Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 63
PHÁP HỘI BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU
PHẨM DẠ MA THIÊN THỌ KÝ
Bấy giờ lại có bốn ức chư Thiên Dạ Ma thấy A Tu La, Ca Lâu La, Long
Nữ, long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, Khẩn Na La, Hư Không Hành Thiên, Tứ Thiên Vương Thiên và Đao Lợi Thiên cúng dường Phật đươc thọ ký, họ rất vui mừng hớn hơ » vô lượng, ở nơi Phật pháp họ phát khởi lòng tin ưa mà nghĩ rằng : Phật pháp như vậy rất lạ rất diệu. Ai chứng được Phật pháp ấy thì không gì chẳng biết, không gì chẳng thấy, không gì chẳng giản trạch, không gì chẳng chứng nhập. Nơi đã sanh chưa sanh hiện sanh, hoặc đã diệt sẽ diệt hiện diệt, hoặc nghiệp hoặc báo đều biết như thiệt. Rất lạ đức Như Lai có thể biết thế đế và đệ nhứt nghĩa, khéo biết hai đế ấy không còn gì khác. Đức Phật Thế Tôn ở nơi pháp không,
Khéo hay biết hay thấy, khéo biết giản trạch, khéo chứng tương ưng nên gọi là nhứt thiết trí. Gì gọi là thế đế ? Tất cả thế tục sanh tử hiện hành, ở nơi các pháp ấy đều biết rõ được cả. Đệ nhứt nghĩa đế không có ngôn thuyết, không có người biết, chẳng phải sở hành của tâm, vì là vô tri nên
không người hay nói không ai hiển thị, không ai nói dạy, không có ai nghe, vì là không nói nên cũng không người biết, không sanh không hiển bày, không người thấy, không người sắp đặt, không có nắm lấy, không có giác tri, không
có năng đáo cũng không sở đáo, không thể gần kề, không thể đo lường, không có kiến lập, không có vứt bỏ, không sở tác không năng tác, không khen không chê, không lợi không suy, không ngợi không bay, không khổ không vui, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc, chẳng phải số chẳng phải chẳng số, chẳng phải sáng chẳng phải chẳng sáng, chẳng phải phiền não, chẳng rời phiền não, chẳng phải thế gian, chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác, chẳng phải quán, chẳng phải tiến chẳng phải thối, không động không tác, không có hí
luận, vượt khỏi hí luận, tướng sắc được nói bất khả đắc, thọ tưởng hành thức cũng bất khả đắc, tướng nhãn bất khả đắc, nhĩ tỉ thiệt thân và ý các tướng ấy cũng bất khả đắc, tướng sắc bất khả đắc, các tướng thanh hương vị xúc và pháp đều bất khả đắc, tướng nhãn thức bất khả đắc, các tướng nhĩ thức tỉ thức thiệt thức thân thức và ý thức đều bất khả đắc, tướng nhãn xúc bất khả đắc, các tướng nhĩ xúc tỉ xúc thiệt xúc thân xúc và ý xúc đều bất khả đắc, nhãn xúc sanh thọ bất khả đắc, nhĩ tỉ thiệt thân và ý xúc sanh thọ đều bất khả đắc, tướng sắc tư giác bất khả đắc, các tướng thanh hương vị xúc và pháp tư giác đều bất khả đắc, tướng không bất khả đắc, các giới địa thủy hỏa phong và thức đều bất khả đắc, tướng dục giới bất khả đắc, tướng sắc giới bất khả đắc, tướng vô sắc giới bất khả đắc, tướng hữu vi bất khả đắc, tướng vô vi bất khả đắc. Các tướng như vậy, nếu các pháp ấy được tuyên nói thì không người hay nói, các pháp như vậy như vậy gọi là những pháp bất khả thuyết. Phật pháp tối thắng, chúng sanh phám phu ngu
si không học chẳng biết được nên họ nghe đến sanh kinh sợ. Ở nơi Phật pháp vì họ kinh sợ nên bèn thối thất nơi Nhứt thiết chủng trí. Chư Thiên và người đời nên phải xót thương các chúng sanh ấy, họ thường ở sanh tử bị nhiều khổ não
Chư Thiên Dạ Ma quan sát các thế gian chúng sanh khổ não rồi, vì được Phật pháp và vié cúng dươéng Như Lai nên phát khởi tâm tinh tấn dũng mãnh, trần thiết đồ cúng dườnghơn trời Đao Lợi để dâng cúng Phật, cúng dường xong đảnh lễ chưn Phật nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán thán đức Phật :
« Phật thấy các ấm đều không tịch
Ở nơi giới nhập cũng như vậy
Các căn tích tụ đều ly tướng
Như Lai như thiệt biết rõ cả
Bực trí thế gian nơi thiệt pháp
Chẳng theo người nghe tự nhiên hiểu
Đó là thế đế và chon đế
Ngoài đây không còn pháp thứ ba
Như Lai thương xót tất cả loài
Vì lợi thế gian nói tục đế
Như Lai tuyên
nói nơi thế gian
Vì các chúng sanh hiển lục đạo
Địa ngục súc sanh và ngạ quỉ
Nhơn Thiên Tu
La đủ sáu đạo
Nhà hạ liệt và nhà thù thắng
Bao nhiêu nhà nghèo và nhà giàu
Các hàng nô bộc và tì sứ
Các giống nam nữ và hai căn
Bao nhiêu sáu đạo ở thế gian
Đức Phật Thế Tôn đều đã nói
Quan sát các pháp thế tục rồi
Vì lợi ích lời Phật tuyên nói
Chúng sanh ưa thích nơi sanh tử
Chẳng thể rơéi được tám sự đời
Đó là lợi suy và hủy dự
Các thứ xưng cơ và khổ lạc
Được lợi lòng họ liền vui mừng
Thất lợi họ liền sanh sân não
Sáu sự đời kia cũng như vậy
Thế gian đều theo tám sự ấy
Ở trong tục đế mà nói chơn
Kiến thức điên đảo cần phải rõ
Trong chẳng sạch vui nói sạch vui
Trong không có ngã nói có ngã
Trong pháp vô thường nói là thường
Ở trong tướng ấy luôn nắm lấy
Nghe giáo pháp của đức Phật dạy
Họ bèn sợ chê chẳng tin nhận
Chê bai thiệt giáo của Như Lai
Sẽ đọa địa ngục rất khốn khổ
Phàm ngu tham cầu nơi thế lạc
Càng thọ vô biên trăm thứ khổ
Nếu ai được ở trong Phật pháp
Quan sát như vậy chẳng điên đảo
Bỏ rời sanh tử vào Niết bàn
Như rắn kia lột bỏ da cũ
Tất cả các pháp thể tánh không
Không chẳng có tướng đệ nhứt nghĩa
Nếu nghe pháp không mà ưa thích
Chắc được vô thượng đại Bồ đề
Như Lai như thiệt nói pháp ấy
Dứt trừ nghi ngờ cho chư Thiên
Đều phát tâm Vô thượng Bồ đề
Vì độ tất cả chúng sanh vậy
Chư Thiên như vậy phát tâm rồi
Thảy đều mừng vui tâm thanh tịnh
Được nghe Phật pháp tối thắng rồi
Chúng chư Thiên đây
đều thành Phật »
Đức Thế Tôn biết thâm tâm tin ưa của bốn ức Dạ Ma Thiên nên hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ kheo nói kệ hỏi Phật :
« Phật vì thế gian mà mỉm cười
Tất cả chúng đây đều sanh nghi
Ngưỡng mong Thế Tôn nói rõ cho
Khiến tất cả chúng đều mừng rỡ
Được nghe thọ ký chư Thiên rồi
Tất cả đại chúng đều hớn hở
Người có trí huệ phát dũng mãnh
Ở trong Phật pháp làm như lời
Hàng chúng thù thắng của Như Lai
Có đủ pháp khí công đức Phật
Lành thay tuyên nói lời đẹp hay
Để nhiếp tất cả đại chúng vậy
Nghe Phật công đức long vui mừng
Các đại chúng đây quyết sẽ được
Nghe đức Như Lai thọ ký rồi
Đúng pháp sẽ siêng tu tinh tấn
Lành thay Thế Tôn Thầy Trời Người
Vì trừ nghi hoặc cho đại chúng
Ngưỡng mong Thế Tôn mau nói rõ
Đại chúng nhứt tâm ưa thích nghe
Trời Dạ Ma kia được thọ ký
Xin đức Thế Tôn mau nói rõ
Các đại chúng đây đều vui mừng
Tất cả đều phát tâm Bồ đề ”.
Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :
“Vì lợi thế gian hiện tướng cười
Mã Thắng đúng giờ khéo hỏi Phật
Lợi ích vô lượng các đại chúng
Vì nghe công đức của Như Lai
Các chúng sanh ưa thích
tham sân
Không biết ưa nơi công đức Phật
Tâm họ ngu si bị mê loạn
Sẽ chìm mãi trong biển sanh tử
Với Phật chánh pháp nếu tin ưa
Đã từng thỉnh hỏi nơi Phật trước
Người tương ưng với tâm đại bi
Người nầy sẽ được Phật công đức
Nếu thấy chúng sanh bị si não
Người trí với họ sanh lòng thương
Các chúng sanh ấy nghe Phật đức
Đội lãnh Phật giáo như vòng hoa
Chúng hội của Phật rất thanh tịnh
Nơi chỗ Phật trước đã tu phước
Họ đối với công đức Như Lai
Đội lãnh như vòng hoa bà sư
Chỗ Phật trước chúng trời Dạ Ma
Đã tu trì giới trừ tham trước
Nhàm lìa phiền não lòng thanh tịnh
Với chúng sanh khổ sanh lòng thương
Đã từng gần gũi vô lượng Phật
Số ấy nhiều như cát song Hằng
Họ đã tu tập vô lượng lành
Để cầu Vô thượng Bồ đề vậy
Biết chúng sanh chìm trong phiền não
Với chúng sanh khổ sanh lòng thương
Nơi đấng cứu thế đại Đạo Sư
Bạch hỏi vô lượng pháp môn diệu
Nay Phật Đạo Sư vì họ nói
Người nghe đều được thành Phật đạo
Biết chúng sanh bị phiền não móc
Vì họ nói pháp thiện thắng diệu
Điều Ngự Trượng Phu đại Đạo Sư
Vì các chúng sanh nói pháp không
Họ nghe pháp của Phật dạy rồi
Các pháp không ấy đều biết rõ
Đó là không các pháp tướng không
Nói không tự tánh pháp không tướng
Biết rõ các Phật pháp như vậy
Thảy đều an trụ Phật công đức
Chúng ấy cúng dường nơi Như Lai
Như pháp đều tự thọ ký biệt
Ở kiếp tinh tú đời vị lai
Thảy đều được thành vô thượng đạo
Chư Phật như vậy không tăng giảm
Số ấy đầy đủ bốn ức chẵn
Thảy đều đồng hiệu Tịnh Trí Phật
Khai ngộ vô lượng các chúng sanh
Đại Thiên hằng phục các ma oán
Đáp lời Mã Thắng đã bạch hỏi
Chúng trời Dạ Ma đã mãn nguyện
Đại chúng Trời Người đều mừng rỡ ”.
PHẨM ĐÂU XUẤT ĐÀ THIÊN THỌ KÝ
Bấy giờ
có tám ức Đâu Suất Đà Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La nhẫn đến
Dạ Ma Thiên cúng dường Phật
được thọ
ký, họ đều vui mừng
hớn hở và nghĩ rằng
: Nơi
những pháp nào mà đức Thế
Tôn thọ ký cho Vô thượng Bồ
đề ? Là sắc thọ
ký, thọ tưởng hành thức
được thọ
ký Vô thượng Bồ
đề ? Chư
Thiên ấy lại nghĩ rằng
: Chẳng phải thọ
ký cho sắc, cũng phải thọ
ký Vô thượng Bồ
đề cho thọ tưởng hành thức. Tại
sao ? Vì sắc đã chẳng sanh, Bồ
đề cũng chẳng sanh, Thế nào sắc
vô sanh mà ngộ được Bồ
đề vô sanh, như
vậy thọ tưởng hành và thức vô hành làm sao ngộ được Bồ đề
vô sanh .Sắc đã chẳng diệt
Bồ đề cũng chẳng
diệt, thế nào sắc
bất diệt lại
ngộ được
Bồ đề
bất diệt, như vậy
thọ tưởng hành và thức bất
diệt làm sao ngộ được Bồ đề
bất diệt.
Sắc vô phân biệt, Bồ
đề cũng vô phân biệt, thế
nào sắc vô phân biệt lại
ngộ được Bồ
đề vô phân biệt, như vậy
thọ tưởng hành và thức vô phân biệt làm sao ngộ được Bồ đề
vô phân biệt.
Sắc đã vô nhị,
Bồ đề cũng vô nhị, thế
nào sắc vô nhị lại
ngộ được bồ
đề vô nhị, như vậy
thọ tưởng hành và thức vô nhị
làm sao ngộ được Bồ
đề vô nhị.
Sắc đã vô tác, Bồ đề
cũng vô tác, thế nào sắc vô tác lại
ngộ được Bồ
đề vô tác, như
vậy thọ tưởng hành và thức vô tác làm sao ngộ được Bồ đề
vô tác.
Sắc đã bất
khả đắc, Bồ
đề cũng bất khả
đắc, thế nào sắc
bất khả đắc
lại ngộ được Bồ đề
bất khả đắc,
như
vậy thọ tưởng hành và thức bất
khả đắc làm sao ngộ được Bồ đề
bất khả đắc.
Ở trong các pháp bất khả
đắc ấy, gì là Phật, gì là Bồ
đề, gì là Bồ Tát, gì là thọ ký. Sắc
ấm không, thọ tưởng hành thức cũng đều
không. Tại sao ? Vì tự tánh không vậy. Thế
thì Phật không, Bồ đề
không, Bồ Tát không, thọ ký không. Tại sao ? Vì tự thể
không vậy. Trong tất cả
pháp tánh không như
vậy, nói rằng Phật
ấy là danh là dụng là thế
đế, chỉ là ngôn thuyết, chỉ
là thi thuyết. Nói rằng sắc
thọ tưởng hành thức
cũng chỉ là danh là dụng là thế
đế là ngôn thuyết là thi thiết. Người trí ở nơi đây chẳng
nên tham trước.
Ví
như
có người chiêm bao hưởng thọ
ngũ dục lạc, lúc thức
chẳng thấy sự
vui ấy, vì nhớ lại
chẳng được vui ngũ dục nên sanh khổ não.
Người an trụ
nơi
Bồ Tát thừa mà thủ
trước, vì chẳng
ngộ Bồ đề
chẳng chứng Bồ
đề nên chẳng được pháp vị ấy.
Vì chẳng được pháp vị
nên lòng sanh khổ não. Tại sao ? Vì các pháp như
vậy đều như cảnh
mộng chẳng thiệt
có. Pháp ấy nghĩa sai biệt , hang phàm phu hiểu biết
đều sai khác. Tất cả
các pháp phải biết như vầy
: Pháp nào là Phật, pháp nào là Bồ Tát, pháp nào là Bồ đề
? Các Phật pháp ấy đều
bất khả đắc.
Phàm phu bất khả đắc,
pháp phàm phu cũng bất khả đắc.
Thanh Văn bất khả đắc,
pháp Thanh Văn cũng bất khả đắc.
Bích Chi Phật bất khả
đắc, pháp Bích Chi Phật cũng bất
khả đắc. Bồ
Tát bất khả đắc,
pháp Bồ Tát cũng bất khả
đắc. Chư
Phật bất khả
đắc, pháp chư
Phật cũng bất khả
đắc, Bồ đề
bất khả đắc,
Niết bàn cũng bất khả
đắc. Trong các pháp như
vậy, chúng tôi hiểu rõ không hoài nghi.
Đâu Suất
Đà Thiên ở trong pháp ấy không nghi ngờ rồi
đối với Phật
càng kính tin, thích dâng cúng dường. Họ
cúng dường hơn trời
Dạ Ma, đảnh lễ
chưn
Phật, nhiễu Phật
ba vòng rồi đứng qua một
phía nói kệ tán than đức Phật
:
“
Nhừng người an trụ
Phật công đức
Như
Lai vì họ dạy pháp hành
Họ được ba thứ giải
thoát môn
Tu
hành trong cảnh giới vô đẳng
Không sắc
không thọ tưởng hành thức
Không người hay thọ cũng không tâm
Đây là cảnh
giới trí vô ngại
Thiên Nhơn Sư thích lìa dục ấm
Bực trí huệ
đại trượng phu ấy
Chẳng lấy
tưởng phát tâm Bồ đề
Lìa Ấm
rồi được thắng
thiện căn
Nơi
Phật công đức không nghi lự
Chí nguyện
Vô thượng đại
Bồ đề
Nhưng
với Bồ đề
lìa thủ trước
Vì
vậy nội tâm không lo mừng
Gọi là Phật
tử tu thánh đạo
Đồng Phật
thấy pháp đều bình đẳng
Thế nên vô pháp vô sở úy
Người trí ở
chỗ thế gian nầy
Cầu Phật
công đức khởi tu hành
Giản trạch
sắc tướng vô sở
trước
Vứt bỏ
tấ cả tâm có tướng
Nơi
ba cõi kia chăảng mong muốn
Quan sát các cõi thảy đều
không
Biết được ngũ ấm đều
chẳng sanh
Như
Lai thọ ký đến Bồ
đề
Bồ đề
tâm ấy cũng vô sanh
Người nói lời
nầy không ngu hoặc
Như
Lai công đức và sanh tử
Các Phật
pháp ấy đều vô sanh
Người biết
như
vậy là trí huệ
Đây là chơn thiệt
con Như
Lai
Nếu biết
được các ấm
bất diệt
Giới nhập
và cùng pháp Như
Lai
Phật cùng Bồ
đề và thọ ký
Các pháp như vạ-y
đều bất diệt
Nếu vì Bồ
đề mà tu hành
Phải biết
người ấy
cũng bất diệt
Vì
biết thế gian là bất
diệt
Nên cầu
Bồ đề chẳng
là khó
Năm ấm
giới nhập và Bồ
đề
Bồ Tát cùng Phật đều
vô tác
Biết rõ như vậy
là Phật tử
Hay trì chánh pháp của Như Lai
Ấm giới
các nhập đều vô giác
Bồ đề
cùng Phật và Bồ Tát
Và
cùng thọ ký đều vô giác
Người biết
như
vậy là Phật tử
Ngũ ấm
giới nhập tánh không tịch
Phật cùng Bồ
đề và thọ ký
Thiệt
con của Phật người tu hành
Tất cả
cũng đều tự tánh không
Ấm giới
các nhập đều hư vọng
Lưỡng Túc Thế
Tôn và Bồ đề
Bồ Tát thọ
ký cũng hư
vọng
Biết rõ như vậy
là Phật tử
Chẳng phải
y chỉ chẳng y chỉ
Cũng phải
pháp có pháp không
Chẳng phải
hữu vi và vô vi
Biết rõ như vậy
là Phật tử
Thế Tôn thấy
thế gian như
vậy
Chúng tôi biết
tâm Phật như
vậy
Nên liền
cúng dường lên Như Lai
Cũng cúng tất
cả chúng hiền thánh
Chúng tôi khen Phật mà được phước
Chỉ Phật
Thế Tôn biết rõ được
Đem
công phước đức
nầy thí quần sanh
Nguyện
đều thành Phật đủ
tướng tốt
».
Đức Thế
Tôn biết trời Đâu Suất
Đà tán thán và thâm tâm tin ưa
rồi liền hiện
tướng mỉm
cười.
Huệ Mạng
Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch
hỏi Phật :
«
Vô Thượng Sĩ được đại thế
lực
Do
đại bi tâm hiện mỉm
cười
Nguyện
Phật nói rõ duyên cớ cười
Cho chúng được nghe đều mừng
rỡ
Vì
thấy Như
Lai hiện tướng cười
Nên đại
chúng nầy đều hoài nghi
Chúng tôi ân cần
khắp chiêm ngưỡng
Thảy đều
nhứt tâm muốn được nghe
Dường như thế
gian có người bịnh
Chỉ tưởng y sư
và lương
dược
Đại chúng như vậy
đối với Phật
Mong muốn
được nghe Phật
thọ ký
Chúng ấy
đều có trí huệ sâu
Chí cầu
Bồ đề vô sở
trước
Tất cả
cung kính đồng chime ngưỡng
Chỉ mong Như Lai nói ký biệt
Thế Tôn nơi đây khởi
đại bi
Dùng Phật
trí lực dứt lưới nghi
Thế nên đại
chúng đều mừng rỡ
Thảy đều
nguyện cầu Phật
công đức
Nay đúng là lúc Phật thọ
ký
Ngưỡng mong dứt
trừ các nghi hoặc
Phật đã từ
lâu lìa oán dịch
Nguyện
dứt ngoại đạo
các tà luận ”.
Đức Thế
Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng
Mã thắng :
“
Nay ông thỉnh hỏi nơi Như Lai
Nhơn
duyên mỉm cười thật
đúng lúc
Vì
lợi thế gian nên thưa
hỏi
Lòng vì lợi
ích các chúng sanh
Biết các chúng trời lòng ưa thích
Nên Phật
hiện tướng sáng mỉm
cười
Chúng trời
biết Phật pháp thắng
diệu
Nên họ
dâng cúng lên Như
Lai
Họ đều
như
thiệt thấy thế
gian
Tùy thuận
thánh giáo được chứng
pháp
Đã
đến ba thứ giải
thoát môn
Chẳng phải
thế gian mà biết được
Quá khứ
đã cúng vô lượng Phật
Cũng đã hỏi
Phật nghĩa sâu ấy
Nơi
Phật quá khứ đã tu không
Nên ngày hôm nay hiển không nghĩa
Do
thiện căn ấy nay tại
đây
Họ được gặp gỡ
Thích Ca Tôn
Dùng lý không khen đấng Vô Thượng
Làm lợi
tất cả các thế
gian
Thế gian như đây đều
vô sanh
Chư
Phật Bồ đề
và thọ ký
Bao nhiêu người tu hành Bồ đề
Chúng ấy
tất cả đều
vô sanh
Chúng sanh đều
đồng có pháp nầy
Biết như vậy
rồi được Bồ
đề
Quá khứ
đã được tâm Bồ
đề
Họ ở
nghĩa nầy được biết
rõ
Thế gian như vậy
cũng chẳng diệt
Chúng trời
Đâu Suất khéo thông đạt
Trí sáng chiếu
rõ đều không nghi
Nên chúng trời
ấy đều làm Phật
Quyết
định chắc được chỗ vô y
Nơi
pháp chẳng lấy lìa phân biệt
Tất cả
thế gian đều vô tác
Nghĩa nầy
chúng trời hay biết rõ
Tất cả
pháp thể lìa tự tánh
Chúng trời
lòng sạch không nghi hoặc
Bồ đề
và cùng tâm Bồ đề
Tất cả
đều không tự tánh không
Chư
Thiên Đâu Suất huệ kiên cố
Thảy đều
an trụ vô sở y
Nên được Bồ đề
chẳng là khó
Chắc sẽ
mau thành trí Vô Thượng
Ở kiếp
tinh tú đời vị lai
Sẽ độ
thoát được vô biên chúng
Tất cả
trời ấy đều
thành Phật
Đồng cùng danh hiệu Trạch
Pháp Vương
như
Lai đối với chúng trời
nầy
Biết họ
thích ưa
nên thọ ký
Tất cả
đại chúng nghe Phật nói
Thảy đều
hớn hở vừa
lòng dạ ”.
PHẨM HOÁ LẠC THIÊN THỌ KÝ
Bấy giờ
có Hóa Lạc Thiên Vương
làm đầu cùng quyến thuộc
bảy ức chúng trời
Hóa Lạc thấy A Tu La nhẫn đến
trời Đâu Suất Đà cúng dường Phật
được thọ
ký, họ đều mừng
vui hớn hở, họ
đều vừa lòng được an trụ thiệt
tế, ở trong chơn như không có nghi hoặc. Họ
đồng đứng dậy
trịch y vai hữu, gối
hữu chấm đất,
đầu mặt lạy
chưn
Phật, chắp tay cung kính khác miệng đồng
lời mà bạch Phật
rằng : « Bạch đức
Thế Tôn ! Như
chúng tôi hiểu nghĩa của Phật
nói thì tất cả các pháp là chơn
thiệt tế, là vô biên tế, là vô ngại
tế, là vô trụ tế,
là vô tận tế, là bất
nhị tế, là phi tế.
Bạch đức
Thế Tôn ! Nói rằng thiệt
tế là vì chẳng điên đảo
vậy, vô biên tế là vì không hạn lượng vậy, vô ngại
tế là vì lìa đối trị
vậy, vô trụ tế
là vì không tự tánh vậy, vô tận
tế là vì vô sanh vậy, bất
nhị tế là vì một
vị vậy, phi tế
là vì chẳng phải có vậy.
Bạch đức
Thế Tôn ! Thiệt tế
ấy khắp tất
cả chổ, không có một pháp nào mà chẳng phải
là thiệt tế.
Bạch đức
Thế Tôn ! Nói là Bồ đề
cũng là thiệt tế. Những
gì là Bồ đề ? Tất
cả pháp là Bồ đề
vì lìa tự tánh vậy. Nhẫn
đến năm nghiệp vô gián cũng là Bồ đề.
Tại sao ? Vì Bồ đề
không tự tánh, năm nghiệp vô gián cũng không tự tánh, nên nghiệp vô gián cũng là Bồ đề.
Bạch đức
Thế Tôn ! Nói Bồ đề
ấy như
tánh vô dư
Niết bàn, cũng như
tánh nghiệp vô gián. Tại sao ? Tất
cả pháp tức là tánh vô dư
Niết bàn , cũng là tánh nghiệp vô gián, thế nên vô dư Niết
bàn giới tức là Bồ
đề.
Bạch đức
Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh an trụ sanh tử
có thể cầu Niết
bàn ở trong thiệt tế,
không có người an trụ
sanh tử cầu Niết
bàn. Tại sao ? Vì thiệt tế
không hai vậy.
Bạch đức
Thế Tôn ! Chúng tôi ở nơi đây hiểu
rõ không hoài nghi. Nếu ai ở nơi pháp nầy
không hoài nghi, phải biết người ấy đã ở
nơi
Phật quá khứ được thọ ký Vô thượng Bồ đề
».
Đức Thế
Tôn nghe Hóa Lạc Thiên Vương
và bảy ức chúng trời
Hóa Lạc nói thọ ký, vì muốn
đại chúng vui mừng nên hiện
tướng mỉm
cười.
Huệ Mạng
Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch
hỏi Phật :
«
Đấng thương
thế gian hiện mỉm
cười
Mà
chẳng nói nhơn
duyên cười ấy
Thiên
Nhơn
Đạo Sư
chẳng không nhơn
Hiện tướng mỉm cười phóng tia sáng
Đã
thấy tướng cười của Thế
Tôn
Khiến
các đại chúng đều hoài nghi
Ngưỡng mong nói duyên cớ mỉm
cười
Dứt trừ
tất cả những
lưới nghi
Chúng ấy
nếu được Như Lai nói
Nghe rồi
đều sanh lòng hi hữu
Làm sạch
chơn
lộ cho chúng hội
Làm nhơn duyên xu hướng Bồ
đề
Nếu có chúng sanh còn hoài nghi
Vì
nghi nên khó được Bồ
đề
Ngưỡng mong đại
trí dứt nghi hoặc
Tinh cần
mau chứng đạo vô thượng
Bạch đức
Thế Tôn đại chúng nầy
Chí cầu
Bồ đề lìa những
ác
Được nghe chư Thiên thọ
ký rồi
Quyết
định sẽ thành đại
Pháp Vương
Nguyện
đức Thế Tôn vì xót thương
Dứt trừ
tất cả lòng nghi hoặc
Thọ ký Bồ
đề cho chư
Thiên
Khiến
chư
đại chúng đều mừng
rỡ”.
Đức Thế
Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng
Mã Thắng:
“Vì thương thế
gian nên hiện cười
Mã
Thắng nay ông hỏi nơi Phật
Phật đều
thọ ký chư
Thiên ấy
Các ông đều
phải lắng lòng nghe
Bảy ức
chúng trời Hóa Lạc nầy
Hay tự
thọ ký được thành Phật
Trong chúng đã làm sư
tử rống
Hay phá ngoại
đạo các tà kiến
Thí
như
hư
không mưa
đá khối
Chắc nát mặt
đất không còn nghi
Phật tử
như
vậy lìa nghi hoặc
Tự biết
chắc sẽ thành Phật
đạo
Dường như trời
lặng đến đêm tối
Phải biết
trăng mọc chắc chẳng
lâu
Phật tử
như
vậy đủ công hạnh
Biết chắc
sẽ đủ mười trí lực
Lại như mặt
nhựt lúc đứng bóng
Nhìn các sắc
tượng đều
sáng tỏ
Phật tử
như
vậy đủ công hạnh
Tự biết
chắc được Nhứt
thiết trí
Dụ như mặt
nhựt đến lúc lặn
Mọi người đều biết
mặt nhựt ẩn
Phật tử
như
vậy đều tự
biết
Quyết
định sẽ được trí tối thắng
Ví
như
các dòng đều chảy xuông
Người trí biết
sẽ về biển
cả
Phật tử
như
vậy đủ huệ
sáng
Biết chắc
sẽ được thượng Bồ đề
Như
người ném đá lên hư
không
Quyết
chắc rớt xuống
không nghi lự
Phật tử
như
vậy đều tự
biết
Chẳng lâu sẽ
được Thế
Gian Giải
Người trí pháp nhĩ có thấy biết
Vì
hiểu rõ pháp chẳng nghi ngờ
Biết mình có phần Phật
công đức
Quyết
định gần nơi trí tự
nhiên
Giả sử
na do tha ma chúng
Hiện Phật
bảo ngươi
chẳng thành Phật
Chẳng ngăn trở
được tâm ý họ
Vì
đã tự hiểu pháp chơn như
Quyết định
ở nơi
Phật công đức
Đều tự
nói mình được thọ
ký
Nơi
sự thọ ký nầy
của họ
Như
Lai đều tùy hỉ tất
cả
Chúng trời
ấy tu hạnh Bồ
Tát
Tự mình biết
rõ chẳng do người
Chúng ấy
tự nói thành Thiện Thệ
Như
Lai ở đây đều tùy hỉ
Thế nên Mã Thắng
nếu có người
Muốn được Bồ đề
Vô thượng ấy
Ở nơi pháp nầy
phải siêng cầu
Quyết
được tối
thắng chỗ an ổn
Tự thành chánh giác ngộ lý sâu
Tùy nghĩa như thiệt
đều biết rõ
Thân cận
cúng dường thiện
trí thức
Họ chứng
Bồ đề chẳng
là khó
Nếu ai ngàn kiếp tu khổ
hạnh
Da
thịt gân xương
không luyến tiếc
Nếu người hiểu rõ nghĩa lý nầy
Phước đây lớn
rộng hơn
phước trên
Quá khứ
bao nhiêu các đức Phật
Vị lai tất
cả đấng thương đời
Và
cùng hiện tại các Thế
Tôn
Đều y pháp nầy
thành Phật đạo
Hóa Lạc
chư
Thiên cúng Phật rồi
Thảy đều
tự biết đệ
nhứt nghĩa
Đã
cùng quá khứ chư
Như
Lai
Ngộ nghĩa lý nầy sẽ
thành Phật
Chư
Phật chỗ có thắng
tam muội
Và
cùng hiện tại định
đang trụ
Trời ấy
được vào cảnh
giới Phật
Vì
họ đời trược lâu tu tập
Bảy ức
Hóa Lạc chúng trời ấy
Ở nơi tam muội
không còn nghi
Phật pháp thanh tịnh đã khéo học
Nay nơi Phật
đạo hiện tu hành
Vì
thế nơi
lý sanh tin hiểu
Nên chánh cần
cầu rời mé khổ
Phải thường thân cận bực
đa văn
Quyết
được Vô thượng đại Bồ
đề
Nghe Phật
tuyên nói diệu pháp rồi
Chư
Thiên Hóa Lạc và chúng hội
Thảy đều
vui mừng trừ lưới nghi
Chảy rót thẳng
đến đại Niết
bàn”.
PHẨM THA HOÁ TỰ TẠI THIÊN THỌ KÝ
Bấy giờ có Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại thấy A Tu La nhẫn đến chúng trời Hóa Lạc cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở được vừa lòng khác miệng đồng lời bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng trời Hóa Lạc nói thiệt tế, chúng tôi còn chẳng thấy thiệt huống là thấy tế. Tại sao? Bạch đức Thế Tôn! Nếu thấy thiệt mới được nói là thấy tế. Tại sao? Người ấy hành nơi hai chỗ. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn, người ở nơi thừa như vậy, phải vì họ nói hai thứ pháp ấy. Hai pháp ấy chẳng phải chơn cảnh giới.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn ở nơi pháp bất nhị mà chẳng tin chẳng nhập, dầu người nầy có phát tâm trông được Bồ đề, phải biết người nầy đi sai đường. Tại sao? Vì nơi Bồ đề chẳng phải đường đi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh cầu Bồ đề, người ấy chẳng thấy có một pháp được giác ngộ. Tại sao? Vì không có chút pháp gì có thể được giác ngộ Vô thượng Bồ đề vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Pháp ấy chẳng phải quá khứ , chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải hữu vi, chảng phải vô vi, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải được hay, chẳng phải được biết, chẳng phải được xả, chẳng phải được tu, chẳng phải được chứng. Nói là Bồ đề ấy, pháp đó chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Pháp khác cũng chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Tại sao? Pháp đó chẳng tạp phiền não chẳng rời phiền não, pháp thể bất khả đắc, vì tánh tự ly vậy.
Pháp nầy chẳng cùng pháp đó làm đối trị, pháp đó cũng chẳng cùng pháp nầy làm đối trị. Tại sao? Vì tất cả các pháp đều lìa tướng vậy. Vì thế nên pháp đó chẳng phải được biết, được hay, được xả, được tu, được chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Sắc sanh ấy lìa tướng sanh, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Sắc diệt ấy lìa tướng diệt, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Quá khứ ấy lìa tướng quá khứ, nó cũng chẵng phải biết được hay được xả được tu được chứng. Vị lai và hiện tại cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Hữu vi ấy lìa tướng hữu vi, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Vô vi ấy củng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nhu vậy, nhẩn đến được nhiếp nơi ấm, được nhiếp nơi quá khứ vị lai hiện tại, được nhiếp nơi hữu vi vô vi, tất cả các pháp ấy đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên tất cả pháp ấy chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn như vậy vì cầu Bồ đề phát tâm tu hành, họ đều gọi là người an trụ Bồ Tátt thừa”.
Tám mươi na do tha
chúng trời Tha Hóa Tự Tại đều nói pháp của mình đã biết rồi, đồng nói kệ tán thán đức Phật:
“Thế Tôn khéo nói tận hữu biên
Vĩnh viễn chẳng thọ thân sáu đạo
Người đời vô trí sợ sanh tử
Phát tâm muốn qua bờ sanh tử
Thể các ấm ấy bất khả đắc
Bởi tánh tướng ấm vốn tự không
Tất cả pháp không đều vô tướng
Vì thế các pháp lìa đối trị
Tự thể tức không chẳng có vật
Không có được biết và xả tu
Cũng là chẳng phải pháp được chứng
Như Lai nói hữu tức phi hữu
Tướng cầu Bồ đề bất khả đắc
Các pháp trợ đạo cũng bất đắc
Lấy tâm cầu Phật bất khả đắc
Tướng Bồ Tát tìm cũng chẳng được
Nắm chặc các tướng hạng ngu si
Bọn họ trông được ngộ Bồ đề
Cảnh giới điên đảo chấp lấy tướng
Chẳng phải đi đúng Bồ đề đạo
Nhập Phật cảnh giới lìa các tướng
Gọi là người trí hành đúng pháp
Lìa xa các tướng và vô tướng
Cũng lìa nơi không và
bất không
Người nầy ngộ được đạo vô thượng
Chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo
Chẳng phải Thanh Văn mà biết được
Chẳng phải Duyên Giác có thể đến
Tâm được giải thoát tịnh vô cấu
Pháp ấy La Hán được tương ưng
Và cùng tất cả Bích Chi Phật
Chẳng phải cảnh của trí huệ họ
Câu ấy tâm có tướng chẳng biết
Người tu thiên không cũng chẳng hiểu
Nếu có ai hiểu không nói không
Cũng nói các pháp không tự tánh
Họ thọ Phật giáo không chê bai
Đây gọi là khéo tu không tịch
Ngộ được đạo Bồ đề khó ngộ
Nơi đó Phật là chơn Đạo sư
Khen Phật Lưỡng Túc Thế Tôn rồi
Liền được vô lượng các công đức
Hồi hướng cho tất cả quần sanh
Thành Phật giác ngộ người chưa ngộ”.
Đức Phật biết Thiên Vương và tám muơi na do tha trời Tha Hóa Tự Tại sanh lòng sâu tin ưa rồi, vì muốn đại chúng thêm lớn thiện căn nên hiện mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật:
“Lưỡng Túc Thế Tôn hiện mỉm cười
Vì biết Tha Hóa tin sâu vậy
Phật chưa tuyên nói nhơn duyên cười
Ngưỡng mong Như Lai giải thích cho
Đại Thánh hôm nay chẳng không nhơn
Mà hiện tướng mỉm cười hi hữu
Mong Phật nói rõ duyên cớ ấy
Dứt trừ nghi hoặc cho đại chúng
Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười
Nên nay chúng hội đều hoài nghi
Đấng thương mến tất cả thế gian
Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ
Chúng hội thảy đều trái sanh tử
Hiệp chưởng cung kính cầu Niết bàn
Với cớ Phật cười đều hoài nghi
Đấng Vô Ngại Thuyết xin trừ dứt
Đại chúng đều tin pháp của Phật
Tâm được hiểu ro’ lìa thủ trước
Đều có tâm tin sâu tôn trọng
Lành thay Mâu Ni xin nói rõ
Dũng mãnh tinh tấn nơi Phật pháp
Lìa xa lưới nghi lên đường thánh
Tất cả chư Phật đi đường nầy
Vì thế xin trừ nghi cho chúng”.
Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:
“Ông vì lợi ích cho đại chúng
Nói kệ hỏi Phật thiệt phải thời
Đầy đủ biện tài có xảo tiện
Mới hay hỏi được nghĩa mỉm cười
Do hỏi Như Lai tướng mỉm cười
Chắc sẽ lợi ích vô lượng chúng
Do tất cả các chúng hội
Đều được an trụ thắng Bồ đề
Biết chúng Tha Hóa tin sâu rồi
Nên Phật mới hiện tướng cười sáng
Tất cả tùy thuận Như Lai giáo
Vì cầu Bồ đề tu diệu hạnh
Quan sát thế pháp lìa các tướng
Như thấy dương diệm chẳng chơn thiệt
Người ngu thấy diệm cho là nưuớc
Muốn cầu Bồ đề chớ đồng họ
Phàm phu thủ tướng tham cảnh vui
Vô trí thường sợ nơi vô tướng
Người ngu chấp tướng bỏ chánh lộ
Lìa tướng thì được diệu Bồ đề
Vọng tưởng tư lương pháp hư ngụy
Theo pháp phân biệt liền bị trói
Người trí thấy tướng thảy đều không
Được đà la ni thượng tịch diệt
Phàm phu chấp tướng trụ ác tâm
Họ đều vô trí đọa lục đạo
Luân hồi sanh tử bị nhiều khổ
Vì họ ngu si chấp tướng vậy
Chúng sanh trước tướng thấy các ấm
Phật và Bồ đề cùng Bồ Tát
Người trí lìa tướng thấy không rồi
Hay được Bồ đề đại Vô thượng
Những kẽ chấp tướng tăng phiền não
Hay quán vô tướng trừ kiết sử
Nói là kiết sử tức là tướng
Quán kiết vô tướng liền dứt trừ
Nếu người cầu đạo mà phân biệt
Phân biệt nơi đạo là chướng ngại
Người trí dầu là hành nơi dục
Dục ấy tức là vô tướng hành
Các pháp không thể bất khả đắc
Phân biệt các pháp nói là không
Nếu lìa phân biệt được vô tướng
Đó là Bồ đề không còn khác
Nghe nơi Thiện Thệ nói lời ấy
Đại chúng trừ nghi được vô úy
Đảnh thọ lấy pháp Mâu Ni nói
Như người đầu đội hoa chiêm bặc
Chúng trời Tha Hóa được vô úy
Cúng dường nơi Phật rất hơn hết
Họ biết các pháp cảnh giới Phật
Sẽ làm thế gian đại Đạo Sư ».
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment