GIỚI, ĐỊNH, HUỆ thoát Ta-bà
TÍN, NGUYỆN, HẠNH sanh Cực-lạc
( Một câu “NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”,
bao gồm GIỚI, ĐỊNH, HUỆ thoát TA-BÀ
và TÍN,
NGUYỆN, HẠNH sanh CỰC-LẠC)
HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH
PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM
NGÃ KIM TRÌ NIỆM A-DI-ĐÀ
TỨC PHÁT “BỒ-ĐỀ” QUẢNG ĐẠI NGUYỆN
NGUYỆN NGÃ ĐỊNH-HUỆ TỐC VIÊN MINH
NGUYỆN NGÃ CÔNG-ĐỨC GIAI THÀNH TỰU
NGUYỆN NGÃ THẮNG-PHƯỚC BIẾN TRANG-NGHIÊM
NGUYỆN CỘNG CHÚNG-SANH THÀNH PHẬT ĐẠO
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
Tâm tiếng hiệp khắn nhau (Hạ Thủ Công Phu)
Thường niệm cho rành rõ
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ (Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
Nhất tâm Phật hiện tiền (Sự Nhất Tâm)
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm (Lý nhất Tâm)
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
Cầu đài sen thượng phẩm (Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
...........
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Giảng Sư
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
MP3
Giảng Sư
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
KINH PHẠM VÕNG pdf
PHẨM BỒ TÁT TÂM ĐỊA
PHẦN DƯỚI
LỜI NÓI ĐẦU
KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI
I. LỜI KHAI GIẢNG
II. PHẦN KHAI KINH
III. PHẦN QUY KÍNH
IV. PHẦN XƯỚNG THỜI GIAN
V. PHẦN KHUYẾN TẤN
PHẦN NGUYÊN VĂN CỦA KINH
I. LÔ XÁ NA PHẬT
II. THÍCH CA MÂU NI PHẬT
III. ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ-TÁT GIỚI
IV. MƯỜI GIỚI TRỌNG
1.- Giới sát sanh
2.- Giới trộm cướp
3.- Giới dâm
4.- Giới vọng
5.- Giới bán rượu
6.-Giới rao lỗi của tứ chúng
7.- Giới tự khen mình chê người
8.- Giới bỏn sẻn thêm mắng đuổi
9.- Giới giận hờn không nguôi
10.- Giới hủy-báng Tam-Bảo
V. ĐỨC PHẬT KẾT RĂN
VI. 48 ĐIỀU GIỚI KHINH
1.- Giới không kính thầy bạn
2.- Giới uống rượu
3.- Giới ăn thịt
4.- Giới ăn ngũ-tân
5.- Giới không dạy người sám tội
6.- Giới không cúng dường thỉnh Pháp
7.- Giới không đi nghe Pháp
8.- Giới có tâm trái bỏ Đại-Thừa
9.- Giới không khán bịnh
10.- Giới chứa khí cụ sát-sanh
11.- Giới đi sứ
12.- Giới buôn bán phi pháp
13.- Giới hủy-báng
14.- Giới phóng hỏa
15.- Giới dạy giáo-lý ngoài Đại-Thừa
16.- Giới vì lợi mà giảng pháp lộn lạo
17.- Giới cậy thế-lực quyên tởi (GÓP)
18.- Giới không thông hiểu mà làm thầy truyền giới
19.- Giới lưỡng thiệt ( Lưỡi đôi chiều )
20.- Giới không phóng-sanh
21.- Giới đem sân báo sân đem đánh trả đánh
22.- Giới kiêu mạn không thỉnh Pháp
23.- Giới khinh ngạo không tận tâm dạy
24.- Giới không tập học Đại-Thừa
25.- Giới tri-Chúng vụng về
26.- Giới riêng thọ lợi dưỡng
27.- Giới thọ biệt thỉnh
28.- Giới biệt thỉnh Tăng
29.- Giới tà mạng nuôi sống
30.- Giới quản-lý cho Bạch-Y
31.- Giới không mua chuộc
32.- Giới tổn hại chúng-sanh
33.- Giới tà nghiệp giác quán
34.- Giới tạm bỏ Bồ-Đề tâm
35.- Giới không phát nguyện
36.- Giới không phát thệ
37.- Giới vào chỗ hiểm nạn
38.- Giới trái thứ tự tôn ty
39.- Giới không tu phước-huệ
40.- Giới không bình đẳng truyền giới
41.- Giới vì lợi làm thầy
42.- Giới vì người ác giảng giới
43.- Giới cố mống tâm phạm giới
44.- Giới không cúng-dường Kinh-Luật
45.- Giới không giáo hóa chúng-sanh
46.- Giới thuyết-Pháp không đúng Pháp
47.- Giới chế hạn phi pháp
48.- Giới phá diệt Phật-Pháp
VII. TỔNG KẾT
VIII. LƯU THÔNG
IX. KỆ KHEN TẶNG PHÁP GIỚI
X.- PHẦN HỒI-HƯỚNG
Trên Liên-Hoa-Tạng
Đức Xá-Na Tôn
Lược giảng Tâm-Địa Pháp-môn này
Truyền lại chư Thế-Tôn
Khinh, Trọng phân rành
Tất cả được nhờ ân
KIẾT KINH KỆ
Trời, A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp phải hết lòng
Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục mặc che thân
Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.
Nam-Mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát ( 3 lần )
Ma-Ha-Tát ( 1 lần )
CHUNG
Giảng Sư
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
KINH PHẠM VÕNG MP3
Giới, Định, Huệ thoát Ta-bà
Tín, Nguyện, Hạnh sanh Cực Lạc
Lời Đầu Sách
Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh, viện chủ chùa Vạn
Đức, là một bậc Tòng Lâm Thạch Trụ, đã phiên dịch nhiều bộ
kinh lớn, khiến cho giáo nghĩa Đại thừa được lưu thông, Phật
pháp được lưu truyền trong tứ chúng. Những vị Tăng
tài tiếp nhận sự giáo hóa của Ngài rất đông. Ngài tinh
thông cả Thiền – Giáo, nhưng chỗ thực hành và khuyến tấn người
chính là Pháp môn Trì danh niệm Phật.
Năm 1955, Hòa Thượng mở hội niệm Phật tại
chùa Vạn Đức, lấy tên là Cực Lạc Liên Hữu, xiển dương pháp
môn Tịnh Độ. Lời khai thị của Hòa Thượng bình dị, không chuộng
cao siêu, chú trọng ở chỗ chân thật công phu tu hành. Với tâm
từ bi, Hòa Thượng luôn luôn ân cần nhắc nhở Tăng
Ni, Phật tử phải nhớ quán vô thường để được tinh tấn trong
việc tu hành, không nên bỏ phí thời gian; giữ gìn giới luật, thực
hành ăn chay, phóng sanh, niệm Phật cầu sanh Tây
Phương nhằm thoát khỏi sinh tử luân hồi, thẳng tiến đến quả
vị Phật.
Chúng tôi nhận thấy điều quý báu trên
nên đã sưu tập những buổi nói chuyện, những bài thuyết pháp, cùng trích dẫn
những trước tác của Ngài, tập hợp thành sách lấy tựa đề là “Hương Sen Vạn Đức”. Chúng
tôi với chỉ tâm nguyện góp một phần nhỏ trong việc lưu
truyền chánh pháp của Đức Phật nói chung và pháp môn Tịnh
độ nói riêng, nhằm giúp cho mọi người nhận rõ giá trị chân
thật của phápTrì danh niệm Phật. Từ đó, mạnh mẽ tinh tấn tu
hành, không nghi ngờ, không do dự, thẳng bước về Cực Lạc.
Chúng tôi xin tri ân ĐĐ. Thích Chân
Tính (Trụ trì chùa Hoằng Pháp), Thầy Pháp Đăng… cùng chư
Pháp hữu đã tận tâm giúp đỡ để quyển sách này được hoàn
thành.
Việc lành này, nguyện hồi hướng đến bốn
ơn ba cõi, khắp cả chúng sanh trong pháp giới đồng
tu Tịnh độ, đồng sanh Tây Phương, đồng thành Phật đạo.
Nam mô A-di-đà Phật!
Chùa Vạn Đức
Ngày 08 tháng 02 Bính Tuất (2006)
Tỷ kheo Thích Hoằng Tri kính ghi
TIỂU SỬ
HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
Hòa thượng pháp danh là Thiện Chánh, tự Trí Tịnh, pháp hiệu Hân Tịnh, húy Nhựt Bình, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41. Là đệ tử của Hòa Thượng: Thượng Thiện Hạ Quang, khai sơn chùa Vạn Linh ở núi Cấm, Châu Đốc. Hòa thượng thế danh là Nguyễn Văn Bình, sanh ngày 17 tháng 10 năm 1917 (02/09 năm Đinh Tỵ), tại xã Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng), huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp), là con út trong gia đình có sáu anh chị em.
Thân phụ Ngài là ông Nguyễn Văn Cân, một nông
dân chơn chất. Cụ ông qua đời lúc Hòa thượng mới lên ba tuổi. Thân
mẫu là bà Nguyễn Thị Truyện, mất lúc Hòa thượng vừa được bảy tuổi.
Vì mồ côi cả cha lẫn mẹ quá sớm, nên Hòa thượng ở với người
anh thứ ba là ông Nguyễn Văn Đặng (nay đã qua đời). Hòa thượng có ba
chị gái: thứ hai, thứ năm và thứ sáu. Người thứ tư thì mất sớm.
Đến năm 10 tuổi, Hòa thượng mới vào học lớp
năm (thời đó, lớp năm là lớp thấp nhất). Hòa thượng rất thông
minh, vừa học vừa dạy lại các cháu. Ban đêm còn đọc truyện Tàu cho mọi người nghe.
Đúng 15 tuổi, Hòa thượng học đến lớp đệ thất, rồi sang học chữ Nho với
người chú và học thuốc Bắc với người anh họ.
Hòa thượng thấy cảnh lục đục của gia
đình anh chị nên có ý xuất ly thế tục. Từ đây, Hòa thượng bắt
đầu tìm hiểu đến các tôn giáo như Thiên Chúa, Cao Đài,
Thông Thiên Học v.v... và đặc biệt quan tâm đến Phật giáo,
vì chủ thuyết của các tôn giáo kia có nhiều điểm Hòa thượng không thỏa
mãn được. Từ đó, Hòa thượng âm thầm tập niệm Phật, trì
chú, và quán từ bi. Ngài đến các chùa, đa số thấy quý thầy chú
trọng về việc làm đồ mã, cúng bái, đi đám.
Trên bàn thờ thì tối om, thờ nhiều tượng, tượng
nào cũng đội khăn đỏ trông phát sợ nên không có cảm tình lắm. Hòa
thượng cho rằng, các vị cao Tăng có lẽ ẩn dật nơi non
cao núi thẳm, nên có ý hoài vọng các chùa trên núi.
Năm 18 tuổi, Hòa thượng bắt đầu ăn chay trường.
Ứng theo điềm chiêm bao, Hòa thượng thấy có một ông già bảo rằng:
"Con có căn tu, phải cần tìm thầy học đạo thì sẽ được như trong
sách ước", ông già còn bảo thêm: "Chừng nào cọp chết, rắn mới về
non" (Hòa thượng tuổi Ty).
Năm 1937, lúc Hòa thượng 21 tuổi, cùng người
bạn lên Sài Gòn lập nghiệp, ở chung nhà trọ. Nhà ấy có một người
đi chơi ở Tây Ninh về mua được một con cọp con, đem về nuôi được chín, mười
ngày thì nó chết. Ứng điềm chiêm bao, Hòa thượng liền thu xếp tìm
đường xuất gia. Trước đó, tuy đã có ý định xuất thế cho sớm
nhưng còn người chị thứ sáu chưa lập gia đình nên không nỡ bỏ đi. Nay
bà chị đã yên bề gia thất, Hòa thượng yên tâm ra đi, để lại cho
các anh chị mỗi người một lá thư và một tấm hình.
Hòa thượng đi thẳng lên núi Cấm, vì trước đã
nghe có nhiều vị chân tu trên núi ấy. Vừa đến chân núi, vì quá vui
mừng nên quăng cả giày dép. Hòa thượng nhảy từ tảng đá này qua tảng
đá khác và nguyện ghé lại ngôi chùa nào trước thì sẽ xuất gia ở đó,
dù chưa biết chùa đó tên gì, trụ trì là ai. Và rồi nhân duyên đưa
Ngài đến ngôi chùa Vạn Linh, là một ngôi chùa ở xa và cao nhất. Hòa
thượng vào chùa xin xuất gia.
Lúc đó, Hòa thượng trụ trì không ở
trong chùa mà ở thất riêng ngoài bìa rừng, chỉ khi nào có việc thì sau giờ Tịnh
độ mời vào dạy bảo Tăng chúng ít lời. Hôm ấy là tối 14
tháng 02 năm Đinh Sửu, ngày Sám hối giữa tháng. Sau giờ Sám hối,
chúng ra thưa, Hòa thượng trụ trì vào, Hòa thượng trụ
trì nhìn sững Hòa Thượng hồi lâu rồi mới nói rồi mới nói với đại
chúng: "Bay đừng khinh thường thằng này. Đời trước nó đã làm Hòa thượng,
đời nay nó cũng làm Hòa thượng, nhưng vì có tội hay nhìn con gái nên đời
này bị bệnh mắt suốt đời. Thế là hôm sau, Hòa Thượng được thế
phát vào ngày vía Phật nhập Niệt bàn.
Sau khi xuất gia, Hòa thương lãnh việc viết sớ điệp. Hòa
Thượng trụ trì cho Ngài ở cái thất nhỏ trong vườn chùa. Ngoài các việc
và thời khóa trong chùa, Hòa Thượng còn ra thất tụng kinh và
làm bổn phận hết sức cần mẫn. Ngài hành khổ hạnh như nhịn
ăn, ít ngủ, đến đổi Hòa Thượng trụ trì phải cảnh cáo. Có
lúc đang ăn, vì quá để tâm đến sự tu nên rơi chén lúc nào mà không
hay.
Nhận được tạp chí Từ Bi Âm, Hòa Thượng phát
khởi ý nguyện học rộng Phật Pháp. Cuối năm 1939, Hòa
Thượng xin phép Hòa Thượng trụ trì xuống núi về Saigon để
tìm học kinh luật.
Về đến Saigon, Hòa Thượng cùng thầy Thiện
Phước ra núi Thị Vải tìm chỗ thích hợp để cất thất. Sau cùng, tìm được
một điểm tương đối tốt gần chùa Tổ (nay là Linh Sơn Bửu Thiền).
Trong chùa có cho mượn dụng cụ đốn cây và dẫn nước về. Thời gian đó
chưa có ai ở nhiều, nên sơn lam chướng khí rất nặng. Vì thế, chẳng mấy
hôm, Hòa Thượng và thầy Thiện Phước đều bị bệnh sốt rét, lên cữ từng
cơn. Thấy không kham nổi nên hai người đồng xuống chân núi. Thầy Thiện Phước
thì tá túc nơi am của bà Năm, Hòa Thượng thì tá túc nơi
hang đá của bà Bảy. Vài hôm sau, thầy Thiện Phước tịch.
Hòa Thượng bèn về Saigon tá túc ở
chùa Tịnh Độ, Gò Vấp. Chùa này do ông Tư Lành làm xếp ga xây dựng lên.
Nhà ông ở phía trước, chùa xây phía sau có thỉnh quí thầy để trụ trì. Hòa
Thượng đến bệnh viện Saigon để điều trị nhưng cũng chẳng thuyên
giảm. Thấy vậy, Ngài tự nguyện với lòng: “Có chết như huynh Thiện Phước cũng chẳng
sao”. Thế nên, không quan tâm đến việc trị bệnh nữa mà phát tâm tả
kinh Pháp Hoa. Có một Phật tử biết tâm nguyện của Hòa
Thượng, giúp tìm mua giấy mực.
Đến ngày 14 tháng 10 là tả xong. Đúng hôm ấy, trong
khi gởi để đóng lại thành quyển, chưa đem về thì có ông Mười là bổn đạo trong
chùa đến nói với Hòa Thượng: “Tôi biết có ông thầy kia trị bệnh sốt rét
hay lắm, để tôi đưa huynh đến đó xem sao!”.
Ông bèn lấy xe đạp chở Hòa Thượng đến đó.
Ông thầy thuốc không có nhà riêng, ở đậu nhà người ta mà làm thuốc. Sau khi hỏi
bệnh trạng và giờ lên cữ, ông nói bệnh nặng lắm vì lên cữ khuya. Ông vào nhà
sau, một lúc đem ra cục thuốc để trên miếng giấy, quan sát thì Hòa
Thượng biết có ớt và tỏi đâm chung. Ông bảo trước khi lên cữ nửa tiếng, lấy
tay mặt với ra sau lưng, từ trên cổ lần xuống hết ngón tay giữa chấm chỗ nào
thì đó là huyệt cao quan, lấy cục thuốc ịn vào đó (cục thuốc được để trên miếng
giấy mỏng chừng 3 ngón tay), rồi cứ ngồi ngay ngắn chờ. Hòa Thượng về
làm y như vậy. Nửa tiếng sau khi ịn cục thuốc, cơn sốt rét bắt đầu
kéo đến. Như mọi lần, nó bắt đầu từ xương khu quặn lên như con rắn bò, đến cục
thuốc nó dừng lại và quặn vòng quanh đó dữ lắm rồi lại ngưng, làm như vậy ba lần
rồi ngưng luôn. Từ đó căn bệnh sốt rét dứt hẳn.
Sau khi hết bệnh, Hòa Thượng ở lại chùa đó một thời
gian ngắn nữa. Về sau, có người em gái họ đã xuất gia, Pháp danh là Diệu
Trí ghé thăm. Cô ấy có khoe với Hòa Thượng là được học kinh này
kinh nọ và khuyên Hòa Thượng nên tìm học. Lúc bấy giờ, chỉ có trường
An Nam Phật Học mở ở chùa Báo Quốc tại Huế, trong tâm Hòa
Thượng khởi ý đi Huế từ đó.
Đầu năm 1940, Hòa Thượng về lại Cái Tàu để
xin giấy ra Huế học, nhưng chính quyền không cho, bảo Hòa Thượng phải
ở lại năm bảy tháng mới cấp giấy. Hòa Thượng không chờ được nên lên
Saigon tìm cơ hội để đi, được một thí chủ là ba Ba Hộ (chủ
đất chùa Vạn Đức) cúng dường 15 đồng làm lộ phí. Đúng ra, đi tàu
suốt đến Huế thì khỏe hơn, nhưng bấy giờ, Huế thuộc vùng bảo hộ của
Pháp, còn miền Nam là thuộc địa, nên ra đấy phải có giấy như xin Passport ra nước
ngoài vậy. Vì thế, Hòa Thượng phải đi từng chặng. Hòa Thượng lên
tàu đi Phan Thiết, đến nơi thì đã trưa, Hòa Thượng kêu xe kéo đến chùa
nào gần cũng được, vì thật sự cũng không biết chùa nào mà đến. Xe kéo Hòa
Thượng đến chùa Bình Quang, Hòa Thượng vào chùa xin cơm. Chùa dọn
cơm xong, lúc sắp ăn thì vị Ni trụ trì nói: “Huynh à! Chư Tăng ở
đây đi đường hay ăn cơm là phải mặc áo dài, sao huynh không mặc?”. Hòa
Thượng làm thinh, trong bụng thầm nghĩ: “Cũng muốn mặc lắm nhưng có đâu mà
mặc”. Sau này vị Ni đó vẫn còn nhớ chuyện cũ, trong tâm tiếc rằng phải
chi lúc ấy cúng dường cho Hòa Thượng một hai cái áo
dài nào có khó gì, lại còn gieo được phước lành cúng dường bước
đầu cho một vị cao Tăng sau này.
Sau khi ăn cơm xong, Hòa Thượng lại tiếp
tục ra bến xe để đi Bình Định, vì trước khi đi, Hòa Thượng có đến
tòa soạn báo Từ Bi Âm, gặp Hòa Thượng trụ trì chùa
Liên Tôn ở Bình Định, lúc đó là Phó chủ bút, còn Hòa Thượng Bich Liên
làm chủ bút. Ra đến Bình Định, Hòa Thượng tìm lại chùa Liên Tôn. Hôm
đó, Hòa Thượng trụ trì còn ở Thành phố chưa về. Trong chùa, chỉ
có một vị thầy trông coi gọi là thầy Khố. Ít hôm sau, Hòa Thượng trụ
trì về, có cả cô Diệu Trí và có thị giả. Hòa Thượng bèn
xin tạm ở đây tu học. Hòa Thượng trụ trì nhờ Hòa Thượng viết
lại Bát Nhã tâm kinh mà Hòa Thượng đã giảng và in từng kỳ
trong báo Từ Bi Âm, ghép lại thành tập để in ra phổ biến. Thời
gian đó, Hòa Thượng trụ trì có giảng “Cảnh Sách Cú Thích
Ký”, chủ yếu là dạy cho cô thị giả, Hòa Thượng và cô Diệu
Trí cũng theo học.
Cô Diệu Trí có nhờ ngoài Bắc thỉnh một số
kinh chữ Hán, giúp đỡ cho Hòa Thượng có tài liệu để học.
Cô Diệu Trí đề nghị Hòa Thượng nên ra Huế vào trường học tốt
hơn. Thế nên, Hòa Thượng ở đó được ba tháng thì tiếp tục lên
đường ra Huế, còn cô Diệu Trí thì về lại Saigon. Lúc đó là tháng
08 năm 1940.
Ra đến Huế, Hòa Thượng cũng không biết đến
chùa nào, mới nhờ mấy người kéo xe. Họ nói ở chùa Tây Thiên có quí thầy
ở miền Nam ra. Hòa Thượng nhờ họ kéo đến đó. Chùa Tây Thiên là
chùa của Hòa Thượng Giác Nhiên, vị tăng Thống thứ hai của
GHPGVNTN. Ở đó, Hòa Thượng gặp Hòa Thượng Thiện Hòa, Thiện
Hoa. Hòa Thượng Giác Tâm chùa Duyên Giác ở Bến Tre thì
đã ra trường trước. Ở đây cũng có dạy kinh Lăng Nghiêm. Sau buổi học, thầy Giác
Tâm bảo Hòa Thượng đọc lại phần đã học. Hòa Thượng đọc
lại, giảng nghĩa rành rẽ. Thầy Giác Tâm thấy thế mới đề nghị Hòa
Thượng nên đến trường lớp, vấn đề liên hệ thầy Giác
Tâm sẽ lo cho.
Hòa thượng được nhận vào học và được cấp học bổng,
vì một thân một mình không ai bảo trợ. Khi Hòa thượng vào
học thì lớp đó là năm thứ sáu của Tiểu học (Sơ cấp) còn vài tháng nữa là thi
lên Trung học (Trung cấp). Các môn khác thì Hòa thượng học không khó
lắm, chỉ có môn Duy Thức là mù tịt không biết gì. Lúc đó
đang dạy Duy Thức Dị Giản sắp hết, Hòa thượng mới mượn tập xem
lại từ đầu và dần dần hiểu ra. Sao khi hết quyển cho làm
bài kiểm tra với chủ đề là Bát Thức Đồng Dị. Bài
đó, Hòa thượng được chấm chín điểm rưỡi, cao nhất lớp. Việc này đã
làm xao động trong chúng. Hòa thượng được Hòa thượng Đốc
Giáo để ý. Đến cuối năm, khi thi lên Trung cấp, học chúng lo ngại nếu Hòa
thượng đứng đầu thì mất thể diện những người học lâu. Sau khi thi viết,
đến phần khảo hạch miệng. Bác sĩ Lê Đình Thám phụ trách môn
này. Cách thi là lật quyển sách nhằm trang nào thì giải thích trang
đó. Vì lật nhằm trang chưa học nên Hòa thượng giải thích chưa được
trúng lắm. Giáo sư Lê Đình Thám cười và nói: "Chú này đến sau, mà sau này
sẽ hữu dụng!". Chung cuộc, Hòa thượng cũng được đứng hạng bảy.
Đầu năm 1941, Hòa thượng thọ giới Sa-di
tại Huế với Đại lão Hòa thượng chùa Quốc Ân. Sau đó, tiếp tục học
lên Trung đẳng và tốt nghiệp vào cuối năm 1942. Đến năm
1945 thì tốt nghiệp Cao đẳng. Cũng năm này, trường An Nam Phật Học
dời vào Tòng Lâm Kim Sơn, Hòa Thượng được Hội và Ban giám đốc
cử làm Giám viện Quản đốc trường. Kế đó, vì nạn đói ở Huế cũng như cả
miền Bắc, nhà trường quyết định chuyển học Tăng Sơ đẳng và Trung
đẳng khoảng 40 vị vào Nam và giao toàn chúng cho Hòa thượng quản
lý. Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Trí Quang lo chỗ
nơi, mục tiêu hướng đến là Lưỡng Xuyên Phật Học. Vào đến Nam,
đoàn học Tăng tạm ở lại chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho do thầy Trí
Long trụ trì. Thầy Trí Long cũng là một học Tăng trong
đoàn. Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Trí Quang trở
về Lưỡng Xuyên lo sắp xếp, còn Hòa thượng về chùa Kim Huê, Sa
Đéc tạm ở và lo nhập thất. Ngày 19 tháng 06 năm 1945, Hòa thượng được
thọ Đại giới tại Đại Giới Đàn tổ chức tại chùa Long An, Sa
Đéc, do Đại lão Hòa thượng chùa Kim Huê làm Hòa thượng đàn
đầu.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 phát động, Lưỡng
Xuyên Phật Học bị phân tán. Hòa thượng Thiện Hoa về
chùa Phật Quang ở Trà ôn, Cần Thơ do Hòa thượng Thiện Tâm là
anh ruột làm trụ trì, xây dựng tạm mái trường. Hòa thượng từ
Sa Đéc về Phật Quang, cùng Hòa thượng Thiện Hoa tập họp
các học Tăng lập thành trường Phật Học Phật Quang,
khai giảng vào cuối năm. Học Tăng trường Phật Quang phần
đông là học viên mới còn tốp cũ phần động tự phân tán vì quốc biến.
Cuối năm 1946, gặp nạn thổ dậy, địa
phương không được ổn định. Hòa thượng dời một số học Tăng về
tạm ở chùa Vạn Phưóc, Phú Lâm, Chợ Lớn. Sau đó, Hòa Thượng cùng thầy
Huyền Dung xây dựng thành lập Liên Hải Phật Học Trường,
quy tụ số học tăng khoảng 70 vị từ khắp các nơi về. Trong đó có Hòa
Thượng Đạt Từ ở chùa Thiền Tôn (Thủ Đức) đến giúp và giữ chức Giám trường, Hòa
Thượng Quảng Liên và Hòa Thượng Quảng Huệ cũng về hợp
tác, thầy Minh Cảnh được xuất gia ở đây, Hòa Thượng đã tổ
chức được một Đại giới đàn tại đây và Hòa Thượng Quảng Liên
cũng như Hòa Thượng Bửu Huệ được thọ Đại Giới tại giới
đàn này.
Đến năm 1950, Hòa Thượng có bệnh phải đi dưỡng
bệnh ở chùa Linh Sơn, Cổ Tự (Vũng Tàu), nên giao toàn trường
cho Hòa Thượng Thiện Hoa vừa ở Bắc về quản lý. Năm 1951, Hội
chùa Linh Sơn thỉnh Hòa Thượng làm trụ trì và
giao toàn quyền quản lý.
Năm 1952, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành
lập ở Saigon, Hòa Thượng được mời giữ chức Trưởng Ban Giáo
Dục và Trưởng Ban Giám Luật. Kế đó, Giáo Hội Tăng Già toàn
quốc được thành lập, Hòa Thượng được cử vào các chức vụ: Trưởng
Ban Giáo Dục, Ủy viên Phiên Dịch Tam Tạng và Phó Trị Sự Trưởng,
vì có nhiều trọng trách trong GIáo Hội nên tháng 04 năm
1954, Hòa Thượng trao quyền trụ trì chùa Linh Sơn lại
cho Thượng Tọa Tịnh Viên, cho đến năm 1995 thì Thượng
Tọa Tịnh Viên viên tịch.
Với hoài bão truyền đăng tục diệm, hoằng
dương chánh pháp, kiến tạo Già Lam, Hòa Thượng được Phật
tử cung thỉnh về ngôi chùa cổ kinh không người thừa kế trên một
vùng đất hoang vu vắng vẻ ít người đi lại, tọa lạc tại ấp
Bình Đức, xã Tâm Bình, quận Thủ Đức, phường Tam Phú, quận Thủ Đức, TPHCM.
Nơi đây, Hòa Thượng khai sơn tạo dựng Già Lam, lấy tên
là Vạn Đức. Lần lần, do uy tín và đạo đức của Hòa
Thượng, Tang Ni quy tụ về cất chùa am chung quanh, biến nơi này thành một đạo
tràng lớn mà hiện nay, nói đến đạo tràng Vạn Đức ai ai cũng
đều biết.
Năm 1955, với chí nguyện hoằng dương tịnh
Độ, hướng dẫn chúng sanh đời mạt pháp, Hòa Thượng thành
lập Cực Lạc Liên Hữu, khuyến tấn người niệm Phật, cầu vãng
sanh Tịnh Độ. Cực Lạc Liên Hữu được Hòa Thượng khai
hóa đã khơi dậy phong trào tu tập, khuyến tấn hành giả tín
hướng chỉ quy Tịnh Độ. Hòa Thượng là vị Tổ Sư đương thời chấn
hưng Tịnh Tông trong tòa nhà Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng rất quán
triệt Thánh điển, tinh tường y dược Đông Phương, Tăng
Ni, Phật tử Việt Nam thấm nhuần được kinh điển Đại Thừa phần
lớn do công trình dịch thuật của Hòa Thượng.
Dịch phẩm của Hòa Thượng rất có giá trị, Hòa
Thượng quý chuộng điều căn bản là dịch đúng nghĩa, chính
xác, rõ ràng chơn chất, không bóng bẩy, âm vận êm xuôi, để người đọc
tụng lưu thông, thầm nhận được nghĩa thú rất rõ ràng, dễ nắm
bắt được ý chỉ của kinh.
Năm 1947, Hòa Thượng dịch kinh Pháp Hoa ở
Liên Hải Phật Học Trường. Sau đó là kinh Tam Bảo, Địa Tạng,
Phẩm Phổ Hiền.
Năm 1951, do yêu cầu của Giáo Hội Tăng
Già Nam Việt, Hòa Thượng Việt dịch Bồ Tát giới để tụng
trong ngày Bố Tát.
Năm 1952, trước tác bộ Đường Về Cực Lạc tại
chùa Linh Sơn, Vũng Tàu.
Năm 1964, dịch kinh Hoa Nghiêm ở
chùa Vạn Đức, rồi tiếp tục kinh Đại Bát Niết Bàn, Đại Bát
Nhã.
Năm 1972, dịch Đại Bửu Tích, Hán Bộ 01-120.
Năm 1978, được phép in nên dịch thêm hai tập, Hán Bộ từ
121-150.
Rồi dịch Văn Thù Vấn Bát Nhã, Hán Bộ từ
151-155; Vô Tận Ý Bồ Tát, Hán Bộ từ 156-159; Thập Lục Quán Kinh, Hán
Bộ 160.
Tất cả ghép chung vào Đại Bảo Tích để tiện
viện xin phép.
Năm 1962, Hòa Thượng được bổ nhiệm làm
Phó Viẹn Trưởng Phật Học Viện Trung Phần.
Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành
lập, Hòa Thượng làm Trưởng đoàn Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Việt
Nam, được suy cử làm Tổng Vụ Trường Tổng Vụ Tăng Sự.
Năm 1973, làm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo.
Năm 1978, Hòa Thượng được Hòa Thượng Tăng
Thống tấn phong giáo phẩm cùng ba vị là: Hòa Thượng Trí Nghiêm ở
Nha Trang, Hòa Thượng Giác Tánh ở chùa Nguyên Thiều, Bình Định
và Hòa Thượng Minh Tâm ở Phan Rang.
Huy hiệu bánh xe Pháp Luân 12 căm của
GHPGVNTN là ý kiến của Hòa Thượng (Tam chuyển Pháp Luân Tứ
Đế).
Năm 1981, GNPGVN thành lập, Hòa Thượng được
suy cử làm Phó Chủ Tịch Thường Trực.
Năm 1982, kiêm thêm Trưởng Ban Trị Sự Thành
Hội.
Năm 1984, Hòa Thượng chính thức được
suy cử làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam.
Năm 1987, kiêm thêm Trưởng Ban Tăng Sự, giao Trưởng Ban
Trị Sự Thành Hội cho Hòa Thượng Thiện Hào.
Năm 1992, kiêm thêm Đệ Nhất Phó Pháp Chủ
kiêm Giám Luật đến bây giờ.
Hòa Thượng cả đời tận tụy vì Phật Pháp,
luôn lấy việc học kinh, tụng kinh, niệm Phật, giảng dạy và phiên
dịch kinh điển từ Hán Tạng ra Việt Văn làm chánh hạnh của đời
mình. Hiện nay, tuy tuổi đã 90, nhưng tinh thần Hòa Thượng vẫn sáng
suốt. Thân còn khỏe mạnh, tâm chuyên niêm Phật, vì sự lợi tha, cứ vào nửa
tháng, Hòa Thượng lại truyền giới Bát quan trai cho
hàng Phật tử tại gia đến tu học tại chùa Vạn Đức.
Hòa Thượng thật là một tấm gương sáng, một bậc chân
tu sáng ngời đạo hạnh trong lòng Tăng Ni Phật tử Việt
Nam.
* * *
HƯƠNG SEN VẠN ĐỨC
Comments
Post a Comment