Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 145
PHÁP HỘI NHỰT MẬT BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI
Nầy Kiều Trần Như ! Người trí kế đến quán thân người trong bốn châu, tất cả đều có sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, cơ khát khốn khổ, tham dục khổ, sân khuể khổ, tật đố các thứ khổ, lưỡng thiệt, ác khẩu, hàn, nhiệt v.v… nhiều khổ não, còn có khổ vì ác thú độc trùng, khổ vì ác vương, ác quan. Trong thân loài người ấy thọ ngần ấy khổ não. Người trí sao lại chẳng tu tập tướng tưởng chẳng đáng ứ thích !
Nầy Kiều Trần Như ! Kế đến, người trí quán sáu từng trời cõi Dục. Chư Thiên trong ấy bị dục ái đốt cháy họ thọ quả báo chẳng đồng nhau. Họ khổ vì vô thường, khổ vì chấp thủ, khổ vì chết, khổ vì ái biệt ly. Quán sát như vậy người trí có đâu chẳng tu tập tướng chẳng đáng ưa thích !
Người trí kế đến quán Sắc giới mười sáu trụ xứ. Chư Thiên trong ấy tu thiền định thế gian, vì hữu lậu nên khổ, vì tịch tĩnh nên khổ, vì sở dục nên khổ, vì có thắng định nên khổ, vì thiện pháp tạng nên khổ, vì chưa giải thoát nên khổ, vì chẳng biết bỉ ngạn, vì chẳng dứt hẳn nhơn duyên địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nên khổ. Quán sự khở như vậy nên người trí tu tập tướng chẳng đáng ưa thích.
Lại chư Thiên cõi Sắc hoặc có người tu tập vô lậu thiền định, những người nầy khổ vì chẳng đầy đủ bát chánh đạo, khổ lúc muốn đủ phương tiện bát chánh đạo, khổ vì vô học địa chẳng tự tại, khổ vì chẳng được Duyên Giác tam muội, khổ vì chẳng được Như Lai tam muội, khổ vì chẳng có thể quán sát cảnh giới tất cả chúng sanh. Người trong Sắc giới như vậy nếu nhập Niết bàn thì thọ khổ như vậy. Người trí sao lại ở trong Sắc giới mà chẳng tu tập thế gian tướng chẳng đáng nên ưa thích.
Kế lại quán sát Vô Sắc giới tướng chẳng đáng ưa thích.
Chư Thiên cõi Vô Sắc khổ vì tu hữu lậu tam muội, khổ vì học địa chẳng được tự tại, khổ vì còn chẳng được nghe chánh pháp,
khổ vì chẳng cứu cánh dứt tham ái, khổ vì lúc xả mạng sanh tà kiến, khổ vì chẳng dứt hẳn ba ác đạo, khổ vì xả mạng bị đọa, người trí quán sát biết chư Thiên cõi Vô sắc có những sự khổ như vậy nên với Vô Sắc giới tu tập tướng thế gian chẳng đáng ưa thích.
Còn nữa, nầy Kiều Trần Như ! Thế gian ấy tức là hành. Có ba thứ là thân hành, khẩu hành và ý hành.
Thân hành ấy, đó là thở vào ra.
Khẩu hành ấy, đó là giác quán.
Ý hành ấy, đó là tưởng và thọ.
Ba thứ hành ấy tướng nó là một.
Người trí quán sát phân
biệt thế nào để có thể biết được ?
Người trí lúc quán đếm thở vào ra, quán kỹ lạnh nóng ấm của hơi thở đến hơi vào ra một lỗ lông. Người nầy quán hơi thở biết rõ chắc hơi thở ấy trước không nay có. Nếu trước không mà nay có thì là tướng vô thường. Là tướng không quyết định như điện chớp, như vẽ trong nước. Lúc quán như vậy, được tướng thân hành.
Người trí lại quán sát tướng như vậy từ nhơn duyên gì ? Liền biết tướng ấy nhơn nơi giác quán. Tánh
giác quán trước không nay có nên
là vô thường, là pháp có thể đứt được. Tướng giác quán ấy nhơn tâm mà sanh, tâm cũng là trước không nay có nên cũng vô thường có thể phá hoại được, là tướng không có về đến nương dựa, là tướng không có vật, là tướng không có ngã. Lúc quán như vậy thì ở trong các hành tâm
sanh hối có thể tu tập tướng thế gian chẳng đáng ưa thích.
Chúng Tỳ kheo các ông nếu có thể quán kỹ chắc tam thế như vậy thì có thể dứt hẳn các phiền não, hay tịnh chánh kiến, dứt pháp sanh tử, thành tựu đạo bình trực, được nhiếp trong chánh tụ, được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Đây là
người trí tu tập tướng chẳng nên ưa thích.
Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào là Tỳ Kheo
quán y được mặc ấy là tướng chẳng nên ưa ?
Nếu có Tỳ Kheo lúc vá y, thấy y, chạm y, đắp y, cởi y, quán sát như máu thoa da thúi
rã đáng gớm, là chỗ trùng ở, là chỗ chẳng đáng ưa. Lúc quán như vậy, lòng tham y liền trừ diệt.
Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào là tu tập tướng thực chẳng đáng ưa ?
Nếu có Tỳ Kheo lúc cầm mang bát, quán sát như máu thoa sọ đầu, rã thúi đáng gờm, là chỗ côn trùng ở, là chỗ không đáng ưa. Lúc được món ăn, nên quán
sát món ăn ấy như thây trùng chết, nếu thấy bún xem như xương nát, thấy cơm nước tưởng như nước phẩn, thấy bánh tưởng là da người, tích trượng đang cầm tưởng là xương người, thấy nhũ lạc tưởng máu mủ hôi dơ, thấy rau cải tưởng tóc lông, thấy các thứ nước uống tưởng là máu tươi. Quán sát như vậy gọi là nơi các món ăn uống quán tướng chẳng đáng ưa.
Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào là nơi phòng xá sanh ý tưởng không đáng ưa thích ?
Lúc vào phòng nhà, Tỳ Kheo nên suy nghĩ như vào địa ngục thọ các khổ não. Phòng nhà như vậy tức là tướng hòa hiệp, bao nhiêu cây gỗ tức là xương người, đất đắp là thịt người, đến tất cả ghế giường mền nệm tức là xương người là da thịt người. Quán sát như vậy gọi là ý tưởng thế gian chẳng đáng ưa thích.
Nếu có thể quán sát các tướng như vậy, người nầy liền được như thiệt pháp nhẫn, được các nhẫn tùy không, tùy vô tướng, tùy vô nguyện. Người nầy thích tu tập không tướng, thấy tất cả pháp đều sanh diệt khổ không vô ngã, thấy các ấm nhập giới thập nhị nhơn duyên, tất cả pháp tánh đều là khổ không vô ngã. Thấy như vậy rồi, người nầy liền được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Nầy Kiều Trần Như ! Người tu tập ý tưởng thế gian chẳng đáng ưa thích thì có thể dứt dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, nghi, điệu, vô minh, đến được bực vô học. Đây gọi là đầy đủ tùy vô nguyện đà la ni.
Nầy Kiều Trần Như ! Đà la ni nầy hay phá tất cả ác ma, đến có thể là cho Tam bửu tăng trưởng”.
Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh được pháp nhãn tịnh, vô lượng ức chúng được dứt hẳn các lậu, tám na do tha chúng được tùy vô nguyện đà la ni, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, năm vạn tám ngàn chúng
sanh được bất thối tâm Bồ đề, vô lượng chúng sanh được như Pháp nhẫn.
Vô lượng chúng sanh bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả chúng sanh nếu nghe pháp ấy, thì đâu chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Chúng tôi nay hộ trì nghe học pháp ấy”.
Đức Phật nói : “lành thay lành thay, nầy chư đại đàn việt! Nay mọi người muốn hộ trì đại pháp. Nhơn hộ pháp mà đời vị lai sẽ được vô lượng phước đức quả báo”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Phật Đức Hoa Mật Như Lai sai Hư Không Mật đại Bồ Tát mang đến dục tịnh đà la ni ấy, duy nguyện Thế Tôn tuyên nói đó”.
Đức Phật nói : “Nầy Xá Lợi Phất ! Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ đó sẽ vì ông mà nói.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đức Hoa Mật Phật sai mang đến dục tịnh đà la ni ấy để phá hoại tứ đảo của chúng sanh Ta Bà nầy:
Chúng sanh cõi nầy thường không có ngã mà
vì tâm điên đảo ngang sanh ý tưởng có ngã. Người trí quán sát kỹ biết không có ngã, liền phá điên đảo.
Thế nào là người trí quán vô ngã ?
Đó là quán thân ngũ ấm biết chắc không có ngã, tại sao, vì là tướng hòa hiệp vậy. Kế quán nhãn căn cũng
không có ngã. Tại sao ? Vì là tứ đại hiệp vậy. Nếu mắt chuyển nháy tức là phong lực, phong ấy nhơn nơi hư không mà có khứ lai hồi chuyển, mà tánh hư không là vô sở hữu cũng là bất khả thuyết. Nếu là vô sở hữu và bất khả thuyết tức là không có ngã. Vì vậy nên hư không thiệt không có ngã,
phong trong hư không cũng lại không có vật chẳng tuyên nói được nên là vô ngã. Như quán phong, quán địa, thủy, hỏa cũng như vậy. Vì vậy mà biết rằng, nhãn căn tứ đại lại cũng không có vật chẳng tuyên nói được thế nên không có ngã.
Nếu còn có người nói rằng vì nhãn sắc nhơn duyên nên có tướng ngã ấy, nghĩa nầy chẳng đúng. Tại sao, vì trong
nhãn không có ngã, trong sắc không có ngã, trong hai thứ hòa hiệp cũng không có ngã. Nhơn duyên hòa hiệp cũng không có
ngã, trong hai thứ hòa hiệp cũng không có ngã. Nhơn duyên hòa hiệp sanh ra nhãn thức, trong thức ấy cũng không có
ngã. Nhơn thức sanh sắc gọi là danh sắc. Danh s8ác nhơn duyên sanh lục nhập. Lục nhập nhơn duyên sanh xúc.
Xúc nhơn duyên sanh thọ. Thọ nhơn duyên ái. Ái nhơn duyên thủ. Thủ nhơn duyên hữu. Hữu nhơn duyên sanh lão bịnh tử v.v… Các pháp như vậy nhơn nhãn thức sanh, mà nhãn thức nầy cũng chẳng từ mười phương đến. Niệm sở nhơn sanh nhãn thức ấy, niệm nầy cũng diệt, nhân thức chẳng trụ. Trong hai niệm ấy cũng chẳng bảo nhau : Nay ngươi trụ còn ta diệt. Diệt pháp nầy cũng không có xứ sở. Vì vậy nên cácp hễ duyên hiệp thì sanh, duyên
ly thì diệt. Nếu nhơn duyên thì sanh,
không nhơn duyên thì diệt. Vì vậy nên biết thiệt không có ngã, mà
nhơn duyên ấy cũng không có tác
không có thọ. Nếu không có tác giả thì không có ngã. Nếu không có ngã thì ngã sở cũng không. Vì vậy nên nhãn tánh không có ngã ngã sở không hiệp không tan, tức là sanh diệt.
Tất cả các pháp cũng như vậy. Tất cả pháp tánh không có
thủ không có xả chẳng phải tạo tác bởi chư Thanh Văn, Duyên
Giác, chư Phật.
Như nhãn thức không, tất cả pháp không cũng như vậy.
Lúc quán như vậy được môn không tam muội, hoặc được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Như quán nơi nhãn, quán nơi nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy.
Quán thân vô ngã, tóc, da, thứa, máu, thịt, xương, gân, tủy, não, ruột, gan, mủ, dãi, hơi ấm gió trên dưới thọ mạng danh tự tất cả đều vô ngã, chỉ do các duyên hòa
hiệp nên gọi là thân. Thân xúc nhơn duyên nên sanh
thân thức, thức nhơn duyên danh sắc, đến hữu nhơn duyên sanh lão bịnh tử v.v… Các pháp nhơn duyên như vậy sanh thân thức, mà thân thức cũng chẳng từ mười phương đến. Niệm sở nhơn sanh thân thức ấy, niệm nầy cũng diệt thân thức chẳng trụ. Trong hai niệm ấy cũng chẳng bảo nhau ngươi trụ ta diệt. Mà pháp diệt ấy cũng không có xứ sở. Vì vậy nên các pháp, hễ duyên hiệp thì sanh mà duyên
tan thì diệt. Nếu nhơn duyên thì sanh
không nhơn duyên thì diệt. Vì vậy nên biết thiệt không có ngã. Mà
nhơn duyên ấy cũng không có tác
không có thọ. Không có tác giả thì không có ngã, đã không có ngã thì nhã sở cũng không có. Vì
vậy mà thân tánh không ngã ngã sở, không hiệp không tan tức là sanh diệt. Tất cả các pháp cũng như vậy, tất cả pháp tánh không có
thủ không có xả, chẳng phải chư Thanh Văn, chư Giác Duyên, chư Phật làm ra.
Như thân thức không tất cả pháp không cũng như vậy.
Lúc quán như vậy, người ấy được không tam muội, hoặc chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có Tỳ Kheo có thể quán nhãn căn đến thân căn vô ngã như vậy, nên biết người ấy được tam muội môn được chư Thiên và thế nhơn cúng dường”.
Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh ác
nghiệp quá khứ đều được tiêu trừ, vô lượng chúng sanh được pháp nhãn tịnh, vô lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, chín vạn bốn ngàn chúng sanh được tịnh đà la ni như vậy, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, vô lượng chúng sanh chẳng thối chuyển tâm Bồ đề, vô lượng chúng sanh được như pháp nhẫn, vô lượng chúng sanh phá được dục tham, sắc tham và vô sắc tham, vô lượng chúng sanh được tùy không, tùy vô
tướng và tùy vô nguyện đà la ni, vô lượng chúng sanh thành tựu bất tịnh quán, vô lượng chúng sanh thành
tựu a ni ba na, hoặc được xa ma tha, hoặc được tỳ bà xá na, hoặc được tánh địa, hoặc được Thanh Văn pháp, Bích Chi Phật pháp hoặc được Bồ Tát pháp, tất cả nữ nhơn nghe rồi đều được chuyển nam thân, chúng
sanh Dục giới đều thọ khoái lạc như đệ Tam thiền.
Tất cả chư Thiên, Nhơn, Bát Bộ cúng dường đức Phật, hoan hỉ ngồi yên.
Vua Tần Bà Sa La bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Trong thế giới Ta Bà nầy, vô lượng Bồ Tát được thành tựu quang minh diệu sắc, từ giờ tôi chưa từng thấy chưa từng nghe.
Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát quang minh ấy có thể chiếu khắp tất cả Ta Bà thế giới. Nếu là bực Bồ Tát gần Vô thượng Bồ đề thì quang minh thế nào ?”.
Đức Phật nói : “Nầy Đại Vương ! Nếu Bồ Tát thành tựu Vô thượng Bồ đề, quang minh chiếu tất cả mười phương thế giới. Tại sao, vì thiện pháp trang nghiêm các công đức vậy, vì thành tựu đầy đủ pháp trang nghiêm vậy, vì tất cả thiện căn nhiều tăng trưởng vậy, vì gần Vô thượng Bồ đề đạo vậy, vì rốt ráo vô thượng Bồ đề đạo vậy, vì thọ Như Lai chánh pháp quả vậy,vì phân biệt diễn nói vô biên pháp
vậy, vì thân đã được không có quái ngại vậy, vì được thanh tịnh chơn thiệt pháp vậy, vì chỗ được tu tập đều đến bờ kia vậy, vì nghiệp đời vị lai đã được hết hẳn vậy, vì thành tựu vô lượng Phật chánh pháp vậy, vì hay chuyển vô thượng diệu pháp luân vậy, vì được tự tại nơi tất cả pháp vậy, vì thông đạt tất cả chúng sanh căn vậy, vì đoạn hẳn tất cả phiền não tập khí vậy. Vì vậy nên quang minh có
thể chiếu khắp mười phương thế giới.
Nầy Đại Vương ! Tùy sức thế lực lớn công đức của pháp cũng có thể nhìn thấy thập phương chư Phật”.
Vua nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn được thấy thập phương chư Phật và chư Bồ Tát, chư Thanh Văn”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như : “nếu người Thanh Văn đệ tử Phật, hoặc tại gia hay xuất gia, thế nhơn đều thâm quán tự tu duy thiện pháp minh đã có.
Ta cũng muốn nhập Như Lai tam muội. Nếu có hàng nhơn thiên được như thiệt nhẫn, nếu có người chẳng thối chuyển nơi tam thừa, các người ấy cũng nhập chánh định, nếu có người được tâm kính tin nơi Tam bửu cũng nhập thiền định như vậy”.
Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là Nhứt thiết Phật cảnh giới hành trí, rộng như hư không, tất cả người trí vui mừng, sáng như ánh sáng nhựt nguyệt. Tam muội như vậy tất cả hàng Thanh Văn,
Duyên giác, Bồ Tát chẳng biết được chẳng tính lường được. Dây gọi là Phật cảnh giới tam muội.
Thế Tôn nhập tam muội ấy rồi, Ta Bà thế giới ức tứ thiên hạ, trăm ức Tu Di sơn, trăm ức nhựt nguyệt đến trăm ức Trời Hữu Đãnh, các cõi như vậy, đều nhập vào thân của Phật. Trong Ta Bà thế giới các địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người và trời có ai thọ khổ liền được tiêu diệt, tất cả đều hoan hỷ như Tỳ Kheo nhập đệ Tam thiền.
Tất cả đại Bồ Tát đều khởi định thấy Phật quang minh. Thấy Phật quang minh rồi, quang minh của mình có liền tắt không còn hiện.
Tất cả hàng Thanh Văn thọ khoái lạc như Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền.
Tất cả vô lượng chúng sanh thảy đều tự thấy lỗ lông Như Lai. Mỗi mỗi lỗ lông phóng vô lượng ánh sáng như ánh sáng của hàng hà sa nhựt nguyệt, cũng như ánh sáng của hàng hà sa số vị Thập trụ Bồ Tát. Quang minh như vậy đều chiếu khắp mười phương quốc độ chư Phật.
Thập phương chư Phật Thế Tôn đều riêng bảo đại chúng rằng : “Chư thiện nam tử ! Các Ngươi có thấy quang minh của Thích Ca Như Lai chẳng ? Quang minh như vậy thành tựu vô lượng vô biên công đức. Quang minh ấy nhơn nơi đại từ đại bi vì thương xót các chúng sanh vậy. Nay Như Lai ấy hiển thị tướng đại thần biến cho các chúng
sanh. Tất cả chúng sanh thấy quang minh ấy rồi đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Thế giới phương khác có các chúng sanh được thần thông đều tập họp tại Ta Bà thế giới, kẻ không được thần thông thì vói lễ lạy cúng dường”.
Lúc bấy giờ tất cả chư Phật, chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn đều đến Ta Bà thế giới. Tất cả Bồ Tát đều dâng thất bữu các thứ hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Thế Tôn cung kính tôn trọng tán thán. Có các chúng sanh ở thân Phật thảy đều thấy đó, thầy rồi lại thọ vô lượng khoái lạc.
Ta Bà thế giới tất cả chúng sanh đồng thanh nói rằng : “Chúng ta do nhơn duyên lành nầy nguyện đời sau đồng sanh trong một quốc độ, được thấy thập phương chư Phật, đã được tiêu diệt hết ba ác nghiệp đạo.
Nếu có chúng sanh nào thấy thần biến của của Phật mà chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề, nên biết người ấy thường đi trong tối tăm. Chư Bồ Tát vì chúng sanh mà thọ nhiều thí khổ. Hoặc hóa làm Phật, làm Bích Chi Phật, làm Thanh Văn, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương, thân Na La Diên,
thần Rồng, Quỷ, A Tu La, Chuyển Luân Vương. Nếu có thế giới đáng do Thanh Văn
mà được điều phục thì hiện thân Thanh Văn. Ưng hóa như vậy nếu chẳng phải bực Thập trụ đại Bồ Tát thì không thề làm được. Vì vậy nên tâm Vô thượng Bồ đề thành tự vô lượng vô biên công đức”.
Bao nhiêu chúng sanh ở trong thân tất cả chư Phật đồng thanh nói kệ rằng :
Do vì các ác tâm nhơn duyên
Lưu chuyển sanh lão bịnh tử khổ
Vì chẳng thân cận thiện tri thức
Thế nên chẳng đến được bờ kia
Nếu hay xa lìa được ác tâm
Các ác tà kiến ác nhơn duyên
Hay dứt sanh tử trong ba cõi
Người nầy được đến nơi bờ kia
Chúng sanh khó được trọn thân người
Được rồi gặp thiện hữu rất khó
Lòng tin chắc vững lại khó được
Có rồi khó được nghe chánh pháp
Nếu người hay phát tâm Bồ đề
Người nầy hay dứt các phiền não
Cũng hay giáo hoá vô lượng chúng
Hiện đại thần biến như Phật nay
Nếu hay dứt hẳn hai pháp ấy
Đó là thường đoạn hai kiến thảy
Nếu thấy tất cả hành vô ngã
Người nầy được gọi thiện tư duy
Nếu hay tu tập khổ tập đế
Người nầy hay dứt các phiền não
Nếu hay phát khởi Bồ đề tâm
Người nầy thắng được các thế gian.
Nghe nói kệ ấy rồi , có vô lượng chúng sanh phát
tâm Vô thượng Bồ đề, hoặc có chúng sanh
phát tâm Duyên giác, tâm Thanh Văn, hoặc được vô lượng đà la ni, có các chúng sanh được như pháp nhẫn, bất thối nhẫn, như thiệt nhẫn, hoặc được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Bấy giờ ma vương Ba Tuần thấy rõ Ta Bà thế giới ở trong thân Phật, liền buồn khóc sầu não, hoặc ngồi, hoặc dậy, hoặc đi, hoặc đứng, tới lui ra vào lấy tay vỗ đầu càng thêm khổ não. Tất cả quyến thuộc ma cũng khổ não như vậy.
Ba Tuần có một đại thần tên là Không Thọ thấy ma vương khổ não nên nói kệ rằng :
Cớ chi sầu não mà độc hành
Tâm Vương mê loạn như người cuồng
Đi đến chỗ nào cũng không vui
Mong Thiên Vương nói nhơn duyên ấy,
Ba Tuần nói kệ đáp :
Ta thấy Cù Đàm đại thần lực
Nên ta khổ não đi như điên
Nội tâm tháo động không được an
Sầu nhiệt bức thiết đến quyến thuộc
Nhìn thấy Như Lai vô biên thân
Dung thọ tất cả Ta Bà giới
Khiến cảnh giới ta đều trống hư
Vì vậy nay ta sanh sầu não
Bao nhiêu thánh nhơn ở mười phương
Đầu đến tập hội thế giới nầy
Thiết đại cúng dường cúng dường Phật
Vì vậy khiến ta sanh sầu não
Nhìn thấy Như Lai đại thần lực
Và thấy quyến thuộc quy y Phật
Nay ta độc hành không bạn lữ
Vì vậy khiến ta sanh sầu não.
Đại thần Không Thọ lại nói kệ rằng :
Nay tôi có đông các quyến thuộc
Lòng họ tệ ác đủ khí giới
Sức hay phá hoại thân Như Lai
Và hay hủy hoại đại thần lực.
Ba Tuần nói kệ rằng :
Nay quyến thuộc ta rất sợ Phật
Làm sao hoại được đức thần thông
Nếu lúc sanh tâm muốn hủy hoại
Liền tự thấy mình bị ngũ phược.
Không Thọ nói kệ rằng :
Như oán địch ấy thế lực lớn
Nên giả thân hậu thì phá được
Nếu biết Cù Đàm có đại lực
Trước nên trái hiện lòng thân hậu.
Ma vương nói kệ rằng :
Nếu ta trá hiện tâm thân hậu
Vì muốn hủy hoại thân Cù Đàm
Liền thấy cổ mình đeo tử thi
Bị tất cả người đồng chê trách
Đại thần Không Thọ lại nói kệ rằng :
Tất cả cõi Dục thuộc ma giới
Bao nhiêu nhơn thiên thuộc Như Lai
Xin Vương sắc lịnh ác Long Vương
Thì hay phá được thân Cù Đàm.
Ma vương Ba Tuần lại nói kệ rằng :
Nếu người biết rõ rồng đủ sức
Ta đã thất tâm ngươi tự sai
Nếu thiệt rồng phá được Cù Đàm
Ta lại được nước và bổn tâm.
Đại thần tuân lời ma vương liền bảo các ác Long Vương rằng : “Các Long Vương nên vì ta mà hủy hoại thân Cù Đàm”.
Các ác Long vừa muốn bay lên hư không mà không
chuyển động được. Họ liền nói với đại thần rằng : “Kính phụng mạng lịnh vừa rồi muốn đi phá hoại Cù Đàm. Vừa sanh tâm ấy liền chẳng bay đi được”.
Đại thần nghe các ác Long Vương nói liền sanh lòng kinh sợ suy nghĩ rằng : Nay ta hiện ma đại lực khiến các ác Long sanh
tâm giận dữ. Vì tâm rồng giận dữ thì có thể phá hoại thân Cù Đàm.
Bấy giờ cung rồng có hóa tử thi đầy khắp mọi nơi. Các rồng thấy vậy tự nơi cung thất mình lòng chẳng an vui suy nghĩ rằng : Đây là ai hóa làm những tử thi ấy.
Dầu có suy tìm mà chẳng biết là ai làm.
Trong tất cả tứ thiên hạ chư đại Long Vương và quyến thuộc nam nữ lớn nhỏ đều ra khoải cung thất đến núi Khê La Kỳ. Núi ấy bằng phẳng ngang rộng bốn vạn do tuần, là chỗ ở của chư Thánh đời trước, có đẻ bảy báu.
Nhẫn đến Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương cũng bỏ cung điện mà đến núi ấy.
Trong tứ đại hải, bao nhiêu Long vương và quyến thuộc vô lượng vô biên, như là Y La Bạt Long Vương, Thiện Trụ Long Vương, Quy Long Vương, A Na Bà Đạt Đa Long V. Mục Chơn Lân Đà Long Vương, Đức Hải Long Vương, Thủy Đức Long Vương, Xá Đức Long Vương, Lạc Đức Long Vương, A Ba Na La Long Vương, Sơn Đức Long Vương, Ngưu Đức Long Vương, Y La Bạt Đa Long Vương, Trường Tý Long Vương, Trường Phát Long Vương, Tịnh Long Vương, Ca Yết La Long Vương, Thủy Phiêu Long Vương, Hắc Phát Long Vương, Kim Sắc Long Vương, Xá Câu Long Vương, Niệm Di Long Vương, Tượng Long Vương, Lợi Nha Long Vương, Hữu Hành Long Vương, Nghị Võng Long Vương, Trường Diện Long Vương, Xích Nhãn Long
Vương, Lạc Kiến Long Vương.
Như vậy châu Diêm Phù Đề có tất cả Lọng Vương tám vạn và quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương và quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.
Bắc Uất ĐơnViệt có hai Long Vương là Vô Biên Long Vương và Kim Thân Long Vương cùng vô lượng chúng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương và quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.
Đông Phất Bà Đề có hai Long Vương là Nguyệt Long Vương và Bà Tư Tra Long Vương cùng vô lượng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương cùng quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.
Tây Cù Gia Ni có hai Long Vương là Bữu Phát Long Vương và Quang Phát Long Vương cùng vô lượng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương cùng quyến thuộc đều đến trong núi Khê La Kỳ.
Và trong tứ thiên hạ hàng tứ sanh Long Vương cùng quyến thuộc cũng đến trong núi Khê La
Kỳ. Các Long Vương nầy thân hình đều như củ thuốc bốn tấc, do vì giện dữ nên thân họ cao lớn như núi Tu Di.
Ba Tuần xem thấy chúng Long Vương như vậy rồi bảo quyến thuộc rằng : “Lắng nghe lắng nghe, do ma lực của ta làm cho các Long Vương như vậy từ cung thất ra đến Khê La sơn kia, họ đều mất thế lực chẳng phá hoại được Sa Môn Cù Đàm”.
Còn có ma đại thần tên là Giới Thê thưa ma vương rằng : “Đại Vương ! Các Long Vương như vậy vì muốn phá hoại thân Thích Ca nên
tập hội một chỗ. Họ đều nghĩ rằng : Nay ta nên dùng phương tiện gì phá hoại thân Cù Đàm”.
Ba Tuần nói : “Nếu chắc có sự như vậy ngươi nên qua đó xem sao”.
Đại thần Giới Thê cùng trăm ngàn vạn quyến thuộc muốn đến núi Khê La Kỳ.
Lúc ấy đức Thế Tôn từ thiền định khởi ngồi một phía thị hiện thân bình thường.
Ma đại thần thấy thân thường Như Lai ở nước Ma Già Đà. Thấy rồi nghĩ rằng : Sa Môn Cù Đàm
thối thất thần thông có lẽ sợ ta chẳng, hay muốn ta sanh đại ác chăng ? Ta nên trước đến chỗ Cù Đàm kia để cùng bàn luận.
Ma đại thần Giới Thê cùng đại chúng đến Phật nói kệ rằng :
Thân Ngài chưa qua biển sanh tử
Thế nào sẽ độ được chúng sanh
Cù Đàm chớ gạt các chúng sanh
Nói rằng sẽ được đại Niết bàn
Đức Như Lai nói kệ đáp :
Ta đã được qua biển sanh tử
Cũng được thoát hẳn tất cả cõi
Ta vì nhơn duyên đại từ bi
Nói rằng chúng sanh sẽ Niết bàn
Ngươi đã vô lượng đời thuở xưa
Phát khởi Vô thượng Bồ đề tâm
Đã từng cúng dường vô lượng số
Trăm ngàn vạn ức các Thế Tôn
Ngươi nay định sẽ được Phật đạo
Tại sao nói Phật gạt chúng sanh
Nay ta cho ngươi đại niệm lực
Bèn nên chí tâm quán bổn thân.
Ma đại thần Giới Thê nghe lời Phật tự quán sát quá khứ bổn thân thấy rõ ràng mình phát Bồ đề tâm cúng dường vô lượng vô biên chư Phật, thấy rồi tâm rất hổ thẹn ở trước Như Lai dập đầu mặt xuống đất sám hối tác lễ bạch đức Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi đã
nhớ vô lượng đời phát tâm Bồ đề, đã từng cúng dường vô lượng ức Phật, ở chỗ chư Phật nghe học diệu pháp, đã được tu hành sáu Ba la
mật.
Bạch đức Thế Tôn ! Thuở Phật Ca Diếp có một Tỳ Kheo nói Thanh Văn thừa. Tôi chẳng tư duy bèn nói lời ấy chẳng phải là lời Phật là lời nói của ma. Tỳ Kheo ấy đã phát tâm Bồ đề hành Bồ đề đạo. Vì nhơn duyên ấy nên Ca Diếp Như Lai chẳng thọ ký cho tôi. Tôi nhơn việc ấy sanh trong ma giới thọ thân nầy đến nay đã trải qua năm vạn bảy ngàn ức năm.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi thà đem những thân quá khứ ấy thọ khổ địa ngục chớ trọn chẳng thối tâm Bồ đề”.
Đức Phật nói : “Nầy đại thần ! Lành thay lành thay, nếu có người đem hoàng kim như núi Tu Di và các món vật bằng thất bữu trong vô lượng đời cúng dường chư Phật, phước ấy chẳng bằng phát tâm Bồ đề. Tại sao, vì phát tâm
Bồ đề mới là cúng dường thập phương chư Phật”.
Lúc ấy Giới Thê Bồ Tát liền ở tại chỗ được như pháp nhẫn, bèn rời chỗ ngồi đầu mặt tác lễ nhiễu Phật ba vòng đem thượng y nơi thân cúng dường đức Phật, nhẫn đến quyến thuộc bốn vạn bốn ngàn đại chúng cũng cúng dường như vậy.
Ma vương Ba Tuần thấy đại thần của mình cùng đại chúng quyến thuộc đều quy y Phật, tâm rất khổ não, đóng chặt cửa nẻo ngồi yên một chỗ.
Đức Phật vì đại chúng nói ba thứ từ tâm đó là Chúng sanh duyên từ, Pháp duyên từ và Vô duyên từ tâm như trong hội Hư Không Mục đã tuyên nói.
Trong lúc ấy tất cả Long Vương đều tập hội núi Khê La Kỳ muốn động chẳng động được, muốn đi chẳng đi được, muốn hiện thân lớn cũng lại chẳng được. Họ bèn hướng về Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương mà nói rằng : “Đại Vương ! Trước kia hoá hiện tử thi trong cung thất là do Ba Tuần làm, vì vậy khiến chúng tôi đều đến núi nầy thọ thân nhỏ nhít. Nếu có thể quy y ma Ba Tuần thí có thể được giải thoát”.
Y la Bạt La Long Vương nói : “Nay ma vương đã thất bổn tâm và thần túc làm sao cứu tế các Ngài được”.
Các Long Vương ấy, hoặc có quy y Tứ Thiên Vương, hoặc có quy y Đao Lợi Thiên, hoặc có quy y Dạ Ma Thiên, hoặc Đâu Suất Thiên, hoặc Hoá Lạc Thiên. Hoặc có quy y Tha Hóa Tự Tại Thiên, hoặc có quy y Phạm Thiên.
Hải Long Vương nói : “Các Ngài
chẳng thấy Thích Ca Như Lai được tất cả hiền thánh nhơn thiên tạp loại thiết đại cúng dường mà quy y đó ư!”.
Có các Long Vương quy y Na Trà
tiên nhơn, hoặc Mã Tàng tiên nhơn, hoặc Quảng tiên nhơn, hoặc Quang Vị tiên nhơn, hoặc Bạt Già Bà Tiên Nhơn.
Các Long Vương quy y năm tiên
nhơn như vậy. Năn tiên nhơn ấy đều được ngũ thông ở tại núi Tuyết đều đang nghe Quang Vị tiên nhơn tuyên nói chánh
pháp. Quang Vị Bồ Tát cũng dùng vô lượng các thứ tán thán để tán thán đức Như Lai.
Các tiên nơn đều nghe âm thanh của tất cả Long Vương, liền bạch Quang Vị tiên nhơn rằng : “Ngài có nghe
tiếng khóc kêu của các Long Vương chẳng ?”.
Quang Vị đáp : “Tôi có nghe”.
Chư Thiên nói : “Thưa Đại Sĩ ! Duy nguyện đến đó cứu khổ họ”.
Quang Vị nói : “Các Ngài nên đến đó, tôi đi chẳng được, tại sao, vì hiện nay có Đại Thiên muốn được nghe Vô duyên từ tâm vậy”.
Bốn tiên nhơn lễ lạy Quang Vị rồi đến núi Khê La Kỳ để cứu tế.
Chư Long Vương thấy bốn tiên liền cất tiếng cầu ai cứu tế.
Chư Tiên nói : “Ta chẳng cứu được. Trong núi Tuyết có một Bồ Tát tên là Quang Vị, người ấy có thể cứu. Các ngươi nên nhứt tâm cầu ai tác lễ”.
Chư Long Vương đều hướng về núi Tuyết làm lễ đồng thanh cầu cứu.
Quang Vị nghe tiếng ấy bèn cùng vô lượng chư Thiên cúng dường đến núi Khê La Kỳ.
Chư Long Vương thấy rồi đầu mặt lễ lạy : “Duy nguyện Đại Sĩ cứu khổ chúng tôi”.
Quang Vị Bồ Tát biết đã đến lúc, muốn nói tinh tú.
Hải Long Vương bạch rằng : “Bạch Đại Sĩ ! Tinh tú ấy của ai nói ? Ai làm đại tinh, ai làm tiểu tinh ? Ai làm nhựt nguyệt ? Trong ngày nào
tinh nào ở trước ? Thế nào là mãn nguyệt ? Thế nào là thời giờ ?. Các tinh tú như vậy hệ thuộc Thiên nào, tánh là gì, tinh tú nào khinh, nào trọng, nào thiện, nào ác, nào thực, nào thí ? Ai tạo ngày ? Ai tạo đêm ? Bóng có mấy bộ gọi là chuyển, thế nào gọi là Nam chuyển. Thế nào gọi là Bắc chuyển ? Thưa Đại Sĩ ! Ngài ở trong hàng chư Tiên là đệ nhứt hơn cả, duy nguyện đầy đủ phân biệt giải nói”.
Quang Vị Bồ Tát bảo chư Long Vương rằng : “Nầy Đại Vương ! Đời quá khứ trước, ban sơ của Hiền kiếp, thành Chiên Đà
Diên có vua tên là Vô Lượng Tịnh dùng chánh pháp
trị nước. Vua ấy chẳng tham dục lạc, thường thích tịch tĩnh tài trí thông đạt. Vua có phu nhơn dục tâm phát động cùng vua du hành
ở trong một khu rừng lòng tham dục nhìn vua liền có thai, đủ ngày sanh ra một con trai. Đứa trẻ ấy đầu tai mắt môi miệng cổ đều giống lừa, các phần khác giống người. Bà mẹ thấy rồi sợ quá ném nó vào nhà
xí, thân nó chưa chạm đất được lủ quỷ ở trên không tiếp lấy đem đến núi Tuyết chăm sóc nuôi dưỡng như con đẻ. Trong núi Tuyết có thuốc ngọt ngon, lủ quỷ hái lấy cho trẻ ấy ăn. Trẻ ấy ăn rồi thân liền chuyển lạ có đại quang minh đầy đủ phước tướng có đại từ bi. Do cớ ấy nên được chư Thiên lễ bái cúng dường tán thán. Trẻ ấy tất cả thân tướng đều chuyển đổi chỉ có môi thì giống môi lừa, nên có tên là Lư Thần. Do phước lực của Lư Thần nên trong núi Tuyết sản xuất các thứ dưa quả và dược thảo.
Lư Thần tiên nhân suốt sáu vạn năm thọ trì cấm giới, thường co một chưn lên. Tất cả Phạm Thiên, Ma Thiên,
Đế Thích đại thiết cúng dường để cúng dường đó và bạch Lư Thần tiên nhơn muốn cầu sự gì xin được nói cho, chúng
tôi biết rồi nếu sức chúng tôi làm được sẽ ban cho Ngài.
Lư Thần tiên nhơn nói :
Nay tôi muốn biết tinh tú để lợi ích mọi người vì lòng tôi thương xót họ.
Tất cả chư Thiên nói :
Nếu vì thương xót tất cả chúng sanh mà muốn được biết, nguyện sẽ nói đó.
Lư Thần tiên nhơn nói :
Thưa Phạm Thiên ! Thiệt tôi chẳng hiểu tinh tú tối sơ v.v…”.
Lúc Quang Vị nói tinh tú ấy, chư đại Long Vương đối với Quang Vị Bồ Tát sanh tâm vui mừng.
Quang Vị Bồ Tát lại vì chư Long Vương phát âm thanh vi diệu tán thán Tam bửu rồi nói rằng : “Chư Đại Vương ! Nay ta thiệt chẳng thể cứu vớt khổ các Ngài. Chỉ có Thích Ca Như Lai Thế Tôn mới cứu được. Đức Thích Ca Như Lai vì muốn điều phục các chúng sanh, nên trong vô lượng đời xả bỏ sở hữu trân quý tu tập từ bi để cứu khổ não”.
Nghe lời ấy, tất cả Long Vương và quyến thuộc nam nữ lớn nhỏ đều chí tâm niệm Phật tán thán quy y :
“Nam mô Phật Thế Tôn, ở trong tất cả chúng sanh rất là thù thắng, ở trong tất cả pháp tâm được tự tại, ở trong các pháp hải đã đến bờ kia, hay cứu tất cả chúng sanh khổ não ban cho họ an lạc bình đẳng không hai, thương xót tất cả, hay chỉ đường chánh ban cho
chánh nhãn, được tất cả Thiên Long cúng dường, hay thọ cúng cụ vị diệu của tất cả nhơn thiên trong tất cả thế giới mười phương.
Chúng tôi thọ nhiều vô lượng khổ não, duy nguyện đức Thế Tôn từ bi thương cứu”.
Thành tâm niệm Phật rồi, tất cả chư Long tự thấy thân mình như cũ.
Quang Vị Bồ Tát bảo chư Long Vương rằng : “Như Lai công đức bất khả tư nghị, vì chúng sanh nên trong vô lượng đời Như Lai tu hành đầy đủ sáu Ba la mật, tuyên nói ba thứ từ bi điều phục chúng sanh, tuyên nói tất cả pháp vô ngã vô tác, tuyên nói ấm, nhập, giới, tứ, đại, các phiền não tuyên nói tánh phiền não, và tánh chúng sanh, tuyên nói tất cả pháp vô tánh, vô tướng, vô ngại, vô tác, vô cấu, vô tịnh, vô minh, vô ám, vô thủ, vô xả, vô hành, vô trụ, vô nhứ, vô nhị, tất cả ấm, nhập, giới tứ đại cũng đều như vậy. Đây gọi là Đệ nhứt nghĩa không.
Vì vậy nên Như Lai hay điều phục chúng sanh là đấng Vô Thượng Tôn. Vì vậy nên đức Như Lai có thể cưu vô lượng khổ não của các Ngài”.
Quang vị Bồ Tát cùng chư tiên nhơn tất cả Long Vương và quyến thuộc đồng đến chỗ đức Phật lễ bái cung kính hữu nhiễu rồi ngồi qua một phía.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Quang Vị Bồ Tát rằng : “Nầy Quang Vị ! Nay ông có muốn nghe nghiệp của chư Long chẳng ?”.
Quang Vị Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay đã đúng lúc, duy nguyện đức Như Lai tuyên nói đó”.
Đức Phật nói : “ Lành thay lành thay, lắng nghe, lắng nghe, nầy Quang Vị ! Phật sẽ vì ông mà diễn nói”.
Tất cả nhơn thiên dâng hương hoa tốt, phan lọng, kỹ nhạc cúng dường Phật.
Đức Thế Tôn cùng chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, vô lượng Thanh Văn và Bồ Tát từ nước Ma Già Đà thẳng đến núi Tu Di.
Phạm Vương thiết toà thất bửu để chờ Như Lai, lại còn tạo làm đường thất bửu rồi bạch rằng : “Duy nguyện Như Lai đi trên đường nầy và ngồi tòa của tôi”.
Tha Hóa Tự Tại Thiên dùng diêm phù đàn na bửu làm tòa ngồi và đường đi cũng nguyện như trên.
Hóa Lạc Thiên dùng vàng cõi trời làm tòa ngồi và đường đi cũng ước nguyện như vậy.
Đâu Suất Đà Thiên dùng bạc cõi trời làm tòa ngồi và đường đi cũng cầu nguyện như vậy.
Dạ Ma Thiên dùng lưu ly làm tòa ngồi và đường đi cũng nguyện cầu như vậy.
Đao Lợi Thiên dùng chơn châu làm tòa ngồi và đường đi cũng cầu mong như vậy.
Tứ Thiên Vương dùng mã não làm
tòa ngồi và đường đi cũng nguyện như vậy.
Tứ A Tu La Vương dùng chiên đàn
làm tòa ngồi và đường đi cũng mong cầu như vậy.
Vì lòng lân mẫn, đức Thế Tôn hóa thân Phật khắp đi bảy đường, khắp ngồi bảy tỏa. Còn chơn thân Như Lai thì đi và ngồi đường và tòa của Phạm Vương sắp đặt. Mỗi mỗi Hoá Phật đều có vô lượng Thanh Văn và Bồ Tát làm quyến thuộc. Quang minh của mỗi Hoá Phật nhu ánh sáng của vô lượng nhựt nguyệt.
Chư Long Vương thấy Hoá Phật rồi lòng rất kính trọng đồng nói rằng : “Nay núi Tu Di bèn có trăm ngàn nhựt nguyệt như vậy chăng”.
Nan Đà, Bạt Nang Đà Long Vương nói : “Đức Như Lai Thế Tôn cùng vô lượng Pham Thiên đến núi Tu Di, đó là
quang minh của Phật chớ chẳng phải nhựt nguyệt. Các Ngài nếu muốn giải thoát thì nên chí tâm chuyên niệm Như Lai, Như Lai Thế Tôn đã phá hết vô minh nên nay có quang minh như vậy”.
A Na Bà Đạt Đa Long Vương nói : “Quang
minh ấy là của ma mương chẳng phải của Phật. Tại sao, vì tất cả Dục giới thuộc ma Ba Tuần, ma Ba Tuần hay làm điều ác ấy, nay vì thương xót nên có thể cứu khổ của chư Long Vương như vậy”.
Còn có Long Vương nói là của Hoá Tự Tại Thiên, còn có nói
là của Hóa Lạc Thiên, Đâu Suất Thiên, Dạ Ma Thiên, Đao Lợi Thiên, Tứ Vương Thiên vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy.
Thiện Trụ Long Vương nói : “Quang
minh đó là của Quang Vị Bồ Tát vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy”.
Bửu Kế Long Vương nói : “Quang
minh ấy là của người đại đức xuất gia cạo bỏ râu tóc, vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy”.
Hải Long Vương nói : “Quang
minh ấy là của Như Lai. Tại sao, vì thương xót vậy, Như Lai Thế Tôn ở nơi các chúng sanh tu nhứt tử tưởng, hay cứu chúng sanh tất cả khổ não, trong vô lượng đời tu hành đầy đủ sáu Ba la mật chỉ vì cứu tế tất cả chúng sanh khổ não. Vì vậy nên chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc sắp đặt đại cúng cụ để cúng dường Phật”.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Thiên Đế Thích rằng : “Nầy Kiều Thi Ca ! Như ta đi trong thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng
sanh, cũng như Ngài ở Đao Lợi Thiên để độ chư Thiên”.
Đế Thích nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi chưa có vô biên trí,
sao lại nói là tôi có thể hóa độ chư Thiên.
Bạch đức Thế Tôn ! Nay núi Tu Di nầy có vô lượng chư Thiên, vô lượng Phạm Thiên, vô lượng Quỷ Thần, vô lượng Càn Thác Bà, vô
lượng Khẩn Na La, vô lượng Ca Lâu La, vô lượng A Tu La, vô lượng Ma Hầu La Già, vô lượng Chư Long, vô lượng Đại Tiên, vô lượng Thánh nhơn. Duy nguyện Như Lai thương xót hoá độ chúng sanh như vậy”.
Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ miệng Phật phát xuất vô lượng sắc quang sanh vàng đỏ trắng pha lê nhiều màu chiếu khắp mười phương những chỗ tối tăm, hay phá hoạitc các ác nghiệp ma hơn hẳn quang minh của vô lượng ức Phạm Thiên, Đế Thích nhựt nguyệt.
Đức Phật nói với Thiên Đế Thích : “Nầy Kiều Thi Ca ! Tất cả núi trong Ta Bà thế giới, núi Tu Di là lớn hơn cả. Ta cũng vậy, là hơn hết trong tất cả chúng sanh”.
Chư Long Vương nghe lời ấy đều bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Duy nguyện xót thương cứu khổ chúng tôi”.
Đức Phật nói : “Chư Long Vương ! Các ngươi nên trước chí tâm niệm Phật, ta sẽ cứu cho”.
Đức Phật dùng âm thanh nghe khắp mười phương thế giới mà bảo Tôn giả Kiều Trần Như rằng : “Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả các pháp đếu vô thường, tất cả các pháp sanh trụ vô thường, tại sao, vì sanh nhơn duyên vậy. Tất cả nhơn duyên sanh pháp tức là khổ vậy. Nếu lúc pháp sanh tức là khổ, tức là nhọt ghẻ, tức là hữu chi, tức là sanh lão, tức là sanh diệt.
Nầy Kiều Trần Như ! Nhãn tức là vô thường khổ, nhãn sanh ấy tức là khổ, là nhọt ghẻ, là hữu chi, là sanh lão, tức là sanh diệt.
Như nhãn, nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý cũng vậy.
Nầy Kiều Trần Như ! Nếu Nhãn diệt thì tức là sanh, lão, bịnh, tử diệt, tất cả hữu chi diệt, nhẫn đến ý cũng như vậy.
Vì chúng sanh chẳng biết nhãn sanh diệt nên lưu chuyển trong ngũ đạo.
Đức Như Lai vì giúp nhãn
sanh diệt nên diễn thuyết pháp, cũng vì nói khổ đoạn khổ hành pháp.
Vì vậy nên Như Lai là Đại Phạm trong Phạm, là Đại Thiên trong
Thiên, là Đại Tượng trong Tượng, là Đại Sa Môn trong Sa Môn, là Đại Bà La Môn trong Bà La Môn, là Đại Từ trong Từ, là Đại Bi trong Bi, là Vô Thượng Tôn, là Đại Trượng Phu, đã đến bờ kia của biển lớn sanh tử, là tối đại phước điền, là vô thắng thí chủ, tâm thường bình đẳng, là đại Pháp Vương trì đại cấm giới, là vô thượng tinh tiến khéo tu phạm hạnh, biết rõ chánh đạo làm đại Đạo Sư thông đạt các nghiệp khác.
Nầy Kiều Trần Như ! Vì khéo biết nhãn sanh diệt nhơn duyên nên gọi là Như Lai. Vì chẳng biết rõ nhãn sanh diệt nhơn duyên nên gọi là phàm phu.
Thế nào là chẳng biết mà gọi là phàm phu ?
Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả chúng sanh đều nói có ngã, do
đây nên chẳng biết tướng nhãn sanh diệt mà phải luân chuyển ngũ đạo.
Nầy Kiều Trần Như ! Có các nhà ngoại đạo nói rằng kiến là ngã, đến nói rằng tri ấy là ngã, nhãn ấy là nhơn duyên của ngã, đến ý ấy là nhơn duyên của ngã. Họ nói nhãn dụ như lỗ trống, ngã dụ như thấy. Nếu như vậy thì gọi là điên đảo, tại sao ? Vì thấy được nói đó là hoà hiệp, ở trong hòa hiệp mà cho là ngã nên
là điên đảo.
Nếu nói lỗ trống dụ cho nhãn, còn thấy dụ cho ngã, nghĩa nầy chẳng đúng. Tại sao ? Vì trong lỗ trống mà thấy đó, cũng có thấy, cũng có nghe, cũng có biết, cũng cảm xúc mà nhãn thì không có như vậy. Vì vậy nên thấy ấy chẳng được gọi là ngã.
Lỗ trống dầu lâu cũ mà thấy vẫn tỏ rõ. Nhãn nếu lâu cũ thì chẳng được như vậy.
Ngã ấy gọi là thường. Nếu ngã là thấy là nghe thì ngã
là vô thường. Đã vô thường đâu được gọi là ngã.
Nầy Kiều Trần Như ! Vì điên đảo nhơn duyên nên chúng sanh chẳng thấy tứ chơn đế. Như Lai đạt tướng điên đảo ấy nên gọi là chánh trí. Ngã ấy tức là Như Lai.
Nếu có người biết được Như Lai ngã ấy, người nầy có thể phá hoại tướng điên đảo. Nếu hoại điên đảo thì phá ma nghiệp. Nếu phá ma nghiệp, người nầy có thể cứu khổ chư Long.
Nầy Kiều Trần Như ! Vì vậy nên nay Phật có thể cứu khổ não chư Long Vương vậy”.
Nghe pháp ấy, tất cả chư Long Vương và quyến thuộc vui mừng hớn hở lòng khổ não liền trừ đồng kính lễ nhứt tâm quy hướng Tam bửu.
Phật nói pháp ấy rồi, tất cả đại chúng đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment