Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Bát-Nhã Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
QUYỂN 14
PHẨM THÁN TỊNH
THỨ BỐN MƯƠI HAI
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy rất sâu!”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Những pháp nào thanh tịnh nên thanh tịnh nầy rất sâu?”
Đức Phật nói: “Vì sắc thanh tịnh nên thanh tịnh nầy rất sâu. Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, vì tứ niệm xứ thanh tịnh, nhẫn đến vì mười tám pháp bất cộng thanh tịnh, vì Bồ Tát thanh tịnh, vì Phật thanh tịnh, vì nhứt thiết trí và nhứt thiết chủng trí thanh tịnh nên thanh tịnh nầy rất sâu”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy rất sáng!”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Những pháp nào thanh tịnh nên thanh tịnh nầy rất sáng?”
Đức Phật nói: “Vì Bát nhã ba la
mật nhẫn đến Đàn na ba la mật thanh tịnh nên thanh tịnh nầy rất sáng. Vì tứ niệm xứ nhẫn đến nhứt thiết chủng trí thanh tịnh nên thanh tịnh nầy rất sáng”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy chẳng tương tục!”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “những pháp nào chẳng tương tục nên thanh tịnh nầy chẳng tương tục?”
Đức Phật nói: “Vì sắc chẳng đi, chẳng tương tục nên thanh tịnh nầy chẳng tương tụ. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí chẳng đi, chẳng tương tục nên thanh tịnh nầy chẳng tương tục”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy vô cấu!”
Đức Phật nói: Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Những pháp nào vô cấu nên thanh tịnh nầy vô cấu?”
Đức Phật nói: “Vì sắc tánh thường thanh tịnh nên thanh tịnh nầy vô cấu. Nhẫn đến vì nhứt thiết chủng trí tánh thường thanh tịnh nên thanh tịnh nầy vô cấu”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh vô đắc, vô trước!” Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Những pháp nào vô đắc, vô trước nên thanh tịnh nầy vô đắc, vô trước?”
Đức Phật nói: “Vì sắc vô cấu, vô trước nhẫn đến vì nhứt thiết chủng trí vô đắc, vô trước nên thanh tịnh nầy vô đắc, vô trước”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy vô sanh!”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những pháp nào vô sanh nên thanh tịnh nầy vô sanh?”
Đức Phật nói: “Vì sắc vô sanh, nhẫn đến vì nhứt thiết chủng trí vô sanh nên thanh
tịnh nầy vô sanh”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Dục giới!”
Đức Phật nói: “vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Dục giới?”
Đức Phật nói: “Dục giới tánh bất khả đắc nên thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Dục giới!”
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Sắc giới!”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Sắc giới?”
Đức Phật nói: “Sắc giới tánh bất khả đắc nên thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Sắc giới”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Vô sắc giới?”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Vô sắc giới?”
Đức Phật nói: “Vô sắc giới tánh bất khả đắc nên thanh tịnh nầy chẳng sanh trong Vô sắc giới“.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thanh tịnh nầy vô tri!”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao thanh tịnh nầy vô tri?”
Đức Phật nói: “Vì các pháp độn nên thanh tịnh nầy vô tri”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Sắc vô tri nên thanh tịnh nầy thanh tịnh!”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao sắc vô tri nên thanh tịnh nầy thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì sắc tự tánh rỗng không nên sắc vô tri mà thanh tịnh nầy thanh tịnh”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thọ, tưởng, hành, thức vô tri nên thanh tịnh nầy thanh tịnh!”
Đức Phật nói: “Vì rốt thanh tịnh vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao thọ, tưởng, hành, thức, vô tri nên thanh tịnh nầy thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì thọ, tưởng, hành, thức tự tánh rỗng không nên thọ, tưởng, hành, thức vô tri mà thanh tịnh nầy thanh tịnh”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả pháp thanh tịnh nên thanh tịnh nầy thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy".
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao tất cả pháp thanh tịnh nên thanh tịnh nầy thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp bất khả đắc nên tất cả pháp thanh tịnh mà thanh tịnh nầy thanh tịnh”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy đối với nhứt thiết trí không làm thêm,
không làm bớt!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy".
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! tại sao đối với nhứt thiết trí, Bát nhã ba la mật nầy không làm thêm, không làm bớt?”
Đức Phật nói: “Vì pháp thường trụ, nên đối với nhứt thiết trí, Bát nhã ba la mật nầy không làm thêm, không
làm bớt.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật thanh tịnh nầy đối với các pháp không chỗ thọ nhận!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy".
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Tại sao Bát nhã ba la mật thanh tịnh đối với các pháp không chỗ thọ nhận?”
Đức Phật nói: “Vì pháp tánh bất động nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh nầy không chỗ thọ nhận đối với các pháp”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh mà rốt ráo thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì ngã vô sở hữu nên sắc vô sở hữu mà rốt ráo thanh tịnh”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Do cớ gì nã thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh mà rốt ráo thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Vì ngã vô sở hữu nên thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu mà rốt ráo thanh tịnh”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên sáu ba la mật, tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì ngã vô sở hữu nên sáu ba la mật nhẫn đến mười tám pháp bất cộng vô sở hữu mà rốt ráo thanh tịnh”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến Phật đạo thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì tự tướng không vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên nhứt thiết trí thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì vô tướng vô niệm vậy?”
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Do hai thanh tịnh nên vô đắc, vô trước là thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì vô cấu, vô tịnh vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngã vô biên nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì rốt ráo không và vô thỉ không vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát có thể biết như vậy thời gọi là đại Bồ Tát Bát nhã ba la mật!”
Đức Phật nói: "Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Tại sao vậy?
Vì biết đạo chủng vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, do sức phương tiện nên nghĩ rằng sắc chẳng biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng biết thọ, tưởng, hành, thức, pháp quá khứ chẳng biết pháp quá khứ, pháp vị lai chẳng biết pháp vị lai, pháp hiện tại chẳng biết pháp hiện tại”.
Đức Phật nói: “Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, do sức phương tiện nên chẳng nghĩ tôi bố thí cho người, cũng chẳng nghĩ rằng tôi trì giới, trì giới như vậy, tôi nhẫn nhục, tu nhẫn nhục như vậy, tôi tinh tấn, tinh tấn như vậy, tôi nhập thiền, nhập thiền như vậy, tôi tu trí huệ, tu trí huệ như vậy, tôi được phước đức, được phước đức như vậy.
Đại Bồ Tát nầy cũng chẳng nghĩ rằng tôi sẽ vào trong bực Bồ Tát, tôi sẽ thanh tịnh Phật độ, thành tựu chúng sanh, tôi sẽ được nhứt thiết chủng trí.
Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát nầy thật hành Bát nhã ba la mật, do phương tiện lực nên không có những nhớ tưởng phân biệt, vì là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhứt nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh
không, chư pháp không, tự tướng không vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Đây gọi là đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, do phương tiện lực nên được vô ngại”.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn hỏi Ngài Tu Bồ Đề: “Thế nào là thiện nam tử cầu Bồ Tát đạo có pháp chướng ngại?”
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Có những thiện nam, thiện nữ cầu Bồ Tát đạo mà nắm lấy tâm tướng. Những là nắm lấy tướng Đàn na ba la mật, nắm lấy tướng Thi la ba la mật nhẫn đến tướng Bát nhã ba la mật, nắm lấy tướng nội không nhẫn đến tướng vô pháp hữu pháp không, nắm lấy tướng tứ niệm xứ nhẫn đến tướng bát thánh đạo, nắm lấy tướng thập lực nhẫn đến tướng mười tám pháp bất cộng, nắm lấy tướng chư Phật, nắm lấy tướng thiện căn của chư Phật gieo trồng. Đem tướng nắm lấy tất cả phước đức hòa hiệp đó hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây là pháp chướng ngại của thiện nam, thiện nữ cầu đạo Bồ Tát.
Dụng pháp trên đây thời chẳng thể vô ngại thật hành Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể hồi hướng, nhẫn đến tướng nhứt thiết chủng trí chẳng hồi hướng.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu giáo hóa cho người đến Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát phải giáo hóa thiệt tướng của tất cả pháp.
Thiện nam, thiện nữ nếu cầu đạo Bồ Tát, lúc thật hành Đàn na ba la mật, chẳng nên phân biệt rằng tôi thí cho, tôi trì
giới, tôi nhẫn nhục, tôi tinh tấn, tôi nhập thiền, tôi trí huệ, chẳng nên phân biệt rằng tôi tu nội không đến tôi tu vô pháp hữu pháp không, tôi tu tứ niệm xứ đến pháp bất cộng nhẫn đến Vô thượng Bồ đề.
Nếu giáo hóa Vô thượng Bồ đề như vậy, thời tự mình không sai lầm cũng như chỗ thuyết pháp của đức Phật, làm cho thiện nam, thiện nữ xa lìa tất cả pháp chướng ngại”.
Đức Phật khen Ngài Tu Bồ Đề: “Lành thay, lành thay!
Đúng như lời của ông nói về những pháp chướng ngại cho chư Bồ Tát.
Nay ông lại lắng nghe tướng chướng ngại vi tế.
Có thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề nắm lấy tướng để tưởng chư Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Những tướng có thể có, thời đều là tướng chướng ngại.
Lại đối với chư Phật, từ lúc phát tâm đến lúc pháp trụ, có bao nhiêu thiện căn, các thiện nam, thiện nữ nầy nắm lấy tướng mà tưởng nhớ, rồi hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Những tướng có được thời đều là tướng chướng ngại.
Lại đối với những thiện căn của chư Phật, của đại đệ tử, của những chúng sanh khác, mà nắm lấy tướng hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Những tướng có được thời đều là tướng chướng ngại.
Tại sao vậy?
Chẳng nên nắm lấy tướng để tưởng niệm chư Phật. Cũng chẳng nên nắm lấy tướng để tưởng niệm thiện căn của chư Phật”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy rất sâu!”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp thường ly vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi phải kính lễ Bát nhã ba la mật”.
Đức Phật nói: “Vì Bát nhã ba la
mật nầy không khởi, không tác nên không ai có thể được”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp cũng chẳng thể biết, chẳng thể được”.
Đức Phật nói: “Tất cả pháp một tánh duy nhứt, chẳng phải hai tánh.
Pháp tánh duy nhứt nầy cũng là vô tánh. Vô
tánh nầy chính là tánh. Tánh nầy chẳng khởi, chẳng tác.
Đúng vậy, nếu đại Bồ Tát biết các pháp một tánh duy nhứt là vô tánh không khởi, không tác, thời xa lìa tất cả tướng chướng ngại”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy khó biết, khó hiểu”.
Đức Phật nói: “Đ0úng như lời ông nói. Bát nhã ba la
mật nầy không người thấy, không người nghe, không người hay, không người biết, không người được”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy chẳng thể nghĩ bàn”.
Đức Phật nói: “Đúng như lời ông nói. Bát nhã ba la
mật nầy chẳng từ tâm sanh, chẳng từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức sanh, nhẫn đến chẳng từ mười tám pháp bất cộng sanh”.
PHẨM VÔ TÁC
THỨ BỐN MƯƠI BA
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy không sở tác!”
Đức Phật nói: “Vì tác giả bất khả đắc. Vì sắc bất khả đắc nhẫn đến tất cả pháp bất khả đắc”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Nếu đại Bồ Tát muốn thật hành Bát nhã ba la mật thời phải thật hành thế nào?”
Đức Phật nói: “Muốn thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng thật hành nơi sắc, chẳng hành nơi thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết chủng trí, thời đó là thật hành Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành thường hay vô thường, thời là thật hành Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành hoặc khổ hoặc vui, thời thật hành Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành là ngã hay chẳng phải ngã, thời thật hành Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành tịnh hay bất tịnh, thời là thật hành Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết chủng trí đây vốn không có tánh, thời thế nào lại có thường, có vô thường, có khổ, có vui, có ngã, có chẳng ngã, có tịnh, có bất tịnh được.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng hành sắc chẳng đầy đủ, nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết chủng trí chẳng đầy đủ, thời là thật hành Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì sắc chẳng đầy đủ thời chẳng gọi là sắc, như đây cũng chẳng hành thời là thật hành Bát nhã ba la mật. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí chẳng đầy đủ thời chẳng gọi là nhứt thiết chủng trí, như đây cũng chẳng hành thời là thật hành Bát nhã ba la mật”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Thật chưa từng có! Đức Thế Tôn khéo nói tướng dạng ngại cùng tướng dạng chẳng ngại của những thiện nam, thiện nữ cầu đạo Bồ Tát”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Phật khéo nói tướng dạng ngại cùng tướng dạng chẳng ngại của những thiện nam, thiện nữ cầu đạo Bồ Tát.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, nếu đại Bồ Tát chẳng hành sắc, chẳng chướng ngại, thời hành Bát nhã ba la mật. Nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết chủng trí, chẳng chướng ngại, thời là hành Bát nhã ba la
mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật như vậy, đại Bồ Tát biết sắc là chẳng chướng ngại, biết thọ, tưởng, hành, thức là chẳng chướng ngại, nhẫn đến biết nhứt thiết chủng trí là chẳng chướng ngại. Biết quả Tu Đà Hoàn là chẳng chướng ngại, nhẫn đến biết đạo Vô thượng Bồ đề là chẳng chướng ngại”,
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Chưa từng có vậy, Bạch đức Thế Tôn!
Pháp thậm thâm nầy, hoặc giảng thuyết, hoặc chẳng giảng thuyết cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Pháp thậm thâm nầy, hoặc nói hoặc chẳng nói cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm.
Nầy Tu Bồ Đề! Như ảo nhơn, lúc khen hay lúc chê
cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm. Lúc khen chẳng mừng, lúc che chẳng lo.
Nầy Tu Bồ Đề! Pháp tướng của các pháp cũng như vậy, lúc nói cũng như bổn không khác, lúc chẳng nói cũng như bổn không khác”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Chỗ làm của chư đại Bồ Tát rất khó. Lúc tu hành Bát
nhã ba la mật nầy, các Ngài chẳng mừng chẳng lo, mà có thể thực tập Bát nhã ba la mật. Cũng chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Bạch đức Thế Tôn! Tu hành Bát nhã ba la mật như tu hành hư không.
Như trong hư không, không có Bát nhã
ba la mật nhẫn đến không có Đàn na ba la
mật. Như trong hư không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có mười tám pháp bất cộng. Như trong hư không, không có quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến đạo Vô thượng Bồ đề. Tu Bát nhã ba la mật cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Tất cả đều nên kính lễ chư đại Bồ Tát có thể đại thệ trang nghiêm nầy.
Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy vì chúng sanh mà đại thệ trang nghiêm chuyên cần tinh tấn, như hư không đại thệ trang nghiêm chuyên cần tinh tấn.
Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy muốn độ chúng sanh như muốn độ hư không.
Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy đại thệ trang nghiêm, như là hư không khắp cả chúng sanh đại thệ trang nghiêm.
Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy đại thệ trang nghiêm muốn độ chúng sanh như là cất hư không lên.
Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy được sức đại tinh tấn, vì muốn độ chúng sanh mà phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy rất dũng mãnh, vì độ chúng sanh đồng như hư không mà phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Bạch đức Thế Tôn! Nếu chư Phật đầy cả trong cõi Đại Thiên như là tre, lau, mía, lúa,
mè, lùm rừng, thường thuyết pháp luôn cả một kiếp hoặc gần một kiếp. Mỗi đức Phật độ vô lượng vô biên vô số chúng sanh làm cho họ nhập Niết Bàn.
Tánh chúng sanh nầy cũng vẫn tăng, chẳng giảm.
Tại sao vậy?
Vì chúng sanh vốn vô sở hữu vậy, là ly vậy.
NHẫn đến chư Phật trong quốc độ mười phương độ chúng sanh, tánh chúng sanh vẫn không tăng, không giảm cũng như vậy.
Do nhơn duyên ấy, bạch đức Thế Tôn! Tôi nói rằng chư đại Bồ Tát nầy vì muốn độ chúng sanh mà phát tâm
Vô thượng Bồ đề, là muốn độ hư không.
Bấy giờ có một Tỳ Kheo nói rằng: Tôi phải đảnh lễ Bát nhã ba la mật.
Trong Bát nhã ba la mật dầu không pháp sanh, không
pháp diệt, mà có chúng chánh giới, có chúng chánh định, có chúng chánh huệ, có chúng giải thoát, có chúng giải thoát trí kiế. Mà có các bực Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La
Hán, Bích Chi Phật, chư Phật. Mà có Phật Bửu, Pháp Bửu, Tỳ Kheo Tăng Bửu. Mà có chuyển pháp luân”.
Lúc đó Thiên Đế hỏi Ngài Tu Bồ Đề: “Nếu đại Bồ Tát tu tập Bát nhã ba la mật là tu tập pháp gì?”
Ngài Tu Bồ Đề bảo Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! đại Bồ Tát nầy tu tập Bát nhã ba la mật là tu tập không”.
Thiên Đế bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nầy và thân cận, đọc tụng, giải thuyết, chánh ức niệm, thời tôi phải thủ hộ những gì?”
Ngài Tu Bồ Đề hỏi Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! Ngài có pháp
gì có thể thủ được chăng?”
Thiên Đế nói: “Không! Bạch Đại Đức! Tôi chẳng thấy pháp gì có thể thủ hộ được”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu thiện nam, thiện nữ tu hành đúng như lời Phật dạy trong Bát nhã ba la mật, thời chính là thủ hộ. Nghĩa là thường tu hành đúng như lời Phật dạy trong Bát nhã ba la mật mà chẳng xa rời, thời hoặc người hay phi nhơn không làm hại được thiện nam, thiện nữ nầy.
Phải biết rằng thiện nam, thiện nữ nầy chẳng xa rời Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu ai muốn thủ hộ hàng Bồ Tát tu hành Bát nhã ba la mật, thời là muốn thủ hộ hư không.
Nầy Kiều Thi Ca! Ý Ngài nghĩ
sao? Ngài có thể thủ hộ mộng, diệm, ảnh, hưởng, ảo, hóa được chăng?”
Thiên Đế nói: “Không thể thủ hộ được”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu ai muốn thủ hộ chư Bồ Tát tu hành Bát nhã ba
la mật thời cũng như vậy. Chỉ luống nhọc nhằn thôi.
Nầy Kiều Thi Ca! Ngài có thể thủ hộ chỗ biến hóa của chư Phật chăng?”
Thiên Đế nói: “Tôi chẳng thủ hộ được”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu ai muốn thủ hộ chư Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật thời cũng như vậy.”
Nầy Kiều Thi Ca! Có thể thủ hộ pháp tánh, thiệt tế, pháp như, bất tư nghì tánh chăng?”
Thiên Đế nói: “Không thể thủ hộ được”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu có ai muốn thủ hộ chư Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật thời cũng như vậy”.
Thiên Đế hỏi: “Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Thế nào đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật thấy biết các pháp như mộng, như diệm, như ảnh, như ảo, như hóa? Thế nào chư đại Bồ Tát như chỗ mình thấy biết nên chẳng quan niệm mộng, chẳng quan niệm là mộng, chẳng quan niệm dùng mộng, chẳng quan niệm tôi mộng?
Như mộng với diệm, ảnh, hưởng, ảo và hóa cũng vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, chẳng quan niệm sắc, chẳng quan niệm là sắc, chẳng quan niệm dùng sắc, chẳng quan niệm sắc với tôi, thời đại Bồ Tát nầy cũng có thê chẳng quan niệm mộng, chẳng quan niệm là mộng, chẳng quan niệm dùng mộng, chẳng quan niệm tôi mộng, nhẫn đến ảo và hóa cũng vậy.
Nếu đại Bồ Tát nhẫn đến nhứt thiết trí, chẳng quan niệm nhứt thiết trí, chẳng quan niệm là nhứt thiết trí, chẳng quan niệm dùng nhứt thiết trí, chẳng quan niệm nhứt thiết trí của tôi, thời đại Bồ Tát cũng có thể nhẫn đến chẳng quan niệm hóa, chẳng quan niệm là hóa, chẳng quan niệm dùng hóa, chẳng quan niệm hóa của tôi.
Nầy Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát như vậy biết các pháp như mộng, như diệm, như ảnh, như hưởng, như ảo, như hóa”.
Bấy giờ do thần lực của Phật, nên trong Đại thiên thế giới, các hàng Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời đâu Suất, Trời Hóa lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Phạm Thiên, Trời Phạm Phụ, Trời Phạm Chúng, Trời Đại Phạm, Trời Thiểu Quang, nhẫn đến Trời Tịnh Cư, tất cả những hàng Trời nầy đem hương chiên đàn cõi Trời vói rải trên đức Phật, cùng nhau đến chỗ Phật, đầu mặt lạy chơn Phật, rồi đứng qua một phía.
Do thần lực của Phật, nên những hàng Trời nầy đều thấy ngàn đức Phật phương Đông thuyết pháp, cùng tướng dạng như vậy, danh hiệu như vậy, giảng nói phẩm Bát nhã ba la mật nầy, chư Tỳ Kheo đều tên Tu Bồ Đề, người gạn hỏi phẩm Bát nhã ba la mật đều tên Thích đề Hoàn Nhơn.
Như phương Đông, chín phương kia cũng đều hiện ngàn đức Phật như vậy.
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Thời kỳ Di Lặc Đại Bồ Tát chứng Vô thượng Bồ đề chánh đẳng Chánh giác, cũng sẽ nói Bát nhã ba la mật tại chỗ nầy. Chư đại Bồ Tát trong Hiền kiếp, lúc chứng Vô thượng Bồ đề cũng ở tại chỗ nầy mà nói Bát nhã ba la mật”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc Ngài Di Lặc Bồ Tát thành Phật, dùng tướng gì, nhơn gì, nghĩa gì mà nói nghĩa Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Lúc Di Lặc Bồ Tát chứng Vô thượng Bồ đề sẽ thuyết pháp như vầy:
Sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.
Sắc chẳng phải khổ, chẳng phải lạc.
Sắc chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã.
Sắc chẳng phải phải tịnh, chẳng phải bất tịnh.
Sắc chẳng phải hệ phược, chẳng phải giải thoát.
Sắc chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Sắc rốt ráo thanh tịnh.
Thọ, tưởng, hành và thức nhẫn đến nhứt thiết trí cũng như vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Nếu sắc chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, thời gọi là sắc thanh tịnh. Nếu thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, thời gọi là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì hư không thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào vì hư không thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Vì hư không chẳng sanh, chẳng diệt nên thanh tịnh. Bát nhã ba la mật cũng vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc chẳng nhiễm ô nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng nhiễm ô nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Nầy Tu Bồ Đề! Như hư không chẳng thể nắm lấy được nên hư không thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì hư không có thể thuyết minh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Nhơn trong hư không hai âm thanh xuất phát.
Như hư không, vì Bát nhã ba la
mật có thể thuyết minh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì hư không chẳng thể thuyết minh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Như hư không vì không chỗ thuyết minh được nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Lại như hư không vì chẳng thể được nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Như hư không vì không chỗ được nên hư không thanh tịnh, Bát nhã ba la mật cũng không chỗ được nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì tất cả pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.
Tại sao vậy?
Vì tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nầy và gần gũi, chánh ức niệm, thời trọn chẳng mắc bịnh, nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân cũng trọn chẳng bịnh, thân không tàn tật cũng chẳng suy già, chẳng hoạnh tử, vô số hàng chư Thiên, từ Trời Tứ Thiên Vương đến Trời Tịnh Cư thảy đều đi theo nghe học. Mỗi tháng đến sáu ngày trai: mùng tám, mưới bốn, mười lăm, hai mươi ba, hai mươi chín và ngày ba mươi, tại chỗ thiện nam, thiện nữ nầy làm pháp sư, giảng thuyết Bát nhã ba la mật, chư Thiên chúng hội đều vân tập đến. Ở giữa đại chúng, thiện nam, thiện nữ giảng thuyết Bát nhã ba la mật nầy được vô lượng vô biên vô số bất khả tư nghì, bất khả xưng lượng phước đức”.
Đức Phật nói: “Đúng như lời Tu Bồ Đề nói. Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật là đại trân bửu.
Những gì là đại trân bửu?
Bát nhã ba la mật nầy có thể nhổ được sự bần cùng của Địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ và trong loài người. Bát nhã ba la mật nầycó thể ban cho hào tộc đại tánh Sát Lợi, Bà La Môn, Cư Sĩ, ban cho cõi Trời Tứ Vương đến Phi Phi Tưởng, ban cho quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Vô thượng Bồ đề.
Tại sao vậy?
Vì trong Bát nhã ba la
mật nói rộng về thập thiện, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, bát thánh đạo phần, Đàn na ba la mật, Thi la ba la mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, Thiền na ba la mật, Bát nhã ba la mật, thập bát không, thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí.
Học theo đây thời xuất sanh đại tánh Sát Lợi, đại tánh Bà La Môn, đại tánh Cư Sĩ, Trời Tứ Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Phạm Chúng, Trời Phạm Phụ, Trời Phạm Vương, Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang, Trời Quang Âm, Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh, Trời Biến Tịnh, Trời Vô Vân, Trời Phước Sanh, Trời Quảng Quả, Trời Vô Tưởng, Trời Vô Phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện Kiến, Trời Thiện Hiện, Trời Sắc Cứu Cánh, Trời Không Vô Biên Xứ, Trời Thức Vô Biên Xứ, Trời Vô Sở Hữu Xứ, Trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.
Học trong pháp nầy thời được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, A La Hán đạo Bích Chi Phật, đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì thế nên Bát nhã ba la mật gọi là đại trân bửu.
Trong trân bửu ba la mật, không pháp gì có thể được là hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc cấu, hoặc tịnh, hoặc lấy, hoặc bỏ.
Trong trân bửu ba la mật cũng không có pháp hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi.
Vì thế nên gọi là vô sở đắc trân bửu ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Trân bửu ba la mật nầy không có pháp gì làm ô
nhiễm được
Tại sao vậy?
Vì chỗ dùng nhiễm pháp là bất khả đắc.
Vì thế nên gọi là vô niễm trân bửu ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật, cũng chẳng biết như vậy, chẳng phân biệt như vậy, cũng bất khả đắc như vậy, chẳng hí luận như vậy. Đây là có thể tu hành Bát nhã ba la mật, cũng có thể kính lễ chư Phật, từ một cõi Phật đến một cõi Phật để cúng dường, cung kính tán thán chư Phật, đi đến các cõi Phật để thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.
Nầy Tu Bồ Đề! Đối với các pháp, Bát nhã ba la mật nầy không có năng lực, không chẳng phải năng lực, cũng không lãnh thọ, không ban cho, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng thêm, chẳng bớt.
Bát nhã ba la mật nầy cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng bỏ cõi Dục, Cõi Sắc, cõi Vô sắc, cũng chẳng trụ cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Bát nhã ba la mật nầy chẳng ban cho Đàn na ba la mật đến Thiền na ba la mật và Bát nhã ba la mật, cũng chẳng bỏ Đàn na ba la mật đến Thiền na ba la mật và Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho nội không đến vô pháp hữu pháp không cũng chẳng bỏ, chẳng cho tứ niệm xứ đến bát thánh đạo cũng chẳng bỏ, chẳng cho thập lực đến thập bát bất cộng pháp cũng chẳng bỏ, chẳng cho quả Tu Đà Hoàn đến nhứt thiết trí cũng chẳng bỏ.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho pháp A La Hán, chẳng bỏ pháp phàm phu, chẳng cho pháp Bích Chi Phật, chẳng bỏ pháp A La Hán, chẳng cho Phật pháp, chẳng bỏ Bích Chi Phật.
Bát nhã ba la mật nầy cũng chẳng cho pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi.
Tại sao vậy?
Vì hoặc có Phật, những pháp tướng nầy luôn thường trụ không khác, vì pháp tướng, pháp trụ, pháp vị thường trụ chẳng sai, chẳng mất vậy”.
Bấy giờ chư Thiên đứng trong hư không vui mừng hớn hở phát âm thanh lớn, đem hoa âu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi rải lên trên đức Phật mà nói rằng ở Diêm Phù Đề chúng tôi thấy pháp luân chuyển lần thứ hai.
Trong đây có vô lượng trăm ngàn Thiên Tử được vô sanh pháp nhẫn.
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Pháp luân nầy chuyển, chẳng phải chuyển lần thứ nhứt, chẳng phải chuyển lần thứ hai.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng do chuyển, chẳng do hườn mà xuất hiện, vì vô pháp hữu pháp rỗng không vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! thế nào vì vô hữu pháp rỗng không nên Bát nhã ba la mật chẳng do chuyển, chẳng do hườn mà xuất hiện?”
Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Bát nhã ba la mật Bát nhã ba la mật tướng rỗng không nhẫn đến Đàn na ba la mật Đàn na ba la mật tướng rỗng không, nội không nội không tướng rỗng không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vô pháp hữu pháp không tướng rỗng không, tứ niệm xứ tứ niệm xứ tướng rỗng không nhẫn đến bát thánh đạo bát thánh đạo tướng rỗng không, Phật thập lực thập lực tướng rỗng không nhẫn đến mười tám pháp bất cộng pháp bất cộng tướng rỗng không, quả Tu Đà Hoàn quả Tư Đà Hàm tướng rỗng không nhẫn đến nhứt thiết trí nhứt thiết trí tướng rỗng không”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật của chư đại Bồ Tát là Ma ha Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Dầu tất cả pháp, tự tánh rỗng không, nhưng chư đại Bồ Tát nhơn nơi Bát nhã ba la mật mà được Vô thượng Bồ đề, cũng không có pháp được huyển pháp luân, cũng không
có pháp chuyển được, cũng không có pháp hườn được.
Trong Ma ha Bát nhã ba
la mật nầy cũng không có pháp thấy được.
Tại sao vậy?
Pháp nầy không có được hoặc huyển hoặc hườn, vì tất cả pháp rốt ráo chẳng sanh vậy.
Tại sao vậy?
Vì tướng không nầy, tướng vô tướng nầy, tướng vô tác nầy chẳng chuyển được, chẳng hườn được.
Nếu giải thuyết Bát nhã ba la mật được như vậy, có thể giảng dạy, khai thị, phân biệt rành rẽ, giải thích cặn kẽ, thời gọi là thanh tịnh giải thuyết Bát nhã ba la mật. Cũng không người nói, cũng không người nghe, cũng không người chứng.
Nếu không nói, không nghe, không chứng, thời cũng không diệt mất.
Trong thuyết pháp nầy, cũng không phước điền quy định”.
PHẨM KHẮP CA NGỢI TRĂM BA LA MẬT
THỨ BỐN MƯƠI BỐN
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Vô biên ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì như hư không vô biên vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bình đẳng ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì các pháp bình
đẳng vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Ly ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì rốt ráo rỗng không vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất hoại ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Không bỉ ngạn ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì không danh,
không thân vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Không đại chủng ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì thở ra, thở vào bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất khả thuyết ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì giác quán bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô danh ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất khứ ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp bất lai vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Không di chuyển ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp không thể nép phục vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tận ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp rốt ráo tận vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất sanh ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp bất diệt vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất diệt ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp bất sanh vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô tác ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tác giả bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô tri ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tri giả bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất đáo ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì sanh tử bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất thất ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng mất vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Mộng ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì nhẫn đến những sự thấy trong mộng đều bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Hưởng ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì người nghe tiếng bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Ảnh ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì bóng mặt trong gương bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Dương diệm ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì dòng nước bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Ảo ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì sự ảo thuật bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất cấu ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì các phiền não bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô tịnh ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì các phiền não hư dối vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất ô ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì xứ sở bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất hí luận ba la mật là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Vì tất cả hí luận phá hoại vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất niệm ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả niệm phá hoại vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất động ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì pháp tánh thường trụ vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô nhiễm ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì biết tất cả pháp vọng giải vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất khởi ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp vô phân biệt vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tịch diệt ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp tướng bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô dục ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì dục bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô sân ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì sân khuể bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô si ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì vô minh hắc ám dứt diệt vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô phiền não ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì phân biệt ức tưởng hư vọng vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô chúng sanh ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì chúng sanh vô
sở hữu vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô đoạn ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các pháp chẳng sanh khởi vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô nhị biên ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì không nhị biên vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất phá ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng rời lìa nhau vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất thủ ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì vượt hơn bực Thanh văn, Bích Chi Phật vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bất phân biệt ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các vọng tưởng bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô lượng ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các pháp hạn lượng bất khả đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Hư không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cà pháp vô sở hữu vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô thường ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô tướng ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng sanh vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Nội không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì nội pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Ngoại không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì ngoại pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Nội ngoại không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì nội ngoại pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Không không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì pháp không
không bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Đại không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Đệ nhứt nghĩa không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì Niết Bàn bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Hữu vi không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì pháp hữu vi bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô vi không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “vì pháp vô vi bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tất cánh không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô thỉ không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì các pháp vô
thỉ bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tánh không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì tán pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tánh không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: “Vì hữu vi vô vi tánh bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Chư pháp không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô sở đắc không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì vô sở hữu vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tự tướng không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì vô pháp
bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “hữu pháp không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì hữu pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô pháp hữu pháp không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì vô pháp
và hữu pháp đều bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Niệm xứ ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì thân, thọ, tâm và pháp bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Chánh cần ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì pháp thiện và pháp bất thiện bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Như ý túc ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì bốn như ý túc bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Căn ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì ngũ căn
bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Lực ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì ngũ lực bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Giác ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì thất giác phần bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Đạo ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì bát
thánh đạo phần bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô tác ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì vô tác bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Không ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì không tướng bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô tướng ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tướng tịch diệt bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bội xả ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì bất bội xả bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Định ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì cửu thứ đệ định bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Đàn na ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì xan tham
bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Thi la ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì phá giới bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Sằn đề ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì nhẫn và chẳng nhẫn đều bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tỳ lê gia ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì giải đãi và tinh tấn đều bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Thiền na ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì định và loạn đều ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bát nhã ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì ngu si
và trí huệ đều bất khả đắc vậy".
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Thập lực ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tất cả pháp chẳng thể khuất phục vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tứ vô sở úy ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì đạo chủng trí chẳng mất vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Vô ngại trí ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tất cả pháp không chướng, không ngại vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Phật pháp ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì vượt hơn tất cả pháp vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Như thiệt thuyết ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tất cả lời nói đều như thiệt vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Tự nhiên ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì tự tại trong tất cả pháp vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Phật ba la mật là Bát nhã ba la mật?"
Đức Phật nói: "Vì biến nhứt thiết chủng trí vậy”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Bát-Nhã
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment