Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 150
PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ niệm xứ cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát Tứ niệm xứ vô tận?
Bồ Tát ấy quán thân tu thân hành, thấy các thân quá khứ, vị lai, hiện tại điên đảo hoà hiệp. Như các vật ngoài những tường vách, ngói đá, cỏ cây theo nhơn duyên mà có chẳng thể trưởng dưỡng không có chỗ hệ thuộc.
Thân nầy theo nhơn duyên sanh chẳng thể trưởng dưỡng không có hệ phược cũng như vậy.
Trong ấm giới nhập ấy, ngã và ngã sở rỗng không, thường và vô thường rỗng không.
Thân ấy không có ngã và ngã sở.
Thân ấy chẳng vững bến chẳng thể dựa nhờ.
Nên cầu thân Bồ đề Chánh giác.
Thế nào là thân Bồ đề Chánh giác?
Đó là pháp thân, là thân kim cương, thân chẳng thể hư hoại, là thân vững chắc, là thân ra khỏi tam giới.
Thân nầy của ta dầu có vô lượng tội lỗi nhưng ta nguyện sẽ trừ diệt thành thân Như Lai.
Bồ Tát ấy sở dĩ kiên nhẫn ở lâu nơi thân tứ đại các kiết khổ hoạn là vì lợi ích chúng sanh vậy.
Như sự vật ngoài, những thứ tứ đại địa thuỷ hoả phong các thứ pháp môn, các thứ sở tác, các thứ hình mạo, các thứ khí vật, các thứ sở dụng đều vì lợi ích tất cả chúng sanh.
Nay thân ta vì lợi ích chúng sanh cũng như vậy.
Đại Bồ Tát thấy sự lợi ích lớn như vậy rồi, quán thân các sự khổ não mà chẳng sanh nhàm lìa,
quán thân vô thường mà chẳng nhàm sanh tử, quán thân vô ngã
mà chẳng bỏ giáo hoá, quán thân tịch diệt mà chẳng theo nơi xả.
Bồ Tát ấy lúc quán nội thân chẳng sanh phiền não, lúc quán ngoài thân cũng chẳng sanh phiền não.
Bồ Tát ấy rời lìa thân nghiệp đen nhơ mà thành thân nghiệp trắng sạch, có đủ diệu tướng để tự trang nghiêm, ở trong nhơn thiên có nhiều lợi ích.
Đây gọi là Bồ Tát quán thân mà tu thân hành.
Thế nào là Bồ Tát quán thọ tu thọ hành?
Bồ Tát tư duy như vầy:
Các thọ tất cả đều khổ, Bồ Tát khéo phân biệt thọ trí huệ suy lường biết thọ tịch diệt.
Lúc thọ lạc chẳng tham sở dục, lúc thọ khổ quán ba ác đạo khởi lòng đại bi chẳng sanh giận hờn, lúc thọ bất khổ bất lạc chẳng khởi ngu si.
Bồ Tát chánh niệm thọ xứ, như chỗ được thọ hoặc vui hoặc khổ hay chẳng vui chẳng khổ, nơi các thọ như vậy biết xuất phát biết tu tập.
Bồ Tát quán chúng sanh thọ tịch diệt trang nghiêm, các chúng sanh ấy ở trong các thọ chẳng biết xuất tu, nên lúc họ thọ lạc sanh lòng tham trước, lúc thọ khổ sanh lòng giận hờn, lúc thọ chẳng vui chẳng khổ sanh lòng ngu si.
Nay ta cần phải tiến tu trí huệ trừ tất cả thọ phát các thiện căn, khởi tâm đại bi nhiếp lấy trí huệ, cũng vì chúng sanh trừ dứt các thọ mà vì họ thuyết pháp. Kẻ chưa biết thọ thì thọ khổ, người hiểu được thọ thì thọ vui.
Thế nào là hiểu thọ?
Đó là không có thọ giả, không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu.
Diệt trừ kẻ nhiếp thủ thọ, kẻ nhiếp, kẻ thọ lấy, kẻ thọ thọ, kẻ thọ có, kẻ thọ điên đảo, kẻ thọ phân biệt, kẻ thọ các kiến chấp, kẻ thọ tướng nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, kẻ thọ tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thọ nhãn duyên sắc sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ nhĩ duyên thanh
sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ tỷ duyên hương sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ thiệt duyên vị sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ thân duyên xúc
sanh giác xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ ý duyên pháp sanh xúc thọ khổ thọ lạc bất khổ bất lạc. Đây gọi là thọ.
Còn có một thọ, đó là giác liễu tứ đại.
Còn có hai thọ, đó là nội thọ, ngoại thọ.
Còn có ba thọ, đó là quá khứ, vị lai và hiện tại thọ.
Còn có bốn thọ, đó là giác liễu tứ đại.
Còn có năm thọ, đó là tư duy ngũ ấm.
Còn có sáu thọ, đó là phân biệt lục nhập.
Còn có bảy thọ, đó là thất thức trụ xứ.
Còn có tám thọ, đó là tám tà pháp vậy.
Còn có chín thọ, đó là chín xứ địa của chúng sanh.
Còn có mười thọ, đó là mười bất thiện pháp.
Tóm lại nói thì vô lượng chúng sanh có những tư duy thọ cảnh giới sở duyên tất cả đều gọi là thọ.
Ở trong đó, Bồ Tát tu thọ quán hạnh khởi đại trí huệ, biết các chúng sanh thiện hay bất thiện tướng sanh trụ diệt của họ. Đây gọi là Bồ Tát chánh thọ niệm xứ mà chẳng thể cùng tận.
Thế nào là Bồ Tát quán tâm niệm xứ?
Tâm Bồ đề chẳng quên chẳng mất, chánh niệm chẳng loạn quán tâm như vậy. Tâm sanh rồi diệt không có tướng trụ. Tâm ấy chẳng trụ ở trong cũng chẳng từ ngoài đến.
Lúc ta ban sơ phát tâm Bồ đề ấy, tâm ấy đã tận quá khứ biến khác, nó chẳng đến chỗ nào, không có trụ xứ chẳng thể tuyên nói. Nếu tâm có tập họp các thiện căn, nó cũng là
quá khứ tận diệt biến khác, nó chẳng đến chỗ nào chẳng thể tuyên nói không có trụ xứ. Nếu tâm thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng là pháp diệt tận biến khác chẳng đến chỗ nào chẳng thể tuyên nói không có trụ xứ. Tâm chẳng biết tâm, tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng sanh tâm, ta dùng tâm nào thành Vô thượng Bồ đề. Tâm Bồ đề ấy chẳng cùng tâm thiện căn hiệp. Tâm thiện căn ấy chẳng cùng tâm hồi hướng hiệp. Tâm hồi hướng chẳng cùng tâm Bồ đề hiệp.
Nếu lúc quán tâm như vậy mà Bồ Tát chẳng kinh chẳng bố, đây gọi là Bồ Tát cần tinh tiến vậy.
Bồ Tát lại tư duy quán thậm thâm thập nhị nhơn duyên chẳng mất nhơn quả. Biết tâm tánh ây thuộc các nhơn duyên, chẳng thể trưởng dưỡng không có tác không hệ thuộc, như tâm tất cả các pháp cũng như vậy, như pháp tu hành như chỗ được trang nghiêm. Nay
ta phải chuyên cần tu tập trang nghiêm chẳng lià tâm tánh.
Thế nào là tâm tánh và thế nào là trang nghiêm?
Tâm tánh ấy dường như ảo hoá không có chủ không có tác, không có thi thiết. Trang nghiêm ấy, chỗ làm bố thí đều đem hồi hướng trang nghiêm
thanh tịnh Phật độ.
Tâm tánh ấy dường như cảnh được thấy trong mộng, tâm tướng tịch diệt. Trang nghiêm ấy, thanh tịnh trì giới tu tập các thần thông.
Tâm tánh ấy như tượng trong gương, tướng nó thanh tịnh. Trang nghiêm ấy, nhẫn nhục được tu đều hồi hướng Vô sanh pháp nhẫn.
Tâm tánh ấy như dương diệm cứu cánh tịch diệt. Trang nghiêm ấy nơi các thiện pháp thâm phát
tinh tiến hồi hướng đầy đủ vô thượng Phật pháp.
Tâm tánh ấy không có sắc, không có đối, không có chỗ tạo tác. Trang nghiêm ấy tất cả chỗ tu thiền định giải thoát tam muội hồi hướng đầy đủ Phật thiền định.
Tâm tánh ấy chẳng thể thấy được cũng chẳng thể lấy được. Trang nghiêm ấy nơi tất cả chỗ gạn hỏi đều khéo phân biệt hồi hướng đầy đủ Phật trí huệ.
Tâm tánh ấy không có duyên thì chẳng sanh. Trang nghiêm ây thường quán thiện căn.
Tâm tánh ấy không có nhơn thì chẳng sanh. Trang
nghiêm ấy nhơn trợ Bồ đề mà phát khởi tâm.
Tâm tánh ấy bỏ lìa lục trần thì không chỗ khởi. Trang nghiêm ấy nhập Phật cảnh giới.
Bồ Tát quán tâm hành ây như vậy nhiếp niệm thần thông. Được thần thông rồi có thể biết tất cả chúng sanh các tâm. Đã biết tâm họ rồi tuỳ theo tâm lượng ấy mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát lại quán tâm hành nhiếp niệm đại bi giáo hoá chúng sanh không có nhàm mỏi.
Bồ Tát lại quán tâm hành chẳng khởi tướng tận diệt biến khác, chẳng bỏ sanh tử tương tục phiền não. Chánh niệm tâm ấy biết không có sanh khởi thành chánh quyết định.
Hành giả như vậy chẳng sa vào Thanh Văn
địa, Bích Chi Phật địa, tột thế lực tâm ấy dùng nhứt niệm trí thành Vô thượng Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát chánh tâm niệm xứ mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát quán pháp niệm xứ?
Bồ Tát thường dùng huệ nhãn thấy tất cả pháp đến lúc ngồi đạo tràng không có giữa chừng mất.
Đương lúc quán pháp như vậy, Bồ Tát ấy chẳng thấy một pháp nhẫn đến tướng vi tế lìa không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô vật, cũng chẳng thấy một pháp nhẫn đến tướng vi tế chẳng nhập vào thập nhị duyên.
Bồ Tát quán pháp thấy các phi pháp không gì chẳng phải là pháp.
Thế nào là pháp? Đó là nghĩa vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ mạng, đây gọi là pháp.
Thế nào là phi pháp? Đó là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, đây gọi là phi pháp.
Còn nữa, tất cả là pháp, tất cả là phi pháp. Tại sao vậy?
Quán không, vô tướng, vô nguyện, đây gọi là tất cả pháp là pháp.
Ngã mạn, kiêu mạn ngã và ngã sở nhiếp lấy các kiến, đây gọi là tất cả pháp là phi pháp.
Lúc quán pháp, Bồ Tát ấy chẳng thấy có pháp chẳng phải là nhơn Bồ đề nhơn xuất thế đạo. Bồ Tát ấy biết tất cả pháp đều là xuất thế được vô ngại đại bi.
Bồ Tát ấy quán tất cả pháp phiền não kiết phược như tướng ảo hoá. Biết các pháp ấy chẳng phải có phiền não chẳng phải không phiền não. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát ấy tỏ biết các pháp nghĩa
không có hai tánh, các phiền não ấy không có chỗ ẩn tàng không có tụ tập. Nếu hiểu phiền não thì hiểu Bồ đề. Như phiền não tánh tức Bồ đề tánh. Bồ Tát ấy an trụ chánh niệm không có một pháp có thể đem phân biệt được, không có các chướng ngại khéo hay hiểu rõ chánh trụ pháp tánh. Như trụ pháp tánh tức trụ chúng sanh tánh. Như trụ chúng sanh tánh tức trụ hư không tánh. Như trụ hư không tánh tức trụ Nhứt thiết pháp tánh.
Lúc quán pháp, Bồ Tát y cứ Phật pháp hiểu tất cả pháp tức là Phật pháp, tâm Bồ Tát lúc ấy chẳng sanh tận trí vô vi. Dầu tận mà cũng chẳng tận, nhập vào vô sanh trí, cũng quán chúng sanh chẳng bỏ giả danh.
Pháp niệm xứ ấy, an trụ chánh niệm tất cả các pháp, đó là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát chánh giác chỗ biết tất cả giả danh các pháp tận vị lai tế trọn không quên mất.
Pháp niệm xứ ấy, nói vô lượng hành thân cận Phật pháp hoại các ma chúng được tự nhiên trí.
Đây gọi là Bồ Tát chánh pháp niệm xứ mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ chánh cần cũng chẳng thể tận. Những gì là bốn?
Nếu là pháp ác bất thiện chưa sanh, vì chẳng sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ. Pháp ác bất thiện đã sanh vì đoạn trừ nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.
Pháp thiện chưa sanh vì sanh nên
sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ. Pháp thiện đã sanh vì an trụ tu tập để tăng thêm rộng lớn chẳng mất nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.
Pháp ác bất thiện chưa sanh vì chẳng sanh nên sanh dục siêng tinh tiến.
Nói dục ấy, là thiện tư duy vậy.
Nói siêng tinh tiến ấy, là chẳng bỏ thiện tư duy vậy.
Nói nhiếp tâm chánh trừ ấy, là quán thiện tư duy vậy.
Tại sao vậy?
Vì lúc thiện tư duy chẳng cho pháp ác bất thiện nhập vào tâm.
Thế nào là pháp ác bất thiện?
Pháp ác bất thiện chẳng phải bè bạn của giới tụ, chẳng phải bè bạn của thiền định, chẳng phải bè bạn của trí huệ.
Thế nào là chẳng phải bạn của giới tụ?
Hoặc phá trọng giới và các giới khác. Đây gọi là chẳng phải bạn của giới tụ.
Thế nào là chẳng phải bạn của thiền định?
Hoặc phá oai nghi và các pháp loạn tâm. Đây là chẳng phải bạn của định tụ.
Thế nào là chẳng phải bạn của huệ tụ?
Hoặc nhiếp lấy các kiến và các kiến chướng ngại khác. Đây là chẳng phải bạn của huệ tụ.
Đây gọi là những pháp ác bất thiện.
Lúc thiện tư duy, các pháp ác bất thiện ấy chẳng cho nhập vào tâm. Đây gọi là Chánh cần thứ nhứt.
Pháp ác bất thiện đã sanh vì đoạn dứt nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.
Như trên đã nói, pháp
ác bất thiện tâm chẳng tụ họp không có nơi chỗ không có trụ xứ, pháp ác bất thiện ấy vì tâm hành đoạn dứt vậy, vì tịnh mà sanh dục, vì ngại chướng mà sanh sân, vì vô minh duyên mà sanh ngu si. Thiện tư duy ấy lúc quán bất tịnh diệt tham dục, lúc tu tập từ tâm diệt sân hận, quán thập nhị duyên diệt ngu si. Các phiền não như vậy tịch diệt tức là đoạn trừ tất cả giả danh, lại cũng chẳng thấy có gì để đoạn. Đây gọi là đệ nhị Chánh cần.
Pháp thiện chưa sanh vì sanh nên
sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.
Các thiện pháp ấy có đến vô lượng. Tại sao?
Vô lượng thiện pháp được Bồ Tát tu tập, trong các thiện pháp ấy thì dục là căn bổn.
Siêng tinh tiến tu tập nhiếp tâm ấy là vượt quá thiện pháp.
Chánh trừ ấy là tại tại xứ xứ thường ở tại thiện pháp. Đây gọi là đệ tam Chánh cần.
Pháp thiện đã sanh an trụ tu tập để tăng quảng chẳng mất nên nhiếp tâm chánh trừ.
Các thiện căn ấy đều đã hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề thì chẳng thể cùng tận. Tại sao? Vì các thiện căn như vậy chẳng y chỉ tam giới. Nếu y chỉ tam giới thì có tổn hao. Vì thế nên nói hồi hướng Nhứt thiết chủng trí thì các thiện căn như vậy chẳng thể tận. Đây gọi là đệ tứ Chánh cần.
Đây gọi là Bồ Tát tu Tứ chánh cần mà chẳng thể tận vậy.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ như ý phần cũng chẳng thể tận.
Những gì là bốn? Đó là dục, tiến, tâm và tư duy.
Bốn pháp như vậy lấy từ bi hỉ xả làm căn bổn.
Bốn tâm vô lượng ấy thường thân cận. Vì thường thân cận nên tâm điều nhu. Vì tâm điều nhu nên được nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.
Vì nhập các thiền ấy nên thân được nhẹ nhàng. Thành tựu thân nhẹ tâm nhu như vậy nên nhập như ý phần. Khéo nhập như ý phần rồi liền sanh thần thông.
Hoặc dục, hoặc tiến, hoặc tâm, hoặc tư duy.
Dục ấy là chuyên hướng pháp kia, tiến ấy là thành tựu pháp kia, tâm ấy là quán sát pháp
kia, tư duy ấy là phương tiện của pháp kia.
Như ý phần ấy đã được đầy đủ rồi thì có thể được thần thông. Dục ấy là trang nghiêm,
tiến ấy là thành tựu, tâm ấy là chánh trụ, tư duy ấy là hay khéo phân
biệt.
Bồ Tát ấy được như ý phần theo chỗ hiểu, như chỗ làm, tâm được tự tại, tuỳ ý qua xứ nào khéo làm sự việc rốt ráo thành tựu tất cả bổn hành, như gió thổi hư không chẳng có chướng ngại.
Đây gọi là Bồ Tát Tứ như ý phần chẳng thể cùng tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Ngũ căn cũng
chẳng thể tận. Những gì là năm?
Tín căn, tiến căn, niệm căn, định căn và huệ căn.
Thế nào là Tín căn?
Tin nơi bốn pháp:
Một là ở trong sanh tử hành thế tục chánh kiến tin nơi nghiệp báo, nhẫn đến mất mạng trọn chẳng làm điều ác.
Hai là tin Bồ Tát hành chẳng theo các kiến, chuyên cầu Vô thượng Bồ đề chẳng cầu thừa khác.
Ba là tin hiểu các pháp đồng với pháp không, vô tướng, vô nguyện, đồng đệ nhứt nghĩa đế, đồng với liễu nghĩa thậm thâm nhơn duyên không có ngã, không có chúng sanh không
có phân biệt.
Bốn là tin tất cả chư Phật, Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp, tin như vậy rồi tiêu trừ lưới nghi tu tập Phật pháp.
Đây gọi là Bồ Tát Tín căn.
Thế nào là Tiến căn?
Nếu pháp đã nhiếp về tín căn thì pháp ấy được tu của tiến căn. Đây gọi là Bồ Tát Tiến căn.
Thế nào là Niệm căn?
Nếu pháp được tu của tiến căn thì pháp ấy trọn chẳng quên mất. Đây gọi là Bồ Tát Niệm căn.
Thế nào là Định căn?
Nếu pháp đã nhiếp về niệm căn, pháp ấy chẳng quên chẳng mất nhứt tâm bất loạn. Đây gọi là Bồ Tát Định căn.
Thế nào là Huệ căn?
Nếu pháp được nhiếp về định căn, pháp ấy là sở quán của huệ, là thể tánh của huệ, nội tự chiếu tỏ chẳng từ người mà biết, tự trụ chánh hạnh. Đây gọi là Bồ Tát Huệ căn.
Năm căn ấy đồng nối nhau sanh đủ tất cả pháp được thọ ký biệt.
Ví như ngoại đạo ngũ thông thần tiên chẳng thể quyết định biết tướng sai biệt trong bào thai. Khi tướng nam nữ hiển hiện rồi họ mới biết được.
Có nhiều Bồ Tát không có các căn tín tiến v.v…chư Phật Thế Tôn chẳng thọ ký cho họ.
Nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ ngũ căn Phật mới thọ ký.
Đây gọi là Bồ Tát Ngũ căn vô tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Ngũ lực cũng chẳng thể tận.
Những gì là năm?
Tín lực, tiến lực, niệm lực, định lực và huệ lực.
Thế nào là Tín lực?
Tín ấy trọn không hề bị trở hoại, nhẫn đến thiên ma biến làm thân Phật thị hiện xuất nhập thiền định giải thoát chẳng thể khuynh động được tín lực của Bồ Tát . Đây gọi là Bồ Tát Tín lực.
Thế nào là Tiến lực?
Bồ Tát tinh tiến ở nơi các thiện pháp được sức kiên cố, như lực đã được tu các thiền định, tất cả chư Thiên thế nhơn chẳng trở hoại được, như bổn sở nguyện đều được thành tựu. Đây gọi là Bồ Tát Tiến lực.
Thế nào là Niệm lực?
Bồ Tát an trụ các thiện pháp chẳng bị phiền não phá hoại. Tại sao? Vì sức chánh niệm của Bồ Tát hay xô dẹp phiền não. Niệm lực như vậy không gì phá hoại được. Đây gọi là Bồ Tát Niệm lực.
Thế nào là Định lực?
Bồ Tát xa lìa ồn náo thường thích độc hành. Bồ Tát ấy dầu có chỗ nói mà ngôn ngữ âm thanh chẳng ngại Sơ thiền, khéo trụ giác quán chẳng ngại Nhị thiền, lòng sanh hoan hỷ chẳng ngại Tam thiền. Bồ Tát ấy dầu thích giáo hoá chúng sanh, chẳng bỏ Phật pháp mà cũng chẳng ngại đệ Tứ thiền. Lúc Bồ Tát ấy hành Tứ thiền, các pháp ngại chướng định không làm gì được. Lúc ấy Bồ Tát chẳng xả định cũng chẳng theo định, mà có thể tự tại thọ sanh các nơi. Đây gọi là Bồ Tát Định lực.
Thế nào là Huệ lực?
Bồ Tát ấy biết pháp thế gian biết pháp xuất thế gian không có một pháp nào có thể phá hoại được trí ấy. Bồ Tát thọ sanh xứ nào, tất cả kỹ nghệ không theo thầy học mà đều tự nhiên biết. Thế gian ngoại đạo các khổ hạnh khó làm, vì giáo
hoá họ, Bồ Tát ấy cũng thị hiện đồng hành với họ. Pháp xuất thế ấy hay vượt quá pháp thế gian do vì huệ lực thành tựu vậy, hàng chư Thiên và thế nhơn chẳng bằng được. Đây gọi là Bồ Tát Huệ lực.
Đây gọi là Bồ Tát Huệ lực vô tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Thất giác phần cũng chẳng thể tận.
Những gì là bảy?
Niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tiến giác phần, hỉ giác phần, trừ giác phần, định giác phần và xả giác phần.
Thế nào là Niệm giác phần?
Nếu niệm giác phần có thể quán nơi pháp có thể phân biệt pháp soạn họp tư duy trí huệ, cũng hay quán sát tự tướng các pháp.
Những gì là tự tướng?
Quán tất cả pháp tự tánh đều không, niệm như vậy khiến đều hiểu tỏ. Đây gọi là Bồ Tát Niệm giác phần.
Thế nào là trạch pháp giác phần?
Nếu có thể phân biệt hiểu rõ tám vạn bốn ngàn pháp tụ, như các pháp được hiểu rõ, liễu nghĩa là liễu nghĩa, bất liễu nghĩa là bất liễu nghĩa, thế đế là thế đế, đệ nhứt nghĩa đế là đệ nhứt nghĩa đế, giả danh là giả danh, rõ đúng không nghi là rõ đúng không nghi. Các pháp như vậy phân biệt tuyển trạch. Đây gọi là Bồ Tát Trạch pháp giác phần.
Thế nào là Tiến giác phần?
Như niệm pháp, trạch pháp, hỉ pháp, trừ pháp, định pháp, xả pháp, dùng trí nhiếp lấy tinh tiến dũng mãnh dục chẳng thối chuyển siêng tu gắng sức chẳng bỏ bổn ý hành chánh đạo. Đâygọi là Bồ Tát Tiến giác phần.
Thế nào la Hỉ giác phần?
Pháp hỉ được tu, Bồ Tát ở nơi vô lượng pháp lòng sanh hỉ duyệt không có giải đãi thanh tịnh thích pháp, hỉ dũng dước ấy có thể trừ thân tâm bỏ các phiền não. Đây là Bồ Tát Hỉ giác phần.
Thế nào là Trừ giác phần?
Nếu trừ thân tâm và các phiền não, lìa các phú cái nhập vào cảnh giới định khiến tâm chánh trụ. Đây gọi là Bồ Tát Trừ giác phần.
Thế nào là Định giác phần?
Như định được nhập đều có thể biết rõ, chẳng phải chẳng nhập định là biết rõ pháp, lại rõ các kiến phiền não kiết phược vô thuỷ vô chung tâm thường bình đẳng tất cả các pháp không có tướng biệt dị, có thể biết các pháp bình đẳng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát Định giác phần.
Thế nào là Xả giác phần?
Nếu pháp ưu hay hỉ, Bồ Tát tâm chẳng chìm, cũng chẳng bị pháp thế gian kéo níu,
không có cao không có hạ chánh trụ bất động, không có các lậu không mừng không tham trước, không có các chướng ngại chánh trực tuỳ thuận chơn đế chánh đạo. Đây là Bồ Tát Xả giác phần.
Đây gọi là Bồ Tát Thất giác phần mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Bát thánh đạo phần cũng chẳng thể tận.
Những gì là tám?
Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định.
Thế nào là chánh kiến?
Nếu thấy xuất thế chẳng khởi ngã kiến, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cũng lại chẳng khởi thiện cùng bất thiện vô ký các kiến chấp, nhẫn đến chẳng khởi sanh tử Niết bàn hai tướng kiến ấy. Đây gọi là Bồ Tát Chánh kiến.
Thế nào là Chánh tư duy?
Nếu tư duy mà hay phát khởi tham dục, sân hận, ngu si các phiền não thì chẳng gọi là chánh. Chánh tư duy ấy chẳng tư chẳng khởi các sự như vậy, chỉ tư giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Chánh tư duy ấy có thể suy nghĩ an trụ giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến như vậy. Tư duy như vậy gọi là Chánh tư duy.
Thế nào là Chánh ngữ?
Phàm có diễn nói chẳng làm cho mình có khổ não, cũng chẳng tổn người, thành tựu lời nói tốt lành vi diệu như vậy thẳng đến chánh đạo. Đây gọi là Chánh ngữ.
Thế nào là Chánh nghiệp?
Nếu là hắc nghiệp thì có hắc báo, là bạch nghiệp thì có bạch báo, là hắc bạch nghiệp thì có hắc bạch báo, là phi hắc bạch nghiệp thì có phi hắc bachj báo, Bồ Tát trọn chẳng dám làm.
Nếu là nghiệp có thể tận nghiệp thì Bồ Tát ắt làm.
Nghiệp được Bồ Tát ấy y chỉ, siêng tu các
chánh nghiệp như vậy. Đây gọi là Bồ Tát Chánh nghiệp.
Thế nào là Chánh mạng?
Nếu chẳng bỏ Thánh chủng đầu đà oai nghi, chẳng động chẳng chuyển không có các gian siểm, chẳng bị lợi dưỡng thế gian kéo dắt, dễ nuôi dễ đủ thường tự kiên trì oai nghi lễ tiết. Thấy người được lợi tâm chẳng sanh não. Nơi lợi dưỡng của mình thường biết thôi đủ. Chánh hạnh như vậy được Thánh nhơn khen. Đây gọi là Bồ Tát Chánh mạng.
Thế nào là Chánh tiến?
Nếu tiến đến tà thì chẳng phải chỗ được Thánh khen, đó là
tham dâm sân hận ngu si các phiền não. Chẳng chánh tinh tiến ấy Bồ Tát trọn chẳng làm.
Nếu là pháp có thể nhập vào chánh đế thánh đạo tịch diệt Niết bàn phan duyên chánh lộ. Chánh tinh tiến ấy Bồ Tát tu tập siêng làm. Đây gọi là Bồ Tát Chánh tinh tiến.
Thế nào là Chánh niệm?
Nếu là niệm chẳng mất chẳng động nơi pháp, chánh trực chẳng cong vạy, thấy lỗi sanh tử tiến tới Niết bàn, cột tâm chẳng quên chẳng mất chánh đạo. Đây gọi là Bồ Tát Chánh niệm.
Thế nào là Chánh định?
Nếu là định chẳng loạn nơi tất cả pháp, lúc Bồ Tát ấy trụ như vậy thành chánh quyết định. Đây gọi là Chánh định.
Bồ Tát trụ tam muội ấy vì tất cả chúng sanh mà được giải thoát thành chánh
quyết định. Đây gọi là Chánh định.
Bát Thánh đạo nầy đều là đạo của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, Bồ Tát ấy hiểu rõ rồi diễn nói khai thị phân biệt hiển hiện thành tựu Phật đạo.
Đây gọi là Bồ Tát Thánh đạo phần chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành định huệ cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Định?
Nếu tâm tịch tĩnh chánh tịch tĩnh tịch diệt chẳng não, tâm thường chẳng loạn thủ hộ các căn, chẳng động chẳng chuyển không có sốt bạo an tường tịch mặc kiên trì chẳng mất, khéo điều nhu nhuyến ở riêng nhàn tĩnh, thân thì xa lìa, tâm chẳng hồi chuyển. Suy nghĩ ưa thích chỗ a lan nhã vắng vẻ, không có ác cầu, cũng không có chỗ mong cầu, chẳng có cầu nhiều, chánh hạnh chánh mạng oai nghi kiên cố, biết phải lúc, tuỳ theo phải lúc, thường biết thôi đủ. Dễ nuôi dễ đủ vì có sức kham nhẫn vậy. Tâm không có cao
không có hạ có thể nhẫn được lời mắng nhiếc. Phát tâm chuyên
hướng thiện pháp tư duy, thích tư duy niệm xứ và các thiền chi, phát khởi từ tâm nhập vào bi tâm, an trụ hỉ tâm khéo tu xả tâm, chánh nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thìên, không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, khéo có thể tư duy cửu thứ đệ định. Đây gọi là Định. Tóm lại, Bồ Tát trợ định vô lượng vô biên siêng năng tu tập. Đây gọi là Bồ Tát định chẳng thể tận.
Thế nào là Huệ?
Huệ ấy tu tập trợ đạo nhập vào các pháp vô ngã, vô nhơn, chúng sanh, thọ mạng. Huệ như vậy phân biệt các ấm hư ảo như hoá, phân biệt các giới bình đẳng và các nhập hư không tụ, phân biệt các đế thảy đều sáng tỏ, tuỳ thuận quán biết mười hai nhơn duyên, phân biệt các kiến nhơn quả quả chứng.
Nói là phân biệt ấy, nơi tất cả pháp có thể được chánh kiến. Như thiệt mà thấy chơn kiến, không kiến, vô tướng kiến, vô nguyện kiến. Lại phân biệt ấy là vì vô phân biệt nên phân biệt.
Nói là kiến ấy cũng không chỗ thấy không chỗ biết khác. Kiến như vậy là chơn thiệt kiến. Thấy chơn thiệt ấy tức được phương tiện.
Bồ Tát ấy huệ như vậy thấy chẳng theo vô vi, tu
hành các thiện pháp tâm không chỗ trụ trước, đây gọi là huệ.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành định huệ mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tổng trì biện tài cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Tổng trì?
Những thiện căn được tu tập, Bồ Tát chánh niệm tích tập. Bao nhiêu tám vạn bốn ngàn pháp tụ đã có Bồ Tát có thể chánh thọ trì chẳng quên chẳng mất. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.
Lại Bồ Tát tổng trì ấy, hoặc là tất cả chư Phật chỗ nói diệu pháp, hoặc là tất cả Thanh Văn, Duyên
Giác, chư Thiên, thế nhơn, chúng sanh phàm phu có bao nhiêu âm thanh lời lành, đều có thể thọ trì cả. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.
Dầu lúc kiếp tai khởi phải bỏ mạng thọ sanh xứ khác, Bồ Tát ấy vẫn chánh niệm tổng trì chẳng quên chẳng mất. Như nhìn thấy quả a ma lặc trong lòng bàn
tay, Bồ Tát ấy xem thấy tất cả pháp cũng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.
Thế nào là Biện tài?
Bồ Tát nói pháp không có trệ ngại, nói pháp vô trụ, nói pháp không dứt, nói pháp thông lẹ, nói pháp vui hoà, nói pháp nhanh chóng. Bồ Tát nói pháp như vậy là quả báo thanh tịnh do nghiệp lành đời trước, được chư Phật hộ niệm, chư Thiên nhiếp thọ, nói pháp không sai lầm, chẳng luống công, tiến đến Niết bàn.
Bồ Tát thành tựu biện tài như vậy, có bao nhiêu sắc tượng và các loài chúng sanh, Bồ Tát biện tài ứng cơ chẳng dự tư duy chẳng dự phân biệt trước, Bồ Tát giỏi có thể nói tán kệ tụng trong khế kinh.
Bồ Tát nếu đến trong đại chúng Sát Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, đại chúng Sa Môn, đại chúng Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Phạm Thiên, ma chúng, nơi nơi chỗ chỗ tự nhiên có thể biết rõ tất cả chúng sanh căn lượng, Bồ Tát dùng vô ngại biện mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát ấy như bổn hỷ lạc giảng tuyên pháp yếu trọn đời chẳng dứt. Đây gọi là Bồ Tát biện tài.
Đây gọi là Bồ Tát tổng trì biện tài cũng chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát soạn tập bốn pháp cũng chẳng thể tận.
Những gì là bốn?
Một là Bồ Tát ấy biết tất cả hành vô thường. Hai là biết tất cả hành khổ. Ba là biết tất cả pháp vô ngã và bốn là biết tất cả pháp tịch diệt Niết bàn.
Thế nào là Vô thường nghĩa?
Vô sở hữu là vô thường nghĩa. Vô sở phá hoại là vô thường nghĩa. Nghĩa vô thường ấy tức là nghĩa vô ngã,
nếu pháp vô ngã thì không gì phá hoại được vì là tịch diệt vậy. Đây gọi là vô thường nghĩa.
Thế nào là Khổ nghĩa?
Vì vô sở cầu nên là khổ nghĩa. Vì ái nhiễm hết nên là khổ nghĩa. Vì vô sở nguyện nên là khổ nghĩa. Vì không rỗng không có sở hữu nên là khổ nghĩa. Đây gọi là khổ nghĩa.
Thế nào là Vô ngã nghĩa?
Cứu cánh vô ngã là vô ngã nghĩa. Như vô ngã nghĩa tức là không rỗng nghĩa, là vô sở hữu nghĩa, là hư cuống chẳng thiệt nghĩa. Đây gọi là vô ngã nghĩa.
Thế nào là Tịch diệt Niết bàn nghĩa?
Tịch diệt nghĩa ấy chẳng phải là niệm niệm diệt. Như chẳng phải niệm niệm diệt tức là tịch diệt. Bồ Tát được trí huệ vô tận ấy biết tất cả pháp tướng đồng với tịch diệt. Tịch diệt ấy tức là Niết bàn nghĩa.
Đây gọi là Bồ Tát soạn tập bốn pháp mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nhứt đạo cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Nhứt đạo?
Bồ Tát chỗ được chơn thiệt trí huệ chẳng từ người khác nghe.
Lại nhứt đạo ấy, Bồ Tát độc nhứt không có bạn lữ, đã ở nơi Vô thượng Bồ đề có thể đại trang nghiêm dùng thế lực tinh tiến của mình nhiếp lấy, cứu cánh tự tu tập chẳng nhờ người làm. Bồ Tát tự dùng sức nhơn duyên dũng mãnh kiến lập trang nghiêm kiên
cố như vậy. Như các chúng sanh tạo tác bao nhiêu thiện nghiệp, ta cũng sẽ có thể làm nên tất cả như vậy. Và các Thánh Nhơn từ lúc sơ phát tâm đến sau làm bao nhiêu
công hạnh ta cũng sẽ làm.
Bố thí chẳng phải là bạn của ta mà ta là bạn của bố thí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí huệ chẳng phải là bạn của ta mà ta là bạn của chúng.
Các Ba la mật chẳng thể sai sử ta mà ta có thể sai sử chúng, nhẫn đến các thiện căn cũng đều như vậy. Các pháp như vậy dầu chẳng phải bạn của ta mà ta cần phải làm. Chẳng cậy dựa nơi kia, Bồ Tát tự lực dũng mãnh riêng
làm không có bạn, ngồi toà kim cương nơi đạo tràng phá các ma chúng, dùng một niệm huệ thành Vô thượng Bồ đề. Bồ Tát phải tỏ rõ phân biệt như vậy.
Đây gọi là Bồ Tát Nhứt đạo vô tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát sở tu phương tiện cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Phương tiện?
Thấy tất cả pháp là phương tiện. Phát khởi các pháp là phương tiện. Làm Bồ Tát sứ là phương tiện. Cứu cánh phân biệt là phương tiện. Không có hạn lượng là phương tiện. Chí ý thường cầu pháp xuất thế là phương tiện. Lúc bố thí liền có đầy đủ các Ba la mật là phương tiện. Lúc trì giới nơi nơi xứ xứ tự tại vãng sanh là phương tiện. Lúc nhẫn nhục trang nghiêm tự thân và Bồ đề đạo là phương tiện. Lúc hai tinh tiến tâm không có sở trụ là phương tiện. Lúc tu thiền định không có thối thất là phương tiện. Lúc tu trí huệ chẳng chứng vô vi là phương tiện. Lúc tu tâm từ thương kẻ không có thế lực là phương tiện. Lúc tu tâm bi chẳng nhàm sanh tử là phương tiện. Lúc tu tâm hỉ chẳng thích ở chỗ vui là phương tiện. Lúc tu tâm xả phát tâm tu tập tất cả thiện căn là phương tiện. Lúc tu thiên
nhãn là muốn thành tựu chư Phật nhãn là phương tiện. Lúc tu thiên nhĩ là vì muốn thành tựu chư Phật nhĩ là phương tiện. Lúc tu tha tâm trí là vì muốn được chư Phật trí biết tất cả chúng sanh căn lượng cạn sâu là phương tiện. Lúc tu túc mạng trí là vì được Phật trí biết tam thế vô ngại là phương tiện. Lúc tu tập thần thông là vì muốn được chư Phật thần thông lực là phương tiện. Tuỳ chúng sanh
tâm là phương tiện. Đã tự hiểu rõ lại hiểu rõ chúng sanh là
phương tiện. Đã tự độ rồi thị hiện chưa độ mà gắng sức siêng tu cầu được độ thế là phương tiện. Đã lìa phiền não mà thị hiện phiền não là phương tiện. Đã xả bỏ gánh nặng mà thị hiện có gánh nặng là phương tiện. Hay biết căn lượng chúng sanh tuỳ
căn lượng thuyết pháp là phương tiện. Khéo có thể dạy bảo tiến tu hàng độn căn chúng sanh là phương tiện. Biết thời biết phi thời là phương tiện. Biết chúng sanh có thể hành đạo mà sa vào tà kiến có thể đặt ở chánh đạo là phương tiện. Có thể khiến lượng làm vô lượng khiến vô lượng làm lượng là phương tiện. Khiến tổn hoại hoàn phục như cũ là phương tiện. Thị hiện thắng kẻ kia là phương tiện. Thị hiện nói Niết bàn có ngũ dục lạc là phương tiện. Đã được giải thoát thị hiện có hệ phược là phương tiện. Ở nơi sanh tử mà chẳng đoạ sanh tử là phương tiện. Nơi các oai nghi không chỗ chuyên đúng cũng
chẳng thối thất là phương tiện. Chỉ quán chúng sanh chẳng thấy trì giới hay phá giới là phương tiện. Nhiếp các kiến duyên chẳng sanh tranh cạnh là phương tiện. Rõ âm thanh ấy giả danh không thiệt là phương tiện. Thường đi trong tam giới là phương tiện. Được giải thoát tướng hành là phương tiện. Thân cận phàm phu như thân cận Thánh nhơn là phương tiện. Chẳng chứng Niết bàn thường ở sanh tử là phương tiện. Nơi mà hành xứ hiển hiện đại quang minh không
có phiền não là phương tiện. Tất cả thị tất cả phi là phương tiện.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành phương tiện cũng chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Đây gọi là Bồ Tát tám mươi vô tận. Tám mươi vô tận ấy đều có thể chứa đựng tất cả Phật pháp”.
Lúc Vô Tận Ý đại Bồ Tát nói pháp môn phẩm ấy, có sáu mươi bảy trăm ngàn chúng
sanh, người chưa phát tâm, đều liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Năm trăm hai ngàn
đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ đại chúng dâng các thứ hoa, các thứ tràng hoa, các thứ lọng hoa cúng dường Như Lai và Vô Tận Ý đại Bồ Tát cùng kinh điển ấy.
Trên hư không có vô lượng thiên nhạc tự nhiên phát thanh nói rằng: “Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng kiếp tập họp Vô thượng Bồ đề, nay trong hội Đại Tập nầy Vô Tận Ý Bồ Tát đã nói nghĩa ấy. Nếu có ai nghe pháp
môn vô tận ấy mà tin hiểu thọ trì đọc tụng giải thuyết, nên biết người ấy là đầy đủ pháp vô tận ấy vậy”.
Đức Thế Tôn lấy y trùm vai ban cho Vô Tận Ý Bồ Tát mà nói rằng: “Lành thay lành thay! Đại Sĩ nói nghĩa ấy rất hay, chẳng phải chỉ có ta hứa khả, thập phương chư Phật cũng như vậy”.
Vô Tận Ý đại Bồ Tát hai tay bưng y để trên đỉnh đầu mình mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Thiên và thế nhơn sẽ coi y nầy hơn cái tháp, vì là vật được Như Lai dùng”.
Lúc bấy giờ có nhiều các thứ y báu, các thứ lọng báu, các thứ phan báu, các thứ cây báu, các thứ tràng hoa báu tự nhiên từ thập phương thế giới bay đến che Vô Tận Ý đại Bồ Tát để cúng dường.
Các thứ y, lọng, phan, thọ, tràng hoa báu ấy tự nhiên diễn nói lời rằng: “Lành thay lành thay! Thiện nam tử có thể khéo nói pháp môn vô tận ấy. Như lời ông đã nói, được chúng ta hứa khả”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Những y báu cúng dường như vậy từ xứ nào đến phát ra tiếng nói như vậy?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Lúc Vô Tận Ý Bồ Tát sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề giáo hoá các chúng sanh ây, nay họ đã thành Vô thượng Bồ đề ở thế giới mười phương. Đây là chư Phật Chánh Biến Tri kia vì biết ơn báo ơn nên sai các thứ báu ấy đến khen ngợi công đức chơn thiệt của Vô Tận Ý Bồ Tát và cũng cúng dường kinh điển được tuyên nói”.
Lúc nầy đại chúng đối với Vô Tận Ý Bồ Tát càng thêm cung kính tôn trọng tán thán đồng nói rằng: “Hôm nay chúng tôi mừng được đại lợi ích, được thấy Vô Tận Ý Bồ Tát cung kính cúng dường tôn trọng tán thán và được nghe pháp môn vô tận. Nếu có ai tai được nghe danh tự Vô Tận Ý Bồ Tát cũng được lợi ích lành hà huống mắt thấy gồm được nghe kinh nầy”.
Đức Thế Tôn ở trong đại chúng nghe lời ấy liền bảo Xá Lợi Phất Tôn giả rằng: “Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn học Bồ Tát đạo trong một kiếp cúng dường chư Phật học giới oai nghi do sức kham nhẫn tận sanh tử khổ tế của các chúng sanh,
siêng năng tinh tiến tu tập như cứu đầu cháy, nơi các thiền định nhứt tâm thành tựu trí huệ phương tiện, nếu rời lìa kinh điển nầy, ta nói người ấy chưa có thể đầy đủ sáu Ba la mật”.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe kinh điển nầy tin hiểu thọ trì đọc tụng giải nghĩa như thuyết tu hành, ta nói người ấy đã là đầy đủ sáu Ba la mật được thành tựu Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy?
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát thọ trì kinh nầy vì người diễn nói tức là đầy đủ Đàn Ba la mật. Tại sao? Vì trong các
sự bố thí thì pháp thí là hơn cả, chẳng hề quên mất tâm Bồ Tát .
Nếu trì kinh nầy tức là trì giới, nên có thể đầy đủ Thi Ba la mật. Tại sao? Vì cấm giới của tất cả Bồ Tát học được nhiếp nơi kinh nầy.
Nếu ở kinh nầy có thể kham nhẫn thích ưa, tất cả chúng sanh chẳng trở hoại được, có thể ở nơi đây tiến tu nhẫn nhục, tức là đầy đủ Sằn Đề Ba la mật.
Nếu ở kinh nầy siêng làm chuyển nói, thân khẩu ý ba nghiệp tinh tiến tu tập, tức là đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật.
Nếu ở kinh nầy tâm được tịch diệt không có tán loạn, nhứt tâm định ý phân biệt các tướng, tức là đầy đủ Thiền na Ba la mật.
Nếu ở kinh nầy tự được hiện trí, chẳng từ người nghe được chánh hành trí, tức là đầy đủ Bát Nhã Ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát siêng học kinh nầy nếu muốn đầy đủ các Ba la mật thì không khó.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát học tập kinh nầy thọ trì đọc tụng như thuyết tu hành biên chép
kinh quyển, nên biết người ấy tất cả Phật pháp đã ở trong tay.
Tánh tứ đại có thể biến đôỉ khác, tâm Bồ Tát ấy ở nơi Vô thượng Bồ đề chẳng thể còn chuyển đổi.
Nầy Xá Lợi Phất! Kinh điển nầy là ấn bất thối chuyển của Bồ Tát , vì vậy nên Bồ Tát phải cầu ấn ấy.
Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn thân cận ấn ấy thì tức là thân cận tất cả Phật pháp”.
Lúc bấy giờ Tứ Thiên Vương cùng các quyến thuộc từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng tôi là đệ tử Phật đã được dấu đạo. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì kinh nầy, chúng tôi kham nhiệm vì họ mà làm kẻ hộ vệ cung cấp hầu hạ, sẽ coi người ấy như đức Như Lai. Tại sao? Vì trong
kinh điển nầy xuất sanh các thừa vậy”.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thường theo Phật nghe vô lượng vô biên kinh điển, chưa từng được nghe kinh điển phân biệt nghĩa thậm thâm như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nơi xứ xứ, chỗ nào có diễn nói kinh nầy, đích thân tôi và
chư Thiên Đao Lợi sẽ đến đó nghe học, thủ hộ Pháp sư tăng thêm khí lực mạnh mẽ tinh tiến chánh niệm biện tài, khiến Pháp sư ấy ở trong đại chúng được vô sơ uý rộng có thể tuyên nói kinh điển như vậy”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Kiều Thi Ca! Ông có thể ủng hộ người thuyết pháp ấy khiến được dũng mãnh tinh tiến chánh niệm biện tài.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thể ủng hộ người thuyết pháp ấy tức là ủng hộ chư Phật chánh pháp. Người ủng hộ chánh pháp tức là người ủng hộ tất cả chúng sanh”.
Phạm Tự Tại Thiên Vương quỳ dài chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu xứ nào có kinh điển nầy lưu bố, đích thân tôi
cùng chư Phạm Thiên và quyến thuộc sẽ bỏ thiền hỉ lạc để đến đó nghe học thưa hỏi thỉnh cầu.
Lúc tôi đến đó sẽ hiện bốn điềm tướng khiến được hay biết:
Một là làm cho thấy quang minh vi diệu.
Hai là được nghe mùi hương thơm lạ.
Ba là khiến người thuyết pháp được vô ngại biện và chánh ức niệm, pháp được nói lành tốt chẳng mất chương cú.
Bốn là khiến đại chúng ấy phát tâm lành muốn vui mừng nghe pháp không có nhàm đủ.
Có bốn điềm tốt ấy, nên biết đó là Phạm Thiên Vương cùng quyến thuộc chư Phạm Thiên đích thân đến nghe pháp”.
Đệ Lục Dục Thiên Ma Ba Tuần chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh điển như vậy khiến thế lực tôi yếu kém. Tại sao? Vì nếu có Bồ Tát nghe kinh nầy thọ trì đọc tụng vì người mà rộng nói, phải biết người ấy tức là được thọ ký.
Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát như vậy đến xứ nào, đến thế giới chư Phật, nên biết như là đức Phật Thế Tôn.
Nay tôi có những tâm kiêu mạn tật đố cống cao, do sức oai đức của Vô Tận Ý mà đều bị xô dẹp hết cả.
Nay tôi sẽ thủ hộ kinh điển nầy và người thuyết pháp. Nơi nào có lưu bố kinh nầy, tôi chẳng khởi một niệm tâm trở ngại, huống là tự mình đến đó làm hại”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan rằng: “Nầy A Nan! Từ ngày hôm nay ông nên vì chánh pháp ở lâu thế gian mà thọ trì kinh điển nầy đọc tụng giải thuyết”.
Tôn giả A Nan liền đứng dậy chỉnh y phục trịch bày vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi kính
vâng lời Phật thọ trì kinh ấy, chỉ tự hận chẳng có thể rộng tuyên nói lưu bố như chư Bồ Tát”.
Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Ông nên an lòng. Nay ở trong pháp hội nầy có chư đại Bồ Tát có thể hộ trì khiến kinh điển nầy rộng tuyên lưu bố”.
Liền đó trong đại hội có sáu mươi ức chư đại Bồ Tát, những người đáng phải hộ pháp, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cần phải tuyên truyền kinh nầy đến khắp mười phương.
Tại Ta Bà thế giới nầy có Di Lặc Đại Sĩ, Ngài ở đây tự sẽ hộ trì kinh nầy và người thuyết pháp.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu lúc Phật diệt độ rồi, năm trăm năm sau, nếu có Bồ Tát nghe kinh điển nầy thọ trì đọc tụng, nên biết đều là sức oai thần của Di Lặc Bồ Tát kiến lập”.
Đức Phật khen chúng đại Bồ Tát hộ pháp rằng: “Lành thay lành thay! Chư Thiện nam tử! Các ông chẳng những ngày nay ở trước ta hộ trì chánh pháp, mà các ông cũng đã từng hộ trì chánh pháp của hằng hà sa số chư Phật quá khứ”.
Vô Tận Ý đại Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi tự dùng phần ít trí huệ nói kinh điển nầy, văn tự cú nghĩa ắt chẳng đầy đủ. Nay tôi ở trước chư phật và chư đại Bồ Tát đã thành tựu vô tận pháp mà sám hối tội lỗi”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Tận Ý! Nếu Bồ Tát có đủ bốn vô ngại trí thì chỗ giảng thuyết không có sai lầm. Bồ Tát như vậy được chơn không nghĩa phân
biệt pháp môn mới có thể tuyên nói kinh điển như vậy.
Nầy Vô Tận Ý! Nay ông đã đến chỗ đệ nhứt thành tựu tứ biện tự tại vô ngại. Kinh Đại thừa nầy chẳng từ người nghe mà có thể phân biệt.
Nầy Vô Tận Ý! Nay ông thành tựu bực trụ như vậy thân khẩu ý nghiệp không có sai lầm. Tai sao? Vì Bồ Tát tu tập ba nghiệp thành tựu thường dùng trí huệ làm căn bổn vậy.
Nầy Vô Tận Ý! Đã có vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật Thế Tôn đều đồng khen ngợi nghe ông thuyết pháp.
Nầy Vô Tận Ý! Ông trước đã ở chỗ ta và chư Phật cứu cánh sám hối không có sót mất”.
Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì và phụng trì thế nào?”.
Đức Phật nói: “Kinh nầy tên là Vô Tận Ý sở thuyết bất khả tận nghĩa chương cú pháp môn. Còn
có tên là Đại Tập. Ông nên phụng trì như vậy.
Nầy A Nan! Ông phải tín thọ kinh điển như vậy. Tại sao? Vì ông thọ trì kinh nầy rồi thì những pháp đã được trì niệm sẽ tăng hơn trước cả ngàn lần. Nếu vì người nói thì là kiến lập Phật sự vậy”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Vô Tận Ý đại Bồ Tát, các Tôn giả Xá Lợi Phất, A Nan, chư Thiên, Long, Thần, Càn Thát Bà, A
Tu La v.v…, tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng làm lễ mà đi.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment