh giác quán, tại sao, vì dứt tất cả hành dứt tất cả trí gọi là Phật trí, vì không có, không thừa, không thanh, không tưởng, không chữ, không có vô lượng, không sanh, không xuất, không diệt, không tưởng, không ngại, không chướng, không thấy, là tịch tĩnh không ngã, không thọ mạng, không danh, không sáng, không tối, không xứ, không tiết, không biên,
không số, không giới, không căn, không cánh, không có tư duy, không thực, không tham, không tịnh, không cấu, không bực, không hành, không ái, không nghiệp, không dựa ở, không nắm lấy, không tạo tác, không hiển thị được, không niệm niệm diệt, đây tức là Phật trí.
Dường như hư không, như hư không không có
giác quán chẳng thể tuyên nói không có nhiễm trước không có giác tri.
Đại Bồ Tát có đủ bốn pháp như vậy chẳng gần ác hữu mau được thành tựu Vô thượng Bồ đề.
Nầy các thiện nam tử ! Nếu có người hay cầu trí huệ như vậy thì nên biết người ấy hay quán hai
pháp, đó là nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc và ý pháp.
Còn có hai pháp đó là sanh từ và Niết bàn
Còn có hai pháp đó là sanh và hữu.
Còn có hai pháp đó là thường và đoạn.
Còn có hai pháp đó là chúng sanh và thọ mạng.
Còn có hai pháp đó là thử và bỉ.
Còn có hai pháp đó là nội và ngoại
Nầy các thiện nam tử ! Nếu người muốn cầu Phật trí mà lìa những hai pháp như vậy để quán các pháp khác, nênbiết người ấy chẳng thể được.
Ví như có người cầu lửa mà lại lấy băng, cầu món ăn mà lấy đá, cầu hoa mà lấy sắt, cầu chất hương thơm mà lấy tử thi, cầu y phục mà lấy gỗ, cầu hương hoa mà lấy hư không. Người cầu Phật trí nếu lìa những hai pháp ấy lại quán pháp khác
thì cũng như vậy”.
Trong đại hội Bửu Phường Đình có một Bồ Tát tên là Địa Ý nghe lời ấy rồi bạch đức Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nghĩa bất khả thuyết có thể hay biết được chăng ? Nếu chẳng hay biết được thì làm sao được gọi là Nhứt thiết trí ư ?”.
Đức Phật nói : “Nầy Địa Ý ! Trí bất khả thuyết tức là Nhứt thiết trí.
Nầy Địa Ý ! Nay Phật hỏi ông tùy ý ông đáp. Ý ông nghĩ thế nào, lúc ta được Như Lai Nhứt thiết trí ấy có sở đắc chăng ?”.
Nghe đức Phật hỏi như vậy, Địa Ý Bồ Tát tự suy nghĩ nếu ta nói có tức là thường kiến, nếu ta nói không tức là đoạn kiến, ta nên xa lìa hai bên ấy mà nói trung đạo. Suy nghĩ như vậy rồi liền bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nghĩa như vậy ấy cũng không. Nếu là bất xuất bất diệt vô số vô lượng phi minh phi ám
thì tức là Phật trí”.
Điện Ý Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu là không khứ không lai thì tức là Phật trí’.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu pháp chẳng bị tam thế nhiếp buộc, chẳng sa vào tam giới, chẳng phải là tam kiết tam trí tam thừa ấm giới nhập vân vân không có tăng giãm tức là Phật trí”.
Kim Cương Ý Bồ Tát nói :”Bạch đức Thế Tôn ! Nếu chẳng phân biệt pháp phàm phu,
pháp thánh nhơn, pháp hữu học, pháp vô học, pháp Thanh Văn
pháp Duyên Giác và pháp Phật thì tức là Phật trí”.
Kiên Ý Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu pháp không có chuyển thì tức là Phật trí”.
Bữu Thủ Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu quán tướng sanh tướng hoại của các pháp , quán rồi thông đạt hiểu biết không có đắc thất thì tức là Phật trí”.
Thiện Giác Ý Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Chúng sanh trong tam giới theo ý quán ý cũng chẳng hay biết ý thì tức là Phật trí”.
Phân biệt oán thân Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người có thể chẳng ưa phiền não chẳng chán phiền não, chẳng ái, chẳng sân, chẳng bỏ, chẳng cầu, chẳng thí, chẳng niệm, thì tức là Phật trí”.
Liên Hoa Tử Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng thích tội phước được thâm pháp nhẫn chẳng hay chẳng biết ngã và ngã sở. Nếu chẳng hay biết ngã và ngã sở thì tức là Phật trí”.
Nguyệt Quang Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có thể quán sát thấy tất cả các pháp dường như thủy nguyệt cũng chẳng thấy pháp có tăng có giảm thì tức là Phật trí”.
Vô Biên Ý Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu ở nơi các pháp chẳng thấy minh ám, nơi tất cả tâm chẳng thấy sanh diệt thì tức là Phật trí”.
Di Lặc Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có thể quán sát bốn thứ phạm hạnh và bất thiện hạnh bình đẳng không có hai thì tức là Phật trí”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu quán tam thế lục Ba la mật hai tướng không có sai biệt thì tức là Phật trí”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu ở nơi các pháp tâm không có tham sân, cũng quán các
pháp thậm thâm cảnh giới , cũng chẳng rõ biết chẳng phải chẳng rõ biết, cũng chẳng quán pháp có tăng có giảm, chẳng quán trí huệ và vô minh thì tức là Phật trí”.
Trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Lạc Dục hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng : “Thưa Đại Sĩ ! Đức Như Lai Thế Tôn do nhơn duyên gì mà nói các nghĩa thậm thâm như vậy ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Thưa Đại Sĩ ! Vì khiến các chúng sanh xa lìa tà kiến được chánh kiến vậy. Được chánh kiến rồi chẳng sanh nhiễm trước, không có xan lẫn, chẳng gần ác hữu, chánh mạng tự sống, chẳng nhiễm trước tam kiết, thương xót chúng sanh,
chẳng trụ trước Tam bữu, chẳng phỉnh dối tất cả, nơi các chúng sanh chẳng trước thủ chẳng xả ly, chẳng tham trước tài vật, chẳng tham trước tam giới, chúng sanh bống thì hay cứu hộ, hay phá ác đạo. Mở bày chánh lộ, chẳng thủ trước nhẫn nhục, lìa tất cả tưởng, diệt tất cả cấu, trừ tất cả ám, chẳng cầu quả báo. Do nhơn duyên ấy cầu Nhứt thiết trí. Đã được trí ấy rồi nơi âm thanh lắng nghe chữ câu chẳng sanh giác quán
Phật ngữ tà ngữ, Phật hạnh tà hạnh, Phật pháp pháp khác, ấn giới nhập, công đức trang nghiêm, trí huệ trang nghiêm, mười Ba la mật, ba môn giải thoát, nghiệp và quả, thế trí Phật trí, nơi tất cả pháp như vậy chẳng sanh phân biệt. Vì cớ như vậy mà dức Như Lai nói những nghĩa thậm thâm ấy”.
Lạc Dục Bồ Tát nói : “Lành thay lành thay ! Thiệt như lời đại sĩ nói. Nghĩa thậm thâm ấy tức là Phật trí, tại sao, ví không có sở giác trí vậy. Vì không có sở giác nên bất khả thuyết. Bất khả thuyết ấy tức là Phật trí. Nếu có thể biết được bất khả thuyết ấy thì nên biết rằng người ấy tức là Phật trí”.
Đức Phật nói : “Lành thay lành thay ! Lạc Dục khéo có thể phân biệt tuyên nói Phật trí. Tại sao, cì chẳng thủ trước các pháp bất sanh bất diệt tức là Phật trí.
Nầy Lạc Dục ! Chẳng thủ trước các pháp tức là biên bất xuất, là biên bất phá hoại, là biên vô minh
Niết bàn chơn thiệt vô xuất, là biên hư không Niết bàn tất cả các pháp tất cả chúng sanh bất khả thuyết, là biên hư không, là biên vô
quái ngại, là biên không có vật, là biên không có ấm, là biên không có rỗng không, là biên pháp ấm nghiệp ấm quà phi quả ấm tụ ấm không có vật, là biên không có vật, là biên hư không, là biên tất cả các pháp bất khả thuyết.
Nếu đại Bồ Tát có thể đầy đủ những biên như vậy tức là được Phật trí”.
Lúc nói Phật trí bất khả thuyết ấy tất cả ma chúng được Vô sanh pháp nhẫn, bỏ thân thô được thân tế thân tùy tâm ý thân pháp hóa.
Còn có hai vạn tám ngàn chúng sanh ở trong các pháp được Vô sanh nhẫn. Có chín vạn hai ngàn Bồ Tát được vô lượng đà la ni.
Tất cả chúng ma đem diệu hương hoa kỹ nhạc cúng dường tán tụng Như Lai và nói rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Bực thiện tri thức tức là căn bổn tại sao thiện pháp. Nay tôi vì
gặp Phật thiện tri thức nên được lợi ích lớn”.
Đức Phật nói : “Nầy thiện nam tử ! Ông nên chí tâm quán nơi các nghiệp.
Bấy giờ đức Thế Tôn vì chúng hội mà nói về quá khứ nghiệp.
Nầy thiện nam tử ! Quá khứ vô lượng a tăng tỳ kiếp, kiếp ấy tên là Điện Trì, chúng sanh
thuở ấy thọ mạng đủ sáu vạn tám ngàn tuổi, thế giới tên là Diệu Hương Quang Minh, Phật hiệu Hương Công Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Trị, Minh Hành Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thuở ấy thế gian có đủ ngũ trược. Có Chuyển Luân Vương tên là Hoa Mục thống trị tứ thiên hạ. Vương cùng với Đại Thần nhơn dân quyến thuộc đến chỗ đức Phật Hương Công Đức dưng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường đức Phật và Tỳ Kheo Tăng cung kính lễ lạy hữu nhiễu ba vòng nói kệ khen Phật :
Phật được trời người thường khen ngợi
Xa lìa các ác thích tịch tĩnh
Đủ bảy thánh tài phá bần cùng
Thế nào khiến chúng được thâm tri
Tu tập ba pháp môn giải thoát
Đã được lìa sanh lão bịnh tử
Hay độ chúng sanh ba ác đạo
Thế nào khiến chúng quá ma nghiệp.
Phật Hương Công Đức nói : “Nầy Đại Vương ! Có đủ ba pháp thì được thậm thâm trí : một là chí tâm nhớ đến tất cả chúng sanh, hai là
tu tập đại bi phá khổ chúng sanh và ba là thấy tất cả pháp không có chúng sanh thọ mạng và sĩ phu chẳng sanh phân biệt.
Còn có ba pháp hay quá ma nghiệp : Đối với chúng sanh chẳng sanh ác tâm, hai là lúc bố thí chẳng quán phước điền và phi phước điền, ba là quán tất cả pháp bình đẳng vô nhị dường như hư không bất sanh bất diệt không hành không
vật không có tướng mạo chẳng tuyên nói được.
Bồ Tát có đủ các pháp như vậy thì được thậm thâm trí hay quá ma nghiệp”.
Luân Vương có một phu nhơn tên là Thiện Kiến cùng với tám vạn bốn ngàn thể nữ đồng cúng dường Phật, cúng dường rồi nói kệ rằng :
Đại Thiên thế giới không ai hơn
Thường thích tịch tĩnh tu đại bi
Khéo hành xa lìa không trần cấu
Thế nào khiến tôi lìa thân nữ
Đã được xa lìa tất cả oán
Chơn thiệt thấy sanh lão bịnh tử
Ngưỡng mong vì tôi diễn nói đạo
Khiến tôi có đủ thân nam tử
Lìa các cõi được đạo vô thượng
Hay ban hoan hỉ thêm pháp hành
Đầy đủ thập lục tứ vô úy
Thế nào khiến tôi lìa nữ thân
Xô diệt tứ ma tu tứ phạm
Thiệt ngữ đầy đủ phương tiện khéo
Ba mươi hai tướng tám mươi tốt
Thế nào khiến tôi lìa nữ thân
Phật Hương Công Đức nói :
“Nầy thiện nữ nhơn ! Có phương tiện khó được lìa thân nữ hay phá nữ nghiệp nhẫn đến lúc được Vô thượng Bồ đề trọn chẳng thọ thân nữ nhơn, trừ vì thệ nguyện độ chúng sanh.
Phương tiện khéo ấy là Bữu tràng đà la nỉ môn. Nếu có thể tu tập môn đà la ni ấy thì được lía thân nữ tịnh thân khẩu ý được lìa ba chướng.
Nếu người được nghe tên môn Bửu Tràng đà la ni ấy thì lìa nữ thân được thân nam tử, đầy đủ thân vi diệu trí huệ, tịnh thân khẩu ý thích các hạnh lành, đầy đủ đa văn xa lìa ác
nghiệp và chẳng thọ khổ báo, có thể diệt tội trọng ngũ nghịch vô gián. Tại sao vậy, vì Bữu Tràng đà la ni như vậy được diễn nói nơi vô lượng chẳng phải quá khứ để phá ác nghiệp và tăng trưởng thiện pháp vậy. Hiện tại mười phương vô lượng chẳng phải cũng đồng nói đó để phá ác nghiệp và tăng trưởng thiện pháp vậy. Đời vị lai thập phương chẳng phải cũng đồng nói đó để phá ác nghiệp khiến thiện pháp tăng trưởng vậy.
Hiện tại nay ta cũng lại tuyên nói môn Bữu Tràng đà la ni như vậy. Mười phương hiện tại chư Phật thảy đều tán thán đà la ni ấy.
Nầy Thiện nữ nhơn ! Nếu trong quốc độ được thống lãnh của Quốc Vương có tên đà la ni
như vậy mà tán thán thọ trì đọc tụng thơ tả, thì nước ấy được mười phương hiện tại chư Phật bộ niệm ngợi khen, tất cả chư Thiên nhẫn đến Sắc Cứ Cánh Thiên cũng đồng hộ niệm ngợi khen. Nơi mà Quốc Vương ấy đi đứng ngồi nằm cũng có vô lượng Thiên, Long Dạ Xoa đều đồng hộ niệm làm cho quốc độ ấy hoà an vô tranh,
không có tật bịnh, binh cách chẳng khởi, không có mưa gío xấu ác, chẳng lạnh chẳng nóng, ngũ cốc được mùa, chư ác quỉ thần và ác cầm thú đều có tâm lành chẳng sanh lòng ác hại. Quốc độ nào có kinh điển nầy thì những ác tính bất tường ác tướng ác bịnh thảy đều trừ diệt. Nếu Quốc Vương khởi binh chinh phạt mà chuyên niệm kinh nầy thì có thể dẹp cường địch khiến mình đắc thắng. Nếu cả hai Vương đều niệm thì hai binh hòa đồng chẳng xâm hại nhau.
Nếu có quốc độ thành ấp thôn xóm mà người ho8ạc xúc vật có bịnh dịch thì nên chép
kinh nầy đặt trân đầu tràn phan, thì những tật dịch bất tường ấy thảy đều trừ diệt.
Nếu có pháp sư trì giới tinh tiến, ngày thứ mười lăm trong tháng, tự tắm rửa sạch sẽ dùng diệu hương hoa cúng dường Tam bữu, lên toà sư tử tán thán đà la ni
nầy. Pháp sư ấy có thể hộ trì quốc độ mình ở, những hiện tượng xấu ác liền tiêu diệt, cũng có thể điều phục giáo hóa chúng sanh nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Thiện nữ nhơn ! Nếu có người hay đọc tụng kinh nầy nhẫn đến một bài kệ, người như vậy trọn chẳng còn thọ thân nữ nhơn, cũng được chẳng thối thất tâm Bồ đề.
Lúc Phật Hương Công Đức nói đà la ni ấy rồi lấy ngón chơn ấn đất. Liền đó cả đại địa chấn động sáu cách, mười phương đại địa cũng chấn động như vậy. Trong các cõi ấy những hàng Thiên Long
Dạ Xoa do công đức lực của Phật Như Lai nên lòng sanh
vui mừng cũng đều thấy va nghe diễn nói đà la ni”.
Đức Như Lai nói Bữu Tràng đà la ni rằng :
Nam mô bà gìa bà đế thọ đế tam miệu, gìa đà bà sa thất lợi đầu đa đà gìa đa dã, na ma xá ca mâu na đầu, đa tha gìa đa
dã, da đà gìa đa dã, da đà dã, tha ám lạc sí, ám lạc sí mục sí, xà lệ, xà la xà lân nê, xà la bạt lại đế, xà hê lệ ba la, phú lũ sa, tam ma xa, a ma di, trầm ma di, ma ha di,
xà ma di, bà la di, bà bà tì, bà bà tì, bà bà tì, bà xà tì, ba la ha, bà lệ tỉ, xà ha di, bà la
ha, bà lệ tỉ. A la xà hê, xà đấu mục khê, bà phái la, sa phái la tu đà, bạt lại kỳ. Đàn đế lệ. Đàn đế la, đàn đế lệ, tu lệ tì ha gìa, chiên
đà tì ha gìa, chiên đà tì ha gìa. Chiết thu, thọ đề sa tì a gìa, tát bà xoa thương, đế đa phàm tu la tì
ha ca da xà la xà la ca xa di lệ a, xa di lệ a, xa di lệ a, xa di lệ a, xa di lệ a, tỳ bà xa, a yết, ma đậu ninh, đậu ninh, đậu ninh, ôn ma, ốc tỳ bà xa đề, xà na khất lật đa, a nột bà đà lệ, nô ương quật lệ cứu la a, nhơn đà bà lệ, ba ha na tỳ bà xa đà yết bà gía bà kỳ, gía bà kỳ, gía bà kỳ, a mộ a đà xá ni, bà lệ bạt kỳ, bà sư cửu ma yết ma thọ kỳ, yết xa hê, xà hê thọ kỳ, ni ca tỳ la sa, tỳ la sa, tỳ la sa, tỳ la sa, tỳ lại xà, tỳ lại xà, kiếp bà ma na kiếp sa, hê lợi hi lệ, hi lệ a na bà kỳ đàm ma
đàn na xà na, a bà la di lệ đà, a la quân đà, ba thực tỳ bà kỳ na đế lệ bà phàm, yết ma xoa đế bà la đốt phả bà, phú lâu sa đa phàm, a tam ma, tam ma, tam ma, tỳ kỳ nhã đa
đà, a kiệt đà, sá ha.
Đức Thế Tôn vì đại chúng nói đà la ni ấy, năm trăm thể nữ nghe rồi liền được thân nam tử. Còn có vô lượng người nữ và Thiên nữ cũng thọ thân nam tử và được bất thối tâm Bồ đề dứt hẳn tất cả nghiệp quyết định nữ thân.
Lúc phu nhơn Thiện Kiến nghe đà la ni ấy rồi, hàng quyết thuộc theo phu nhơn tám vạn bốn ngàn nữ nhơn cũng chuyển thân nữ được thân nam tử, còn có vô lượng nhơn nữ Thiên nữ cũng chuyển nữ thân được thân nam tử.
Lúc ấy Chuyển Luân Vương đem tứ thiên hạ giao phó Thái Tử rồi cùng vô lượng người xuất gia tu Phật đạo.
Vô lượng chư Thiên nghĩ rằng Chuyển Luân vương do nhơn duyên gì bỏ nước xuất gia. Họ lại bảo nhau rằng cõi nầy có Như Lai diễn nói diệu pháp, do nơi pháp lực nên nữ chuyển thân nam, có bỏ nhà mặc ca sa có thể vì hàng bạch y diễn nói vui nhơn thiên phá khổ tam ác đạo diệt tất cả cõi xô ngã ma nghiệp làm cho ma thọ khổ. Ma đã thọ khổ chẳng thích nghe pháp cho rằng đại ảo thuật sư đó là Hương Công Đức Sa Môn vậy. Còn có kẻ nói nên biết Sa Môn ấy tức là ma vậy, tại sao, vì hay chuyển thân nữ được thân nam tử.
Lúc ấy có một đại thần tên là Thiện Hạnh nói như vầy : Các phụ nữ của ta đều làm nam tử. Vô lượng vợ thiếp con gái các người cũng chuyển bổn hình mà thọ thân nam tử rồi cạo bỏ tác râu mặc ca sa quy hướng thuộc về Sa Môn ấy. Chỉ còn lại mình ta chẳng đi.Chúng ta nên bỏ quốc độ nầy vĩnh viễn chẳng thấy chẳng nghe đại ác nhơn ấy. Mọi người nghe lời nói ấy của đại thần đồng xướng lên rằng : Phải đó, nay ta nếu muốn chẳng thấy chẳng nghe xa lìa ác
Sa Môn ấy thì nên vào thâm sơn. Mọi người bỏ nhà vào thâm sơn xuất gia tu pháp Bà La
Môn mà nói rằng : Không có giải thoát không có thiện ác quả báo. Trong đời nầy có một Sa Môn xuất hiện tuyên nói đoạn kiến nói ma nghiệp khi dối chúng sanh, với ác Sa Môn đại ảo thuật sư ấy nếu người nào qua thấy nghe lời nói của ổng thân cận lễ bái cúng dường cung kính thì
tâm sẽ cuồng loạn không còn hiểu biết nên cạo bỏ tóc râu mặc ca sa bỏ nhà cửa của cải thọ pháp xin ăn ở gò mả, thọ pháp ăn một bữa, ở trong sanh tử ý tưởng nhàm lìa chẳng còn thích ưa vui ngũ dục và các thứ hương hoa chuỗi ngọc trang sức kỹ nhạc, chẳng còn ưa nói đến sự việc thế gian, có đủ những pháp bất thiện như vậy, nói đoạn kiến hành nơi ma nghiệp, là kẻ oán thù lớn của các chúng sanh, giáo hóa vô lượng vô biên chúng
sanh khiến họ sanh đoạn kiến. Nếu ai chẳng thấy ác Sa Môn ấy và chẳng nghe lời của ổng thì được lợi ích lớn.
Lúc đó Hoa Mục Tỳ Kheo nghe có vô lượng người sanh đại tà kiến tự nghĩ rằng nếu ta chẳng điều phục chúng sanh tà kiến như vậy thì làm sao được Vô thượng Bồ đề.
Hoa Mục Tỳ Kheo đến thỉnh Phật Hương Công Đức cùng vô lượng Tỳ Kheo Tăng đi khắp cả nước thành ấp tụ lạc các nơi thuyết chánh pháp, đó là xa lìa ác pháp tu hành thiện pháp, hoặc nói pháp Đại thừa, hoặc nói pháp Duyên
Gíac thừa, hoặc nói pháp Thanh Văn thừa, hoặc nói Sa Môn quả, hoặc giới Tỳ Kheo, hoặc giới Ưu Bà Tắc, hoặc nói pháp Tam Quy,
hoặc lại nói pháp chuyển thân nữ, hoặc nói môn Bửu Tràng đà la ni, hoặc nói pháp thập thiện nghiệp đạo.
Lúc nói các pháp ấy, phá trừ được lưới nghi của vô lượng chúng sanh, khởi tâm lành phát tâm
Vô thượng Bồ đề, làm cho vô lượng chúng sanh đến chỗ Phật, chỉ trừ một đại thần Thiện Hạnh hướng về Hoa Mục Tỳ Kheo phát ác
thệ nguyện : Nếu đời vị lai người thành Vô thượng đạo thì ta sẽ ở cõi nước người làm ác ma đến Bồ đề thọ làm sự khủng bố lớn. Nếu người thành Phật rồi ta sẽ phá pháp của người. Nếu ta ở nơi người mà sanh tín tâm thì người sẽ thọ ký cho ta”.
Thuật việc quá khứ ấy rồi, đức Thế Tôn bảo chúng ma rằng : “Nầy các thiện nam tử ! Thuở quá khứ ấy, Hoa Mục Tỳ Kheo nay là thân ta. Phu nhơn Thiện Kiến ấy nay là Di Lặc Bồ Tát. Đại thần Thiện Hạnh ấy nay là ma vương Ba Tuần vậy.
Nầy Ba Tuần ! Thuở quá khứ ấy ngươi phát tuệ nguyện như vậy, nay nếu ở chỗ chúng ta mà ngươi sanh tín tâm ta sẽ thọ ký cho. Vì vậy nay ta xứng bổn nguyện của ngươi mà thọ ký Vô thượng Bồ đề cho ngươi.
Nầy Ba Tuần ! Thuở quá khứ ở chỗ Phật Hương Công Đức ông lễ bái cúng dường, do thiện căn ấy nay ta thọ ký Bồ đề cho ông”.
Lúc nói pháp nầy, có năm trăm thể nữ được thân nam tử, vô lượng chúng sanh do pháp tam thừa mà được điều phục.
Bấy giờ Đại Thiên thế giới có trăm ức ma vương đều tụ họp đến chỗ ma vương Ba Tuần.
Ba Tuần nói với chúng rằng : “Nầy các Ngài ! Các Ngài có biết chăng, nơi thế gian có Thích Chủng Tử xuất hiện làm đại ảo thuật sáu năm khổ hạnh, đến ngồi cội Bồ đề. Lúc ấy ta lãnh ba vạn sáu ngàn ức binh chúng đến chỗ ấy dùng hết thần lực mà chẳng làm lay động được tòa kim cương. Cù Đàm nơi cội Bồ đề thành tựu ảo thuật, do sức ảo thuật làm cho toàn cõi Đại Thiên chấn động sáu cách khiến quyến thuộc ta ngã té như cây trốc gốc.
Cù Đàm thành tựu cô tướng ảo thuật khiến mười phương những hàng trí nhơn đều quy thuộc. Ta suy tìm tâm tướng độ chúng sanh của Cù Đàm ở đâu mà chẳng biết được. Nếu có ai chí tâm quy y Cù Đàm, ta tận lực cũng chẳng động được một sợi lông của người ấy, cũng chẳng dối gạt được chẳng làm họ sợ được.
Nay năm trăm thể nữ của ta và các quyến thuộc ta đều quy hướng Cù Đàm mà ta
không ngăn cản được.
Các Ngài phước đức rộng lớn có nhiều thần lực, nếu các ngài có lòng
giúp ta thì ta ắt có thể phá diệt Thích Tử ấy, cũng có thể dẹp bọn quy y diệt hết các pháp Sa Môn tăng trưởng ma nghiệp, các Ngài và ta sẽ thọ vui vô thượng”.
Trong chúng ấy có ma vương tên Thân Cận nói : “Thích Tử ấy trọn đã thành tựu vô lượng công đức có công đức trang nghiêm trí huệ trang nghiêm, chẳng ở các cõi, hay điều phục tất cả chúng sanh, hay phá mọi thứ khổ phiền não, thân tịnh tâm tịnh. Chúng ta chẳng thể khởi ác làm hại được”.
Ba Tuần nói : “Quyến thuộc của ta bị Thích Tử ấy gạt lầm. Nếu các Ngài chẳng làm phương tiện thì chẳng bao lâu thế giới nầy sẽ trống rỗng”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment