Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 148
PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
Lại thiện tư duy ấy là thiện thuận cú.
Thiện thuận cú ấy là bất thủy cú, là bất chung cú, là bất trụ cú, là bất y chỉ cú, là bất động cú, là bất ỷ cú, là bình đẳng cú, là phi đẳng cú, là chơn thiệt cú, là chánh chơn cú, là bất biến cú, là thanh tịnh cú, là vĩnh tịch cú, là bất nhiên cú, là bất cử cú, là bất hạ cú, là bất giảm cú, là bất tăng cú, là bất cộng cú, là bất hí luận cú, là như cú, là bất như cú, là như phi cú, là phi như phi bất như cú, là như thiệt cú, là tam thế bình đẳng cú, là tam tế cú, là bất trụ sắc cú, là bất trụ thọ tưởng hành thức cú, là bất trụ địa đại cú, là bất trụ thuỷ hoả phong cú, là chẳng trụ nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới cú, là bất trụ nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cú, là bất trụ tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới cú, là bất trụ thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới cú, là bất trụ thân giới, xúc giới, thân thức giới cú, là bất trụ ý giới, pháp giới, ý thức giới cú, là niệm nghĩa cú, là niệm trì cú, là liễu nghĩa kinh cú, là niệm pháp cú.
Đây gọi là đại Bồ Tát thiện nhập tư duy.
Lại nữa, thiện tư duy là tất cả pháp hoặc ngã hay vô ngã,
các pháp như vậy tuỳ thuận quán sát. Nếu biết chúng sanh không
có ngã tức là tuỳ thuận quán sát các pháp. Quán sát như vậy tức là thiện nhập tư duy. Như thiện tư duy tức là tư duy sanh tử và Niết bàn đồng nhứt pháp giới, quán hai cú ấy không có sai biệt. Thấy như vậy thì gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy. Nếu quán hắc pháp và bạch pháp hai tánh
bình đẳng không có sai biệt, đây gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy. Nếu quán các ách khổ cùng không có ách
khổ chẳng động chẳng ỷ thị, đây gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy.
Nếu các Bồ Tát khởi thiện tư duy với các chúng sanh mà
chẳng bỏ lìa, nơi các pháp tướng mà chẳng phân biệt, đây gọi là Bồ Tát phát thiện tư duy.
Người như văn hành được nhập báo thiện tư duy như vậy, đây gọi là huệ.
Thưa Tôn giả! Bồ Tát huệ ấy, có mười sáu pháp chẳng trụ trong đó.
Những gì là mười sáu pháp?
Chẳng trụ vô minh, hành, thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, nhẫn đến chẳng trụ vô minh diệt, hành diệt, thức diệt, danh sắc diệt, lục nhập diệt, xúc diệt, thọ diệt, ái diệt, thủ diệt, hữu diệt, sanh diệt, lão tử diệt.
Chẳng trụ căn bổn thân kiến nhẫn đến chẳng trụ sáu mươi hai kiến.
Chẳng trụ cao hạ nhẫn đến chẳng trụ các thế gian pháp lợi, suy, huỷ, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
Chẳng trụ mạn mạn, tăng thượng mạn, thắng mạn, ngã mạn, hạ mạn, kiêu mạn, tà mạn, nhẫn đến chẳng trụ hai mươi phiền não.
Chẳng trụ nhơn tham khởi lên các kiết sử, hoặc thô hoặc tế hoặc thượng trung hạ, nhẫn đến chẳng trụ các kiết do tham dục khởi lên.
Chẳng trụ si tối phú cái các si, nhẫn đến chẳng trụ các kiết nhơn si khởi lên.
Chẳng trụ dâm dục ái trược.
Chẳng trụ ngũ, ấm, tử, phiền não, thiên ma, nhẫn đến chẳng trụ các ma sự nhơn ma khởi lên.
Chẳng trụ ngã, nhơn chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, nhẫn đến chẳng trụ lấy tướng chúng sanh.
Chẳng trụ nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, pháp chướng các kiến chướng, nhẫn đến chẳng trụ tất cả tập khí.
Chẳng trụ tư tưởng, ức tưởng, phân biệt tưởng, duyên tưởng, cảnh giới kiến văn giác tri, nhẫn đến chẳng trụ tất cả các kiết.
Chẳng trụ tuỳ chúng sanh tâm hành trí nhẫn đến chẳng trụ bát vạn tứ thiên pháp tụ.
Chẳng trụ xan tham, bố thí, trì giới, phá giới, sân khuể, nhẫn nhục, giải đãi, tinh tiến, loạn ý, thiền định, ngu si, trí huệ, nhẫn đến chẳng trụ các Ba la mật bạn phi bạn v.v…
Chẳng trụ định loạn, tà kiến, thiện bất thiện, thế gian xuất thế gian, khả tác bất khả tác, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, hắc pháp bạch pháp, sanh tử Niết bàn, nhẫn đến chẳng trụ tất cả pháp bạn chẳng phải bạn v.v…
Chẳng trụ chúng sanh dị tướng, các thừa dị tướng, Phật giới dị tướng, chư Phật dị tướng, chư Pháp dị tướng, chúng Thánh dị tướng, nhẫn đến chẳng trụ tất cả dị tướng.
Chẳng trụ tri bất tri, thức bất thức, thế đế chơn đế, nhẫn đến chẳng trụ tất cả các tướng.
Nghĩa là Bồ Tát tư duy huệ ấy, không nghe,
không làm, không thân, không tướng, không hình vô
vi. Chơn huệ như vậy chẳng trụ tất cả ức tưởng tư duy tâm tác chỉ trụ danh tự dị tướng.
Đây gọi là Bồ Tát chơn trí huệ chẳng trụ trong mười sáu pháp như vậy.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát huệ?
Xứ sở có tám phương tiện:
Các ấm phương tiện, các giới phương tiện, các nhập phương tiện, các đế phương tiện, các duyên phương tiện, tam thế phương tiện, các thừa phương tiện, các pháp phương tiện.
Thế nào là các ấm phương tiện?
Nếu nói về các ấm thì như bọt nước, như bóng nước, như dương diệm, như thân cây chuối, như ảo, như mộng, như vang ứng tiếng, như tượng trong gương, như bóng, như hoá.
Sắc ấm, như bọt nước, như tánh bọt nước, chẳng phải ngã, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải thọ mạng, chẳng phải nhơn. Sắc cũng như vậy, có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán sắc phương tiện.
Thọ ấm như bóng nước, tưởng ấm như dương diệm, cây chuối, ảo huyễn ảo huyễn tánh chẳng phải ngã, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải thọ mạng, chẳng phải nhơn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán thọ, tưởng, hành, thức phương tiện.
Các ấm như mộng, như vang, như tượng, như ảnh, như hoá, như hoá tánh, không
ngã, không chúng sanh, không thọ mạng, không nhơn, các ấm ấy đều cũng như vậy. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán các ấm phương tiện.
Gọi là ấm ấy tức là tướng thế gian, tướng thế gian tức là tướng có thể hư hoại. Như tướng có thể hư hoại tức là tánh vô thường, tánh khổ, tánh vô ngã, tánh tịch diệt. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán ấm phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát biết giới phương tiện?
Pháp giới, địa giới, thuỷ, hoả, phong giới, trong pháp giới ấy không có tướng cứng, tướng ướt, tướng nóng, tướng động.
Pháp giới, nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý giới, trong pháp giới ấy không có tướng thấy, tướng nghe, tướng ngửi, tướng nếm, tướng cảm giác, tướng rõ biết.
Pháp giới, Sắc giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, trong pháp giới ấy không có tướng được thấy, tướng được nghe, tướng được ngửi, tướng được nếm, tướng được cảm giác, tướng được biết.
Pháp giới, nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, trong pháp giới ấy không có nhãn thức biết sắc, nhẫn đến không có ý thức biết pháp.
Pháp giới sắc giới, pháp giới chẳng phải tướng sắc làm ra, nhẫn đến pháp giới pháp giới, pháp giới chẳng phải tướng pháp làm ra.
Pháp giới và ngã giới không hai không khác.
Pháp giới, Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, ngã giới, sanh tử giới, Niết bàn giới không hai không khác.
Pháp giới hư không giới, tất cả pháp giới, ngã giới hư không giới, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô tác,
vô xuất, vô sở hữu đồng như Niết bàn.
Hư không và Niết bàn cùng tất cả các pháp không hai
không khác.
Vô lượng hữu vi pháp giới như vậy nhập vào vô vi giới.
Có thể biết như vậy nói như vậy thì gọi là Bồ Tát biết giới phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán nhập phương tiện?
Như lời Phật nói nhãn không,
ngã không, ngã sở không. Tại sao, vì trong nhãn tánh ấy không có ngã không có ngã sở. Như nhãn không, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý không
cũng như vậy.
Người quán nhập ấy thấy tất cả pháp, hoặc thiện bất thiện không có hai tướng.
Đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.
Nếu nhãn nhập sắc nhập, nếu thấy nhãn sắc ly dục, chẳng chứng ly dục pháp. Đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.
Nhĩ nhập thanh nhập, tỷ nhập hương nhập, thiệt nhập vị nhập, thân nhập xúc nhập, ý nhập pháp nhập, nếu thấy ly dục chẳng chứng ly dục pháp, đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.
Gọi là nhập ấy, hoặc thánh nhập hoặc phi thánh nhập.
Thế nào là thánh nhập? Là tu tập đạo.
Thế nào là phi thánh nhập? Là chẳng tu tập đạo.
Nếu Bồ Tát an trụ nơi đạo với kẻ chẳng tu tập đạo sanh lòng đại bi chẳng bỏ nhập đạo, đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán đế phương tiện?
Đế ấy thậm thâm khó vào.
Thế nào là khó vào?
Như là khổ trí, tập trí, diệt trí và đạo trí.
Khổ trí ấy, quán các ấm vô sanh. Tập trí ấy, quán đoạn dứt tham ái nhơn. Diệt trí ấy, quán vô minh
v.v…các phiền não không có hoà hiệp. Đạo trí ấy, được bình đẳng quán nơi tất cả pháp không chỗ dựa lấy.
Bồ Tát nếu ở trong bốn Thánh đế quán như vậy mà chẳng thủ chứng vì giáo hoá
chúng sanh, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Còn có ba đế là tục đế, đệ nhứt nghĩa đế và tướng đế.
Thế nào là tục đế? Như là ngữ ngôn văn tự các pháp giả danh được thế gian sử dụng.
Thế nào là đệ nhứt nghĩa đế? Đó là nhẫn đến không có tâm hành, huống là lại có ngôn ngữ văn tự.
Thế nào là tướng đế?
Quán tất cả tướng đồng với nhứt tướng. Nhứt tướng ấy tức là vô tướng.
Bồ Tát tuỳ thuận tục đế mà chẳng nhàm mỏi, quán đệ nhứt nghĩa đế mà chẳng thủ chứng, quán tướng đế nhứt tướng vô tướng. Đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Còn có hai đế là tục đế và đệ nhứt nghĩa đế.
Thế nào là tục đế?
Như nói khổ tập đạo đế, như thế gian ngữ ngôn văn tự pháp giả danh v.v…
Thế nào là đệ nhứt nghĩa đế?
Như ở nơi pháp Niết bàn trọn chẳng quên mất.
Tại sao vậy?
Như tánh pháp giới thường trụ. Bồ Tát tuỳ tục chẳng sanh nhàm mỏi, quán đệ nhứt nghĩa đế mà chẳng thủ chứng.
Còn có một đế, đó là nơi tất cả pháp không có dựa lấy, mà vì hoá độ chúng sanh nên hiện có dựa lấy.
Đây gọi là Bồ Tát quán đê phương tiện.
Còn nữa, ngũ ấm khổ, nếu thấy tướng khổ của ngũ ấm, đây gọi là quán khổ.
Khổ tức không, đây gọi là khổ trí quán Khổ Thánh đế.
Nếu quán ngũ ấm các phiền não nghiệp nhơn kiến nhơn đây gọi là tập.
Nếu quán ái nhơn kiến nhơn chẳng thủ chẳng trước chẳng mong chẳng cầu, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.
Ngũ ấm cứu cánh tận tướng, quá khứ đã dứt, vị lai chưa sanh, hiện tại chẳng trụ, đây gọi là diệt. Có thể biết như vậy, đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.
Nếu người đắc đạo chứng tập trí diệt trí, tỷ trí biết rồi, đây gọi là đạo.
Nếu ở trong ấy đều thấy tánh không, đây gọi là đạo trí quán Đạo Thánh đế.
Nếu Bồ Tát có thể quán tứ Thánh đế như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Nếu tất cả thọ gọi là khổ, ở nơi các thọ tư duy phân biệt, đây gọi là khổ trí quán khổ Thánh đế.
Thọ nhơn hoà hiệp, đây gọi là tập. Nếu ở nơi thọ nhơn biết đúng chơn thiệt, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.
Nếu trừ các thọ không có kẻ thọ nhận thọ, quán thọ diệt tận mà chẳng chứng nơi diệt vì hoá độ chúng sanh. Đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.
Nếu có sở thọ, đây gọi là đạo, dầu cố hoà hiệp mà dụ như chiếc bè, chẳng vì sở thọ chẳng cầu nơi đạo, đây gọi là đạo trí quán Đạo Thánh đế.
Biết như vậy thấy bốn thánh đế thanh tịnh bình đẳng, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Lại tóm lược để nói.
Sanh khổ đây gọi là khổ. Nếu quán nơi sanh đây gọi là khổ trí quán Khổ Thánh đế.
Sanh từ nơi nhơn duyên, đây gọi là tập. Nếu quán có chẳng phải có, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.
Tất cả sanh chẳng phải sanh tức là chẳng phải diệt. Nếu pháp chẳng sanh thì không có diệt, đây gọi là diệt.
Nếu quán diệt ấy, đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.
Nếu ở những như vậy mà suy cầu xứng lượng tư duy phân biệt, đây gọi là đạo.
Nếu dứt diệt suy cầu phân biệt ấy mà nhập pháp môn, đây gọi là trí quán Đạo Thánh đế.
Nếu trụ nơi trí chẳng chứng Thánh đế, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán duyên phương tiện?
Vì tụ tập bất thiện tư duy nên vô minh tập. Vì vô minh tập nên hành tập. Vì hành tập nên thức tập. Vì thức tập nên danh sắc tập. Vì danh sắc tập nên lục nhập tập. Vì lục nhập tập nên xúc tập. Vì xúc tập nên thọ tập. Vì thọ tập nên ái tập. Vì ái tập nên thủ tập. Vì thủ tập nên hữu tập. Vì hữu tập nên sanh tập. Vì sanh tập nên lão tử tập. Vì lão tử tập nên ưu bi khổ não tập.
Nếu biết các khổ tụ tập như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Nếu trụ các pháp tụ tập như vậy thì chẳng trưởng dưỡng, không sở tác, không tranh tụng, không có chủ, không sở thuộc, không hệ phược. Nghĩa là nếu nhơn thiện pháp, nếu nhơn bất thiện pháp, nếu nhơn bất động pháp, nếu nhơn hướng Niết bàn pháp. Các
pháp như vậy phân biệt đúng thiệt.
Nếu các chúng sanh căn lượng chừng hạn, nhơn các căn ấy gây tạo các nghiệp, hoặc có thọ báo hoặc chẳng thọ báo, đều khéo biết nguyên nhơn tụ tập phương tiện. Đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Nếu bất thiện tư duy diệt thì vô minh diệt. Vì vô minh diệt nên hành diệt. Vì hành diệt nên thức diệt. Vì thức diệt nên danh sắc diệt. Vì danh sắc diệt nên lục nhập diệt. Vì lục nhập diệt nên xúc diệt. Vì xúc diệt nên thọ diệt. Vì thọ diệt nên ái diệt. Vì ái diệt nên thủ diệt. Vì thủ diệt nên hữu diệt. Vì hữu diệt nên sanh diệt. Vì sanh diệt nên lão tử diệt. Vì lão tử diệt nên ưu bi khổ não diệt.
Nếu biết các khổ tụ diệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Tất cả các pháp thuộc nhơn, thuộc duyên, thuộc hoà hiệp. Nếu pháp thuộc nhơn duyên hoà hiệp, thì pháp ấy chẳng thuộc ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng. Nếu pháp chẳng thuộc ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng thì chẳng nhập vào pháp số. Có thể biết như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Nếu Bồ Tát tu tập các pháp vì trợ Bồ đề an ở Bồ đề. Các duyên như vậy đều thấy diệt tận mà chẳng thủ chứng vì hoá độ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Thế nào là quán tam thế phương tiện?
Nếu Bồ Tát nhớ quá khứ thế thân mình thân người, tâm tâm số pháp thiện và bất thiện. Tâm bất thiện thì quở trách chê mắng, tâm thiện thì hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát quán quá khứ phương tiện.
Vị lai thế tâm và tâm sô pháp một bề chuyên niệm đạo Bồ đề. Nếu khởi thiện tâm đều nguyện hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Bao nhiêu tâm tâm số pháp bất thiện chẳng cho vào tâm. Phát nguyện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán vị lai phương tiện.
Hiện tại tâm và tâm số pháp thiện tư duy làm bao nhiêu
nghiệp đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát quán hiện tại phương tiện.
Quán phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát khéo hiểu tam thế không không có sở hữu. Nếu quán như vậy, do sức trí huệ quán tam thế rỗng không, nơi tam thế chư Phật vun trồng vô lượng công đức đêu đem hồi hướng Vô thượng Bồ đề, vì sức phương tiện vậy. Đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát dầu thấy quá khứ tận pháp chẳng đến vị lai mà thường tu thiện pháp siêng tinh
tiến chẳng giải đãi. Bồ Tát quán vị lai pháp dầu không có sanh xuất mà chẳng bỏ tinh tiến nguyện hướng Bồ đề. Bồ Tát quán hiện tại pháp dầu niệm niệm diệt mà tâm mình chẳng quên phát xu Bồ đề. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại chẳng trụ, dầu quán tâm tâm số pháp sanh diệt tán hoại như vậy, mà thường chẳng bỏ tu tập các thiện căn trợ Bồ đề pháp. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát nếu các thần thông nhớ quá khứ thế những thiện căn đã được làm, nhớ rồi hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Niệm vị lai thế thiện căn chưa sanh nguyện tâm dự tính làm đều thành tựu như ý. Niệm hiện tại thế thường sanh thiện căn chuyên niệm chẳng giải đãi hồi hướng đạo Vô thượng Bồ đề. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát nếu hoá độ chúng sanh, niệm quá khứ thế đã làm thiện căn trợ đạo công đức, những là tuỳ chúng sanh tâm đáng được hoá độ ấy thì đúng như sở thích của họ đều đã hoá độ xong. Nếu các chúng sanh vị lai thế, hoặc họ cần thấy Phật thấy Thánh nhơn mà được độ ấy thì tuỳ hình thích đáng đều làm cho họ được độ. Nếu các chúng sanh hiện tại thế nên nghe pháp hay
là nên thấy thần lực thì cũng tuỳ chỗ thích đáng mà đều hiện hóa đó.
Tuỳ chỗ giáo hoá các chúng sanh rồi liền ở nơi tam thế thành tựu tự lợi lợi tha. Tất cả sự lợi ấy đều vì Bồ đề đủ vô ngại trí.
Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Thế nào là Bồ Tát quán các thừa phương tiện?
Xuất thế có ba thừa là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Đại thừa.
Thế có hai thừa là Thiên thừa và Nhơn thừa.
Thế nào là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa?
Phật chưa xuất thế thì không có Thanh
Văn thừa. Tại sao vậy? Vì từ người khác nghe pháp
sanh chánh kiến. Đó là nghe pháp rồi trì giới oai nghi, oai nghi đủ rồi giới tụ thành tựu. Giới tụ đầy đủ rồi định tụ đầy đủ. Định tụ đầy đủ rồi huệ tụ đầy đủ. Huệ tụ đầy đủ rồi giải thoát tụ đầy đủ. Giải thoát tụ đầy đủ rồi giải thoát tri kiến tụ đầy đủ.
Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát quán Thanh Văn thừa, hoặc thiện bất thiện và bất động hành, tâm thường chê trách nhàm
lìa thế giới, quán tất cả hành vô thường khổ vô ngã tịch diệt Niết bàn, nhẫn đến chẳng có một niệm hy vọng thọ sanh, thường có lòng sợ sệt chẳng ưa thích, quán ấm như oán thù, giới như rắn độc, nhập như xóm vắng trống, nơi tất cả thú chẳng nguyện thọ sanh. Nếu có thể khai thị phân biệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán Duyên Giác thừa phương tiện?
Nếu Duyên Giác xuất thế, Bồ Tát quán sở hành của họ như thiệt biết đó.
Sở hành của Duyên Giác vượt hơn công đức của Thanh Văn, dục tinh tiến bất phóng dật trì giới, ít nghe học, chẳng nhiều cúng dường chư Phật Thế Tôn cung cấp hầu hạ phục dịch, do trung căn nên thường sanh tâm nhàm,
các việc được làm thảy đều kém ít, nhàm sợ ồn náo thường thích xa lìa, một mình ở nơi vắng vẻ rảnh rang, oai nghi tường tự, ra vào ngưng trọng, an tâm yên lặng bớt việc người, có thể vì chúng sanh mà hiện phước điền thế gian, tâm họ nghiền ngẫm quán mười hai nhơn duyên, thương niệm một pháp xuất thế Niết bàn. Luôn đi trong thiền định, chẳng từ người nghe mà tự nhiên giác ngộ ít phần cảnh giới. Vì nhơn duyên ngộ đạo nên gọi là Duyên Giác.
Nếu có thể khai thị phân biệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Duyên
Giác thừa phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán Đại thừa phương tiện?
Thừa ấy vô lượng. Nay ở trong ấy sẽ nói phần ít.
Thừa ấy vô lượng hay dung thọ tất cả chúng sanh vì
không có quái ngại vậy. Thừa ấy tăng trưởng tất cả thiện căn vì khiến vô lượng chúng sanh được thọ dụng vậy. Thừa ấy đầy đủ các Ba la mật vì hay tuỳ chúng
sanh tâm hành mà hoá độ vậy. Thừa ấy có thể quá các pháp trợ đạo vì tiến đến vô ngại tới đạo tràng vậy.Thừa ấy bình đẳng vì vô ngại quang minh chiếu vô lượng tất cả chúng sanh đều kham thọ vậy. Thừa ấy vô uý vượt quá khiếp nhược đạo vì đều có thể thị hiện các Phật pháp vậy. Thừa ấy có thể phá hoại tất cả các ma ngoại đạo tà chúng vì đã
xong mười hai duyên kiến lập tá trợ tràng Bồ đề vậy. Thừa ấy có thể trừ tất cả các biên kiến hữu vô đoạn thường nhơn duyên khởi lên phiền não chướng ngại che trùm nghi ngờ đùa cợt vì được Phật vô ngại chơn trí huệ vậy. Thừa ấy giàu đủ các trân bửu chơn thiệt chẳng hư hay lợi ích chúng sanh vì đại bi dũng mãnh bổn nguyện thành tựu vậy. Thừa ấy đầy đủ thập lực, vô uý pháp, bất cộng, tướng hảo trang nghiêm thân
khẩu ý vậy.
Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Đại thừa phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán nhứt thiết pháp phương tiện?
Đó là hoặc hữu vi hoặc vô vi, Bồ Tát ở trong các pháp ấy khéo biết phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán hữu vi phương tiện?
Những thân thiện nghiệp, những khẩu thiện nghiệp, những ý thiện nghiệp nguyện đem hồi hướng Vô thượng Bồ đề, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Nếu quán các thiện nghiệp thân khẩu ý đồng tướng Bồ đề mà hồi hướng Bồ đề, đây gọi là Bồ Tát quán vô vi phương tiện.
Còn nữa, nếu có thể tụ tập ngũ Ba la mật, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Dầu biết Bát Nhã Ba la mật tánh nó vô vi mà chỗ được tụ tập trọn không hề nhàm chê, cần phải đầy đủ các Ba la mật, hiểu sâu thiện căn đồng vô lậu Bồ đề mà còn nguyện thành Nhứt thiết chủng trí, đây gọi là Bồ Tát vô vi phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát trụ trong tâm vô ngại bình đẳng dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thủ chúng sanh, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Nếu khéo hiểu chúng sanh vô ngã vô nhơn không chỗ mong cầu biết Tứ nhiếp pháp đồng vô vi giải thoát mà có thể hồi hướng Nhứt thiết chủng trí, đây gọi là vô vi phương tiện.
Còn nữa, nếu các phiền não sanh tử tương tục dứt đoạn khiến nó chẳng khởi chỗ có thiện căn trợ Bồ đề ấy khiến chẳng đoạn tuyệt nhẫn đến chẳng hành chút phần phiền não, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Dầu quán không vô tướng vô nguyện biết ba môn không ấy tức là trợ đạo phương tiện nên có thể chẳng chứng, đây gọi là vô vi phương tiện.
Còn nữa, dầu ở tam giới mà chẳng bị tam giới phiền não ô nhiễm, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Dầu xuất tam giới mà chẳng chứng xuất, đây gọi là vô vi phương tiện.
Như lời Phật nói biết các pháp phương tiện thì có thể đầy đủ Nhứt thiết chủng trí, tại sao, vì Nhứt thiết chủng trí vô lượng vô biên đầy đủ chánh niệm huệ phương tiện, vì vậy nên gọi là nhứt thiết pháp phương tiện.
Thưa Tôn giả! Đây gọi là Bồ Tát trí huệ duyên tám phương tiện vậy.
Thưa Tôn giả! Tám phương tiện ấy nhiếp vô tận trí huệ của Bồ Tát.
Huệ ấy có thể hiểu, vì quán rõ thiện pháp bất thiện pháp vậy.
Huệ ấy như mũi tên, vì hay bắn đúng pháp vậy.
Huệ ấy hay làm vì chánh pháp hiện tại vậy.
Huệ ấy chơn giải vì dứt trừ các kiến phiền não chướng ngại các phú cái vậy.
Huệ ấy định nguyện vì đều có thể đầy đủ bổn sở cầu vậy.
Huệ ấy tiêu dung vì có thể trừ phiền não các cháy nóng vậy.
Huệ ấy diệt dự vì chẳng dứt pháp lạc vậy.
Huệ ấy chánh niệm vì rõ nghĩa sở duyên vậy.
Huệ ấy an trụ vì đủ ba mươi bảy pháp trợ đạo vậy.
Huệ ấy đắc tướng vì như thừa được hành đạo vậy.
Huệ ấy giải tướng vì tánh trí chiếu vậy.
Huệ ấy hay độ vì quá các lưu vậy.
Huệ ấy hay tiến vì thành chánh định quyết định vậy.
Huệ ấy chánh kiến vì đầy đủ tất cả thiện pháp vậy.
Huệ ấy hoan hỷ vì có thể cứu vớt kẻ sa vào phiền não vậy.
Huệ ấy thù thắng vì được đảnh pháp vậy.
Huệ ấy vi diệu vì tự nhiên giác vậy.
Huệ ấy chẳng hành vì chẳng gần tam thế vậy.
Huệ ấy nhiếp thủ vì đủ tất cả phương tiện vậy.
Huệ ấy hay đoạn dứt vì quá các tư tưởng vậy.
Huệ ấy chẳng phóng dật vì bỏ lìa tối mờ vậy.
Huệ ấy sơ thỉ vì phát hành tất cả thiện pháp vậy.
Huệ ấy hay phát vì đủ các thừa vậy.
Huệ ấy chiếu minh vì trừ lưới vô minh vậy.
Huệ ấy cho con mắt vì tất cả chúng sanh như chỗ hiểu của họ đều được tỏ rõ vậy.
Huệ ấy không y chỉ vì quá nhãn sắc vậy.
Huệ ấy đệ nhứt nghĩa vì xuất chơn thiệt vậy.
Huệ ấy không tranh vì khéo phân biệt vậy.
Huệ ấy tỏ rõ vì hướng về trí môn vậy.
Huệ ấy vô tận vì hay đi khắp vậy.
Huệ ấy chẳng nghịch vì thấy mười hai duyên vậy.
Huệ ấy giải thoát vì các triền hệ phược đều đã khéo dứt vậy.
Huệ ấy chẳng tạp vì lìa tất cả pháp chướng ngại vậy.
Thưa Tôn giả! Tất cả chúng sanh có bao
nhiêu tâm hành, trí huệ như vậy đều có thể chiếu suốt cả. Như chúng sanh bao nhiêu tâm hành huệ tư trí các phiền não môn, trí huệ như vậy thảy đều thấy rõ.
Nếu Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai có bao nhiêu
trí huệ; Bồ Tát nầy đều có thể học khắp cả.
Đây gọi là Bồ Tát vô tận huệ. Do vô tận huệ ấy nên đủ vô tận trí”.
Lúc nói pháp ấy, có ba vạn hai ngàn Bồ Tát thiện căn thành thục được Vô sanh pháp nhẫn.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Bồ Tát tu tâm từ cũng chẳng thể tận. Tại sao vậy?
Tâm từ của Bồ Tát vô lượng vô biên. Bồ Tát tu tâm từ không có hạn lượng, đồng với chúng sanh giới.
Bồ Tát tu tâm từ phát tâm che chở khắp tất cả chúng sanh.
Ví như hư không không đâu là chẳng khắp trùm che, tâm từ của Bồ Tát cũng như vậy, tất cả chúng sanh không ai là chẳng được trùm che.
Như chúng sanh giới vô lượng vô biên chẳng thể cùng tận, tâm từ của Bồ Tát cũng như vậy, vô lượng vô biên không có cùng tận.
Vì hư không vô tận nên chúng sanh vô
tận. Vì chúng sanh vô tận nên Bồ Tát tu tâm từ cũng chẳng thể cùng tận.
Đây gọi là tâm từ được tu của Đại Sĩ chẳng thể cùng tận”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Bạch Đại Sĩ! Ngang chừng nào gọi là chúng sanh giới”?.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bao nhiêu địa giới, thuỷ giới, hoả giới và phong giới, lượng ấy vô biên mà còn chẳng nhiều hơn chúng sanh giới”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Chừng có thể nói ví dụ so sánh được chăng?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nói được, chỉ chẳng được dùng việc nhỏ để ví dụ.
Phương Đông cách đây trọn một hằng hà sa số thế giới chư Phật, Nam, Tây, Bắc, cùng bốn hướng và thượng hạ phương tất cả đều một hằng hà sa số thế giới chư Phật. Mười phương thế giới ấy chung làm thành một biển lớn đầy nước. Khiến một hằng hà sa số chúng sanh đồng tụ họp cầm một phần trăm của một sợi lông chẻ ra đồng chấm lấy giọt nước biển ấy. Một lần chấm nước biển ấy là một hằng hà sa số giọt, nhẫn đến chấm lấy hết nước biển lớn ấy. Như vậy vẫn còn chưa hết số chúng sanh giới.
Từ tâm của Bồ Tát đều có thể che trùm hết chúng sanh như vậy.
Thưa Tôn giả! Ý Ngài nghĩ sao,
Bồ Tát tu từ thiện căn có thể tận được chăng?”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Thiệt chẳng thể tận. Hư không tánh còn có
thể tận, từ tâm của Bồ Tát chẳng thể tận được. Nếu có Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh sợ, thì nên biết Bồ Tát ấy được từ tâm vô tận vậy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Từ ấy có thể ủng hộ tự thân, mà cũng hay
lợi ích người khác. Từ ấy không có tranh. Từ ấy hay đoạn dứt tất cả sân hận giận thù hệ phược. Từ ấy hay lìa các kiết sử. Từ ấy hoan hỷ. Từ ấy chẳng thấy lỗi tất cả chúng sanh phá giới. Từ ấy không có nóng thân tâm thọ lạc. Từ ấy xa lìa tất cả não hại. Từ ấy hay lìa tất cả bố uý. Từ ấy hay thuận đạo chư Thánh. Từ ấy hay làm cho kẻ giận hoan hỷ. Từ ấy hay thắng tất cả đấu tranh. Từ ấy hay xuất sanh lợi dưỡng và khen ngợi. Từ ấy trang nghiêm oai đức Đế Thích Phạm Vương. Từ ấy thường được người trí khen. Từ ấy thường thủ hộ phàm phu ngu muội. Từ ấy thường tuỳ thuận đạo thanh tịnh. Từ ấy chẳng tạp uế hay xa lìa Dục giới. Từ ấy hay hướng đến pháp môn giải thoát. Từ ấy hay nhiếp tất cả thừa. Từ ấy hay nhiếp công đức pháp tài. Từ ấy trưởng dưỡng tất cả công đức. Từ ấy hơn các công đức vô tác. Từ ấy hay trang nghiêm tướng hảo. Từ ấy hay lìa căn độn hạ liệt. Từ ấy hay mở chánh đạo lành nhơn thiên Niết bàn. Từ ấy hay lìa tam ác bát nạn. Từ ấy mến thích các thiện pháp. Từ ấy như nguyện tất cả chỗ mong muốn đều thành tựu tự tại. Từ ấy bình đẳng với các chúng sanh. Từ ấy phát hành lìa những dị tướng. Từ ấy hướng ngay môn trì giới. Từ ấy hay thủ hộ kẻ phạm giới. Từ ấy hay thành nhẫn lực vô thượng. Từ ấy hay lìa các mạn và phóng dật. Từ ấy phát khởi tinh tiến vô tranh nhập vào chánh đạo. Từ ấy căn bổn nhập vào thánh thiền định. Từ ấy hay khéo phân biệt tâm hành lìa các phiền não. Từ ấy nhơn huệ mà sanh tổng trì ngữ ngôn văn tự. Từ ấy làm bạn với chánh định mà lìa bạn ma kiết sử. Từ ấy thường ở chung với hoan hỷ. Từ ấy khéo làm sứ cho tâm. Từ ấy giữ chặt oai nghi giới cấm. Từ ấy hay lìa các điệu cử tháo động. Từ ấy hay diệt các thứ tướng. Từ ấy là hương lành tàm quý xoa thân. Từ ấy hay trừ hơi hôi thúi phiền não.
Thưa Tôn giả! Phàm người tu tâm từ thì hay ủng hộ tất cả chúng sanh. Hay xả sự vui của mình mà ban cho chúng sanh. Hàng Thanh Văn tu tâm từ ngang với thân mình. Bồ Tát tu tâm từ trọn vì vô lượng chúng sanh.
Thưa Tôn giả! Phàm người tu tâm từ hay qua khỏi các dòng.
Chỗ được đến của tâm từ là duyên chúng
sanh, duyên pháp và không có duyên.
Duyên chúng sanh là sơ phát tâm từ. Duyên pháp duyên
từ là đã tập làm. Duyên vô duyên là được thâm pháp nhẫn vậy.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành đại từ mà chẳng thể tận vậy.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành đại bi cũng chẳng thể tận. Tại sao? Như mạng căn của người thì lấy hơi thở vào ra làm gốc. Bồ Tát tu học Đại thừa như vậy lấy đại bi làm gốc.
Như vua Chuyển Luân Vương lấy luân bửu làm gốc. Bồ Tát tu Nhứt thiết trí lấy đại bi làm gốc.
Như trưởng giả chỉ có một con trai thì tình thương yêu rất nặng. Bồ Tát đại bi với tất cả chúng sanh thương yêu như con trai một.
Đại bi như vậy ta đã làm rồi.
Đại bi như vậy làm rồi lợi mình.
Đại bi như vậy chẳng nhờ sự việc khác.
Đại bi như vậy tâm mình ra làm
chẳng siểm khúc.
Đại bi như vậy việc ra làm phát xuất từ chánh quyết định.
Đại bi như vậy chủng tánh ra làm phát
xuất từ trực đạo.
Đại bi như vậy tâm không tà vạy sanh chánh trực.
Đại bi như vậy không có kiêu mạn phát xuất cảnh giới chúng sanh.
Đại bi như vậy quên bỏ thân mình xuất sanh thân Như Lai.
Đại bi như vậy chẳng tham thọ mạng phát xuất chẳng làm điều ác.
Đại bi như vậy ủng hộ chúng sanh xuất sanh Bồ đề.
Đại bi như vậy hộ pháp chơn thiệt phát xuất tâm thanh tịnh.
Đại bi như vậy thấy kẻ nghèo cùng hoạn nạn phát xuất sự giúp cứu.
Đại bi như vậy bổn thệ kiên cố phát xuất tâm bất động.
Đại bi như vậy chẳng khi mình nhơn thiên Hiền Thánh phát xuất chẳng hư dối.
Đại bi như vậy đồng hành thanh tịnh phát xuất thiện nghiệp.
Đại bi như vậy tự bỏ vui mình phát xuất ban vui cho người.
Đại bi như vậy chẳng làm khổ kẻ khác phát xuất chẳng cháy nóng.
Đại bi như vậy hay khiến chúng sanh bỏ gánh nặng phát xuất tinh tiến vững bền.
Đại bi như vậy có thế lực nhẫn phát xuất thủ hộ kẻ vô lực.
Đại bi như vậy chẳng nhàm sự đáng gớm phát xuất hay trông mong kẻ bịnh tật.
Đại bi như vậy được pháp tự tại phát xuất giáo hoá chúng sanh căn độn.
Đại bi như vậy che đậy công đức mình phát xuất hiển bày công đức người.
Đại bi như vậy phát xuất lìa các khổ.
Đại bi như vậy phát xuất cầu vô lậu lạc.
Đại bi như vậy phát xuất xả vật mình ưa thích.
Đại bi như vậy phát xuất làm những thiện nghiệp không hề nhiễu não.
Đại bi như vậy phát xuất khéo trì cấm giới chẳng bỏ kẻ phá giới cấm.
Đại bi như vậy phát xuất giáo hoá chúng
sanh.
Đại bi như vậy phát xuất chẳng tiếc thân mạng.
Đại bi như vậy phát xuất xả bỏ tay chưn mình.
Đại bi như vậy phát xuất sanh thiện căn cho người.
Đại bi như vậy phát xuất thiện căn lợi ích mình.
Đại bi như vậy phát xuất chẳng tham trước các thiền.
Đại bi như vậy phát xuất chẳng nhàm Dục giới.
Đại bi như vậy xuất sanh quán huệ.
Đại bi như vậy phát xuất thiện căn chẳng ô nhiễm.
Đại bi như vậy phát xuất các chúng sanh
thành tựu như sở nguyện.
Đại bi như vậy phát xuất hữu vi vô vi.
Đại bi như vậy phát xuất chẳng chứng vô vi.
Đại bi như vậy phát xuất biết chúng sanh tánh đồng vô vi mà hay
giáo hoá.
Đại bi như vậy phát xuất thủ hộ kẻ phạm giới cấm.
Đại bi như vậy phát xuất tán thán Phật cấm giới.
Các bi Đại thừa như vậy phát xuất đại bi.
Do nhơn duyên ấy nên gọi là đại bi.
Gọi rằng đại bi ấy, là quyết định khéo thật hành bố thí trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ và các trợ đạo pháp, để được trí huệ tự nhiên vô sư, kinh doanh sự nghiệp được làm của các chúng sanh
khác, chuyên tinh cần mẫn như lo công việc của mình. Do nhơn duyên ấy nên gọi là đại bi.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành đại bi mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát tu hành tâm hỷ cũng chẳng thể tận.
Thế nào là hỷ?
Thường niệm chánh pháp hoan hỷ dũng dước, chẳng sanh giải đãi không có những nhiệt não. Lìa vui ngũ dục an trụ nơi pháp lạc. Tâm hoà duyệt dự, thân nhẹ nhàng dịu dàng, ý siêng nhắc nhở dốc lòng thường sanh tâm bi. Thích cầu Như Lai vô thượng pháp thân, thích tu tướng hảo để tự trang nghiêm. Nghe
pháp không nhàm nhớ làm chánh pháp, làm chánh pháp rồi sanh tâm hoan hỷ, sanh hoan hỷ rồi đủ được pháp bi. Thường với chúng sanh chẳng sanh tâm trở ngại, dùng tăng thượng dục siêng cầu chánh pháp. Siêng
cầu pháp rồi thâm tâm được hiểu Phật pháp thậm thâm. Xa lìa nhị thừa phát tâm vô thượng. Trừ những lẫn tiếc phát tâm xả, thấy người đến xin sanh lòng
hoan hỷ. Lúc thí hoan hỷ thí rồi không tiếc, bố thí như vậy ba thời gian đều thanh tịnh. Được thanh tịnh rồi tâm được duyệt dự. Nơi người trì giới thường hành bố thí, nơi kẻ phá giới lòng vui nhiếp thủ, tự trì cấm giới tâm thường thanh tịnh. Có thể làm cho các chúng sanh ác đạo kinh sợ được không sợ hãi xa lìa ác đạo. Tất cả hồi hướng Như Lai cấm giới, kiên trì vững chắc chẳng thể kém hư. Bị người mắng nhiếc đánh đập kham nhẫn chẳng báo trả. Nơi các chúng sanh tâm không kiêu mạn, nơi các Tôn trưởng thì tâm khiêm hạ cung kính, nói
năng hoà vui lìa sự sụt sùi, trước dùng lời yêu thương trọn không dua vạy, chẳng có tà tâm dụ dỗ gạt phỉnh người, tâm mình thanh tịnh không có lỗi thô, nơi kẻ chẳng được chẳng thấy lỗi họ, chẳng tìm chỗ dở của người chẳng cử tội người, chuyên tâm chánh
niệm các pháp hoà kính. Nơi chư Bồ Tát tưởng là Như Lai. Thương mến người thuyết pháp coi trọng hơn thân mình. Mến trọng Như Lai như tiếc mạng mình. Nơi chư Sư trưởng tưởng như cha mẹ. Nơi các chúng sanh tưởng như con cái. Nơi các oai nghi như bảo hộ đầu mặt. Nơi các Ba la mật như thương tay chưn mình. Nơi các thiện pháp coi như trân bửu. Nơi người dạy bảo coi như ngũ dục. Nơi hạnh tri túc coi như không có bịnh. Ưa thích cầu pháp coi như diệu dược. Nơi người cử tội mình coi như lương y. Nhiếp ngự các căn không có
giải đãi. Đây gọi là hỷ.
Hỷ ấy tịch tĩnh vì giác tri vi diệu vậy.
Hỷ ấy tịch diệt vì không có điệu hí vậy.
Hỷ ấy là chỗ dựa các hành vì không có hí luận vậy.
Hỷ ấy là căn bổn vì tâm chẳng loạn vậy.
Hỷ ấy là đa văn vì nắm lấy thiện ngữ vậy.
Hỷ ấy là bình đẳng vì tâm nhu nhuyến vậy.
Hỷ ấy dũng mãnh vì giỏi làm sự nghiệp vậy.
Hỷ ấy chẳng hối vì chuyên làm điều thiện vậy.
Hỷ ấy chánh trụ vì chẳng giải đãi vậy.
Hỷ ấy bất động vì không có sở y vậy.
Hỷ ấy bất cộng vì khó xô dẹp vậy.
Hỷ ấy thiệt nghĩa vì chẳng quên mất vậy.
Hỷ ấy chơn thiệt vì không có biến đổi khác vậy.
Hỷ ấy thành thiệt vì đúng như chỗ làm vậy.
Hỷ ấy hay xả vì thế lực kiên lao vậy.
Hỷ ấy đại lực vì không gì thắng hơn được vậy.
Hỷ ấy hay làm thần lực chư Phật vì cầu pháp chư Phật vậy.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành tâm hỷ mà chẳng thể tận vậy.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành tâm xả cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát tu xả vô tận?
Bồ Tát tu xả là xả ba thứ, đó là xả các phiền não, xả hộ mình người và xả thời phi thời.
Thế nào là xả các phiền não?
Được cung kính cúng dường tâm chẳng cao, bị khinh chê trách mắng tâm cũng chẳng hạ. Nếu được lợi dưỡng tâm chẳng tham cậy, bị suy não tâm cũng chẳng sầu. Nếu được thưởng khen trước mặt tâm không mừng rỡ, bị chê trước mặt tâm cũng không lui sụt. Nếu được khen sau lưng tâm khéo an trụ pháp giới, bị chê sau lưng tâm không kém
sút. Nếu gặp sự khổ tâm gắng nhẫn thọ, gặp sự vui tâm thấy vô thường. Hay buông bỏ sở ái, hay đoạn dứt giận hờn. Nơi người thân người chẳng thân tâm luôn bình đẳng. Nơi người trì giới hay kẻ phá giới ý không tăng giảm. Nơi làm thiện làm ác tâm không
có hai tướng. Nơi ái chẳng ái tâm không tham chấp. Nghe thiện bất thiện tâm hay kham nhẫn. Nơi lời thiện ác tâm không dính
buộc. Nơi tội lỗi họa tâm lượng không có hai. Nơi các chúng sanh được tâm bình đẳng. Nơi thượng trung hạ được quang minh đồng nhứt. Chẳng tiếc thân mạng, với tốt xấu danh tiếng đồng như pháp giới. Nơi pháp thiệt chẳng thiệt tâm được thanh tịnh. Nơi những thế pháp được Bồ Tát xả. Đây gọi là Bồ Tát xả các phiền não.
Thế nào là Bồ Tát xả hộ mình người?
Nếu bị chặt đứt thân thể tay chưn tâm không sân hận chẳng cầu thù báo.
Vì được tâm xả nên có thể xả hai thứ nội ngoại thân khẩu. Ở trong hai thứ ấy chẳng sanh tranh tụng. Nơi nhãn cùng sắc không có dục nhơ, nơi nhĩ cùng thanh, tỷ cùng hương, thiệt cùng vị, thân cùng xúc và ý cùng pháp cũng đều không có dục nhơ. Ở trong những hai thứ ấy chẳng sanh tranh tụng nên gọi là xả. Chẳng tổn thương chẳng gây hại nên gọi là xả. Xả hộ mình và người nên gọi là xả. Nơi lợi chẳng lợi tâm hành bình đẳng nên gọi là xả. Nơi đệ nhứt nghĩa chẳng sanh tranh luận nên gọi là xả. Nơi tâm mình khéo hay
phân biệt nên gọi là xả. Quán xả bỏ thân mình nên gọi là xả. Chẳng hại thân người nên gọi là xả.
Bồ Tát tu xả, nơi các thiền định thường hành xả tâm. Chư Phật Thế Tôn chẳng cho Bồ Tát ở nơi các chúng sanh mà hành xả tâm. Tại sao? Vì Bồ Tát thường tu tinh tiến vì lợi tự tha ma siên cầu thiện căn vậy. Đây gọi là Bồ Tát xả hộ mình và người vậy.
Thế nào là Bồ Tát xả thời phi thời?
Phi khí chúng sanh xả mà chẳng dẫn tiếp. Suy huỷ cơ khổ xả mà chẳng thọ. Xả người cầu Thanh Văn thành quyết định. Lúc hành bố thí xả tu trì giới. Lúc tu trì giới xả bố thí. Lúc tu nhẫn nhục xả thí giới tiến. Lúc tu tinh tiến xả thí giới nhẫn. Lúc hành thiền định xả bố thí. Lúc tu trí huệ xả năm Ba la mật. Việc chẳng nên làm trọn chẳng còn làm. Các pháp như vậy an trụ giới hạnh, tinh cần dũng mãnh đầy đủ tu hành. Đây gọi là Bồ Tát tu vô tận xả vậy.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Bồ Tát các thông cũng
chẳng thể tận.
Những gì là các thông?
Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, và như ý thông, đây gọi là Bồ Tát các thông.
Thế nào là Bồ Tát thiên nhãn thông?
Bồ Tát thiên nhãn là đệ nhứt trên tất cả những thiên nhãn của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần và của hàng hữu học vô học Thanh Văn, Duyên
Giác.
Bồ Tát thiên nhãn vi diệu thù thắng mở suốt tỏ rõ, do công đức hướng về Nhứt thiết trí cảm thành, chẳng đồng với Thiên Long và Nhị thừa.
Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật, trong ấy có bao nhiêu hình mạo sắc tượng quang minh hoặc thô hoặc tế hoặc gần hoặc xa, Bồ Tát thiên nhãn đều thấy tất cả soi rõ rành rẽ khéo hiểu khéo thấy, cũng thấy trong ấy bao nhiêu những chúng sanh thọ sanh các thú. Trừ Vô Sắc thiên, còn bao nhiêu
những nghiệp hành sanh tử tương tục, hoặc nghiệp hoặc quả các căn sai khác đều thấy biết không sót.
Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật trang nghiêm thanh tịnh vi diệu đều thấy rõ cả không thừa.
Thấy rõ như vậy rồi, Bồ Tát thanh tịnh trì giới nguyện hồi hướng trang nghiêm quốc độ mình. An trụ trì giới ấy đúng như sở nguyện đều được thành tựu vô lượng lợi ích lớn.
Trong những thế giới mười phương ấy, Bồ Tát thiên nhãn cũng thấy đại chúng Bồ Tát tu hành đạo Bồ đề, bốn oai nghi nơi thân và chánh ức niệm, được pháp môn giải thoát an trụ tổng trì, biện tài phương tiện nhập vào huệ phương tiện. Thấy rồi, Bồ Tát tự tu đầy đủ những công hạnh ấy.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment