Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 106
PHÁP HỘI VÔ TẬN HUỆ BỒ TÁT
THỨ BỐN MƯƠI LĂM
Như vầy tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai
trăm năm mươi người câu hội.
Còn có một vạn đại Bồ Tát cùng họp, đó là Huệ Tràng Bồ Tát, Pháp Tràng Bồ Tát, Nguyệt Tràng Bồ Tát, Nhựt Tràng Bồ Tát, Vô Biên Tràng Bồ Tát v.v…
Còn có mười sáu tại gia Bồ Tát, Bạt Đà Bà La Bồ Tát làm thượng thủ.
Còn có sáu mươi vô tỉ dụ tâm đại Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm thượng thủ.
Còn có tất cả đại Bồ Tát trong Hiền kiếp, Di Lặc Bồ Tát làm thượng thủ.
Còn có sáu vạn đại Bồ Tát, Vô Tận Huệ Bồ Tát làm thượng thủ.
Bấy giờ Vô Tận Huệ Bồ Tát đứng dậy trịch y vai hữu, gối chấm đất chắp tay lễ Phật, đem các hoa báu phụng tán trên Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nói là tâm Bồ đề ấy, do nghĩa gì mà gọi là tâm Bồ đề? Bồ Tát lại do bao nhiêu pháp thành tâm Bồ đề? Thế nào là tâm Bồ đề? Trong Bồ đề, tâm bất khả đắc; trong tâm, Bồ đề cũng bất khả đắc; lìa Bồ đề, tâm bất khả đắc; lìa tâm, Bồ đề cũng bất khả đắc.
Bồ đề ấy không sắc không tướng chẳng ngôn thuyết được, tâm ấy cũng không sắc không tướng chẳng hiển thị được. Chúng sanh cũng như vậy, đều bất khả đắc.
Bạch đức Thế Tôn! Các pháp như vậy sẽ y cứ nghĩa gì mà tu
hành?”
Đức Phật dạy: “Nầy Vô Tận Huệ! Nay ông lắng nghe kỹ và khéo suy nghĩ.
Ta nói Bồ đề ấy vốn không danh tự ngôn thuyết. Tại sao, vì trong Bồ đề danh tự ngôn thuyết bất khả đắc vậy. Tâm và chúng sanh cũng lại như vậy, nếu biết như vậy thì gọi là tâm Bồ đề.
Bồ đề ấy chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại. Tâm và chúng sanh cũng chẳng phải quá vị hiện tại. Nếu biết nghĩa ấy thì gọi là Bồ Tát, nhưng trong ấy cũng bất khả đắc.
Với tất cả pháp đều vô sở đắc thì gọi là được tâm Bồ đề.
Như A La Hán được quả A La Hán mà ở trong ấy đều vô sở đắc chỉ trừ theo thế tục gọi là đắc quả, nơi tất cả pháp đều vô sở đắc. Được tâm Bồ đề cũng vậy, vì muốn dẫn nhiếp sơ nghiệp Bồ Tát nên nói tâm Bồ đề, nhưng ở trong ấy không có tâm. Không có tâm gọi là không có Bồ đề, không có Bồ đề gọi là không có chúng sanh, không có chúng sanh gọi là không có Thanh
Văn, không có Thanh Văn gọi là không có Độc Giác, không có Độc Giác gọi là không có Như Lai, không có Như Lai gọi là không có hữu vi, không có hữu vi gọi là không có vô vi, không có vô vi gọi là không có hiện được không có sẽ được.
Nầy Vô Tận Huệ! Nay ta y theo ngôn thuyết mà giải bày như vầy: Nếu có chúng sanh thiện căn rộng lớn siêu các chúng
sanh như núi Tu Di cao hơn tất cả, là sợ phát tâm làm nhơn cho Bố thí Ba la mật. Dường như đại địa khéo có thể an trụ tất cả sự nghiệp, là đệ nhị phát tâm làm nhơn cho Giới Ba la mật. Chí ý dũng mãnh an thọ phiền não như sư tử vương oai phục bầy dã thú than không
kinh sợ, là đệ tam phát tâm làm nhơn cho Nhẫn nhục Ba la mật. Thế lực hùng mạnh nhanh nhẹn hay phục phiền não như Na La Diên xô dẹp mọi kẻ khác là đệ tứ phát tâm làm nhơn cho Tinh tiến Ba la mật. Các công đức thiện căn khai phát như cây ba lợi chất đa câu bệ đà la nở hoa, là đệ ngũ phát tâm làm nhơn cho Thiền Ba la mật. Trừ bỏ si ám như mặt nhựt ánh sáng vô biên là đệ lục phát tâm làm nhơn cho Bát Nhã Ba la
mật. Công đức ý lạc tất cả trang nghiêm đều được viên mãn như đại thương chủ của vật giàu có hay dùng
phương tiện thiện xảo khỏi các hiểm nạn, là đệ thất phát tâm làm nhơn cho Phương tiện Ba la mật. Chướng ngại đã trừ diệt ý lạc đầy đủ như trăng tròn sáng,
là đệ bát phát tâm làm nhơn cho Lực Ba la mật. Phật độ và chúng sanh đều nghiêm tịnh cả đầy đủ pháp lành việc làm thành tựu như người nghèo được vô tận tạng sở nguyện viên mãn, là đệ cửu phát tâm làm nhơn cho Nguyện Ba la mật. Phước trí vô biên như hư không tự tại với tất cả pháp như Chuyển Luân Vương đã thọ quán đảnh, là đệ thập phát tâm làm nhơn cho Trí Ba la mật.
Nầy Vô Tận Huệ! Nếu tu tập thành tựu mười thứ phát tâm nầy thì gọi là Bồ Tát, gọi là tối thắng chúng sanh, là
vô chướng ngại chúng sanh, là chẳng phải hạ liệt chúng sanh. Nhưng cứ nơi thiệt nghĩa thì bất khả đắc, thế nên trong ấy không có chúng
sanh không có tâm không có Bồ đề.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Thí Ba la
mật lấy mười pháp làm đầu là: Tín căn, tín
lực, ý lạc, tăng thượng ý lạc, lợi ích chúng sanh, đại từ, đại bi, hành tứ nhiếp pháp, ái lạc Phật pháp và cầu Nhứt thiết trí.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Giới Ba la mật lấy mười pháp làm đầu là: Thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, không tâm oán hại, trừ sạch ác thú, xa rời bát nạn, siêu hơn bực Thanh Văn và Bích
Chi Phật, an trụ Phật công đức, đầy đủ các sở nguyện và thành tựu đại nguyện.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Nhẫn Ba la mật lấy mười pháp làm đầu là: Bỏ lìa sân hận, chẳng kể thân, chẳng kể mạng, tín giải thành tựu chúng sanh, từ lực, tùy thuận pháp nhẫn, thậm thâm pháp nhẫn, quản đại thắng nhẫn và phá tối vô minh.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Tinh tiến Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là: Tùy theo chỗ làm của chúng sanh mà làm thân khẩu ý nghiệp thường sanh tùy hỉ, không giải đãi, chuyên tiến đến, tu chánh cần, tu niệm xứ, phá kẻ thù phiền não, quan sát các
pháp, thành tựu chúng sanh và cầu Nhứt thiết trí.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Thiền Ba la mật lấy mười pháp đầu là: An trụ thiện pháp, tâm duyên một cảnh, duyên cảnh định, chánh định, thiền giải thoát, định c8an, định lực, phá hoại kẻ thù phiền não, định tụ viên mãn và hộ pháp tam muội.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Bát Nhã
Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là: Khéo quan sát
các ấm, khéo quan sát các giới các xứ, chánh kiến, chánh niệm, biết rõ thánh đế, bỏ lìa các kiến chấp, huệ căn vô sanh pháp nhẫn, huệ lực và vô ngại trí.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Phương tiện Ba la mật lấy mười pháp làm đầu là: Nhập vào sở nguyện tâm hành của các chúng sanh, dùng
sức lực giúp vào chúng sanh, đại từ đại bi, thành thục chúng sanh không hề chán mỏi, bỏ lìa bực Thanh Văn, Bích Chi Phật, tri kiến thù thắng, tu tập các Ba la mật, như thiệt quán các pháp,
nhiếp bất tư nghị lực và bất thối chuyển địa.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Lực Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là:: Biết rừng rậm tâm hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm phiền não hiện hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm ý lạc thắng giải hiện hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm các thứ giới hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm tùy phiền não hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm tập khí phiền não hành của tất chúng sanh và dùng tâm không mỏi nhọc thành thục rừng rậm các căn hành của tất cả chúng sanh.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Nguyện Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là: Biết tất cả pháp vô sanh, biết tất cả pháp vô tướng, biết tất cả pháp vô diệt, biết tất cả pháp vô sở hữu, biết tất cả pháp không chấp trước, biết tất cả pháp vô lai, biết tất cả pháp vô khứ, biết tất cả pháp không tự tánh, biết tất cả pháp bình đẳng không có sơ trung hậu và đối với tất cả pháp sơ trung hậu không phân biệt.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Trí Ba la
mật dùng mười pháp làm đầu là: Với tất cả pháp khéo có thể biết rõ quyết trạch, khéo có thể viên mãn bạch pháp, chứa họp vô lượng tư lương của Bồ Tát thành tựu tư lương phước trí quảng đại, viên mãn đại bi, vào các loại thế giới sai biệt, vào phiền não hành của tất cả chúng sanh, tác ý
vào cảnh giới Như Lai, tiến vào cảnh giới thù thắng thập lực vô sở úy bất cộng pháp và thọ vị quánh đảnh thành tựu tướng tối thắng Nhứt thiết trí.
Đây là đại Bồ Tát hành mười Ba la mật đều dùng mười pháp làm đầu.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Thế nào là nghĩa Ba la mật? Đó là vì nói rõ siêu quá sở hành của Nhị thừa vậy. Vì quảnh đại viên mãn trí Như Lai vậy. Vì chẳng chấp trước nơi hữu vi vô vi vậy. Vì như thiệt biết rõ lỗi họa sanh tử vậy. Vì những kẻ chưa giác ngộ đều khiến giác ngộ vậy. Vì được Như Lai vô tận pháp tạng vậy. Vì được vô ngại giải thoát vậy. Vì dùng bố thí độ thoát các chúng sanh vậy. Vì dùng trì giới để viên mãn bổn thệ nguyện vậy. Vì dùng nhẫn nhục để đầy đủ tướng hảo đoan nghiêm vậy. Vì dùng tinh tiến để đầy đủ các Phật pháp vậy. Vì dùng thiền định để xuất sanh tứ vô lượng tâm vậy. Vì dùng Bát Nhã để diệt trừ các phiền não vậy. Vì dùng phương tiện để chứa hợp các Phật pháp vậy. Vì dùng nguyện có thể khiến các Phật pháp được viên mãn vậy. Vì dùng lực hay khiến chúng sanh tịnh tín vậy. Vì dùng trí để đầy đủ Như Lai Nhứt thiết trí vậy. Vì được vô sanh pháp nhẫn vậy. Vì được bất thối chuyển vậy. Vì nghiêm tịnh Phật độ vậy. Vì thành thục chúng sanh vậy. Vì ở đạo tràng Bồ đề viên mãn tất cả Như Lai trí vậy. Vì hàng phục chúng ma vậy. Vì du hí tứ thần túc vậy. Vì nơi sanh tử và Niết bàn đều không an trụ vậy. Vì siêu quá công
đức của tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật và Bồ Tát vậy. Vì xô dẹp tất cả dị luận vậy. Vì thành tựu thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng Phật pháp vậy. Vì chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vậy. Vì chuyển mười hai loại pháp luân vậy.
Tất cả như vậy là nghĩa của Ba la mật.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Lúc đại Bồ Tát sắp an trụ nơi Hoan hỉ địa trước tiên có tướng như vầy: Thầy trong tam thiên Đại Thiên thế giới có trăm ngàn ức na do tha phục tạng các thứ bửu. Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ nhị Ly cấu địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tam thiên Đại Thiên thế giới mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay có vô
lượng trăm ngàn ức na do tha các thứ hoa sen báu thanh
tịnh nghiêm sức.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ Tam minh địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân mặc giáp cầm trượng dũng mãnh kiên cố dẹp phục oán địch.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ tứ Diệm địa trước tiên có tướng nầy: Thấy bốn phương gió thổi các thứ danh hoa rải đầy mặt đất.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ ngũ Nam thắng địa trước tiên có tướng nầy: Thấy bốn phương gió thổi các thứ danh hoa rải đầy mặt đất.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ ngũ Nan thắng địa trước tiên có tướng nầy: Thấy nữ nhơn đầu đội vòng hoa a đề mục đa, vòng hoa bà lợi sư ca, vòng hoa chiêm bặc ca, trên thân đeo
các thứ báu trang nghiêm.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ lục Hiện tiền địa trước tiên có tướng nầy: Thấy ao hoa đầy nước bát công đức đứng trong, đáy ao trải cát vàng ròng, bốn bờ bực đường bằng chất báu, trong ao trang nghiêm với những hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ và hoa sen trắng, lại thấy tự thân du hí trong
ao ấy.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ thất Viễn hành địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân hai bên tả hữu đều có địa ngục đi vượt qua các địa ngục ấy mà không bị thương tổn.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ bát Bất động địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân trên hai vai mang tướng sư tử chúa, tất cả muông thú đều hãi sợ.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ cửu Thiện huệ địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân làm Chuyển Luân Vương dùng chánh pháp
giáo hóa được vô lượng trăm ngàn ức na do tha vua chúa chầu hầu vây quanh, có lọng bát trang nghiêm sạch trắng che trên Bồ Tát.
Đại Bồ Tát sắp an trụ đệ thập Pháp vân địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân làm màu chơn kim đủ ba mươi hai tướng hảo Như Lai đại trượng phu, viên quan
chiếu một tầm ngồi an trên tòa sư tử cao rộng, vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phạm Thiên vi nhiễu trước sau cung kính
cúng dường để nghe thuyết pháp.
Đại Bồ Tát dùng sức tam muộn hiển hiện trước tiên của Thập địa như vậy.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Sơ địa Bồ Tát viên mãn Thí
Ba la mật, nhị địa Bồ Tát viên mãn Giới Ba la mật, tam địa Bồ Tát viên mãn Nhẫn Ba la mật, tứ địa Bồ Tát viên mãn Tinh tấn Ba la mật, ngũ địa Bồ Tát viên mãn Thiền Ba la mật, lục địa Bồ Tát viên mãn Bát Nhã Ba la mật, thất địa Bồ Tát viên mãn Phương tiện Ba la mật, bát địa Bồ Tát viên mãn Lực Ba la mật, cửu địa Bồ Tát viên mãn Nguyện Ba la mật, thập địa Bồ Tát viên mãn Trí
Ba la mật.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Bồ Tát sơ phát tâm được Hiện bửu tam muội, đệ nhị phát tâm được Thiện trụ tam muội, đệ tam phát tâm được Bất động tam muội, đệ tứ phát tâm được Bất thối chuyển tam muội, đệ ngũ phát tâm được Bửu hoa tam muội, đệ lục phát tâm được Nhựt luân quang minh
tam muội, đệ thất phát tâm được Thành tựu nhứt thiết nghĩa tam muội, đệ bát phát tâm được Trí cự tam muội, đệ cửu phát tâm được Hiện chứng Phật pháp tam muội, đệ thập phát tâm được Thủ lăng nghiêm tam muội.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Đại Bồ Tát ở trong sơ địa được đà la ni thù thắng gia trì, ở trong nhị địa được đà la ni vô năng
thắng, ở trong tam địa được đà la ni thiện trụ, ở trong tứ địa được đà la ni bất khả hoại, ở trong ngũ địa được đà la ni vô cấu, ở trong lục địa được đà la ni trí luân đăng, ở trong thất địa được đà la ni thù thắng hạnh, ở trong bát địa được đà la ni thanh tịnh phân biệt, ở trong cửu địa được đà la ni thị hiện vô biên pháp môn,
ở trong thập được đà la ni vô tận pháp tạng”.
Lúc ấy ở trong hội có Thiên Tử tên Vô Ngại Quang Minh Sư Tử Tràng đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên đức Phật bạch rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thiện Thệ! Pháp môn như vậy rất sâu rất rộng lớn, có thể hàm nhiếp tất cả Phật pháp”.
Đức Phật dạy: “Nầy Thiên Tử! Đúng như lời ông nói. Nếu có Bồ Tát ở nơi pháp môn nầy có thể tạm nghe nhận tất chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, tại sao, vì Bồ Tát ấy từng đã trồng căn lành, vì đã
thành thục căn lành, nên được nghe kinh điển như vậy và được kinh điển như vậy ấn chứng.
Nầy Thiên Tử! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn được nghe kinh nầy thì thiện căn được họ trồng đều thanh tịnh sẽ được chẳng bỏ rời thấy Phật nghe pháp cúng dường chúng Tăng, được chẳng rời bỏ đà la ni hải ấn, đà la ni xuất hiện vô tận, đà la ni nhập chúng sanh chí nguyện tâm hành, đà la ni thanh tịnh nhựt quang tràng, đà la ni vô cấu nguyệt quang tràng, đà la ni tức nhứt thiết kiết sử, đà la ni tối diệt vô biên phiền não kiên cố như kim cương sơn, đà la ni nhập chơn thiệt ngữ ngôn âm thanh, đà la ni như hư không hiển hiện vô biên thanh tịnh ấn sở ấn, đà la ni thành tựu hiển hiện vô biên Phật thân.
Thành tựu các đà la ni như vậy, đại Bồ Tát có thể nơi tất cả Phật độ mười phương biến hiện thân Phật giáo hóa chúng sanh mà với pháp tánh không có lai khứ cũng không có giáo hóa chúng sanh, nơi pháp được nói chẳng trước văn tự bình đẳng vô động. Dầu hiện thân sanh tử mà không có khởi diệt cũng không có chút pháp khứ lai, biết rõ các hành bổn lai tịch tĩnh an trụ Phật pháp. Tại sao, vì tất cả pháp ấy không có phân biệt vậy”.
Lúc đức Phật nói pháp nầy, trong chúng có ba vạn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn, vô lưỡng Bồ Tát được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, vô lượng chúng sanh phát
tâm Bồ đề, vô lượng Tỳ Kheo được pháp nhãn tịnh.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Vô Tận Huệ Bồ Tát và chư Tỳ Kheo, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà v.v... đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI VĂN THÙ THUYẾT BÁT NHÃ
THỨ BỐN MƯƠI SÁU
Như vầy tôi nghe, một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, cùng đại Tỳ Kheo Tăng ngàn người câu hội. Chúng đại Bồ Tát mười ngàn người dùng đại trang nghiêm để tự trang nghiêm đều đã an trụ bực bất thối chuyển. Danh hiệu các Ngài là : Di
Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Vô Ngại Biện Bồ Tát, Bất Xả Thệ Bồ Tát v.v...làm thượng thủ.
Lúc minh tướng hiện, Văn Thù Sư Lợi Đồng Chơn Đại Bồ Tát từ chỗ Ngài ở đến chỗ đức Phật ngự đứng phía ngoài.
Bấy giờ các Tôn giả Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Si La v.v...chư đại Thanh Văn cũng từ chỗ các Ngài ở đến chỗ đức Phật ngự đứng phía ngoài.
Biết chúng hội đã vân tập, đức Như Lai từ chỗ Ngài ở bước ra trải tòa mà ngồi rồi bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: “Hôm nay sáng sớm có cớ chi mà ông đến đứng ngoài cửa?”
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi Đồng Chơn đại Bồ Tát đã đến trước đứng ngoài cửa, tôi thiệt đến sau vậy”.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ông thiệt đến đứng đây trước muốn thấy Như Lai chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thiệt đến trước muốn thấy đức Như Lai. Tại sao, vì tôi thích
chánh quán lợi ích chúng sanh. Tôi quán đức Như Lai: là tướng như như, tướng bất dị, tướng bất động, tướng bất tác, tướng vô trụ, tướng bất diệt, tướng bất hữu, tướng bất vô, tướng chẳng tại phương chẳng ly phương, tướng phi tam thế phi bất tam thế, tướng phi nhị phi bất nhị, tướng phi cấu phi tịnh. Tôi chánh quán
đức Như Lai như vậy lợi ích chúng sanh”.
Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu hay thấy Như Lai như vậy thì tâm vô sở thủ cũng vô bất thủ, chẳng phải tích tụ chẳng phải bất tích tụ”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu người hay thấy đức Như Lai như vậy, như lời Ngài nói, thì rất hi hữu, vì các chúng
sanh mà thấy đức Như Lai như vậy, nhưng tâm chẳng thủ tướng chúng sanh, hóa độ các chúng sanh hướng đến Niết bàn nhưng chẳng thủ tướng Niết bàn, vì tất cả chúng sanh phát đại trang nghiêm nhưng chẳng thấy tướng trang nghiêm”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: “Đúng vậy, như lời Ngài nói, dầu vì tất cả chúng sanh mà phát đại trang nghiêm, nhưng tâm hằng chẳng thấy có tướng chúng sanh. Vì tất cả chúng sanh phát đại trang nghiêm, nhưng chúng sanh giới cũng chẳng tăng chẳng giảm.
Giả sử một đức Phật trụ thế hoặc một kiếp hoặc quá một kiếp, một thế giới như vậy còn có vô lượng vô biên hằng hà sa chư Phật, mỗi mỗi đức Phật trong một kiếp hoặc quá một kiếp ngày đêm luôn
thuyết pháp chẳng tạm ngừng, mỗi mỗi đức Phật độ được vô lượng hằng hà sa chúng sanh đều nhập Niết bàn, nhưng chúng sanh giới cũng chẳng tăng chẳng giảm. Nhẫn đến tất cả chư Phật mười phương thế giới cũng như vậy, mỗi mỗi đức Phật thuyết pháp giáo hóa
cũng độ được vô lượng hằng hà sa chúng sanh đều nhập Niết bàn, nhưng chúng sanh giới chẳng tăng chẳng giảm. Tại sao, vì tướng chúng sanh nhứt định bất khả đắc vậy, thế nên chúng sanh giới bất tăng bất giảm”.
Tôn giả Xá Lợi Phất lại nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu chúng sanh giới chẳng tăng chẳng giảm, tại sao chư Bồ Tát vì chúng sanh cầu Vô thượng Bồ đề thường thuyết pháp cho họ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu các chúng sanh đều là tướng không, thì cũng hkông Bồ Tát cầu Vô thượng Bồ đề, cũng không chúng
sanh để vì họ thuyết pháp. Tại sao, vì trong pháp tôi nói không có một pháp khả đắc vậy”.
Bấy giờ đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu không có chúng
sanh, tại sao nói có chúng sanh và chúng sanh giới?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng
sanh giới tướng như chư Phật giới”.
Đức Phật hỏi: “Chúng sanh giới đó là có lượng chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng
sanh giới lượng như chư Phật giới lượng”.
Đức Phật hỏi: “Chúng sanh giới lượng có xứ sở chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng
sanh giới lượng bất khả tư nghị”.
Đức Phật hỏi: “Chúng sanh giới tướng là có trụ chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng
sanh vô trụ, dường như hư không trụ”.
Đức Phật hỏi: “Như thế thì lúc tu Bát Nhã
Ba la mật sẽ thế nào trụ Bát Nhã Ba la mật?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Lấy bất trụ pháp làm trụ Bát Nhã Ba la mật”.
Đức Phật hỏi: “Lúc tru Bát Nhã Ba la mật như vậy, các thiện căn ấy thế nào tăng trưởng thế nào tổn giảm?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu có thể trụ Bát Nhã Ba la mật như vậy thì các thiện căn không tăng không giảm, nơi tất cả pháp cũng không
tăng không giảm, tánh tướng của Bát Nhã Ba la mật ấy cũng không tăng
không giảm.
Bạch đức Thế Tôn! Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy thì chẳng xả phàm phu pháp cũng
chẳng thủ Hiền Thánh pháp. Tại sao, vì Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có pháp khả thủ khả xả.
Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy cũng chẳng thấy Niết bàn khả lạc sanh tử khả yểm. Tại sao, vì còn chẳng thấy sanh tử huống là chán nhàm,
còn chẳng thấy Niết bàn huống là ưa thích.
Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy chẳng thấy cấu não khả xả cũng chẳng thấy công đức khả lạc sanh tử khả yểm. Tại sao, vì còn chẳng thấy sanh tử huống là chán nhàm,
còn chẳng thấy Niết bàn huống là ưa thích.
Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy chẳng thấy cấu não khả xả cũng chẳng thấy công đức khả thủ. Tại sao, vì nơi tất cả pháp tâm không tăng giảm, vì chẳng thấy pháp giới có tăng giảm vậy.
Nếu được như vậy thì gọi là tu Bát Nhã Ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Chẳng thấy các pháp có sanh có diệt là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng thấy các pháp có tăng có giảm là tu Bát Nhã Ba la mật. Tâm không mong lấy chẳng thấy pháp tướng có khả thủ là tu Bát Nhã Ba
la mật.
Chẳng thấy tốt xấu, chẳng sanh cao hạ, chẳng sanh lấy bỏ. Tại sao? Pháp không có tốt xấu vì rời lìa các tướng vậy. Pháp không có
cao hạ vì bình đẳng pháp tánh vậy. Pháp không có lấy bỏ vì trụ thiết tế vậy. Đây là tu Bát Nhã Ba la mật”.
Đức Phật hỏi: “Các Phật pháp ấy được chẳng thù thắng ư?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tôi chẳng thấy các pháp có tướng thù thắng. Đức Như Lai tự giác ngộ tất cả pháp không, có thể chứng biết”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy, Như Lai chánh giác tự chứng pháp không”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Trong pháp
không ấy, sẽ có gì hơn chơn như để được chăng?”.
Đức Phật phán: “Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Như chỗ ông nói đó là chơn pháp chăng?
Nầy Văn Thù Sư Lợi! A nậu đa la gọi là Phật pháp”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Như lời Phật nói, A nậu đa la gọi là Phật pháp. Tại sao, vì không có pháp để được gọi là A nậu đa la.
Tu Bát Nhã như vậy chẳng gọi là pháp khí, chẳng phải pháp hóa độ phàm phu, cũng chẳng phải Phật pháp, chẳng phải pháp tăng trưởng, đây gọi là tu Bát Nhã Ba la mật.
Lại nữa, bạch đức Thế Tôn! Lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có pháp gì để phân biệt tư duy ư?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Không vậy, bạch đức Thế Tôn! Như chỗ tôi tư duy thì chẳng thấy Phật pháp, cũng chẳng có gì phân biệt được là pháp phàm phu, là pháp Thanh Văn, là pháp Bích Chi Phật. Như thế ấy gọi là Vô thượng Phật pháp.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy tướng phàm phu chẳng thấy tướng Phật pháp, chẳng thấy các pháp có tướng quyết định, đây là tu Bát
Nhã Ba la mật.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy cõi Dục, chẳng thấy cõi Sắc, chẳng thấy cõi Vô Sắc, chẳng thấy cõi Tịch diệt. Tại sao, vì chẳng thấy có pháp gì là tướng tận diệt, đây là tu Bát
Nhã Ba la mật.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có người làm ơn, chẳng thấy có người báo ơn, tư duy hai tướng tâm không có phân biệt, đây là tu Bát Nhã Ba la mật.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có Bát Nhã Ba la mật, cũng chẳng thấy có Phật pháp để lấy, chẳng thấy có pháp phàm phu để bỏ. Đây là tu Bát Nhã Ba la mật.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có pháp phàm phu để diệt, cũng chẳng thấy có Phật pháp mà tâm chứng biết. Đây là tu Bát Nhã Ba la mật”.
Đức Phật khen: “Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông có thể khéo nói tướng Bát Nhã Ba la mật. Đó là pháp ấn được học của chư đại Bồ Tát. Nhẫn đến hàng Thanh Văn, Duyên Giác cũng sẽ chẳng rời lìa pháp ấn ấy mà tu đạo quả.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu có người được nghe pháp ấy mà chẳng kinh sợ, người nầy chẳng phải chỉ trồng cội lành nơi ngàn đức Phật, mà họ đã ở nơi trăm ngàn vạn ức chư Phật gieo trồng các căn lành,
nên họ mới có thể ở nơi thậm thâm Bát Nhã Ba
la mật mà chẳng kinh chẳng sợ”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi muốn lại nói nghĩa Bát Nhã
Ba la mật”.
Đức Phật phán bảo: “Ông nên nói đi”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Lúc tu
Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có pháp nào là nên an trụ, là chẳng nên an trụ, cũng chẳng thấy có tướng được thủ được xả nơi cảnh giới. Tại sao, vì như chư Phật chẳng thấy tướng cảnh giới của tất cả pháp. Cho đến còn chẳng lấy cảnh giới chư Phật, huống là lấy cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác, phàm phu.
Lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng lấy tướng tư nghị chẳng lấy tướng bất tư nghị, chẳng thấy pháp chư Phật có bao nhiêu tướng. Tự chứng pháp không chẳng thể tư nghị.
Đại Bồ Tát như vậy đều đã cúng dường trăm ngàn vạn ức chư Phật gieo trồng căn lành mới có thể chẳng kinh chẳng sợ nơi Bát Nhã Ba la mật thậm thâm nầy.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy phược chẳng thấy giải, với phàm phu nhẫn đến tam thừa chẳng thấy tướng sai biệt. Đây là tu Bát Nhã Ba la mật”.
Đức Phật hỏi: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông đã cúng dường ở chỗ bao nhiêu chư Phật?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tôi và chư Phật như tướng huyễn hóa, chẳng thấy tướng cúng dường, chẳng thấy người nhận”.
Đức Phật hỏi: “Nay ông có thể chẳng đã an trụ Phật thừa ư?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Như chỗ tôi tư duy chẳng thấy có một pháp, thì thế nào sẽ được an trụ nơi Phật thừa”.
Đức Phật hỏi: “Ông chẳng được Phật thừa chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Như Phật thừa ấy chỉ có danh tự, chẳng thể được cũng chẳng thể thất, như vậy thì tôi làm sao được”.
Đức Phậi hỏi: “Ông được trí vô ngại chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tôi chính là
vô ngại. Sao lại đem vô ngại để được vô ngại?”.
Đức Phật hỏi: “Ông ngồi đạo tràng chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tất cả chư Phật chẳng ngồi đạo tràng. Nay tôi sao lại riêng ngồi đạo tràng. Tại sao, vì hiện tại tôi thấy tất cả pháp an trụ thiệt tế”.
Đức Phật hỏi: “Thế nào gọi là thiệt tế?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Thân kiến v.v… là thiệt tế”.
Đức Phật hỏi: “Thế nào thân kiến là thiệt tế?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tướng như của than kiến chẳng phăe thiệt chẳng phải chẳng thiệt, chẳng đến chẳng đi, cũng là
than, cũng là chẳng phải than, đây gọi là thiệt tế”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu ai ở nơi nghĩa ấy mà rõ chắc quyết định thì gọi là đại Bồ Tát. Tại sao, vì được nghe tướng Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy mà họ chẳng kinh sợ chẳng mê nghi”.
Di Lặc Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu được nghe pháp tướng Bát Nhã Ba La mật đầy đủ như vậy thì tức là gần chỗ đức Phật ngồi. Tại sao, vì đức Phật hiện giác ngộ pháp tướng ấy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Người được nghe Bát Nhã Ba
la mật thậm thâm mà có thể chẳng kinh sợ chẳng mê nghi, thì phải biết người ấy chính là thấy Phật”.
Lúc bấy giờ lại có Vô Tướng Ưu Bà di bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp phàm phu, pháp Thanh Văn, pháp bích Chi Phật, pháp Phật, các pháp ấy đều không có tướng, vì thế nên được nghe Bát Nhã Ba
la mật đều không kinh sợ chẳng mê nghi. Tại sao, vì tất cả vốn không có tướng”.
Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phât: “Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy mà được quyết định, chẳng kinh sợ chẳng mê nghi, thì nên biết người ấy chính là người an trụ bực Bất thối chuyển.
Nếu có người nghe Bát Nhã Ba
la mật thậm thâm nầy mà chẳng kinh sợ, hay tinh ưa nghe nhận vui thích không
chán, thì tức là có đủ Đàn Ba la mật, Thi la Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tì lê gia Ba la mật, Thiền Ba la mật và Bát Nhã Ba la mật. Người ấy cũng hay vì người khác mà hiển thị phân biệt như thuyết tu hành”.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát “Ông quán
nghĩa gì là được Vô thượng Bồ đề,là an trụ Vô thượng Bồ đề?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tạ bạch: “Tôi không có được Vô thượng Bồ đề, tôi chẳng an trụ Phật thừa, thì sao lại sẽ được Vô thượng Bồ đề? Như lời tôi nói đó tức là tướng Vô thượng Bồ đề vậy”.
Đức Phật khen: “Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông có thể ở nơi pháp thậm thâm ấy mà khéo nói nghĩa như vậy Ông ở chỗ chư Phật trước từ lâu đã gieo các
căn lành, dùng pháp vô tướng mà tịnh tu phạm hạnh”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Nếu thấy có tướng thì nói không tướng. Nay tôi chẳng thấy có tướng chẳng thấy không tướng, sao lại bảo là dùng pháp vô tướng mà tịnh tu phạm hạnh?”.
Đức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ông có thấy giới Thanh Vản chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Có thấy, bạch đức Thế Tôn!”.
Đức Phật hỏi: “Ông thấy thế nào?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tôi chẳng khởi thấy phàm phu, chẳng khởi thấy thánh nhơn, chẳng khởi thấy hữu học, chẳng khởi thấy vô học, chẳng khởi thấy lớn, chẳng khởi thấy nhỏ, chẳng khởi thấy điều phục, chẳng khởi thấy chẳng điều phục, chẳng phải thấy chẳng phải chẳng thấy”.
Tôn giả Xá Lợi Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nay Ngài
quán Thanh Văn thừa như vậy, với Phật thừa thì Ngài quán thế nào?”.
Văn Thù Sư Lợi nói: “Tôi chẳng thấy pháp Bồ Tát, chẳng thấy tu hành Bồ đề và người chứng Bồ đề”.
Tôn giả Xá Lợi Phật hỏi Vản Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Thế nào gọi là Phật, quán Phật thế nào?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hỏi Tôn giả Xá Lợi Phất: “Thế nào là ngã?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Ngã ấy chỉ có danh tự thôi. Tướng danh tự là không”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng như vậy. Như ngã chỉ có danh tự, Phật cũng chỉ có danh tự, tướng danh tự là không, chính đó là Bồ đề. Chẳng đem danh tự để cầu Bồ đề.
Tướng Bồ đề không có ngôn
không có thuyết. Tại sao, vì ngôn thuyết và Bồ đề cả hai đều không vậy.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Ngài hỏi thế nào gọi là Phật và quán Phật thế nào?
Chẳng sanh chẳng diệt chẳng đến chẳng đi, chẳng phải danh chẳng phải tướng, đây gọi là Phật.
Như tự quán than thiệt tướng, quán Phật cũng vậy, chỉ có bực trí mới biết được thôi, đây gọi là quán Phật”.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Như Bát Nhã Ba la mật được Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã nói, chẳng phải chỗ biết được của hang sơ học Bồ Tát”.
Văn thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng phải chỉ là hang sơ học Bồ Tát chẳng biết được, mà hàng Thanh
Văn Duyên Giác, bực chỗ làm đã xong cũng chưa biết được. Thuyết pháp như vậy không có ai là người hay biết. Tại sao, và tướng Bồ đề thiệt ra không có pháp
gì để được biết.
Bồ đề như vậy tánh tướng không tịch, không có thấy, không có nghe, không có được, không có niệm, không có sanh,
không có diệt,
không có thuyết, không có thính, không có chứng, không có biết, không có hình, không có tướng, như vậy thì làm sao lại sẽ có người được Bồ đề?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Đức Phật ở nơi pháp giới chẳng chứng Vô thượng Bồ đề ư?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Không vậy, thưa Ngài Xá Lợi Phất. Đức Thế Tôn tức là pháp giới. Nếu đem pháp giới để chứng pháp giới là tranh luận.
Thừa Ngài Xá Lợi Phất! Trong vô phân biệt thì không có người biết. Nếu không có người biết thì không có lời không có nói.
Không có tướng ngôn thuyết thì là chẳng phải có chẳng phải không, chẳng biết chẳng phải chẳng biết. Tất cả các pháp cũng như vậy. Tại sao, vì tất cả các pháp chẳng thấy có chỗ nơi nào là tánh quyết định.
Như tướng của tội nghịch chẳng thể nghĩ bàn được, tại sao, vì thiệt tướng của các pháp chẳng thể hoại hư vậy. Tội nghịch như vậy cũng không có bổn tánh, nó chẳng sanh thiên thượng chẳng đọa địa ngục cũng chẳng nhập Niết bàn, tại sao, vì tất cả nghiệp duyên đều an trụ thiệt tế, chẳng đến chẳng đi, chẳng phải nhơn quả chẳng phải chẳng nhơn quả, tại sao, vì pháp giới vô biên không có
tiền không có hậu.
Vì thế nên, nầy Ngài Xá Lợi Phất! Nếu thấy Tỳ Kheo phạm tội trọng chẳng đọa địa ngục, Tỳ Kheo thanh tịnh chẳng nhập Niết bàn, Tỳ Kheo như vậy chẳng phải ứng cúng chẳng phải chẳng ứng cúng, chẳng phải tận lậu chẳng phải chẳng tận lậu, tại sao, vì ở trong các pháp an
trụ bình đẳng vậy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là bất thối pháp nhẫn?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng thấy chút pháp gì có tướng sanh diệt, gọi là bất thối pháp nhẫn”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thế nào lại gọi là Tỳ Kheo chẳng điều phục?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “A La Hán
lậu tận gọi đó là chẳng điều phục, tại sao, vì A La Hán các kiết sử đã hết không còn có chỗ điều phục nên gọi là chẳng điều phục. Nếu người quá tâm hành thì
gọi là phàm phu, tại sao, vì phàm phu chúng sanh chẳng thuận pháp giới nên gọi là quá”.
Tôn giả Xá Lợi Phật nói: “Lành thay, lành thay! Nay Ngài vì tôi mà khéo giải nghĩa A La Hán lậu tận”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng như vậy. Tôi chính là lậu tận chơn A La Hán, tại sao, vì dứt ý muốn cầu Thanh Văn, cầu Bích Chi Phật, do đó mà gọi là lậu tận được A La Hán”.
Đức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Chư Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng có giác ngộ Vô thượng Bồ đề chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Lúc ngồi đạo tràng Bồ Tát không có giác
Vô thượng Bồ đề, tại sao, vì như tướng Bồ đề không có chút pháp
gì để được gọi là Vô thượng Bồ đề. Bồ đề không có tướng, ai có thể ngồi được, cũng không có ai phát khởi, do đó nên chẳng thấy Bồ Tát ngồi đạo tràng cũng chẳng giác ngộ chứng Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Bồ đề tức ngũ nghịch, ngũ nghịch tức Bồ đề, tại sao, vì Bồ đề và ngũ nghịch không có hai tướng, không có giác
không người giác, không có thấy không người thấy, không có biết không người biết, không có phân biệt không người phân biệt, tuớng như vậy gọi là Bồ đề. Thấy tướng ngũ nghịch cũng như vậy.
Nếu ai nói có Bồ đề thủ chứng, thì nên biết người ấy là hạng tăng thượng mạn”.
Đức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ông nói ta
là Như Lai, ông cũng cho
rằng ta làm Như Lai chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Không vậy, bạch đức Thế Tôn! Tôi chẳng cho rằng Như Lai làm Như Lai. Không có tướng như có thể gọi được là như, cũng không có Như Lai trí để có thể biết được như, tại sao, vì Như Lai và Như Lai, chỉ có danh tự thôi, như thế thì tôi sẽ như thế nào gọi là Như Lai”.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ông nghi ngờ Như Lai chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Không vậy, bạch đức Thế Tôn! Tôi quán Như Lai không có tánh quyết định, không có sanh
không có diệt, thế nên không nghi”.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nay ông chẳng cho rằng Như Lai xuất hiện nơi đời chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Nếu có Như Lai xuất hiện nơi đời thì tất cả pháp giới cũng phải xuất hiện cả”.
Đức Phật hỏi: “Ông cho rằng hằng sa chư Phật nhập Niết bàn chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Chư Phật là tướng duy nhứt tướng chẳng thể nghĩ bàn”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật trụ thế chăng?”
Đức Phật phán: “Đúng như vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu đức Phật trụ thế thì hằng sa chư Phật cũng phải trụ thế. Tại sao, vì tất cả chư Phật đều đồng tướng duy nhứt tướng chẳng thể nghĩ bàn”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy. Chư Phật là tướng duy nhứt tướng chẳng thể nghĩ bàn?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật:
“Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật trụ thế chăng?”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu đức Phật trụ thế thì hằng sa chư Phật cũng phải trụ thế. Tại sao, vì tất cả chư Phật đều đồng tướng duy nhứt tướng chẳng thể nghĩ bàn. Tướng
chẳng thể nghĩ bàn ấy không có sanh không có diệt.
Nếu vị lai Phật xuất thế thì tất cả chư Phật cũng phải đều xuất thế. Tại sao, vì trong tướng chẳng thể nghĩ bàn ấy không có tướng quá khứ, vị lai, hiện tại, chỉ do chúng sanh thủ trước cho rằng có xuất thế, có diệt độ”.
Đức Phật phán: “Đây là chỗ hiểu biết của chư Như Lai, chư A La Hán, chư Bồ Tát bất thối. Tại sao, vì ba hạng nầy nghe pháp thậm thâm có thể không phỉ bang cũng chẳng tán than”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tướng bất tư nghì như vậy, ai sẽ phỉ bang, ai sẽ tán than”.
Đức Phật phán: “Như Lai bất tư nghị, phàm phu cũng bất tư nghị”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Phàm phu cũng
bất tư nghị chăng?”.
Đức Phật phán: “Phàm phu cũng bất tư nghị. Tại sao? Vì tất cả tâm tướng đều bất tư nghị”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Nếu như lời nói ấy: Như Lai bất tư nghị phàm phu cũng bất tư nghị, thì nay vô số chư Phật cầu đại Niết bàn luống tự nhọc nhằn. Tại sao, vì
pháp bất tư nghị tức là đại Niết bàn bình đẳng không có khác vậy.
Phàm phu bất tư nghị, chư Phật bất tư nghị như vậy, những thiện nam, thiện nữ lâu huân tập thiện căn gần thiện tri thức mới có thể biết được”.
Đức Phật phán: “Ông muốn đức Như Lai là bực tối thắng nơi các chúng sanh chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tôi muốn đức Như Lai ở nơi các chúng sanh là
tối thắng đệ nhứt, chỉ vì tướng chúng sanh cũng
bất khả đắc”.
Đức Phật phán: “Ông muốn đức Như Lai được pháp bất tư nghị chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Muốn cho đức Như Lai được pháp bất chư nghị mà nơi các pháp không kẻ thành tựu”.
Đức Phật phán: “Ông muốn khiến đức Như Lai thuyết pháp giáo hóa
chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Muốn khiến đức Như Lai thuyết pháp giáo hóa mà người thuyết người thính đều bất khả đắc, tại sao, vì an trụ pháp giới vậy. Pháp giới chúng sanh không có tướng sai biệt”.
Đức Phật phán: “Ông muốn đức Như Lai làm phước điền vô thượng chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Đức Như Lai là phước điền vô tận, là tướng vô tận, tướng vô tận là phước điền vô thượng, chẳng phải phước điền chẳng phải chẳng phước điền. Đây gọi là phước điền, không có các tướng sáng tối sanh diệt đây gọi là phước điền. Nếu có thể hiểu biết tướng phước điền như vậy là sâu gieo giống lành, nhưng cũng không có tăng không có giảm”.
Đức Phật phán: “Thế nào là gieo giống không có tăng không có giảm?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tướng phước điền chẳng thể nghĩ bàn, nếu ngưới ở trong ấy mà tu tập pháp lành đúng pháp thì cũng chẳng thể nghĩ bàn. Gieo giống như vậy thì gọi là không có tăng
không có giảm, cũng là phước điền tối thắng vô thượng”.
Bấy giờ do thần lực của đức Phậg, cả đại địa chấn động sáu cách hiện ra tướng vô thường, có một vạn sáu ngàn người được vô sanh pháp nhẫn, có bảy trăm Tỳ Kheo, ba ngàn Ưu Bà Tắc, bốn vạn ức Ưu Bà Di, sáu vạn ức na do tha chư Thiên cõi Dục đều xa trần lìa cấu ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.
Tôn giả A Nan đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên gì mà có
sáu cách chấn động ấy?”.
Đức Phật phán: “Nầy A Nan! Vì ta nói tướng vô sai biệt của phước điền nên hiện thoại ứng ấy. Thuở xưa, chư Phật cũng ở tại chỗ nầy nói tướng điền làm lợi ích cho chúng
sanh và tất cả thế gian chấn động sáu cách”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài Văn Thù Sư Lợi thật là chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao, vì pháp tướng được Ngài nói đó chẳng thể nghĩ bàn”.
Đức Phật phán bảo Vản Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Đúng như vậy, như lời Xá Lợi Phất nói, sở thuyết của ông thiệt chẳng thể nghĩ bàn”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Bất tư nghị chẳng thẻ nói được mà tư nghị cũng chẳng thẻ nói được. Tánh tư nghị và bất tư nghị đều chẳng thể nói được. Tướng của tất cả âm thanh chẳng phải tư nghị cũng chẳng phải chẳng thể tư nghị”.
Đức Phật phán: “Ông nhập tam muội bất tư nghị chăng?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Không vậy. Bạch đức Thế Tôn! Tôi tức là bất tư nghị, chẳng thấy có tâm hay tư nghị thì sao lại bảo là nhập tam muội bất tư nghị. Lúc tôi phát tâm ban đầu, tôi muốn nhập tam muội ấy. Mà nay tôi tư duy thiệt không có tâm tướng để nhập tam muội. Như người học bắn tập lâu thì giỏi. Lúc sau dầu vô tâm mà vì đã quen tập từ lâu nên buông tên ra đều trúng đích.
Cũng vậy, lúc ban đầu tôi học tam muội bất tư nghị, buộc tâm một cảnh duyên, luyện tập thành thục rồi không còn có tâm
tướng mà hằng cùng chung với tam muội”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Còn có định thắng diệu tịch diệt nữa chăng?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu có định bất tư nghị thì Ngài có thể hỏi còn có định tịch diệt chăng? Cứ như ý tôi hiểu thì định bất tư nghị còn bất khả đắc, sao lại hỏi có định tịch diệt ư”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Định bất tư nghị chẳng thể có được ư?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Định tư nghị có tướng để được, định bất tư nghị không có tướng để được. Tất cả chúng sanh thiệt thành tựu định bất tư nghị, tại sao, vì tất cả tâm tướng tức chẳng phải tâm vậy, đây gọi là định bất tư nghị. Do đây nên tướng tất cả chúng sanh và tướng định bất tư nghị đồng nhau không sai
biệt”.
Đức Phật khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Lành thay,
lành thay! Ở chỗ chư Phật ông từ lâu đã trồng căn lành tịnh tu phạm hạnh, ông mới hay diễn nói tam muội thậm thâm. Nay ông an
trụ trong Bát Nhã Ba la mật như vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Nếu tôi an trụ trong Bát Nhã Ba
la mật hay nói những lời ấy thì tức là có tưởng bèn an trụ ngã tưởng cũng gọi là xứ sở. Rời lìa hai nơi ấy mà an trụ không chỗ an trụ, như chư Phật an trụ an xử cảnh giới tịch diệt bất tư nghị. Bất tư nghị ấy gọi là Bát Nhã Ba la
mật trụ xứ. Bát nhã Ba la mật trụ xứ, tất cả phap không có tướng, tất cả pháp không có tác.
Bát Nhã Ba la mật tức là bất tư nghị, bất tư nghị tức pháp giới, pháp giới tức vô tướng, vô tướng tức bất tư nghị, bất tư nghị tức Bát Nhã Ba la mật, Bát Nhã Ba la mật tức pháp giới, không hai không khác, không hai không khác tức pháp giới, pháp giới tức vô tướng, vô tướng tức Bát Nhã Ba la mật giới, Bát Nhã Ba la mật giới tức bất tư nghị giới, bất tư nghị giới tức vô sanh vô diệt giới, vô sanh vô diệt giới tức bất tư nghị giới.
Bạch đức Thế Tôn! Như Lai giới và ngã giới tức là tướng bất nhị. Người tu Bát Nhã Ba la
mật như vậy thì chẳng cầu Bồ đề, tại sao, vì Bồ đề tướng ly tức là Bát Nhã Ba la mật vậy.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment