Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 149
PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
Bồ Tát thiên nhãn thanh tịnh vì thấy được sắc không có trở ngại vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng ô nhiễm vì chẳng tham trước nơi các sắc vậy.
Bồ Tát thiên nhãn giải thoát vì xa lìa các kiến phiền não vậy.
Bồ Tát thiên nhãn sáng sạch vì tánh minh liễu vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng y chỉ vì lìa cảnh sở duyên vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng phát xuất vì đoạn dứt phiền não vậy.
Bồ Tát thiên nhãn không mờ vì đoạn dứt lưới nghi vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng khởi vì đoạn dứt chướng ngại vậy.
Bồ Tát thiên nhãn được sáng vì soi rõ
các pháp vậy.
Bồ Tát thiên nhãn niệm biết vì chẳng hành thức vậy.
Bồ Tát thiên nhãn không tham ái, sân khuể, ngu si vì hay dứt trừ các kiết sử vậy.
Bồ Tát thiên nhãn vô thượng vì thẳng đến thánh bổn vậy.
Bồ Tát thiên nhãn vô ngại vì quang minh bình đẳng chiếu chúng sanh vậy.
Bồ Tát thiên nhãn vô cấu vì dứt các ác pháp vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng nhiễm vì tánh thanh tịnh vậy.
Bồ Tát thiên nhãn nhập Phật nhãn vì cứu cánh chẳng bỏ vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng hệ phược vì dứt tham sân vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chiếu nghĩa xuất sanh chơn thiệt tu hành vì nhớ biết đạo pháp thanh tịnh vậy. Tại sao? Vì Đại Sĩ ấy an trụ đại bi thâm giải pháp tướng, khéo phân biệt nghĩa không có tranh tụng, tùy thấy nghe nói pháp trái pháp bất thiện, xu hướng đạo tràng tâm không
có chướng ngại, thấy người xan lẫn thì hay xả bỏ của cải bố thí, thấy kẻ phạm giới thì hay thanh tịnh trì giới, thấy người giận thù hay nhẫn chẳng tranh, thấy người giải đãi thì hay nhiếp thủ khuyên gắng, thấy người tán tâm thì chỉ dạy thiền chi, thấy người không có trí huệ thì hay ban cho huệ nhãn, thấy người hành tà đạo thì dạy họ thánh đạo, thấy người tu hạ hành thì vì họ nói Phật pháp thậm thâm vi diệu khiến nhập Nhứt thiết trí, chẳng thối thất các thần thông đầy đủ đạo Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát thiên nhãn thần thông mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thiên nhĩ thần thông cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát thiên nhĩ thần thông?
Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật có bao nhiêu âm thanh, những là âm thanh của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần, của Phi Nhơn và loài người, các âm thanh của Thánh Nhơn những là âm thanh của các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, chư Bồ Tát của bực Chánh Biến Tri, tất cả âm thanh ấy Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe rõ cả, nhẫn đến các chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ruồi, kiến, muỗi, mòng có bao nhiêu âm thanh đều nghe rõ cả.
Hoặc các chúng sanh tâm duyên chỗ nào là thiện hay bất thiện vô ký làm các sự nghiệp phát xuất âm thanh, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết tất cả.
Hoặc khẩu nghiệp thiện, khẩu nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp vô ký, Bồ Tát thiên nhĩ đều biết hết đúng thiệt.
Hoặc khẩu nghiệp nhơn ái dục mà nói sân nói
si, hoặc khẩu nghiệp nhơn sân hận mà nói dục ái nói ngu si, hoặc khẩu nghiệp nhơn ngu si mà nói ái dục nói sân hận.
Hoặc khẩu nghiệp nhơn dục ái nói dục ái, nhơn sân hận nói sân hận, nhơn ngu si nói ngu
si. Tất cả các tiếng nói như vậy, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết cả.
Hoặc có khẩu nghiệp tâm tịnh mà khẩu thô, hoặc tâm thô mà khẩu tịnh, hoặc tâm tịnh khẩu tịnh, hoặc tâm thô khẩu thô, Bồ Tát vô ngại thiên nhĩ đều nghe biết đúng thiệt.
Bồ Tát thiên nhĩ cũng nghe biết thánh thanh và phi thánh thanh.
Nếu nghe biết thánh thanh tâm chẳng ái trước, nếu nghe biết phi thánh thanh
tâm cũng không trở ngại. Nơi thánh thanh Bồ Tát ấy được đại từ, nơi phi thánh thanh Bồ Tát ấy được đại bi.
Bồ Tát ấy nếu nghe âm thanh quá khứ hay vị lai thì được tận bổn tế như thiệt chánh trí.
Bồ Tát thiên nhĩ được nghe diệu pháp của tất cả chư Phật Thế Tôn nói. Nghe rồi ghi nhớ chánh trí tổng trì chẳng quên chẳng mất, tuỳ căn khí chúng sanh mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát khéo biết các pháp tướng bền vững chẳng bền vững.
Bồ Tát thiên nhĩ nếu nghe một Phật nói pháp mà chẳng nghe chư Phật khác nói pháp thì
không có lẽ ấy.
Tất cả chư Phật diễn nói pháp, Bồ Tát ấy đều có thể nghe học cả.
Bồ Tát ấy nếu nghe tiếng thiện bất thiện vô ký đều khéo biết thời phi thời.
Đó là, hoặc chúng phải lúc mà chẳng phải lúc nói pháp thì nín lặng mà không nói.
Hoặc phải lúc nói pháp mà chẳng phải lúc có chúng, nghĩa là chánh vì một người hay lãnh thọ pháp nên nói pháp, mà chẳng vì tất cả chúng.
Hoặc sự chơn thiệt mà e rằng có hại cho người nên chẳng vì họ nói. Hoặc sự chẳng thiệt mà vì lợi ích cho người nên dùng tâm
thanh tịnh phương tiện được nói.
Hoặc âm thanh thích thì có thể được nghe, nếu âm thanh không
thích thì chẳng còn nghe.
Nếu nơi đại chúng lúc vì các
chúng sanh diễn nói pháp tuỳ nhĩ thức của họ nghe được hiểu được, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết cả.
Bồ Tát lúc ấy nói pháp, hoặc có các chúng sanh đáng được hiểu tỏ ấy liền được nghe pháp, nếu là kẻ không hiểu tỏ thì chẳng nghe nói pháp.
Bồ Tát thiên nhĩ pháp giới tánh thanh tịnh, vì tri kiến ngã, nhơn, chúng sanh đều thanh tịnh vậy.
Bồ Tát ấy chánh phân biệt nhĩ giới như tướng ngôn ngữ văn tự được nói.
Nếu có ngũ thú tạp loại chúng sanh, tuỳ chỗ nhận hiểu ngôn ngữ âm thanh của họ mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát đem thiên nhĩ ấy hồi hướng nhĩ giới của Như Lai được, vì chẳng cầu các thừa khác vậy.
Đây là Bồ Tát thiên nhĩ thần thông mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tri tha tâm
thông cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát tri tha tâm thông?
Tâm thượng trung hạ của các chúng sanh Bồ Tát đều biết.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn bố thí căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn trì giới căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn nhẫn nhục căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn tinh tiến căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn thiền định căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn trí huệ căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn từ bi hỷ xả căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn Thanh Văn, Duyên Giác Đại thừa căn.
Biết chúng sanh ấy nhơn lực tăng thượng thiện căn nên được thọ sanh nơi đây.
Biết chúng sanh ấy hành thanh tịnh mà tâm chẳng thanh tịnh.
Biết chúng sanh ấy hành thanh tịnh mà tâm bất tịnh.
Biết chúng sanh ấy hành và tâm đều thanh tịnh.
Biết chúng sanh ấy hành và tâm đều bất tịnh.
Biết chúng sanh ấy đời quá khứ tâm các căn hành nhơn.
Biết chúng sanh ấy tuỳ duyên ngộ pháp.
Đây gọi là Bồ Tát tha tâm trí.
Bồ Tát lại biết tâm đời vị lai của kẻ khác.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn trì giới, trong đời hiện tại có nhơn bố thí.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn nhẫn nhục, trong đời hiện tại có nhơn trì giới.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn tinh tiến, trong đời hiện tại có nhơn nhẫn nhục.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn thiền định, trong đời hiện tại có nhơn tinh tiến.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn trí huệ, trong đời hiện tại có nhơn thiền định.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn xuất thế, trong đời hiện tại có nhơn thế tục.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai phát nhơn Đại thừa, trong đời hiện tại có nhơn hạ căn.
Chúng sanh vị lai có những nhơn duyên như vậy, Bồ Tát có thể như thiệt biết các nhơn duyên ấy.
Bồ Tát với các chúng sanh chưa chấp nhận giáo hoá trọn không mỏi nhàm, đúng như tâm căn của họ đều biết đúng như thiệt, tuỷ khí lượng họ mà thuyết pháp cho họ.
Nếu người thích nghe ít thì
trọn chẳng nói nhiều, nói pháp ắt có lợi ích chẳng uổng công.
Đây gọi là Bồ Tát tri tha tâm trí.
Đời hiện tại chúng sanh sở hành tâm và tâm số pháp đều biết đúng thiệt.
Những là, dục tâm biết đúng thiệt. Dục tâm ly dục tâm biết đúng thiệt.
Ly dục tâm sân khuể biết đúng thiệt. Sân tâm ly sân tâm biết đúng thiệt.
Ly sân tâm si tâm biết đúng thiệt. Si tâm ly si tâm biết đúng thiệt.
Ly si tâm tán tâm biết đúng thiệt. Tán tâm nhiếp tâm biết đúng thiệt.
Nhiếp tâm giải đãi tâm biết đúng thiệt. Giải đãi tâm tinh tiến biết đúng thiệt.
Tinh tiến tâm hạ tâm biết đúng thiệt. Hạ tâm thượng tâm biết đúng thiệt.
Thượng tâm loạn tâm biết đúng thiệt. Loạn tâm định tâm biết đúng thiệt.
Định tâm không giải thoát tâm biết đúng thiệt. Không giải thoát tâm có giải thoát tâm biết đúng thiệt.
Có giải thoát tâm không tịch tĩnh tâm biết đúng thiệt, không tịch tĩnh tâm có tịch tĩnh tâm biết đúng thiệt.
Có tịch tĩnh tâm hữu lượng tâm biết đúng thiệt, hữu lượng tâm vô lượng tâm biết đúng thiệt.
Vô lượng tâm mỗi mỗi chúng sanh mỗi mỗi phiền não triền phược che đậy tâm ấy, tất cả đều biết. Biết như vậy rồi, đúng đạo xuất ly ấy mà vì họ thuyết pháp.
Lại chỗ ở của Bồ Tát ấy, trước quán sát chúng
sanh biết căn lượng của họ, tuỳ theo đó mà vì
họ nói pháp xuất yếu. Các chúng sanh ấy căn thượng trung hạ đều biết đúng thiệt.
Tâm Bồ Tát ấy lúc biết tâm người khác không có chướng ngại. Tại sao? Vì tâm biết của Bồ Tát ấy mãnh lợi khéo phân biệt vậy. Là chỗ biết của niệm ý tiến huệ vậy. Khéo hay hiểu rõ tướng Bồ đề vậy. Vì dứt các tập khí vậy. Vì thanh tịnh vô cấu vậy. Vì tỏ rõ không có tranh
vậy. Vì không có các phiền não vậy. Vì không có các dòng chảy vậy. Vì chiếu tất cả pháp vậy. Vì khéo nhập tất cả chúng sanh tâm vậy.
Có thể hiểu biết như vậy,vì tâm trí Bồ Tát ấy mãnh lợi, nơi các pháp như vậy chánh nhập biết đúng thiệt.
Đây gọi là Bồ Tát tha tâm trí thông mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát túc mạng trí thông cũng
chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát túc mạng trí thông?
Bồ Tát ấy nhớ sự việc đời trước hoặc của mình hoặc của người khác đều khéo nhận nhớ lấy, an trụ pháp giới không có khuynh động. Không khuynh động thì có thể khéo hiểu rõ khéo tác nghiệp vậy.
Niệm nhớ ấy không có nhiễu não vì an trụ thiền định vậy.
Niệm nhớ ấy vô uý vì nhiếp trí huệ vậy.
Niệm nhớ ấy chẳng từ người khác cầu vì hiện được khéo biết rõ vậy.
Niệm nhớ ấy nhớ đúng vì cứu cánh chẳng mất vậy.
Niệm nhớ ấy trợ công đức vì khéo hiểu Đại thừa vậy.
Niệm nhớ ấy trợ trí vì chẳng từ người khác mà đầy đủ vậy.
Niệm nhớ ấy thiện căn các Ba la mật đầy đủ vì có thể đến tất cả Phật pháp vậy.
Túc mạng trí ấy nếu niệm nhớ một đời, hai đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn đời, và trời đất thành hoại, vô lượng đời thành, vô lượng đời hoại, vô lượng đời thành hoại, vô lượng kiếp thành hoại, biết chúng sanh trong ấy, chủng tánh như vậy, danh tự như vậy, sắc tượng như vậy, ẩm thực như vậy, thọ mạng như vậy, thọ khổ lạc v.v…, ở trong ấy chết sanh lại trong ấy, ở trong kia chết trở lại sanh trong kia. Bồ Tát ấy niệm nhớ vô lượng sanh tử như vậy. Niệm nhớ đời quá khứ của mình và của các chúng sanh cùng tận quá khứ tế.
Bồ Tát ấy tự nhớ thiện căn của mình hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Nhớ thiện căn người nguyện phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát ấy dùng tâm chánh niệm nơi sanh tử hành khổ đời trước khéo quán vô thường, khổ, vô ngã. Hoặc quán vô thường, khổ, vô ngã rồi các sắc dục phong ấp, bổng lộc, thọ mạng, quyến thuộc, thế lực đều không tham trước. Cũng lại chẳng tham Thích, Phạm, Hộ Thế Chuyển Luân Thánh Vương, và chỗ thọ sanh ngũ dục hoan lạc. Vì giáo hoá chúng sanh mà hiện thọ sanh.
Bồ Tát ấy niệm vô thường, khổ, vô ngã rồi, những lỗi lầm quá khứ đều phát lộ sám hối. Hiện đời các ác trọn chẳng làm dầu phải mất thân mạng. Thiện căn quá khứ muốn tăng trưởng rộng lớn hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Hiện tại thiện căn cùng chúng sanh chung hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Bồ Tát ấy lìa các ác pháp vì nguyện chẳng dứt giống Tam bửu vậy. Có bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát niệm túc mạng trí mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát như ý thần thông cũng chẳng thể tận.
Thế nào là như ý thần thông?
Nếu các pháp được nhiếp của dục tiến tâm và huệ điều phục nhu hoà tâm được tự tại, vì khéo tu tập nên hiện tại có thể được như ý thần thông như vậy.
Bồ Tát ấy làm các thứ thần thông biến hoá, dùng thần thông ấy để giáo hoá chúng sanh.
Bồ Tát ấy mỗi mỗi thị hiện các thứ thần thông giáo hoá chúng sanh, những là hoặc sắc tướng hoặc lực thế, hoặc biến hoá.
Bồ Tát ấy thị hiện sắc tướng cho chúng sanh
thấy, thấy rồi tâm phục. Đó là hoặc sắc tượng Phật, sắc tượng Duyên Giác, sắc tượng Thanh Văn, sắc tượng Thích, Phạm, Hộ Thế các Thánh Vương, và các thứ vô lượng sắc tượng khác, nhẫn đến thị hiện sắc tượng súc sanh. Vì giáo hoá chúng sanh mà thị hiện những sắc tượng như vậy. Thị hiện như vậy rồi tuỳ sở ưng mà thuyết pháp.
Nếu có chúng sanh tự cho thân mình có đại lực mà khởi kiêu mạn, giận dữ, cống cao, vì muốn điều phục hạng chúng sanh ấy nên Bồ Tát thị hiện đại lực. Hoặc hiện sức lực một phần tư sức lực na la diên, hoặc hai phần tư, hoặc ba phần tư, hoặc thị hiện toàn thế lực na la diên.
Núi Tu Di cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, ngang rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, dùng ba ngón tay
cầm lên ném xa ngoài vô lượng thế giới phương khác, như là ném một quả a ma lặc. Nơi sức lực Bồ Tát không có tổn giảm. Hoặc bứt lấy Đại Thiên thế giới đến dưới thuỷ tế, dùng tay đưa lên cao đến Trời Hữu Đảnh đứng vậy trải qua một kiếp. Lúc Bồ Tát thành tựu thị hiện đại thế lực như vậy, có thể làm cho hàng chúng
sanh giận dữ cống cao, kiêu mạn kia nội tâm họ khéo điều phục.
Biết họ điều phục rồi, Bồ Tát ấy tuỳ ưng mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát ấy tu như ý thần thông có thể được thế lực trí huệ biến hoá.
Do sức biến hoá ấy nên chỗ muốn làm đều được thành tựu.
Bồ Tát ấy có thể biến đại hải làm dấu chưn trâu mà đại hải không nhỏ, hay biến dấu chưn trâu làm đại hải mà dấu chưn trâu chẳng lớn.
Hoặc kiếp sắp tận lúc hoả tai khởi lên, muốn biến làm nước thì có thể biến như ý muốn, lúc thuỷ tai khởi hay biến làm lửa, lúc phong tai khởi hay biến làm lửa, lúc hỏa tai khởi hay biến làm phong, các sự biến hoá ấy đều thành tựu được như ý muốn.
Hoặc pháp thượng trung hạ tuỳ ý biến hoá, chỉ trừ chư Phật, không còn ai có thể di động trở ngại phá hoại được như ý thần thông của Bồ Tát, như là Thích, Phạm, Hộ Thế, ma vương và quyến thuộc.
Bồ Tát ấy thị hiện các thứ biến hoá cho chúng sanh được hoan hỷ rồi tuỳ ý mà vì họ thuyết pháp.
Thần thông của Bồ Tát ấy dũng kiện tự tại hay siêu quá cảnh giới các ma phiền não nhập vào Phật giới chẳng nhiễu não chúng sanh, bao nhiêu thiện căn đều được thành tựu. Tất cả ma chúng không có
thể đoạn dứt được.
Đây gọi là Bồ Tát như ý thần thông mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát bốn nhiếp pháp cũng chẳng thể tận.
Những gì là bốn? Đó là: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng lợi.
Thế nào là Bố thí nhiếp?
Bố thí có hai thứ là Tài thí và Pháp thí.
Thế nào là Ái ngữ nhiếp?
Với người cầu xin của cải và người nghe pháp thì nhu hoà nói năng với họ.
Thế nào là Lợi hành nhiếp?
Nơi người cầu xin tài vật và người nghe pháp, tuỳ sở cầu của họ đều làm thoả mãn đầy đủ.
Thế nào là Đồng lợi nhiếp?
Nơi người cầu tài cầu pháp, đem lợi Đại thừa của mình mà khiến họ an ở nơi ấy.
Lại Bố thí ấy, thấy người cầu xin sanh lòng
thanh tịnh.
Ái ngữ ấy, nơi các người xin sanh lòng hoan hỷ.
Lợi hành ấy, nơi các người xin tuỳ chỗ được lợi đều khiến họ đầy đủ.
Đồng lợi ấy, thường đem Đại thừa dạy chúng sanh.
Lại nữa, Bố thí ấy đó là tâm xả thí.
Ái ngữ, đó là làm không có chừng hạn.
Lợi hành ấy, đó là cứu cánh chẳng hối.
Đồng lợi ấy, đó là hồi hướng Đại thừa.
Lại nữa, Bố thí ấy đó là khởi tâm từ hành xả thí.
Ái ngữ ấy, đó là chẳng bỏ tâm hỷ.
Lợi hành ấy, đó là đại bi trang nghiêm lợi ích chúng sanh.
Đồng lợi ấy, đó là bỏ tâm cao hạ mà phát tâm hồi hướng Nhứt thiết chủng trí.
Lại nữa, Bố thí ấy đó là cầu tài đúng pháp thanh tịnh bố thí.
Ái ngữ ấy, đó là dìu dắt kẻ thương mến đặt ở thiên pháp.
Lợi hành ấy, đó là nói lợi của mình để người được lợi ích.
Đồng lợi ấy, đó là khiến các chúng sanh phát tâm Nhứt thiết trí.
Lại nữa, Bố thí ấy đó là xả bỏ nội tài, ngoại tài.
Ái ngữ ấy, đó là công đức trí huệ tâm không lẫn tiếc.
Lợi hành ấy đó là xả tự lợi hành mà hành lợi tha.
Đồng lợi ấy đó là lìa bỏ ngôi vị quan trọng lòng chẳng hề hối tiếc.
Lại nữa, Pháp thí ấy đó là như pháp được nghe đều có thể diễn nói.
Ái ngữ ấy đó là chẳng vì lợi dưỡng mà thuyết pháp.
Lợi hành ấy đó là dạy người phúng tụng tâm không có mỏi nhàm.
Đồng lợi ấy đó là Nhứt thiết trí tâm chỗ được diệu pháp, liền đem pháp ấy khuyên gắng chúng sanh.
Còn nữa, Pháp thí ấy đó là nếu có các chúng sanh mỗi người mỗi người nghe pháp, theo thứ đệ mà nói pháp không có lầm lộn.
Ái ngữ ấy đó là vì người thuyết pháp chẳng từ xa gần.
Lợi hành ấy đó là có người cầu pháp thì cung cấp cho họ những uống ăn, y phục, giường nệm, thuốc men không để họ thiếu thốn rồi sau đó tuỳ ưng mà vì họ thuyết pháp.
Đồng lợi ấy đó là phàm nói pháp thường khuyên chúng
sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Còn nữa, Pháp thí ấy đó là biết trong các bố thí, đây là tối thắng, đem thăng pháp nầy vì người mà diễn nói.
Ái ngữ ấy đó là thường vì lợi ích chúng sanh mà
thuyết pháp.
Lợi hành ấy đó là tuỳ nghĩa mà nói chớ chẳng tuỳ văn tự.
Đồng lợi ấy đó là thường vì đầy đủ Phật pháp mà nói pháp.
Còn nữa, Bố thí ấy đó là đầy đủ Đàn Ba la mật.
Ái ngữ ấy, đó là đầy đủ Thi la và Sằn đề Ba la mật.
Lợi hành ấy, đó là đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật.
Đồng lợi ấy, đó là đầy đủ Thiền na và Bát Nhã Ba la mật.
Còn nữa, Bố thí ấy đó là sơ phát tâm Bồ đề.
Ái ngữ ấy, đó là tu hành Bồ đề.
Lợi hành ấy, đó là chẳng thối Bồ đề.
Đồng lợi ấy, đó là bực Nhứt sanh bổ xứ.
Còn nữa, Bố thí ấy đó là an trụ Bồ đề chủng tử căn bổn.
Ái ngữ ấy đó là tư trưởng Bồ đề mầm cây nhánh lá.
Lợi hành ấy đó là lần lần đơm nở hoa Bồ đề.
Đồng lợi ấy đó là đã có thể thành tựu trái hột Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát Tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ vô ngại trí cũng chẳng thể tận.
Thế nào là bốn?
Một là nghĩa vô ngại. Hai là Pháp vô ngại. Ba là Từ vô ngại. Bốn là Lạc thuyết vô ngại.
Thế nào là nghĩa vô ngại trí?
Ở trong các pháp biết đệ nhứt nghĩa đế, là tỉ trí, là nhơn trí, là duyên
trí, là hoà hiệp trí, là ly biến trí, là chẳng trụ chung trí, là thập nhị duyên trí, là chẳng khác pháp tánh trí, là như thiệt trí, là chơn tế trí, là giác không không trí, là vô tướng tướng trí, là vô nguyện nguyện trí, là vô vi vi
trí, là quán nhứt tướng trí, là quán vô
ngã trí, là quán vô chúng sanh trí, là quán vô thọ mạng trí, là quán đệ nhứt nghĩa trí, là
quán quá khứ vô ngại trí, là quán vị lai vô biên trí, là quán hiện tại Nhứt thiết chủng trí, là quán các ấm như oán tặc trí, là quán các
giới như độc xà trí, là các nhập như xóm vắng trống trí, là quán nội pháp vĩnh tịch diệt trí, là quán ngoại pháp vô hành xứ trí, là quán sở duyên như ảo hoá trí, là quán
niệm chánh trụ trí, là quán nhẫn chánh pháp trí, là quán tự thân trí, là quán chơn đế trí, là khổ chẳng hoà hiệp trí, là tập chẳng tạo tác trí, là diệt tự tánh trí, là đạo hay đến trí, là phân biệt các pháp trí, là
quán chúng sanh các căn tâm hành tuỳ sở nhập trí, là các lực không gì phục được trí, là các giác
như thiệt hiểu trí, là thiền định thọ trì trí, là huệ quang minh trí, là
ảo hoá trang nghiêm trí, là sự muốn trông mộng trí, là tiếng vang cảnh sở duyên trí, là như tượng trong gương không có khứ lai trí, là các thứ tướng không có tướng trí, là ách ly
ách trí, là thủ sanh ly sanh trí, là Thanh Văn thừa theo người nghe trí, là Duyên Giác thừa quán mười hai duyên trí, là
Đại thừa đầy đủ các thiện căn trí. Đây gọi là Bồ Tát Nghĩa vô ngại trí.
Còn nữa, Nghĩa vô ngại là:
Tư duy nghĩa tất cả pháp. Tại sao?
Tất cả pháp ấy không có ngã, nhơn, thọ mạng, chúng sanh. Như không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng thì gọi là nghĩa.
Còn nữa, Nghĩa vô ngại là:
Là vô trụ thuyết. Là vô tận thuyết. Là đắc nhứt thiết pháp thuyết.
Nghĩa vô ngại như vậy được chư Phật hứa khả, là chơn thiệt nghĩa vô biệt vô dị, trí huệ phân biệt không có chướng ngại.
Đây gọi là Bồ Tát Nghĩa vô ngại mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát pháp vô ngại trí?
Bồ Tát quán các pháp, những là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế, pháp nên làm, pháp chẳng nên làm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hắc, pháp bạch, pháp sanh tử, pháp Niết bàn. Trí ấy pháp tánh bình đẳng, trí ấy Bồ đề bình đẳng, trí ấy tánh bình đẳng, đây gọi là Pháp vô ngại trí.
Còn nữa, Pháp vô ngại trí ấy:
Quán các chúng sanh tâm hành đa dục, tâm hành thiểu dục, tâm hành sơ phát dục, tâm hành dục tướng, tâm hành hiện tại dục được duyên, tâm hành
hiện tại dục nhơn duyên, có các
chúng sanh nội có dục hành mà ngoại không có dục hành, hoặc ngoại có dục hành mà nội không có dục hành, hoặc nội ngoại đều có dục hành, hoặc nội ngoại đều không dục hành, hoặc sắc dục hành mà chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, hoặc thanh dục hành mà chẳng phải sắc, hương, vị, xúc, hoặc hương dục hành mà chẳng phải sắc thanh vị xúc, hoặc vị dục hành mà chẳng phải sắc, thanh, hương, xúc, hoặc có xúc dục hành mà chẳng phải sanh thanh, hương, vị. Nhập môn hành quán
chúng sanh các dục hành như vậy. Dục hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Sân
hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Si hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Đẳng phần hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Bồ Tát quán chúng sanh có tám vạn bốn ngàn hành như vậy, đều như thiệt biết rõ cả, biết rồi tuỳ sở ưng mà vì họ thuyết pháp.
Đây gọi là Bồ Tát Pháp vô ngại trí mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát Từ vô ngại trí?
Nơi các âm thanh đều quán biết rõ:
Những là ngữ ngôn văn tự âm thanh của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần, Nhơn và Phi Nhơn thảy đều có thể biết cả. Ngũ đạo tạp loại chúng sanh như vậy, tuỳ theo chủng loại ấy mỗi mỗi ngữ ngôn văn tự âm thanh mà vì họ thuyết pháp. Đây gọi là Từ vô ngại trí.
Ngữ pháp văn tự như vậy, Bồ Tát tư duy hiểu rõ vô ngại.
Bồ Tát biết một ngôn ngữ, hai, ba ngôn ngữ nhẫn đến nhiều ngôn ngữ, ngôn ngữ của nam, của nữ, của phi nam nữ, ngôn ngữ quá khứ, vị lai, hiện tại đều biết rõ cả. Biết ngôn ngữ chứa một chữ đến nhiều chữ. Đây gọi là Từ vô ngại trí.
Từ vô ngại trí ấy, lúc nói không có sai lầm không có trệ ngại, lời nói vi diệu thông sướng chắc thiệt chánh trực không có thô, bao
nhiêu văn từ đầy đủ trang nghiêm, thính chúng được nghe không ai là
chẳng hoan hỷ. Các thứ âm thanh vi diệu như vậy, sâu xa rộng khắp trang nghiêm tục đế và đệ nhứt nghĩa đế. Dùng tên trí huệ khéo bắn tà kiến. Từ vô ngại ấy được chư Phật hứa khả, có thể làm cho chúng sanh
đêu hoan hỷ.
Đây gọi là Bồ Tát Từ vô ngại trí mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Thế nào là đại Bồ Tát Lạc thuyết vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận?
Diễn nói vô ngại, diễn nói chẳng trụ, diễn nói nhanh lẹ, diễn nói nhạy bén, như chỗ hỏi đáp, trả lời không có chướng ngại, trả lời không có chống trái, là trả lời tương ưng, trả lời trụ sức, nhẫn nhịn, trả lời y nơi hai đế, trả lời y nơi thí, giới, nhẫn, tiến, định, huệ, trả lời y nơi tất cả pháp chương cú, trả lời y nơi nghĩa thậm thâm của niệm, xứ, chánh cần, như ý, căn, lực, giác đạo, trả lời y nơi tịch diệt tư duy, đây là Lạc thuyết vô ngại trí.
Lạc thuyết vô ngại trí ấy, nếu tất cả ngôn ngữ văn tự phân biệt chánh trực mà đáp. Đó là tất cả thiền định tam ma bạt đề chơn đế trí mà đáp, biện luận thông sướng ba thừa tuỳ tâm hành tất cả chúng sanh như chỗ sở ưng mà đáp, lời nói xảo diệu, chẳng phải như dê câm thô bạo điệu hí, không hề có những lời lẽ xấu dở như vậy. Lời nói ra tịch diệt được người thọ dụng. Lời nói oai đức không có triền phược, lời nói tương ưng không trái vi diệu nhu hoà. Lời nói không bị chê trách được thánh nhơn khen. Như lời dạy bảo của Phật Thế Tôn phạm âm trong suốt tất cả đều nghe.
Lạc thuyết vô ngại trí ấy được Phật hứa khả vì chúng sanh khác
mà nói pháp vi diệu, nghe pháp ấy được vui xuất thế dứt hết các khổ. Đây gọi là Lạc thuyết vô ngại trí vậy.
Thưa Tôn giả! Đây gọi là đại Bồ Tát tứ vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có bốn y pháp chẳng cùng tận.
Những gì là Bốn y?
Y nghĩa chẳng y ngữ, y trí chẳng y thức, y kinh liễu nghĩa chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa và y pháp chẳng y nhơn.
Thế nào là Bồ Tát Y nghĩa chẳng y ngữ?
Ngữ ấy, là nếu nhập vào trong thế pháp thì có chỗ nói. Nghĩa ấy là hiểu pháp xuất thế không có tướng văn tự.
Ngữ ấy, là nói bố thí điều phục ủng hộ. Nghĩa ấy, là biết thí, giới, nhẫn vào tánh bình đẳng.
Ngữ ấy, là xưng nói sanh tử. Nghĩa ấy, là biết sanh tử không có tánh.
Ngữ ấy, là nói Niết bàn vị. Nghĩa ấy, là biết Niết bàn không có tánh.
Ngữ ấy, là nói các thừa tuỳ chỗ an ở. Nghĩa ấy, là khéo biết các thừa nhập vào môn trí nhứt tướng.
Ngữ ấy, hoặc nói các xả thí. Nghĩa ấy, ba thứ thanh tịnh.
Ngữ ấy, là nói thân khẩu ý thọ trì tinh giới công đức oai nghi. Nghĩa ấy là tỏ thân khẩu ý đều không có sở tác mà có thể hộ trì tất cả tinh giới.
Ngữ ấy, nếu nói nhẫn nhục dứt trừ sân khuể, cống cao, kiêu mạn. Nghĩa ấy, tỏ thấu các pháp được Vô sanh nhẫn.
Ngữ ấy, nếu nói siêng tu tất cả thiện căn. Nghĩa ấy, an trụ tinh tiến không có chung thuỷ.
Ngữ ấy, nếu nói các thiền giải thoát tam muội. Nghĩa ấy, biết diệt tận định.
Ngữ ấy, đều có thể khai thị tất cả văn tự trí huệ thiện căn. Nghĩa ấy, biết nghĩa huệ ấy chẳng thể tuyên nói.
Ngữ ấy, nói ba mươi bảy pháp trợ đạo. Nghĩa ấy, chánh biết tu hành các trợ đạo pháp hay chứng được quả.
Ngữ ấy, nói khổ tập đạo đế. Nghĩa ấy, chứng được diệt đế.
Ngữ ấy, nói vô minh căn bổn nhẫn đến sanh duyên lão tử. Nghĩa ấy, biết vô minh diệt nhẫn đến sanh lão tử diệt.
Ngữ ấy, nói pháp trợ định huệ. Nghĩa ấy, sáng trí giải thoát.
Ngữ ấy, nói tham khuể si. Nghĩa ấy, hiểu ba bất thiện căn tức là giải thoát.
Ngữ ấy, thoát pháp chướng ngại. Nghĩa ấy, được vô ngại giải thoát.
Ngữ ấy, xưng nói Tam bửu vô lượng công đức. Nghĩa ấy, Tam bửu công đức ly dục pháp tánh đồng tướng vô vi.
Ngữ ấy, nói từ phát tâm đến ngồi đạo tràng, tu tập trang nghiêm Bồ đề công đức. Nghĩa ấy, dung một niệm huệ giác liễu tất cả pháp.
Tóm lại, có thể nói tám vạn bốn ngàn pháp trụ, đây gọi là ngữ. Biết các văn tự chẳng thể tuyên nói, đây gọi là nghĩa.
Đây gọi là Bồ Tát Y nghĩa chẳng y ngữ.
Thế nào là Bồ Tát Y trí chẳng y thức?
Thức ấy có bốn xứ thức ở:
Thức ở nơi sắc, thức ở nơi thọ, thức ở nơi tưởng và thức ở nơi hành.
Người trí biết rõ tánh bốn thức không có chỗ ở.
Người thức, hoặc biết địa đại, thuỷ đại, hoả đại và phong đại. Người trí biết ở tứ đại pháp tánh không có khác.
Người thức, nhãn thức trụ nơi sắc, nhĩ thức trụ nơi thanh, tỷ thức trụ nơi hương, thiệt thức trụ nơi vị, thân thức trụ nơi xúc và ý thức trụ nơi pháp.
Người trí, nội tánh tịch diệt còn ngoại tánh thì vô sở hành, biết rõ các pháp không
có ức tưởng.
Người thức, duyên lấy cảnh sở duyên để tư duy phân biệt.
Người trí, tâm không có
cảnh sở duyên chẳng lấy tướng mạo, ở trong các pháp
không có mong cầu.
Người thức, hành pháp hữu vi.
Người trí, biết pháp vô vi thức không có sở hành, vô vi pháp
tánh không có thức tri.
Thức ấy, tướng sanh trụ diệt.
Trí ấy, không có tướng sanh trụ diệt.
Đây gọi là Bồ Tát Y trí chẳng y thức.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát y kinh liễu nghĩa mà chẳng Y kinh chẳng liễu nghĩa?
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, phân biệt tu tập đạo.
Kinh liễu nghĩa ấy, chẳng phân biệt quả.
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, chỗ làm hành nghiệp tin có quả báo.
Kinh liễu nghĩa ấy, hết các phiền não.
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, quở các phiền não.
Kinh liễu nghĩa ấy, tán thán pháp bạch tịnh.
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, nói sanh tử khổ não.
Kinh liễu nghĩa ấy, sanh tử và Niết bàn một tướng không có hai.
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, khen nói các thứ trang nghiêm văn tự.
Kinh liễu nghĩa ấy, nói kinh thậm thâm khó thọ trì khó hiểu tỏ.
Kinh bất liễu nghĩa ấy, phần nhiều vì chúng sanh nói tướng tội tướng phước, khiến người nghe pháp sanh lòng lo sợ hay ưa thích.
Kinh liễu nghĩa ấy, phàm pháp được nói làm cho người nghe tâm họ được điều phục.
Kinh bất liễu nghĩa ấy, hoặc diễn nói ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, các thứ văn từ, các pháp không có thí giả, thọ giả mà vì chúng sanh nói có thí có thọ.
Kinh liễu nghĩa ấy, nói không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh,
không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, không có tác giả, thọ giả, thường nói vô lượng môn giải thoát.
Đây gọi là Bồ Tát Y kinh liễu nghĩa mà chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát Y pháp mà chẳng y nơi người?
Người ấy, nhiếp lấy nhơn, kiến, tác giả, thọ giả.
Pháp ấy, hiểu không có nhơn, kiến, thọ giả, tác giả.
Người ấy, phàm phu, người lành, tín hành nhơn, pháp hành nhơn, bát nhơn, người Tu Đà Hoàn, người Tư Đà Hàm, người A Na Hàm, bực A La Hán, bực Bích Chi Phật, bực Bồ Tát. Một người xuất thế thì làm cho nhiều người lợi ích nhiều người thọ lạc, thương xót chúng sanh
phát lòng đại bi, ở trong nhơn thiên có nhiều tư nhuận, đó là đức Phật Thế Tôn. Các điều như vậy gọi là đức Phật y theo thế tục đế vì giáo hoá chúng
sanh nên diễn nói pháp như vậy.
Nếu có người nhiếp lấy sự thấy biết như vậy thì gọi là y nhơn.
Đức Như Lai vì giáo hoá người nhiếp nhơn kiến ấy nên nói phải y nơi pháp mà chẳng y nơi nhơn.
Pháp tánh ấy, chẳng biến chẳng đổi, không tác không chẳng tác, không trụ không chẳng trụ, tất cả bình đẳng. Bình đẳng cũng bình đẳng, mà bất bình đẳng ấy cũng bình đẳng. Không có nhơn không có duyên được chánh quyết định, nơi tất cả pháp không có diệt không có dị, tánh tướng vô ngại dường như hư không, đây gọi là pháp tánh.
Nếu người y chỉ pháp tánh ấy thì trọn không hề rơi lìa pháp nhứt tướng. Người nhập môn ấy thấy tất cả pháp đồng nhứt pháp tánh. Vì vậy nên nói Bồ Tát y nơi tất cả pháp mà chẳng y nơi nhơn.
Đây gọi là Bồ Tát Tứ y vô tận vậy.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu tập trợ đạo công đức trí huệ cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát tu tập công đức vô tận?
Bồ Tát nếu bố thí trì giới tâm chỗ tu tập phát hành từ bi, tự có phạm tội thì phát lộ sám hối cũng thay thế chúng sanh mà phát lộ sám hối, đã làm sám hối rồi kế nên tuỳ hỉ.
Bồ Tát hạnh tuỳ hỉ thế nào?
Tất cả chúng sanh, bực hữu học vô học, bực Bích Chi Phật, Bồ Tát phát tâm người đã tu tập, bực kiên trụ bất thối, bực nhứt sanh bổ xứ, các người như vậy trong tam thế tích tập công đức, nên dùng nhứt tâm tuỳ họ hoan hỷ.
Lại ở nơi tam thế chư Phật Thế Tôn có bao nhiêu thiện căn đều nhứt tâm tuỳ hỉ.
Bồ Tát tuỳ hỉ nầy cũng sẽ thành tựu tất cả công đức như vậy.
Tuỳ hỉ công đức xong rồi, kế nên khuyến thỉnh mười phương thế giới tất cả chư Phật mới thành đạo Vô thượng Bồ đề ấy chuyển pháp luân. Chư Phật Thế Tôn muốn nhập Niết bàn thì thỉnh ở lâu trong đời.
Lại cũng thỉnh tất cả Bồ Tát thánh nhơn thường vì chúng sanh mà trụ thế thuyết pháp.
Những thiện căn như vậy cùng tưởng như thiện căn, tất cả đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát ấy, nói với người chưa phát tâm thì khuyên họ phát tâm. Với người đã phát tâm thì vì họ mà nói các Ba la mật. Với kẻ bần cùng thì dùng tài vật cứu nhiếp họ. Với kẻ bịnh tật thì cho thuốc và tuỳ thời nghi chăm sóc. Với kẻ không thế lực thì khuyên họ nhẫn nhục. Với kẻ phạm cấm giới thì khuyên họ chớ giấu che. Với kẻ đã che giấu tội thì khuyên họ phát lộ. Nơi chư Phật hiện tại và đã Niết bàn đều cung kính cúng dường. Kính trọng bực Sư trưởng coi như Phật Thế Tôn. Lúc có cầu chánh pháp thì dầu mất mạng cũng chẳng biếng nhác. Nơi pháp bửu ấy tưởng như báu vô giá. Nơi người thuyết pháp tưởng như Phật.Vì nghe pháp dầu xa quá trăm do tuần mà tâm lực mạnh mẽ không có ý tưởng mệt nhọc. Khi diễn giảng chánh pháp không vì lợi dưỡng. Với cha mẹ thì biết ơn báo ơn, cúng dường hầu hạ không hề nhàm hối. Các công đức được làm không hề nhàm đủ. Giữ gìn thân khẩu ý không để có siểm khúc. Công đức xây dựng Phật pháp bằng với phước của Phạm Thiên khuyến thỉnh Phật. Tại sao? Vì đầy đủ các thứ tướng tốt mở cửa đại thí vậy, vì được tuỳ hình hảo tu các thiện căn vậy, vì trang nghiêm thân không có kiêu mạn vậy, vì trang nghiêm
khẩu không có lỗi nơi miệng vậy, vì trang nghiêm
ý không có trụ nơi pháp vậy, vì trang nghiêm
Phật độ thần thông giáo hoá vậy, vì trang nghiêm pháp rời lìa các dục vậy, vì trang nghiêm Tăng vì không có lưỡng thiệt ác khẩu phá hoại người vậy, vì thuyết pháp hoan hỷ xưng tán thiện pháp vậy, vì công nghiệp được làm chẳng luống uổng vậy, vì lìa phú cái
nên đến nghe pháp vậy, vì trang nghiêm cội Bồ đề nên đem vườn rừng cúng dâng cho Phật vậy, vì trang nghiêm
đạo tràng mà thành tựu tất cả thiện căn vậy. Vì xuất sanh thanh tịnh chẳng bị tất cả phiền não nhiễm ô vậy. Được bửu thủ vì có thể xả bỏ tất cả vật được coi trọng vậy. Được vô tận vì đem vô lượng bửu tàng mà bố thí vậy. Người thấy vui mừng vì thường hoà vui vậy. Thể được pháp tánh vì tâm
huệ quang minh chiếu khắp chúng sanh vậy. Trang nghiêm quang minh vì chẳng khinh kẻ chưa học mà khéo dìu dắt họ vậy. Đời đời thường thanh tịnh vì trì giới công đức đều thành tựu vậy. Ở trong thai thanh tịnh vì chẳng thấy tội người vậy. Sanh nhơn thiên vì thanh tịnh hành thập thiện vậy. Huệ sáng độc bộ vì người được giáo hoá chẳng sanh phân biệt vậy. Nơi pháp được tự tại vì pháp được mến trọng không lẫn tiếc vậy. Trong thế gian riêng mình thù thắng vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Vi diệu giải thoát vì chẳng cầu ít phần pháp hành vậy. Hành tất cả công đức vì chẳng bỏ Nhứt thiết trí tâm vậy. Thất tài đầy đủ vì lấy tính làm căn bổn vậy. Nhiếp thủ chánh pháp vì chẳng tiếc thân mạng vậy. Chẳng dối phỉnh thế gian vì đủ bổn nguyện vậy. Đầy đủ tất cả Phật pháp vì các thiện căn mỗi mỗi môn đều đã hành cả vậy.
Đây là lược nói Bồ Tát công đức. Nếu nói rộng ra thì dầu trải qua một kiếp hay hơn một kiếp nói cũng chẳng hết được.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát trí huệ vô tận?
Hoặc mỗi mỗi nhơn nghe trí huệ, hoặc mỗi mỗi duyên được trí huệ.
Thế nào là nhơn? Nội tăng thượng dục.
Thế nào là duyên? Ngoại cần cầu pháp.
Nhơn và duyên như vậy y nơi Phật trí huệ, chẳng phải y nơi trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác.
Bồ Tát ấy thân cận trí giả tâm không có kiêu mạn. Ở nơi người lòng tưởng như Phật. Các trí giả ấy biết người học pháp tâm đã hoà
nhu nên vì họ nói trí huệ dạy họ y chỉ, tuỳ theo căn chánh khí mà nói pháp vô nhiễm. Người nghe pháp ở trong ấy siêng tu hành tụ tập trợ pháp tinh tiến, đây là trí huệ.
Thế nào là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến?
Bồ Tát không có mong cầu bỏ tuyệt sự vụ bớt ít nói chuyện. Nơi các thứ sở dục tâm thường biết đủ. Đầu hôm cuối đêm bớt ngủ nghỉ. Những pháp nghĩa được nghe hay khéo tư duy suy lường phân biệt, luôn cầu thiện pháp tâm không ái
trược, trừ các ấm cái không bị chướng che, những lỗi lầm đã phạm liền hay trừ diệt, chánh hạnh kiên cố xu hướng ngưỡng mộ, tôn kính pháp hành đủ tinh tiến hành, cầu pháp chẳng trể như cứu đầu cháy, hành vô ngã
hành chẳng trì hoãn, chẳng bỏ bổn hành, tâm tăng thượng hành, quở chúng ồn náo, thường thích riêng mình hướng a lan nhã để tư duy hành, thánh chủng tri túc hành, bất động đầu đà hành, ưa thích pháp hành, chẳng tư duy thế gian ngôn ngữ hành, cầu xuất thế gian pháp hành, chẳng mất chánh niệm hành, phát xuất các pháp nghĩa hành, chơn chánh đạo hành, biết duyên tổng trì hành, tàm
quí trang nghiêm hành, trí huệ vững chắc hành, trừ lưới vô minh kiết trói buộc mắt huệ thanh tịnh hành, khéo giác
liễu hành, rộng giác liễu hành, chẳng giảm diệt giác liễu hành, phân tích giác hành, biết hiện tại hành, chẳng theo công đức người khác hành, chẳng tự thị công đức hành, tán thán
các công đức người khác hành, khéo
tu các nghiệp hành, nhơn quả bất động hạnh biết thanh tịnh nghiệp hành. Đây gọi là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến.
Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát có bốn thứ thí đầy đủ trí huệ:
Một là đem giấy viết mực cho Pháp sư để biên chép kinh.
Hai là các thứ trang sức trang nghiêm toà ngồi đẹp dâng cho Pháp sư.
Ba là đem các thứ cần dùng cúng dường dâng cho Pháp sư.
Bốn là tâm không có siểm khúc thường tán thán Pháp sư.
Bồ Tát còn có bốn thứ trì cấm giới đầy đủ trí huệ:
Một là trì giới thường diễn thuyết pháp.
Hai là trì giới thường siêng cầu pháp.
Ba là trì giới chánh phân biệt pháp.
Bốn là trì giới hồi hướng Bồ đề.
Bồ Tát còn có bốn thứ nhẫn nhục đầy đủ trí huệ:
Một là lúc cầu pháp nhẫn kia mắng nhiếc.
Hai là lúc cầu pháp chẳng tránh đói khát lạnh nóng gió mưa.
Ba là lúc cầu pháp tuỳ thuận Hoà thượng A xà lê hành.
Bốn là lúc cầu pháp hay nhẫn không, vô tướng và vô nguyện.
Bồ Tát còn có bốn thứ tinh tiến đầy đủ trí huệ:
Một là siêng năng đa văn.
Hai là siêng năng tổng trì.
Ba là siêng năng lạc thuyết.
Bốn là siêng năng chánh hành.
Bồ Tát còn có bốn thứ thiền định đầy đủ trí huệ:
Một là thường thích ở một mình.
Hai là thường thích nhứt tâm.
Ba là cầu thiền và thông.
Bón là cầu trí vô ngại giải.
Bồ Tát còn có bốn thứ trí huệ đầy đủ trí huệ:
Một là chẳng trụ đoạn kiến.
Hai là chẳng trụ thường kiến.
Ba là tỏ mười hai duyên.
Bốn là nhẫn vô ngã hành.
Bồ Tát còn có bốn pháp ủng hộ đầy đủ trí huệ:
Một là ủng hộ Pháp sư như vua chúa mình.
Hai là ủng hộ các thiện căn.
Ba là giúp hộ thế gian.
Bốn là ủng hộ lợi ích người khác.
Bồ Tát còn có bốn pháp mãn túc đầy đủ trí huệ:
Một là thuyết pháp mãn túc.
Hai là trí huệ mãn túc.
Ba là lợi ích mãn túc.
Bốn là các pháp mãn túc.
Bồ Tát còn có bốn lực đầy đủ trí huệ:
Một là tinh tiến lực vì cầu đa văn được giải thoát vậy.
Hai là niệm lực vì tâm Bồ đề chẳng quên mất vậy.
Ba là định lực vì bình đẳng vô sai biệt vậy.
Bốn là huệ lực vì tu đa văn vậy.
Bồ Tát còn có bốn phương tiện đầy đủ trí huệ:
Một là tuỳ thế gian hành.
Hai là tuỳ chúng sanh hành.
Ba là tuỳ chư pháp hành.
Bốn là tuỳ trí huệ hành.
Bồ Tát còn có bốn đạo đầy đủ trí huệ:
Một là các Ba la mật đạo.
Hai là trợ Bồ đề đạo.
Ba là hành bát thánh đạo.
Bốn là cầu Nhứt thiết trí huệ đạo.
Bồ Tát còn có bốn hành không nhàm đầy đủ trí huệ:
Một là thích đa văn không nhàm đủ.
Hai là thích thuyết pháp không có nhàm đủ.
Ba là hành huệ không nhàm.
Bốn là hành trí không nhàm.
Lại trợ trí huệ ấy, là tuỳ tất cả chúng sanh tâm hành, là tuỳ tất cả pháp hành, là tuỳ bố thí hành, là tuỳ trì giới hành, là tuỳ nhẫn nhục hành, là tuỳ tinh tiến hành, là tuỳ thiền định hành, là tuỳ trí huệ hành, là tuỳ từ bi hỉ xả hành được đầy đủ trí huệ. Tại sao vậy? Như chư Bồ Tát chỗ phát khởi hành đều lấy trí huệ làm căn bổn vậy. Trí huệ hành rồi trở lại y chỉ trí. Bồ Tát ấy an trụ nơi trí y chỉ nơi Nhứt thiết trí nên chúng ma
và quyến thuộc ma không thể làm hại được, vì vậy mà có thể được Nhứt thiết trí.
Đây gọi là Bồ Tát trợ trí vô tận vậy.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment