Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 4
PHÁP HỘI
VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM
THỨ HAI
PHẨM VÔ THƯỢNG ĐÀ LA NI
Như vậy, tôi nghe : Một lúc Phật ở thành Vương Xá Ca Lan Đà Trúc Lâm, chúng đại Tỳ Kheo và vô lượng đại Bồ Tát câu hội. Chư đại Bồ Tát nầy đều là bực nhứt sanh bổ xứ từ Phật độ khác vân tập đến đây.
Lúc bấy giờ đại chúng vây quanh cung kính cúng dường đức Thế Tôn.
Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát rời chỗ ngồi trịch y vai bên hữu, quỳ gối mặt, chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng : « Thế Tôn ! Tôi có chút ít nghi
nay muốn thưa hỏi. Xin đức Như Lai thương xót cho phép ».
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát : « Nầy thiện nam tử ! Như Lai cho phép ông hỏi. Như Lai sẽ giải thích chỗ nghi cho ông được vui mừng ».
Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát bạch rằng : « Thế Tôn ! Tôi vì chư Bồ Tát muốn trang nghiêm vô biên trí huệ mặc áo giáp tinh tấn, vì người cầu phương tiện thiện xảo, vì người cầu trí huệ thiện xảo, vì người sơ phát tâm quyết định đại trí, vì người đã an trụ đạo Bồ đề, nên nay tôi thưa hỏi đức Như Lai. Tôi cũng vì chư Bồ Tát muốn làm lợi ích chúng sanh, muốn chúng sanh đều phát đại tâm tu hành đại trí, dõng mãnh tinh tấn được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, nên nay thưa hỏi đức Như Lai.
Bạch Thế Tôn ! Có chư Bồ Tát vì loài hữu tình mà nguyện đến bờ kia. Lại có Bồ Tát quyết chí cầu vô ngại vô úy, phương tiện theo cơ khéo phân biệt diễn thuyết pháp nghĩa, và tuyên dương bổn tánh tự tánh của các pháp đúng như thật. Lại có Bồ Tát được tâm vô đẳng, tâm tối thắng, tâm vô thượng được tự tại. Tôi vì chư Bồ Tát trên đây mà thưa hỏi đức Như Lai.
Bạch Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh cầu tự nhiên trí, vô sư trí, phá vỏ vô minh, vượt hơn tất cả nhơn thiên, làm lợi lạc tất cả thế gian. Tôi cũng vì những Bồ Tát nầy mà thưa hỏi Như Lai.
Bạch Thế Tôn ! Chư Bồ Tát đã an trụ nơi bực nầy mau được viên mãn Phật quả, có thể chứng những môn ba la mật bất khả tư nghì, dùng chút ít công dụng thành thục chúng sanh, khiến chúng sanh lìa ác thêm
thiện, chỉ bày chủng tánh Phật, có thể an lập vô lượng chúng sanh chẳng thối chuyển đạo Vô thượng Bồ đề. Nay tôi vì hạng nầy mà thưa hỏi Như Lai.
Bạch Thế Tôn ! Đại chúng đây đều đã vân tập, ngưỡng mong đức Như Lai diễn thuyết pháp môn vi diệu truyền dạy chư Bồ Tát khiến họ được viên mãn đại nguyện, và được trọn nên căn lành nhứt sanh bổ xứ.
Bạch Thế Tôn ! Môn đà la ni vi diệu như vậy, đức Như Lai nên tùy thời truyền dạy khiến chư Bồ Tát có thể thọ trì vô lượng pháp môn, an trụ vô biên đại thần thông, thành thực vô lượng vô số chúng sanh đều được nhiếp thọ Phật trí. Xin đức Như Lai khai thị pháp môn như vậy, chúng sanh sẽ được chứng đạo Bồ đề.
Bạch Thế Tôn ! Từ xưa, đức Phật đã từng trải qua thời gian lâu xa phát nguyện rộng lớn làm cho vô số chúng sanh được Phật trí và tự nhiên trí. Nay Phật nên diễn nói môn đà la ni nầy cho các Bồ Tát được trọn nên thiện căn của mình, và cũng nhờ sức oai thần của Phật gia hộ để giữ gìn đại nguyện bất tư nghì của chư Bồ Tát.
Bạch Thế Tôn ! Đại chúng đây chiêm ngưỡng đức Như Lai không tạm rời. Tất cả đều một lòng mong cầu nhứt thiết trí và các pháp tạng, muốn được nghe diệu nghĩa quyết định của Như Lai. Đức Thế Tôn an trụ trong cảnh nhứt thiết trí, đã biết tâm nguyện của chư Bồ Tát nầy. Thế Tôn nên nói cú nghĩa viên
mãn của môn đà la ni, làm cho chư Bồ Tát chưa thành thục đều được thành thục, người đã thành thục thời mau được thần thông và được giải thoát tri kiến.
Bạch Thế Tôn ! Chư Bồ Tát trụ bực bất định nếu được dự nghe diệu pháp thời được thành tựu cảnh giới nhứt thiết trí.
Bạch Thế Tôn ! Do những duyên cớ trên đây nên tôi dám thưa hỏi việc lớn. Xin đức Đại Từ giảng thuyết diệu pháp, dùng oai thần gia hộ nhiếp thọ chư Bồ Tát.
Bạch Thế Tôn ! Đời mạt thế sau nầy, trong thời kỳ đấu tranh, chúng sanh nhiều chấp trước làm hại lẫn nhau, thêm lớn tham, sân, si, hoại loạn chánh pháp. Khiến chư Bồ Tát ở trong thời kỳ đó, dùng đức đại từ bi chịu đựng mọi sự khổ để lưu hành diệu pháp nầy, không tranh không đấu. Do không tranh đấu nên có thể nhiếp thọ đại từ đại bi, và sẽ chứa nhóm những căn lành.
Bạch Thế Tôn ! Do nghĩa trên đây nên nay tôi dám thưa hỏi đức Như Lai về pháp môn vô ngại và diệu nghĩa quyết định.
Bạch Thế Tôn ! Phương tiện gì để chư Bồ Tát phát khởi vô lượng pháp môn ? Lại xin đức Như Lai nói pháp môn tịch tịnh chẳng diệt hoại, gồm diễn nói pháp tạng vi mật, thành tựu chánh niệm để hàng phục ma oán và ngoại đạo, mà chẳng bị họ xô phá.
Xin đức Như Lai diễn nói chánh pháp cho chúng
sanh chứa nhóm căn lành cũng khiến họ chứa nhóm vô biên phương tiện thiện xảo, thẳng đến nhứt thiết trí, kết tập vô lượng pháp yếu, được biện tài vô ngại, cũng khiến họ chứng được vô lượng pháp môn và đà la ni, lại khiến họ phát tâm vô trụ. Cũng làm cho chư Bồ Tát rõ biết bổn sự của chư Phật, dùng thần thông vô úy khắp các thế giới truyền pháp nhãn thanh tịnh cho chúng sanh, cũng
khai thị diệu pháp bất tư nghì trọn nên Phật trí.
Do những nghĩa nầy tôi dám thưa hỏi, xin đức Thế Tôn nói diệu pháp rộng lớn rất sâu của Phật, làm cho chư Bồ Tát được viên mãn bổn nguyện. Chư Bồ Tát nầy dự nghe diệu pháp rồi đều sẽ được chứng trí huệ thiện xảo đại Bồ đề, và những hoằng thệ đều được viên mãn ».
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát : « Lành thay ! Lành thay ! Nầy Vô Biên Trang Nghiêm !
Nay ông vì chư Bồ Tát trụ nguyện thanh tịnh phương tiện thiện xảo, cũng vì thương xót chúng sanh, nên dùng
trí huệ quyết định khéo thưa hỏi Như Lai. Công đức của ông không có hạn lượng.
Ông lắng nghe và khéo suy nghĩ, Phật sẽ giải thuyết cho. Khiến chư Bồ Tát đối với cảnh giới trí huệ của Như Lai, được sanh vô lượng công đức.
Nầy thiện nam tử ! Nếu các Bồ Tát vì cầu vô biên thiện xảo phương tiện, thời phải rõ biết ngữ ngôn bí mật của chư Phật, rồi thọ trì tư duy quan sát đúng lý.
Quan sát như thế nào ?
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Trí của Như Lai nhiếp các phương tiện, những điều diễn thuyết đều thanh tịnh cả. Chư Bồ Tát cần phải tiến tu pháp yếu nầy.
Lời của chư Phật đều từ nơi đại bi, đều bình đẳng khắp với quần sanh. Quyết định thành thục các loài hữu tình.
Hoặc có hạng trụ nơi hạ thừa cầu được giải thoát trong đạo Thanh Văn. Có hạng phát thệ rộng lớn viên mãn chơn thật Niết Bàn thành nhứt thiết chủng trí.
Nay Phật an trụ giải thoát vô thượng, xa hẳn pháp hạ liệt của các thừa khác, đã khéo vào ngữ ngôn bí mật của chư Phật, nói câu lời vô tỉ rộng lớn thanh tịnh nhiếp thọ các pháp của Như Lai, khiến các hàng hữu tình theo căn tánh của họ mà được giải thoát thành thục. Dầu vậy, nhưng nơi pháp yếu nầy thảy đều bình đẳng, chẳng thêm chẳng bớt, không thiếu sót, nhẫn đến vô biên tế tự tánh thanh tịnh.
Lời diễn thuyết của chư Phật đều thấu rõ như thật bổn tánh tự tánh, nhưng trọn không có pháp rõ thấu cùng chẳng rõ thấu. Vì tất cả pháp môn đều là Như Lai dùng giả danh mà tuyên thuyết.
Nếu các pháp kia đã là giả danh, thời chẳng thể dùng pháp để thi thiết, cũng không hiện bày. Vì không hiện bày, nên những điều Phật nói đều là thắng nghĩa chơn thật. Tùy theo pháp mà đồng vào tất cả pháp. Với tất cả pháp chẳng trụ nơi phân biệt, cũng chẳng phải chẳng trụ. Do pháp phân biệt cùng chẳng phân biệt bình đẳng như thật mà chứng tất cả pháp vô sai biệt.
Pháp vốn không có sanh, vì sanh pháp vô sở hữu. Pháp vốn không có pháp mà vì vọng phân biệt chấp trước. Pháp vốn không có khởi, vì không tự tại. Pháp không có quán đãi
vì hoàn toàn xả. Pháp không có tác dụng vì không có khứ lai. Pháp không có tự tánh vì siêu quá tất cả tự tánh. Pháp vốn bình đẳng không sai khác vì không hí luận. Tùy thật hành pháp gì, phát nuyện thù thắng đều thành tựu cả, nhưng trong đây không có tác
giả nhẫn đến không có chút pháp bị được, vì đều quy về nơi không.
Do những nghĩa trên đây, nên Như Lai nói tất cả pháp như huyễn, như mộng, không có cao hạ.
Chính đương lúc Phật dùng hoằng thệ để nhiếp hóa chúng sanh đây, cũng
thiệt không có chút pháp gì có thể chấp lấy được cả.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây lá pháp môn quang minh của chư Bồ Tát. Do pháp môn nầy nên được tăng trưởng bổn nguyện thù thắng. Như mặt trời mọc lên thì tỏa ánh sáng khắp nơi. Người tin hiểu được pháp môn nầy thì làm pháp quang minh cho tất cả chúng sanh.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư Bồ Tát, trong có chánh tư duy, ngoài không tán loạn, dứt được các chướng ngại, niệm phổ quang tam muội và tin hiểu được pháp thậm thâm, thì cần nên quan sát các pháp môn nầy.
Như Lai biết rõ tất cả pháp, dùng môn duyên khởi mà tuyên thuyết khai thị : Duyên khởi như vậy là hư vọng không thật, tự tánh bổn tánh thảy đều không tịch. Tánh duyên khởi nầy cũng chẳng chơn thật, dầu nó có thể làm cho chúng sanh hết tạp nhiễm được thanh tịnh, nhưng tìm khắp mười phương đều bất khả đắc vì là bất khả đắc nên không nhiếp thọ. Vì không nhiếp thọ nên với giáo thuyết của Phật còn nên xả ly huống là những phi pháp. Nói xả ly là vì nó chẳng phải có, là vô sở thủ, không có công dụng, bổn tánh vốn thanh tịnh. Tất cả pháp không sai khác, vì rõ biết phân biệt bổn tánh như thật. Tất cả pháp không có chỗ trụ, cũng không thể thấy, vì không có tánh riêng
khác. Do đây nên tất cả pháp vốn không có chỗ trụ, không có chỗ y ỷ. Chỉ do danh tự giả lập ra. Tất cả pháp đều không tịch, chẳng có tự tánh, vô trụ mà trụ. Vì vậy nên các pháp không có trụ xứ. Vì không nơi chỗ nên là tận, là diệt, là biến dịch.
Như Lai chỉ dùng giả danh tuyên thuyết, mật ý như vậy cần phải rõ biết, chẳng nên chấp trước là thiện cùng bất thiện. Nếu chấp thiện pháp thì cũng sẽ chấp pháp bất thiện. Vì chấp pháp bất thiện nên sanh những khổ não. Phật dùng giả danh ở nơi đây nói là khổ thánh đế.
Do chẳng chấp trước pháp thiện và bất thiện nên những chấp thọ kia dứt diệt. Như Lai ở nơi bị thiện pháp dứt đây mà giả nói là tập thánh đế.
Vì rõ biết được thánh đế thứ hai, vì diệt, vì tận, vì không ức tưởng, vì nhàm lìa, quan sát vô sở hữu, vì không tưởng, không thọ, không phân biệt, Như Lai nơi đây giả nói là khổ diệt thánh đế.
Vì rõ biết thánh đế thứ ba, là đạo quả chỗ mong cầu, như thật ngộ nhập tất cả pháp, vượt khỏi tất cả cảnh ức tưởng phân biệt hí luận, tương ưng bát thánh đạo, tu tập chánh kiến nhẫn đến chánh định, rõ biết thánh đế là con đường diệt khổ. Phật dùng giả danh nói đây là đạo diệt khổ, thánh đế thứ tư.
Chư Phật ở nơi đây lập ra : Biết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu đạo. Đây là khổ, khổ tập, khổ diệt, và khổ diệt đạo. Khổ nầy vốn không có, vì theo thế tục giả danh lập ra.
Những vô minh nầy tất cả đều là phan duyên phân biệt, trong đây vốn vô trí. Vì vô trí nên cũng không có một chút phan duyên có thể chấp lấy được. Không có chỗ chứng, không có quang minh,
không thể rõ biết, cũng bất khả đắc. Như vậy thời trong đây sẽ có vật gì ? Tất cả đều là những pháp hư vọng bại hoại không thật không chắc. Trong đây nếu lập ra có vật chắc thật, thời có chấp thường. Nếu cho là không thời thành chấp đoạn. Do đây chẳng nên phân biệt đối với pháp khổ.
Do trí huệ nên rõ biết tự tánh của vô trí là tự tánh của khổ, vì tương ưng với vô minh. Vô minh kia cũng chẳng cùng với vật tương ưng, đã chẳng tương ưng thì nó cũng không có. Vì chẳng tương ưng, nên vô minh chẳng phải là phân biệt cũng chẳng phải là chẳng phân biệt, chẳng tạo tác, chẳng hư hoại, cũng không tác giả, vì không thể tìm ra tác giả.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là chư Bồ Tát ngộ nhập tự tánh của vô minh mà thuận với minh pháp môn. Do pháp môn nầy có thể bỏ rời tất cả vô minh đen tối, hiện tiền chứng đặng tùy thuận minh pháp, có thể khéo tu tập Bồ đề phần, khéo rõ biết các thánh đế.
Chư Bồ Tát đây có thể được thanh tịnh nơi pháp môn nầy, nghĩa là : Do vì bất sanh nên khổ được thanh tịnh. Vì chẳng phan duyên nên tập được thanh tịnh. Vì diệt tận nên diệt được thanh tịnh. Do tu tập nên đạo được thanh tịnh. Vì tín tâm bình đẳng nên đạo liền bình đẳng.
Những pháp giả danh sai khác như vậy cần phải rõ biết. Đã rõ biết rồi thì phải dứt, phải chứng, phải tu.
Đối với lời dạy của Như Lai, nếu hiểu rõ được, người đó liền biết khắp, liền dứt, liền chứng, liền tu tập.
Do đây nên bực thánh rõ biết như vậy rồi, đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, bèn được an trụ nơi pháp môn tứ đế.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả pháp không có phân biệt, không có tăng trưởng, cũng chẳng tích tập.
Vì bực thánh khéo rõ biết đúng như thật, nên chẳng phân biệt, chẳng hí luận, chẳng bỏ, chẳng lấy, mà thấy được như thật. Do đạo đế đoạn trừ, nên đối với những thiện pháp còn chẳng phân biệt, không hí luận, huống là pháp bất thiện. Do tương ưng với vô phân biệt nên cũng chẳng trụ nơi dứt pháp và dứt phi pháp. Đã hoàn toàn dứt thời không còn chấp pháp và phi pháp. Bực nầy có thể rõ biết pháp chấp là hư vọng, pháp hư vọng đây trống rỗng vô sở hữu.
Như trên đây
là môn đế lý chứng nhập của những bực ấy. Do môn nầy, nên chẳng tham ái, chẳng sân hận. Chứng được viên mãn đức xả, dứt được những kiết sử, an trụ chánh đạo đến bờ kia, chứng pháp tánh nhưng không xuất không nhập.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay ông phải quan sát bổn tánh của tất cả pháp đều không, tự tánh tịch tịnh không có tác giả. Tất cả pháp đều chẳng thật, tương ưng với kiết sử. Trong pháp không tự tánh đó chẳng nên chấp trước, lại cũng chẳng nên rời ngoài tự tánh và chẳng phải tự tánh mà có niệm phân biệt. Đã rõ biết được nhơn duyên thanh tịnh, thì với tất cả pháp duyên sanh chẳng nên hí luận. Duyên sanh kia vốn không tự tánh rốt ráo thanh tịnh, nhơn duyên đó chẳng tương ưng lẫn nhau. Các pháp xoay vần, trong đó không có sở tác, không có sở hành, không có sự nghiệp. Vì tất cả pháp đối với nhau là không, nên không
có tự tánh, không sở y, không sở trụ.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Trong diệu pháp nầy ông cần phải ngộ nhập. Được như vậy thời có thể tăng trưởng không bị tổn hoại, được pháp môn thanh tịnh phổ biến quang minh. Do nhiếp thọ nên được thanh tịnh. Vì không hí luận nên thành quang minh. Vì
lìa kiết sử không chỗ chấp trước nên được xuất ly.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả pháp chỉ có danh tướng để khai thị tuyên thuyết. Danh là tất cả uẩn chẳng phải sắc. Tướng là những sắc pháp do tứ đại tạo thành. Danh tướng như vậy, tất cả đều là hư vọng chẳng chơn thật. Vì chúng sanh điên đảo nên có chấp trước : Hoặc chấp sắc là ngã, sắc là ngã sở. Vì phân biệt nơi tướng mà có tên gọi, có chỉ bày, có tuyên thuyết. Hai thứ danh sắc như vậy đều chẳng thật. Tất cả đều là những pháp biến hoại hư vọng, như huyễn, như mộng. Thể của sắc chẳng bền chắc như cảnh chiêm bao, nhẫn đến bốn uẩn cũng đều chẳng thật. Tất cả chỉ là văn tự thi thiết của thế tục thôi.
Quan sát như vậy, lúc đã biết rõ, thì chẳng thấy có khổ. Vì không phan duyên nên
tâm vô sở hữu. Vì tương ưng với thật đế nên không phan duyên. Vì vô sở hữu nên đâu có gì tương ưng với phan duyên kia. Do đây nên đối với cảnh giới Niết Bàn được bặt tưởng và dứt sở tri.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Tam giới do tưởng và tác ý sanh ra, nên gọi rằng tam giới hư vọng. Tưởng và tác ý cũng chẳng phải chơn thật. Tưởng đây tức là chấp trước sắc. Bao nhiêu tác ý đều tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Bổn tánh của các pháp cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, nhẫn đến phi tưởng cũng chẳng phải tác ý. Tưởng và tác ý bổn tánh đều không. Những ngôn thuyết cũng đều hư vọng, chỉ nhờ ngôn thuyết để làm cho tánh tịch tịnh.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Bổn tánh của các pháp vì là giả danh, nên chỗ nói ra cũng đều bình đẳng.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Thật đế trong pháp nầy, chư Bồ Tát cần phải rõ biết. Nghĩa là chư Phật Như Lai vì đã dứt rời tất cả kiết sử, nên những điều diễn thuyết ra trọn chẳng luống hư. Nơi đây các ông phải khéo suy nghĩ, chớ có quan niệm chấp trước. Đối với tất cả pháp chớ phân biệt, chớ hí luận. Rõ tất cả pháp không có tự tánh, sanh lòng từ bi đối với chúng sanh, tư duy ngộ nhập pháp môn như vậy, khai thị diễn thuyết để lợi ích tất cả.
Pháp môn nầy thế nào ? Nghĩa là thấu rõ vô minh các pháp hữu vi, tỏ ngộ trí, kiến v.v... các pháp vô vi. Phải chứng nhập trí thanh tịnh không hí luận với tất cả pháp hữu vi, pháp vô vi.
Chẳng phải số lượng mà vào số lượng, mà trụ số lượng, vì tùy thuận pháp chẳng phải số như vậy nên chứng nhập pháp môn vô vi thanh tịnh, chứng đặng trí huệ quang minh chiếu khắp, nhiếp thọ các pháp làm cho chẳng mất chẳng hoại. Có thể dùng giác huệ phương tiện thiện xảo rộng vì chúng sanh diễn thuyết các pháp.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là chư Bồ Tát chứng nhập môn đà la ni. Do môn nầy, mà sanh ra giác huệ sai biệt rộng lớn, và có thể phát khởi chí thiện xảo diễn thuyết những pháp nghĩa.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Trong đây gì là môn đà la ni ? Bực Bồ Tát nầy đối với các pháp có thể được tổng trì phương tiện thiện xảo. Bồ Tát nầy an trụ nơi chí thiện xảo thanh tịnh mà thật hành biện tài thuyết pháp. Do giác huệ nghĩa vô ngại mà quán sát bổn tánh tự tánh của các pháp. Nhưng tất cả pháp tự tánh vốn vô trụ, vô danh, vô tướng, không chỗ kiến lập, chẳng thể tuyên thị, chỉ dùng ngôn từ của thế tục để diễn thuyết. Tất cả pháp, bổn tánh tự tánh đều bất khả thuyết, không đến không đi, không có văn tự, văn tự vốn thanh tịnh không có công dụng. Vì bổn tánh của tất cả pháp đồng như hư không, không tạo tác, không sanh khởi, vô tướng thanh tịnh. Dùng hư không để khai thị diễn thuyết, thời các pháp môn nầy là không có pháp môn, vì
pháp môn thanh tịnh, rốt ráo không nhiễm cũng chẳng theo nơi nhiễm. Vì các pháp rốt ráo chẳng sanh khởi, tự tánh của pháp cũng chẳng sanh khởi. Do đây nên biết rằng tất cả pháp nói ra trong ba đời, tự tánh là vô tánh, nhưng cũng chẳng nên chấp các pháp là vô tánh. Đây là môn đà la ni vô sở trước của chư Bồ Tát, vì pháp môn của chư Bồ Tát đều thanh tịnh.
Khai thị diễn thuyết tất cả pháp có hình tướng như vậy, hình tướng đó chính là chẳng phải hình tướng, chẳng tạo tác, chẳng hư hoại, chẳng tham ái, chẳng sân hận. Do đây nên biết môn hình tướng nầy là chẳng phải môn. Vì môn thanh tịnh nên được vào nơi pháp môn thanh tịnh không hình tướng. Vì muốn rõ biết môn hình tướng nầy là vô sở hữu. Chẳng dùng nghĩa có mà tuyên
thuyết như vậy, vì vô sở tác nên vào nơi pháp môn không hình tướng.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Pháp môn không hình tướng đã nói như vậy là vì đà la ni thanh tịnh mà nói.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Pháp môn đã nói đó dường như hư không, tất cả pháp nương nơi hư không mà có sanh diệt. Pháp sanh diệt kia tánh đều bình đẳng, không có sanh diệt, không chỗ nhiếp thọ. Với tất cả pháp phải biết như vậy. Tất cả pháp cũng chẳng phải nhiếp thọ, chẳng phải không nhiếp thọ, chẳng phải đồng, chẳng phải không đồng, nhẫn đến không có chút pháp gì mà
có thể được. Do đây có thể rõ được môn hình tướng nầy, vì được môn vô tướng thanh tịnh mà khai thị diễn nói.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nói rằng vô tướng đó chính là không thân, không thân thi thiết, không danh, không cú,
cũng không thị hiện. Nơi giáo nghĩa nầy phải nên rõ biết môn không hình tướng kia đồng với hư không.
Nói rằng hư không, cũng chẳng có hư không và thị thuyết hư không. Đây là pháp môn vô
minh tùy thuận minh trí lực.
Bồ Tát có thể chứng nhập lý thú phương tiện của môn đà la ni. Do chứng nhập nên không có tránh luận cũng không quên mất. Liền chứng nhập môn đà la ni vô đoạn bí mật ngữ ngôn. Như rồng Vô Nhiệt Não làm trận mưa to không ngớt hột.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nói đà la ni trên đây là cú nghĩa gì ?
».
Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát nói : « Bạch Thế Tôn ! Đà la ni là giả danh phương tiện tùy thuận các pháp bí mật; là nghiệp dụng liền ghi nhớ khắp các pháp; là những câu ngữ ngôn thuyết pháp. Do trí lực được vào số đà la ni như vậy. Do thiện giác hưệ cần phải thọ trì công lực Bồ đề vô lượng vô biên.
Bạch Thế Tôn, như chỗ tôi hiểu, phương tiện diễn thuyết trí vô biên nầy là vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sanh nên khai thị lưu bố làm cho chánh pháp chẳng đoạn tuyệt.
Bạch Thế Tôn ! Đà la ni nầy là đại hư không, là đại phương quảng. Do nghĩa đây nên có thể tuyên thuyết rộng khắp. Do tuyên thuyết bình đẳng có thể nhiếp thọ nên gọi là tùy thuận giáo pháp thiện xảo khai thị lưu bố rộng lớn. Vì văn tự sai biệt viên mãn mà được thành tựu biện tài vô ngại. Do quan sát nghĩa thiện xảo ngôn thuyết nên được nghĩa vô ngại biện tài. Vì quyết định các pháp thiện xảo khai thị nên được viên mãn pháp vô ngại biện tài.
Thương xót
chúng sanh dùng tâm đại từ bi nên có thể nhiếp thọ. Do nhiếp thọ, nên tuần tự điều phục làm cho được thanh tịnh, không hí luận, có thể diễn thuyết pháp xả bình đẳng.
Bạch Thế Tôn ! Lúc diễn nói pháp môn phương tiện bí mật đà la ni nầy, vô lượng vô biên nghĩa thiện xảo ra từ kim khẩu của Phật ».
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát: « Nói pháp môn chính là từ ngữ nhứt thiết trí môn của Như Lai. Trong môn nầy, do ngữ ngôn mà diễn thuyết được tất cả pháp. Như Lai an trụ nơi tự nhiên trí vô biên thanh tịnh rốt ráo thanh tịnh, từ nơi vô sở trụ, vô sở lập mà diễn ra pháp môn rộng lớn rất sâu.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Như Lai từng nói tất cả pháp đều là Phật pháp. Vì đối với các pháp có thể khéo rõ biết nên gọi là Phật pháp. Bổn tánh của các pháp đồng với Phật pháp nên các pháp đều là Phật pháp. Do có thể rõ biết các pháp và phi pháp nên
nói rằng có thể rõ biết tất cả pháp. Người có thể rõ biết các pháp, thì có thể rõ biết môn đà la ni. Môn đà la ni này có thể vào khắp tất cả pháp, nghĩa là có thể nói năng diễn thuyết đàm luận. Tất cả những sự nói năng diễn thuyết đàm luận đều do nơi văn tự mà tuyên thị. Trong văn tự này, đầu là chữ « a », rốt sau là chữ « hà ». Dường như lúc nhập thai, thọ thai, trụ thai, thời lấy mẹ làm trước. Lại như chủng tử và nuôi lớn thời dùng cha làm trước. Tất cả văn tự hòa hiệp sai biệt dùng mẫu tự như vậy làm trước. Phát sanh văn tự thời trước là chữ a, rốt sau là chữ hà, những văn tự khác ở chặng giữa, tùy theo sự tương ưng, các văn tự hòa hiệp có ra. Đây chính là có thể vào môn ngữ ngôn đà la ni.
Lại phải rõ biếttất cả những hành pháp thảy đều hoại diệt. Như văn tự kia, đã viết học thành rồi liền sẽ trừ diệt. Tất cả nghiệp dụng lập ra đều sẽ hoại diệt. Như những hành pháp kia vì hòa hiệp mà sanh, nó chẳng hòa hiệp thời hoại diệt. Hai thứ tương ưng hòa hiệp như vậy lập thành tất cả ái kiến trong ba cõi, cũng do hai
thứ hòa hiệp như vậy lập thành tất cả pháp hữu vi.
Quan sát như vậy, lần lần có thể thành tựu pháp môn vô tác, do đây
có thể diễn thuyết môn đà la ni sanh diệt, làm cho chư Bồ Tát mau được viên mãn phương tiện thiện xảo. Như mẫu tự, trước là chữ a, sau là chữ hà. Được như vậy rồi, nên dùng lời nói diễn thuyết đàm luận, khéo vào tất cả ngôn từ bí mật, lại phải rõ biết pháp vô ngại để khai thị tuyên thuyết.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Như mẫu tự, chữ « a » làm đầu, bao nhiêu văn tự theo đó lập thành, do tác ý mà có
biên chép. Sau chữ « hà », không còn văn tự nào có thể kiến lập được nữa. Do hai thứ tác ý nầy có thể sanh tất cả hành pháp hữu vi. Hai thứ phân biệt đó đều không chơn thật, vì nơi chơn thật không có bổn tánh tự tánh của văn tự, cũng không có phân biệt và chẳng phân biệt, mà trong đó cũng không
có chút phần gì làm ra.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả các pháp do trí nhận biết. Trí nầy đều từ nơi văn tự mà được sanh khởi. Vì văn tự nầy chẳng thành tựu, nên trí kia cũng lại không hình tướng có thể được. Vì nơi chơn thật vốn không có hình tướng. Do vào nơi không hình tướng như vậy nên rời bỏ tất cả sự nghiệp tạo tác. Vì vô tác nên rời bỏ tất cả sự hữu vi.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là pháp môn thanh tịnh thiện xảo đà la ni. Nếu chư Bồ Tát lúc học pháp môn nầy, thời có thể phát khởi tất cả sự nghiệp vô ngại, vì chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp không thiếu bớt, chẳng trụ nơi chấp trước, và có thể xa lìa những tưởng cùng tác ý, vì đã có thể vào nơi pháp vô ngại trí, chứng vô biên trí.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư Bồ Tát khi đã khắp dùng tất cả danh tự, mà rõ biết tất cả pháp chỉ có ngôn thuyết mà không chơn thật. Biết như vậy rồi Bồ Tát cần phải vào phương tiện đà la ni môn.
Thế nào là nên vào môn phương tiện đà la ni ? Rõ biết tất cả danh ngôn vốn không chỗ trụ, nên chẳng trụ nơi các pháp, chẳng trụ trong ngoài chặng giữa, tất cả chỗ đều là bất khả đắc. Chỉ nương ngôn thuyết mà lập ra danh tự. Với danh tự lập ra liền rõ biết như thật, là như thật. Do như thật nầy cần phải rõ biết tất cả pháp vốn không danh tự, không ngôn thuyết, đây là chỗ trí lực vô sở úy của chư Phật. Với tất cả pháp, Bồ Tát nên dùng pháp môn nầy để khai thị diễn thuyết.
Như Lai nói tất cả pháp chẳng phải một tánh, chẳng phải khác tánh, vì các pháp
không có tánh một tánh khác. Tất cả pháp nầy chẳng phải sanh chẳng phải có. Những pháp tuyên thị như vậy cũng không. Pháp đã không
thời chính nó là vô tướng. Đã vô tướng thời không nguyện cầu. Nếu các pháp đã là không, là vô tướng, là vô nguyện, thời là bất khả tri, bất khả biến tri. Do đây chẳng nên nói các pháp là hữu là vô. Nói hữu nói vô chỉ là ngôn thuyết, trong đó chẳng nên chấp trước. Vì Phật thường nói nếu người chẳng chấp trước tất cả pháp thời là chơn thật thắng nghĩa. Nếu người có chấp trước, thì với pháp nào cũng đều sanh chấp trước. Chấp trước như vậy đều là pháp bại hoại, là không, chỉ có hư vọng, phân biệt, hí luận.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông cần phải quan sát diễn thuyết các pháp, nhưng những pháp đó thật ra không thị không thuyết, há lại ở trong đó mà có người năng thuyết vì người khác mà diễn thuyết.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Pháp thanh tịnh đây do Như Lai diễn bày ra. Người nào có thể rõ biết được thời đáng gọi là rất hi hữu.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay các ông ở trước ta được nghe pháp như vậy, dầu đa số có thể khéo rõ biết sanh thắng giải, trụ nơi tín tâm thanh tịnh, nhưng chúng sanh đời sau đối với pháp nầy ít người hiểu biết. Chỉ trừ những người hiện nay gần gũi bên Phật phát hoằng thệ : nguyện đời vị lai đem sự an lạc lợi ích cho chúng sanh, mà sẽ thọ trì giáo pháp của Như Lai. Những người hiện tiền thừa sự cúng dường Như Lai tin sâu hiểu chắc sẽ có thể chứng được môn đà la ni nầy.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Do ngày trước cúng dường chư Phật, lại được tin hiểu giáo pháp thậm thâm, nên chư Bồ Tát nguyện cầu Đại thừa hướng đến công hạnh sâu rộng.
Hàng Thanh Văn thừa nhàm lìa ba cõi nên siêng
năng tu hành giáo pháp thậm thâm, những người nầy chưa từng được nghe giáo pháp thâm diệu nầy.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đức Như Lai vì muốn lợi ích cho hạng hữu tình nầy, khiến họ chứng chủng trí rộng lớn vô lượng, nên lại nói giáo pháp thậm thâm. Giáo pháp nầy chẳng phải kẻ ngu phu nhiều chấp trước chẳng mong cầu diệu pháp mà có thể hiểu, có thể làm được. Diệu pháp nầy là chỗ nương dựa của những người tu hành đúng lý đầy đủ căn lành, biết sợ tội mà cầu giải thoát.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Phật vì các ông và tất cả đại chúng luôn thuyết pháp chẳng mỏi nhàm. Do xưa kia lúc Phật còn thật hành đạo Bồ Tát, trong vô lượng kiếp tinh tấn tu học diệu pháp thậm thâm này. Đã tu học rồi bèn hồi hướng tất cả chúng sanh : Làm thế nào sẽ vì các loài hữu tình mà chuyển được pháp luân vô thượng và vì các hữu tình thị hiện được trí huệ vô thượng khiến cho Phật chủng chẳng dứt ?
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là do nguyện lực thuở xưa của đức Như Lai vì muốn Phật trủng trẳng dứt và dùng oai lực gia hộ môn đà la ni nầy, khai thị diễn thuyết pháp thậm thâm đây cho được lưu bố rộng khắp, khiến chúng sanh sẽ được ngộ nhập trong Phật pháp.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay các ông nếu muốn học theo Phật, thời có chúng sanh nào mong cầu chánh pháp, các ông phải khai thị diễn thuyết chớ sanh lòng nhàm mỏi.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư Bồ Tát ở trong đại chúng, đem pháp của mình đã được nghe mà diễn thuyết khai thị. Do đây sẽ được gần Phật trí, mau chứng được môn đà la ni. Vì chứng đà la ni nên dùng công lực ít mà có thể thọ trì pháp môn thanh tịnh sáng suốt.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh. Bổn tánh của các pháp nếu đã là chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, chẳng phải hòa hiệp, chẳng phải không hòa hiệp, thời trong các pháp vẫn không có pháp. Nếu pháp đã không có thì không chỗ nào có thể thị thuyết được, chỉ trừ khi để dứt tập nhơn, vì dứt tập nhơn nên được xa lìa, vì được xa lìa nên được tịch diệt.
Như Lai vì muốn chúng sanh hiểu rõ nên tuyên thuyết. Tất cả pháp bổn tánh tự tánh vốn là vô nhơn, thì là vô nhơn dứt. Vì vô nhơn dứt nên không lìa không diệt.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông xem chỗ thuyết pháp của Phật thanh tịnh như vậy. Nếu người dùng pháp để quan sát Như Lai, người đó nơi Như Lai thấy chẳng thanh tịnh. Vì Như Lai chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp. Như Lai còn chẳng an trụ chút pháp gì huống là phi pháp. Như Lai vượt khỏi các pháp biểu thị, không thể tuyên thuyết, vì tất cả ngữ ngôn đều thanh tịnh. Do đây nên Như Lai rất là rộng sâu vô lượng. Như Lai chẳng phải sắc biểu thị, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức biểu thị, cũng chẳng phải sắc diệt tận giải thoát, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức diệt tận giải thoát. Do đây nên Như Lai tuyệt những pháp biểu thị cùng sắc, thọ v.v... với các pháp chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, nhưng ở nơi tất cả pháp hữu vi vô vi đều có thể khắp giải thoát, chẳng phân biệt, không hí luận. Như Lai chẳng tương ưng với sự chấp trước nơi sắc, cũng chẳng tương ưng với sự chấp trước nơi thọ, tưởng, hành, thức, đã dứt hẳn tất cả cội gốc chấp trước, và cũng xa lìa cội gốc của các pháp. Nghĩa là Như Lai không
hí luận, chẳng nhập chẳng xuất, vượt khỏi các dòng, chẳng trụ cảnh giới Phật vô thượng, cũng chẳng phải không trụ. Nên nói rằng Như Lai chẳng trụ nơi chút pháp gì, chẳng lấy chẳng bỏ.
Lúc thuyết pháp cũng phải diễn thuyết như đã nói về vấn đề Như Lai. Vì Như Lai chẳng tương ưng nên pháp của Như Lai cũng chẳng tương ưng. Như pháp của Như Lai, tất cả pháp cũng vậy. Cứ nơi lý như thật thời các pháp đều như. Do đây nên Phật nói tất cả pháp đều là chơn như. Tất cả pháp chơn như cùng Phật chơn như không sai không khác, chẳng phải nhứt chẳng phải dị. Vì Như Lai an trụ nơi pháp vô phân biệt chẳng phải là biến kế chấp.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Như Lai thuyết pháp trọn chẳng siêu quá tất cả pháp, vì không có chút
pháp nào có thể siêu quá.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Lúc đức Như Lai chứng được Vô thượng Bồ đề, nhưng thật ra lúc đó không có pháp gì được, vì tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng phân biệt, chẳng thấy có pháp cùng phi pháp, cũng không tác ý, nơi pháp tánh thanh tịnh chẳng an trụ, chẳng kiến lập. Lúc giản trạch rõ biết các pháp như vậy, cũng không có người rõ biết và giản trạch.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Văn cú đệ nhứt nghĩa đã diễn thuyết đây là văn cú chẳng phải văn cú của Như Lai, vì văn cú vốn thanh tịnh. Do nghĩa nầy nên chư Bồ Tát chứng được trí tất cả văn cú thanh tịnh. Do đây có thể nhập môn đà la ni lý nghĩa vô biên, nhưng cũng không chút pháp gì có thể chứng nhập, vì không có khứ lai.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Văn cú đã nói đó, vốn không văn cú có thể được, vì văn cú vốn chẳng phải văn cú. Đối với tất cả văn cú cần phải rõ biết như vậy. Những văn cú như vậy là nhàm lìa văn cú, đã
nhàm lìa văn cú thì là văn cú hư vọng. Nếu văn cú hư vọng thời là nhàm lìa văn cú. Tất cả văn cú đó là văn cú diệt tận, nếu văn cú diệt tận thời là văn cú chơn như. Nếu văn cú chơn như thời là văn cú rốt ráo. Nếu văn cú rốt ráo thời là văn cú tận diệt. Nếu văn cú tận diệt thời là văn cú Niết Bàn. Nếu văn cú Niết Bàn thời chẳng phải thế tục, không văn cú đặt ra cũng không thị thuyết.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nói một câu được bình đẳng vào trong tất cả pháp. Thế nào là một câu ? Chính là câu yểm ly. Trong yểm ly vốn không có câu. Tất cả câu đây còn là yểm ly, thời câu cũng chẳng phải câu vì câu thanh tịnh. Nếu câu thanh tịnh, thời Niết Bàn thanh tịnh. Nếu Niết Bàn thanh tịnh thời câu thanh tịnh. Những văn cú như vậy đều bất knả thuyết. Dầu dùng lời nói để tuyên thị văn cú, nhưng lời nói đó tìm khắp mười phương vẫn không tìm được ai vì ai mà nói. Nên tất cả ngôn thuyết đều không. Ngôn thuyết đã không thời không có nghĩa. Chẳng nên ở trong đó phân biệt hí luận đặt ra những cú nghĩa như vậy. Tất cả đều là cú nghĩa vô phân biệt, là cú nghĩa không hí luận. Do đây nên người tu quán hạnh, lúc tìm cầu quan sát tất cả cú nghĩa, phải biết đều là tịch diệt Niết Bàn. Những văn cú như vậy chẳng khác với Niết Bàn, cũng là bất khả thuyết. Nhưng chẳng phải là không khác vì ngôn thuyết và văn cú đều là hư vọng. Vì văn cú thanh tịnh nên phương tiện tuyên thuyết để biểu thị các cú nghĩa, chẳng phải biểu thị chơn thật. Nếu là chẳng phải biểu thị cũng chẳng phải không biểu thị, thì là ở trung đạo. Nếu ở trung đạo thì là vô phân biệt, vì trong đây đã dứt phân biệt. Lúc chứng nhập pháp tánh bình đẳng đây, không còn có chỗ nào thật hành chút ít ác hạnh, vì là vô sở đắc.
Chư Phật nói người tu Bồ Tát thừa, lúc không có chút pháp
gì để có thể thật hành, đây chính là thật hành Bồ Tát hạnh, vì an trụ môn đà la ni thanh tịnh vô thượng.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Phật sẽ nói câu đà la ni. Do câu này mà chư Bồ Tát được đà la ni có thể khai thị vô biên pháp tạng. Chư Bồ Tát nầy trụ bực vô tránh, vì có thể phá trừ những ngoại luận, vì rất tịch tịnh, vì thuyết pháp rộng. Đây là câu đà la ni của pháp môn đó :
Đát điệt tha nhã duệ - vi nhã duệ - ô kế - ô ca phiệt để - a lộ kế -a lộ ca phiệt để - bát ra bệ - bát ra bà phiệt để - na rị thiết nãnh - nễ na rị thiết đàm phiệt để - yết thế - yết tha phiệt để - thú thát nãnh - bệ thú thát nãnh - bát rị thú thát nãnh - cật rị gia - cật rị gia phiệt để - ôn đát ra ni - san đát ra ni - ma ha tỳ xã duệ - ma ha tỳ xã gia phiệt để - a nộ san địa - a bát ra để - san địa - du già ma nại đà - tất địa - tất đà yết thê - tất đà yết tha phiệt để - ma để - ma để bát ra bệ - ôn đát rị - ôn đát ra phiệt để - nhĩ ma rị - di ma ra nộ tán địa – tát lê - tát ra phiệt để - tát ra nộ già để - ta mĩnh - ta ma lam bà
nhĩ già để - yết để - a nễå già để - a bát ra để nễ phiệt để – di thế sái - di thế sái phiệt để - a ma hê nễ - nễ ma hê nễ - bát ra ma hê nễ - ô hà ô đát ra nãnh - ma ra bát na duệ - a thế sát - a nộ ba thế sát - a nộ già mê - a bát ra để già mê - a già đế -a na già đế - già để nhĩ thú đà nễ - bát rị thú đệ - cương kiệt sai chế na nễ dạ đế - ma để bát ra tị đế - ma để tỳ thú đà nễ - tam mạn đa nộ yết đế - mạn đa bát rị phược lê - tam mạn đa tỳ thú đà - nễ a nộ ba ngật ra hứ - a nễ ngật ra hứ đế - hứ ra na thê - a ra tha tỳ thú địa bát ra mĩnh - hê đô nễ địa san ninh bát ra tị để - bát ra tị đa phiệt để - tỳ nễ thiết giả duệ - tị nễ thuyết giả gia nộ yết đế -a nan đa ra thê - a nan đa bí ngật ra hế - ma xã tỳ thú địa a nộ kiệt ra hế - bát ra kiệt ra hà tỳ thú đả nễ - a địa da đa ma tỳ kiệt đế - ma hứ ra đà tỳ thú đà nễ - bí địa da nộ kiệt để - bí địa da nộ tán địa - bát rị thú đà nễ.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là câu đà la ni. Chư Bồ Tát do câu này có thể nhớ rõ các pháp tạng của vô lượng Như Lai, cũng có thể khai thị diễn thuyết làm cho chúng sanh trụ bực vô tránh, lại có thể được phương tiện vào tất cả nghĩa lý, có thể rõ biết trí sai biệt rộng lớn vô lượng, tất cả hạnh nguyện đều được viên mãn.
Cũng làm cho chư Bồ Tát được phương tiện thiện xảo đà la ni. Do được đà la ni nầy sẽ có thể rõ biết nghĩa lý bí mật của các pháp : nơi nhãn căn thấy sắc đà la ni, nhẫn đến ý căn biết pháp đà la ni.
Môn đà la ni sáu căn thấy biết sáu trần như thế nào ?
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment