Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 13
PHÁP HỘI
MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SĨ
THỨ BA
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cùng các con và cung
nhơn quyến thuộc tự tay sớt thức ăn lành ngon nhứt tâm cung kính dâng cúng đức Phật và Thánh chúng.
Đức Phật và chư Bồ Tát Thánh chúng đều được sung mãn.
Ăn uống xong, dâng nước rửa. Sau đó Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ kê chiếc ghế nhỏ ngồi ở trước đức Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Mong đấng từ bi phải thời thuyết pháp cho các loài chúng
sanh rõ được đạo vô sanh. Người chưa phát tâm được phát đạo tâm. Người đã phát đạo tâm được lên bực bất thối chuyển. Cũng làm cho chúng quỷ thần yêu mị Càn Thát Bà đây mãi mãi được an ổn không họa hoạn vui hòa nhơn từ. Chư Thiên, người đời cùng chúng sanh trong ba
cõi được tâm nguyện thù tuyệt siêu việt thế gian ».
Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ và toàn thể đại chúng : «Lắng nghe ! Lắng nghe ! Phải khéo suy gẫm. Nếu thiện nam thiện nữ nhập được pháp môn an trụ bền vững, thì được tâm nguyện thù đặc không chỗ phân biệt sai thất ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cùng đại chúng vâng dạ lắng nghe.
Đức Phật phán dạy : « Nếu thiện nam thiện nữ dốc lòng ngưỡng tín khéo theo đạo pháp nhiều sự thuận nghi muốn thấy các bực Hiền Thánh để được nghe pháp, lòng chẳng ghét ganh, chẳng lẫn tiếc, giơ tay bố thí, bỏ thối quen thích theo thế tục, chỗ phước bố thí chẳng mong báo đáp, chẳng cưu lòng não hại, ý chí trong sạch chuyên tinh nhứt tâm chẳng hề bạo dữ, tin nhơn quả báo ứng, ưa thích nghiệp lành chẳng có hồ nghi dụ dự, thấy rõ lý thanh bạch biết quả chẳng mất. Thà bỏ thân mạng chớ chẳng phạm tội ác. Luôn nhơn từ không giết hại, không trộm cướp, chẳng tà dâm, chẳng phạm vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu và ỷ ngữ, chẳng ghen ghét, giận thù và si mê. Chẳng phạm mười ác mà hành mười lành, cũng khuyên người khác làm như vậy. Thường bình đẳng thành tín thấy hàng Sa Môn phụng trì giói hạnh tinh tiến tu hành tư duy tu tập, đúng nghĩa tiết, vắng lặng đạm bạc, chẳng luyến trước, chẳng tà ngữ, chí tánh nhơn từ, rời bỏ pháp ác sốt bạo, chói sáng như ngọn đuốc, tâm tánh bình hòa, không nói lời khinh hủy, bỏ tuyệt nhủ nghê, dứt rời tâm đường đột phiền não, luôn luôn huệ thí.
Thường cung kính tôn trọng các bực Sa Môn thanh tịnh ấy đồng như Phật và đệ tử Phật. Thường theo hầu cận khiêm hạ đảnh lễ chẳng làm trái ý.
Thường phụng sự các thiện tri thức ấy. Do vì mến pháp nên dùng pháp thí cứu tế nguy ách, ban tuyên chánh
pháp để giáo hóa người : bố thí được giàu, trì giới sanh thiên, nghe rộng thêm trí, tu hành hiệp đạo, bố thí thì của nhiều, xan tham thành ngạ quỷ, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến nhứt tâm và trí huệ thì lần nhập đạo pháp, phạm giới thì đọa địa ngục, giận hờn thì xấu xí, lười biếng thì bỏ đạo, loạn tâm thì sanh tội, ngu si thì tối tăm. Đó là do nơi thân, nơi khẩu, nơi ý mà có quả báo.
Ba nghiệp phạm ác thì mãi mãi chẳng an, sa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Giữ gìn ba nghiệp chẳng phạm thì sanh lên trời sanh trong người, ở chỗ chư Phật, mãi mãi an vui không có họa hoạn.
Phải vì mọi người mà khai thị quả báo tội phước, chỗ kết quả của điều thiện ác.
Nếu thấy người có thiện căn pháp khí, thì vì họ mà giảng pháp sâu xa, những pháp không, vô tướng, vô nguyện, đi không chỗ đi, đến không chỗ đến, không ngã, không nhơn, không thọ, không mạng.
Vì họ mà phân biệt pháp áo diệu mười hai nhơn duyên : do dựa vào sự nầy nên có sự kia sanh, nếu chẳng dựa vào sự nầy thì sự kia chẳng sanh, do đây mà thành kia, chẳng do thì chẳng thành.
Do vô minh mà thành hành,
do hành mà thành thức, do thức mà thành danh sắc, do danh sắc mà thành lục nhập, do lục nhập mà thành xúc, do xúc mà thành thọ, do thọ mà thành ái, do ái mà
thành thủ, do thủ mà thành hữu, do hữu mà thành sanh, do sanh mà thành lão tử thân tứ đại ngũ ấm rất khổ.
Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì không có lão tử khổ lụy vì ngũ ấm tứ đại, mà mãi mãi an vui, không
còn họa hoạn. Bởi diệt dứt hết thì không còn có. Tại sao vậy ? Vì khởi cái nầy thì sanh cái kia, không khởi cái nầy thì không có cái kia.
Cũng như trồng cây mới sanh chồi rễ cội nhánh lá bông trái. Nhổ cây không chồi thì đâu còn nhánh lá bông trái nữa.
Tỏ ngộ đế lý không có vô minh không
còn chấp trước thì chẳng còn gì kéo níu sanh khởi mười hai chi.
Tất cả đều do duyên mà đối sanh. Không có duyên thì
không có đối sanh.
Cả ba cõi đều vốn không, đều từ không mà sanh, đều từ có mà tử.
Vì chẳng thấu đạt không vô mà cho rằng từ nơi có mà thành ra sanh, chẳng biết có ấy rỗng không, do chấp lấy có ngã mà thành ra tử vậy.
Biết không thì chẳng sanh. Rõ có thì chẳng tử.
Vì tội nó theo, trần lao nó đến nên điên đảo khổ não si tối chẳng thiệt.
Vì họ mà tuyên chơn đế ứng theo nghi tiết quán sát trúng pháp, mà ở nơi pháp không có tạo tác !
Chẳng có chỗ tạo thì không có thối chuyển cũng không chẳng thối chuyển. Chẳng có nạn qua lại xoay quanh.
Giả sử phân biệt nơi pháp mà phân biệt không chấp trước, nhận biết là vốn không, tất cả các pháp đều đạm bạc vắng lặng.
Gầy dựng cho người ấy, hoặc Bồ Tát ấy thường được thấy Phật, chẳng rời bên Phật, chẳng mất sự nghe pháp, chẳng trái Thánh chúng.
Sanh về nơi nào đều thấy chư Phật. Dầu có thác sanh mà chẳng sanh về chỗ không có Phật. Vì sanh ra được thấy Phật nên không phóng dật, mộ cầu pháp chơn chánh tinh tiến. Siêng tu tập theo đây nên chẳng màng gia nghiệp mà hay gìn tịnh hạnh, chẳng luyến vợ con tôi tớ giữ gìn nhà cửa mà siêng gắng thọ thì chánh pháp, không chơi bời phóng túng ái dục.
Chư Phật Thế Tôn thuyết giáo. Vì dốc lòng tin mà xuất gia tu hành. Sau khi tin pháp Phật xuất gia thì làm bạn lữ chơn chánh với thiện tri thức để thọ nghiệp chơn chánh, tánh hạnh vi diệu, nghe pháp huyền diệu, lấy sự hành đạo làm trọng yếu mà chẳng chưng diện, giác ý đệ nhức mà chẳng nhàm đủ, thường cầu học rộng. Như pháp được nghe vì người khác mà giảng rộng. Tâm không mong lợi dưỡng cung kính mà giảng thuyết kinh điển. Từ nơi trí huệ đã được học hỏi, nhơn lúc đi đứng mà vì người giảng thuyết, làm cho người nghe pháp thêm lớn lòng đại bi, mà đối với chúng sanh phát tâm đại bi, đến được học rộng, không lẫn tiếc, chẳng tham thân mạng, ít muốn ít cầu mà biết vừa đủ, trọng nghiệp lành, vui cúng dường, thích rảnh rang vắng vẻ chuyên ròng giữ tiết. Theo nơi pháp được học mà suy ngẫm nghĩa thú, về nơi chánh nghĩa suy xét phụng hành chớ chẳng thiên về văn sức. Chẳng riêng vì mình và vì
chúng sanh cầu Đại thừa tối thượng, chí mộ Phật thừa thành không phóng dật.
Thế nào là không phóng dật ?
Do vì đã thấu đạt cảnh giới nên nhãn chẳng thấy sắc, chẳng thọ vọng tưởng, chẳng trước văn sức, rõ sắc là nạn, dầu có mộ thích liền bỏ nó qua, biết nó vốn là không.
Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý biết pháp cũng như vậy, chẳng biết pháp, chẳng vọng tưởng, chẳng trước pháp rõ pháp là nạn, dầu có mộ thích liền rời bỏ biết rõ pháp là không.
Nói rằng không phóng dật đó, tâm mình không sanh
cũng hộ trợ tâm người khác. Bỏ vui ái dục vào nơi pháp lạc. Chẳng tưởng tham dục, không tưởng giận hờn, không tưởng nguy hại. Không có nghiệp hành tham dục, giận thù ngu si. Không có những căn bổn ác ấy.
Thân chẳng làm đều ác, miệng chẳng nói quấy, tâm chẳng nghĩ bẩn. Chẳng làm trái với tâm niệm. Chẳng phạm tất cả những pháp bất thiện.
Như trên đây gọi là không phóng dật.
Do vì không phóng dật mà thường đúng tiết hạnh, biết rõ có, biết rõ không, biết rõ không không có.
Sao gọi là có, gì gọi là không ?
Người tu hạnh bình đẳng thì có Hiền Thánh giải thoát. Người tu hạnh tà ngoại thì không có Hiền Thánh giải thoát. Lại cũng có quả báo tội phước, hoặc có quả báo không tội phước. Hoặc có nhãn, hoặc không nhãn. Nhẫn đến hoặc có ý hoặc không ý. Lại có thể biết rõ sắc là pháp vô thường, khổ, không, biệt ly thì gọi là có chí học đạo. Còn chấp sắc là pháp có thường còn mãi không biệt ly, bởi không có huệ bình đẳng mà có niệm chấp ấy nên có tưởng hành thức khổ, có trọn pháp vô thường, khổ, không, biệt ly.
Lại từ vô minh làm duyên mà sanh
ra nghiệp bất thiện. Nếu không có vô minh thì không có hành. Từ sanh làm duyên mà có già bịnh chết. Nếu không có sanh thì không
có già bịnh chết.
Bố thí thì nên phước lớn. Nghèo thiếu do không thí xả. Cùng khổ thì do tham ganh. Bọn sẻn thì không có của nhiều. Phụng pháp thì đến đạo. Chẳng thuận nghi tắc thì chẳng thành đạo nghiệp. Bồ Tát tinh tiến thì được trí huệ lớn. Bồ Tát giải đãi thì chẳng được đạo. Người chẳng tự tôn tự đại là thiệt được bí quyết lạ. Người cống cao thì chẳng đến Niết bàn. Nếu khắp vắng bặt thì đến Niết bàn. Người chấp ngô ngã tham thân thọ mạng thì chẳng đến đạo huệ.
Vì thế nên làm người phải thuận theo thời nghi ».
Đức Phật lại dạy : «Nếu thiện nam thiên nữ tu phổ minh trí, hoặc có chỗ biết, hoặc không chỗ biết, hoặc ở nơi đời, hoặc không ở nơi đời, hoặc có thiên thực, hoặc không thiên thực, đều không chấp trước.
Đức Như Lai minh chứng tất cả pháp dạy bốn pháp thí :
Một là tất cả vạn vật đều về nơi vô thường.
Hai là tất cả chỗ có đều là khổ độc.
Ba là tất cả các pháp đều không có ngã.
Bốn là tất cả hữu tình đều đến nơi không, vô vi Niết bàn tịch diệt.
Vì thế nên nói rằng tất cả vạn vật đều về nơi vô thường.
Chúng sanh ngu tối mê lầm tự nghĩ là có thường. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ sự chấp có thường ấy.
Tất cả chỗ có đều là khổ độc. Chúng sanh mê tối cho là có vui. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ quan niệm có vui của họ.
Tất cả các pháp đều không có ngã. Chúng sanh
chấp có ngã. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ ý tưởng có ngã ấy.
Tất cả hữu hình đều về nơi rỗng không. Chúng sanh mê muội lại tưởng đều là có. Đức Như Lai vì họ nên thuyết pháp dứt trừ tưởng chấp là có ấy. Để được Niết bàn vắng lặng.
Tất cả chúng sanh quan niệm tự tại.
Đức Như Lai thuyết pháp khiến người tự đại chẳng còn cống cao, vất bỏ chấp trước. Vì được nghe vô thường mà họ hiểu đều rỗng không, đây mới hiểu rõ nghĩa vô thường.
Nghĩa ấy là thế nào ?
Tất cả vạn vật đều chẳng sanh, chẳng tăng, chẳng khởi, chẳng diệt. Đây mới gọi là ngộ nhập vĩnh viễn vô thường.
Vì được nghe nói là khổ mà họ trừ được lòng cầu mong, năm ấm rỗng không không có sanh khởi. Đây là nghĩa của khổ.
Vì nghe nói tất cả pháp đều không có ngã mà phụng trì môn không giải thoát, với ngã và vô ngã không thấy có hai tướng sai khác. Đây là nghĩa
vô ngã.
Vì được nghe Niết bàn tịch diệt nên quyết chí đến không tưởng thọ chẳng sanh chẳng diệt là đều diệt định không có chung thỉ. Đây mới gọi là hiểu rõ nghĩa không.
Chẳng lấy vô tướng mà làm chỗ chứng.
Nếu có Bồ Tát hay thật hành như vậy thì chưa từng trái mất tất cả những công hạnh đạo phẩm. Do vô tướng hành mà khắp đầy đủ đạo pháp của chư Phật ba mươi bảy phẩm ».
Lúc đức Thế Tôn ở tại cung điện của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, theo bịnh mà thuyết pháp, trong chúng hội liền có hai vạn thiên nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, vô số người thọ ngũ giới.
Bấy giờ Tứ Thiên Vương tiến lên thưa : « Bạch đức Thế tôn ! Xin thương chỉ dạy chúng tôi phải hộ trì thế gian như thế nào ? ».
Đức Phật phán : « Các Ngài đem mười pháp hạnh hộ trì thế gian chúng sanh.
Những gì là gọi mười pháp hạnh ?
Một là chẳng sát hại sanh mạng của tất cả loài hữu tình.
Hai là chẳng trộm lấy tài vật của kẻ khác.
Ba là chẳng phạm đến vợ của người khác.
Bốn là chẳng lưỡng thiệt làm tranh cãi cho người.
Năm là chẳng vọng ngôn khi dối người.
Sáu là chẳng ác khẩu dùng lời làm thương tổn người.
Bảy là chẳng ỷ ngữ, tất cả lời nói ra đều không thêu dệt trau chuốt.
Tám là chẳng có lòng ganh ghét đây
kia.
Chín là ở nơi những sự lành dữ chẳng nổi giận nóng.
Mười là thường tu học chánh kiến chẳng theo tà kiến nghi ngờ.
Nầy các Ngài ! Các Ngài đem mười điều nầy hộ trì thế gian mới là đúng giáo pháp.
Lại có tám pháp hộ trì thiên hạ :
Một là hành động đúng với chánh pháp không hề trái.
Hai là thờ kính các bực tôn trưởng chẳng có lòng khinh mạn.
Ba là nói lời dịu mềm, không nói lời cộc cằn.
Bốn là khiêm nhượng từ tốn cung kính thuận thảo.
Năm là luôn luôn thành thiệt chất phác, chẳng làm sự gian xảo.
Sáu là thường tu nhơn hòa mà không nịnh bợ.
Bảy là với tất cả điều ác đều không phạm.
Tám là đem các công đức lành lợi ích cho thế gian.
Lại có sáu việc hộ trì thiên hạ :
Một là thân thường thật hành nhơn từ chẳng tổn hại chúng sanh.
Hai là miệng nói lời nhơn từ chẳng thốt ra lời hung ác.
Ba là ý niệm nhơn từ chẳng hung bạo.
Bốn là khắp cai quản sự nghiệp để được lợi dưỡng.
Năm là khắp hộ trì cấm giới mà không để sai phạm.
Sáu là khắp đem chánh kiến để khai đạo kẻ tà vạy.
Lại có bốn sự việc thường là những sự đứng đầu để hộ trì thế gian :
Một là phàm có lập công hạnh gì không bao giờ tham lam ganh ghét.
Hai là chẳng có lòng giận thù hại người.
Ba là chẳng vì ngu dốt, mà che đậy để thêm chỗ chẳng biết.
Bốn là đi đến chỗ nào chẳng có lòng sợ sệt.
Lại có hai sự dùng để hộ trì thế gian nhơn dân :
Một là tự hổ thẹn từ vô số kiếp chẳng theo đúng đạo pháp.
Hai là xấu hổ với người, tự trách mình chẳng thâm nhập đạo pháp cứu hộ tất cả chúng sanh ».
Đức Phật phán với Tứ Thiên Vương : « Các Ngài nên thi hành các pháp ấy để hộ trì thế gian thiên hạ. Vì kiến lập được các pháp hạnh như vậy mới hộ trì thế gian được ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tiến lên lễ Phật rồi bạch đức Phật : « Thế nào thật hành pháp không giận nóng đến đạo Vô thượng Bồ đề ? ».
Đức Phật phán : « Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát có mười sự thật hành không giận nóng đến đạo Vô thượng Bồ đề.
Những gì là mười pháp ?
Một là thường thi hành lòng nhơn từ chẳng phạm tổn hại.
Hai là chẳng chán nhàm các tai nạn, thường tu tập lòng đại bi.
Ba là sự nghiệp được làm đều siêng năng tinh tiến mà có thù đặc.
Bốn là thường phụng hành môn không giải thoát đến được tam muội.
Năm là từ nhơn duyên phát khởi nhập vào trí huệ.
Sáu là dùng quyền phương tiện vào khắp tất cả.
Bảy là thông đạt tam thế : quá khứ, vị lai và hiện tại.
Tám là dùng chơn đế quán thấy khắp không chỗ chướng ngại.
Chín là tuân phụng đạo pháp nhập vào tất cả pháp.
Mười là tất cả các pháp đều về rỗng không ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát có bao nhiêu pháp để được không khiếp sợ khi nghe pháp bất tư nghị của đức Phật ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát có tám pháp, khi nghe
pháp bất tư nghị của đức Phật thì không khiếp sợ.
Một là công đức được tạo ra thường có thể đạt đến rốt ráo.
Hai là nhứt tâm thiền quán tư duy thông đạt chẳng tán loạn.
Ba là vì làm thiện hữu mà được thuận tùng.
Bốn là tâm thường dốc lòng tin thích pháp vi diệu.
Năm là vì hiểu các pháp đều như huyễn hóa.
Sáu là hiểu rõ tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn.
Bảy là rõ tất cả pháp bất khả đắc như hư không.
Tám là thông suốt tất cả pháp là tướng hư dối.
Đó là tám pháp vậy ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Sao gọi rằng Bồ Tát được tự tại nơi pháp Bồ Tát ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Vì có bốn pháp mà Bồ Tát được tự tại nơi pháp Bồ Tát.
Một là tuân hành như huyễn tam muội thông suốt tất cả pháp nhập vào năm thứ thần thông mà đặc biệt siêu việt.
Hai là vì ba giải thoát môn hơn cả tứ thiền.
Ba là dùng trí ba la mật để tu bốn phạm hạnh.
Bốn là hành quyền phương tiện đủ sáu ba la mật ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát có bao nhiêu pháp nhập vào pháp môn ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Có bốn pháp, Bồ Tát nhập vào pháp môn :
Một là nhập vào môn thiền quán biết rõ đầy đủ căn bổn tất cả chúng sanh.
Hai là nhập vào môn trí huệ biết rằng tất cả chương cú nghĩa lý và vì chúng sanh mà diễn thuyết.
Ba là nhập vào môn tổng trì, tất cả chỗ được thọ trì đều nhớ luôn chẳng quên.
Bốn là nhập vào môn biện tài do đó mà có thể làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Vì có bao nhiêu đạo lực mà Bồ Tát gầy dựng nên hạnh Bồ Tát ? Lại những đạo lực ấy không ai đương cự được, do đó mà hàng phục chúng ma ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát có tám đạo lực hàng phục chúng ma không ai cự được.
Một là sức mạnh đạo tâm tánh hạnh thanh tịnh.
Hai là sức mạnh tinh tiến chẳng thối chuyển.
Ba là sức mạnh nghe rộng phụng hành Bát Nhã ba la mật.
Bốn là sức mạnh nhẫn nhục hộ trì các chúng sanh.
Năm là sức mạnh vô sanh chẳng cưu lòng sân hận.
Sáu là sức mạnh chẳng hư vọng đầy đủ giải thoát.
Bảy là sức mạnh tu đạo hạnh đầy đủ trí huệ.
Tám là dùng sức đại bi khai hóa chúng sanh.
Đó là tám đạo lực vậy ».
Lúc đức Phật nói những pháp ấy, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ và năm trăm người con trai được vô sanh pháp nhẫn. Vì được pháp nhẫn nên đồng tiến lên bạch rằng: « Bạch đức Thế tôn ! Ngưỡng mong đức Thế Tôn đem tám pháp yếu ấy lưu bố thiên hạ. Vì thương chúng tôi nên làm cho
cung điện Mật Tích nầy tự nhiên rộng rải. Khi đức Phật diệt độ rồi, do căn bổn công đức nầy quang minh chiếu khắp làm cho lưu bo ákhắp nơi mà chẳng mất ».
Đức Phật thấy biết tâm niệm hộ pháp của các người con trai của Mật Tích, bèn bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ rằng : « Mật Tích kham nhiệm được chương cú pháp yếu nầy. Lúc ta đến ngồi dưới cội Bồ đề, ma vương đem binh đến, ông cùng chư Bồ Tát đến dùng oai thế ủng hộ ta nên hàng phục được ma binh. Nay ông lại phải ủng hộ mạt thế sau nầy làm cho pháp yếu được lưu bố khắp Diêm Phù Đề đến tận mười phương, làm cho chánh pháp được còn lâu, chế ngự tất cả dị học ngoại đạo ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ được đức Phật khuyên bảo liền rời chỗ ngồi quỳ lạy chắp tay tuyên thần chú rằng :
« Hê lê, hưu lưu hưu lưu, kỳ cường tiêu tụ, các la nhãn động diêu quy cứu, nhẫn lực lực tận, tịch phạ tác giác chí y lê khư khưu, khư lê, khư lê. Hộ vô trạch. Trụ thắng sanh vãng hoàn vô khúc
dĩ từ thọ chi điều hòa thành thí trì dĩ chư thiên long
cáo quỷ thần kiết thát bà yêu mị nhược nhơn phi nhơn, thường cát an ổn, động ư sơn vương, diệt chấn đại địa. Dụng thuyết thử chú cố, nhiếp phục ngoại đạo, pháp quân sở cứu, quảng diệu pháp viêm, dốc tín thị cú ».
Nghe thần chú nầy rồi, các Thiên chúng đồng cất tiếng khen rằng :
« Chánh pháp trụ rất lâu
Động Đại Thiên thế giới
Tất cả đại chúng đồng
Tự đến trước Pháp Vương
Quy mạng cho hết tội
Ban cho không nạn sợ
Ai trì ngôn giáo nầy
Khiến chánh pháp còn mãi ».
Đức Thế Tôn ở cung điện Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tại nước Khoáng Dã Quỷ Vương thọ cúng dường bảy ngày khai thị giáo hóa vô số chúng sanh.
Giữa ngày thứ bảy, đức Phật bỗng rời cung điện Quỷ Vương Khoáng Dã, cùng chư Bồ Tát và hàng Thanh Văn bay
vọt lên hư không.
Tất cả chư Thiên ở trên ấy đồng cúng dường đức Phật và khắp Thánh chúng.
Chư Thiên Nữ đều đồng ca ngợi phóng quang minh lớn.
Trăm thứ thiên nhạc nhơn nhạc tự hòa tấu.
Trên hư không mưa các loại hoa thơm đẹp.
Khắp Phật độ chấn động.
Như vua phụng hoàng, đức Phật trở về núi Linh Thứu.
Tại núi Linh Thứu, đức Phật cùng chúng Tỳ Kheo và chư Bồ Tát quyến thuộc vây quanh đều tư duy đạo giáo.
Bấy giờ vua A Xà Thế ra khỏi thành La Duyệt Kỳ cùng với hàng trưởng giả phạm chí kính tin Tam Bảo đến núi Linh thứu.
Nhơn dân khắp nước nghe đức Phật hoàn quốc đều vân tập xế trưa xuất thành đến núi Linh Thứu.
Mọi người đảnh lễ chưn Phật đi quanh bên hữu bảy vòng rồi ở qua một bên.
Vua A Xà Thế tiến lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Hôm trước tôi từng họp quần thần tham nghị. Lúc ấy có các Tỳ Kheo đến chỗ Thái Tử tuyên bố rằng : Hôm nay đức Thế Tôn qua đến nước Khoáng Dã Quỷ Vương tại cung điện Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thọ trai.
Bạch đức Thế Tôn ! Nghe được lời tuyên bố ấy, tôi cho là rất lạ lùng chưa từng có. Chư Phật Thế Tôn thiệt chẳng thể nghĩ bàn mới có thể ban đức đại bi thương xót cứu vớt khắp cả chúng sanh dường như hư không, nên mới ngự đến cung điện Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tại nước Khoáng Dã Quỷ Vương. Đại nguyện của đức Phật không thể ví dụ được, không có lời nói hết được.
Nếu có ai được đức Như Lai giảng dạy, không ai là chẳng được an vui lợi ích.
Bạch đức Thế Tôn ! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vun trồng cội công đức thế nào mà được biện tài to lớn ấy ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Đại Vương ! Giả sử mười phương đều như số cát sông Hằng, mỗi mỗi hột cát còn có số hạn, chư Phật được Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ gần gũi cúng dường không thể tính đếm được, do đó mà Lực Sĩ ấy được đại biện tài như vậy.
Nầy Đại Vương ! Vô ương số kiếp quá khứ có đức Phật hiệu là Tức Ý Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Tuyển Chủ, kiếp hiệu là Bất Di.
Đức Phật Tức Ý ấy thuần giáo hóa chúng Bồ Tát đều làm cho tinh tiến cả.
Lúc ấy có Bồ Tát hiệu là Dũng Lực lễ Phật Tức Ý mà bạch rằng :
Như chỗ tôi lãnh hội ý nghĩa của đức Phật đã dạy, nếu có Bồ Tát nào nghĩ rằng tôi sẽ chóng đến đạo Vô thượng thành tối chánh giác. Bồ Tát nào nghĩ như vậy thì gọi là giải đãi. Tại sao ? Bồ Tát ấy chẳng tinh tiến nhàm sợ sanh tử. Nếu có Bồ Tát thấy sanh tử họan nạn thì thấy được kiết sử triền phược, chẳng nhập Niết bàn chỉ hóa độ chúng sanh, thì mới thành tối chánh giác.
Tại sao vậy ?
Bạch đức Thế Tôn ! Pháp của Bồ Tát là siêng tu tập đạo hạnh khắp trong sanh tử khai đạo lợi ích vô lượng chúng sanh cho họ nhập vô dư Niết bàn, mà cũng không chỗ được giáo hóa.
Vì thế nên, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát hạnh phải trọng sanh tử, chẳng kính nhập Niết bàn. Bồ Tát hạnh trọng sanh tử rồi phụng thờ vô lượng chư Phật, khai đạo lợi ích vô lượng chúng sanh, nghe học vô số pháp, nhập vào tâm niệm của chúng sanh, chí nguyện sở hành kính hạnh Niết bàn, trọng các quán hạnh.
Nếu thấy có Bồ Tát sợ sanh tử khổ hoạn thích hạnh Niết bàn, thì nên quan niệm rằng : Bồ Tát nầy chắc là đọa lạc, vì bỏ mất hạnh Như Lai, có lỗi với chúng sanh. Sao gọi là Bồ Tát mà chẳng thuận theo hạnh Bồ Tát lại thích Thanh Văn địa, Duyên Giác địa, đây đáng gọi là không có hạnh Bồ Tát , là hạnh Thanh Văn.
Tại sao vậy ?
Hạnh của hàng Thanh Văn sợ khổ hoạn sanh tử. Còn Bồ Tát đi trong vô lượng sanh tử mà chẳng bị ràng buộc.
Đức Tức Ý Như Lai khen Dũng Lực Bồ Tát rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Lời nói ấy rất hay, ngôn giáo thuần thục. Bồ Tát hành đạo bỏ sự an vui của chính mình mà chẳng bỏ người khác, thường xét lỗi mình mà chẳng tìm lỗi người.
Dũng Lực Bồ Tát lại bạch :
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát hạnh ?
Đức Phật Tức Ý dạy :
Nầy thiện nam tử ! Tự chánh lấy việc làm của mình mà vì chúnh sanh
tuyên nói sự thành bại khổ nạn sanh tử. Chịu lấy vô lượng khổ hoạn của sanh tử mà không khiếp sợ. Chẳng thích bực Thanh Văn và bực Duyên Giác mà chuyên tu tập việc làm của Bồ Tát. Chẳng luyến thiền định, ở trong tam giới biết rõ thiền định. Biết rành các ác đạo, tu tập các môn phương tiện. Biết hết cả công đức thiền định trí huệ giải thoát chẳng cùng tận. Phát trí huệ vô sanh, vì người mà ban tuyên tất cả pháp bổn lai không có, trí cũng vô
sở đắc. Biết các chúng sanh mà không có ngô ngã. Dùng trí huệ khai hóa tất cả chúng sanh cho họ hiểu các pháp tịch diệt. Thọ trì các pháp thông các Phật độ. Biết tất cả như hư không, Phật quốc thanh tịnh, trí huệ sáng sạch. Do trí huệ thấu suốt tất cả Pháp không tăng không giảm, mà dùng tướng hảo trang nghiêm trí huệ vô sở đắc. Nhơn đó mà tuân thờ tất cả cội công đức chẳng quên bỏ, ít não bớt việc. Với các chúng sanh, thường làm viêïc cứu vớt hoạn nạn. Thân tâm đạm bạc chứa công bồi đức chẳng chán nhàm. Phát khởi thiền quán thấu rõ chánh định nhứt tâm. Phương tiện thấu suốt các pháp thâm diệu. Nếu đem tuyên bố bao nhiêu giáo pháp, phân
biệt quán hạnh thành tựu quả đức. Khai hóa luật Thanh Văn, Duyên Giác. Mến thích công hạnh giải thoát của đức Như Lai, thật hành Bồ Tát hạnh, thị hiện công việc của đức Như Lai làm.
Đó là Bồ Tát hạnh vậy ».
Đức Phật phán tiếp : « Nầy Đại Vương ! Bấy giờ Dũng Lực Bồ Tát nghe đức Tức Ý Như Lai dạy pháp ấy, lại bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Thiệt rất khó chưa từng có, nay đức Thế Tôn tuyên dạy công hạnh mà chư Bồ Tát phải thiệt hành.
Bạch đức Thế Tôn ! Cứ theo chỗ tôi hiểu ở nơi lời đức Phật dạy thì thiện quyền phương tiện là pháp của Bồ Tát thiệt hành.
Bạch đức Thế Tôn ! Như hư không chứa đựng tất cả vạn vật mười phương, vì tất cả hình sắc mà hiển hiện thể của nó chẳng thể tính lường, hiện bao trùm tất cả những loại có hình, với hư không vẫn không chướng ngại.
Bạch đức Thế Tôn ! Cũng vậy, do thiện quyền phương tiện mà chư Bồ Tát được tự tại ở nơi tất cả pháp. Những pháp đã được học và pháp chưa được học, pháp phàm phu và pháp Phật đều do nơi đó.
Lại như luồng lửa lớn đi đến đâu, cỏ cây đều bị cháy.
Cũng vậy, Bồ Tát tự tại đi trong các pháp. Dùng lửa trí huệ đốt cháy ngu si của tam giới tối tăm ;
Lại như kẻ trượng phu nổi giận hung làm tổn hại người khác chẳng kể khốn nạn.
Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện Bát Nhã ba la mật tự tại dứt trừ trần lao của tất cả chúng sanh.
Lại như thủy thanh châu được để vào nước đục thì nước liền trong suốt.
Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện làm tiêu tan tất cả trần lao ba thứ cấu trược.
Lại như thuốc giải độc tên là tiêu trừ, nếu đem để vào tất cả chất độc, thì tất cả chất độc đều tiêu tan hẳn. Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện dạo đi khắp chỗ họa nạn tam giới, cầm trí quyền xảo dứt trừ trần lao ái dục của chúng sanh.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì thế nên biết rằng thiện quyền phương tiện là hạnh tự tại nơi tất cả pháp của Bồ Tát.
Năày Đại Vương ! Lúc Dũng Lực Bồ Tát nói pháp ấy, có vô số người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đại Vương muốn biết Dũng Lực Bồ Tát thuở xưa ấy là ai chăng ? Chánh là Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ngày nay vậy.
Bồ Tát náày vững mạnh tinh tiến, mặc áo giáp hoằng thệ vòi vọi như vậy, cúng dường vô số chư Phật rỡ rỡ dường ấy chẳng gì ví dụ được ».
Khi ấy vua A Xà Thế nghĩ rằng chày kim cang của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nặng bao nhiêu ? Ta có sức rất khỏe chẳng biết có cầm được chăng ?
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ biết tâm niệm của nhà vua bèn để chày kim cang xuống đất. Vừa lúc Lực Sĩ để chày xuống đất, cả cõi Đại Thiên chấn động sáu cách.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với vua A Xà Thế : « Nhà vua thử cầm lên xem ».
Vua A Xà Thế có sức mạnh lực sĩ, liền tận lực dở lên, những vẫn chẳng lay động được chày kim cang mảy may.
Nhà vua lấy làm lạ chưa từng có, tiến lên bạch đức Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Thân tôi có sức khỏe đại lực sĩ lại mặc áo giáp rất quý lạ. Tôi có thể bắt voi lớn nắm vòi ném thân voi đến đâu cũng được. Sao hôm nay dở chày kim cang nhỏ nầy lại chẳng nhúc nhích chừng lông tóc. Sao lại có sự lạ như vậy ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Đại Vương ! Chày kim cang nầy trọng ở nơi đức, chẳng thể dùng sức mạnh mặc áo giáp và mạnh ném voi lớn mà dở lên được».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Thiên Đế Thích : « Thưa Ngài Kiều Thi Ca ! Ngài có danh hiệu là Chấp Trì Kim Cang. Ngài thử cầm chày kim cang nầy lên xem sao ».
Lúc ấy Thiên Đế dùng thần lực vô hạn, hiển tột thần thông muốn cầm chày Kim Cang ấy lên mà vẫn chẳng cầm lên được.
Thiên Đế tiên lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi cùng chư Thiên đánh nhau với A Tu La. Tôi dùng một ngón tay ném A Tu La Duy Chất như ném một viên đạn nhỏ, làm cho A Tu La phải bỏ chạy.
Nay chày kim cang này nhỏ xíu như vậy sao tôi lại cầm lên không nổi ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Kiều Thi Ca ! Chày kim cang nầy trọng nơi đức. Chẳng nên đem so sánh với thân lớn ba trăm ba mươi sáu muôn dặm của A Tu La.
Nầy Kiều Thi Ca ! Ý Ngài nghĩ sao
? Núi Tu Di có nặng chăng ? ».
Thiên Đế thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Núi Tu di rất nặng ».
Đức Phật nói : « Nầy Kiều Thi Ca ! Giả sử có đại lực sĩ thần lực vô lượng tay mặt cầm chày kim cang nầy để bên núi Tu Di. Lực sĩ ấy đứng vào giữa cất hai thứ lên, núi Tu Di vẫn còn hơi nhẹ chẳng bằng trọng lượng của chày kim cang này.
Nầy Kiều Thi Ca ! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nếu dùng chày kim cang có thể đập núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi và núi Kim Cương làm cho nát ra như bụi. Dầu như vậy, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ còn chưa hiện hết thần lực ».
Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Ngài Đại Mục Kiền Liên : « Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên ! Đức Thế Tôn khen Ngài thần thông đệ nhứt. Nay Ngài thử cầm chày kim cang nầy lên xem sao ?».
Ngài Đại Mục Kiền Liên có đại thần lực dời được bốn biển lớn. Ngài phấn khởi thần thông muốn cầm chày kim cang lên làm
rúng động cả cõi Đại Thiên nhưng vẫn không lay động được chày kim cang ấy chừng lông tóc.
Rất lấy làm lạ, Ngài Đại Mục Kiền Liên đến bên chưn Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phật từng khen thần thông của tôi. Tôi từng thử thần thông của mình làm rung động cả cõi Đại Thiên như khều cái bát nhỏ ném qua cõi nước khác. Tôi từng hàng phục khai hóa Nan Đầu Hòa Nan Long Vương. Tôi còn có thể nuốt khúc gỗ lớn bằng núi Tu Di. Vừa tác ý là tôi có thể nắm kéo mặt trời mặt trăng đứng lại, lấy tay rờ mó. Như vậy mà nay tôi không thể lay động được chày kim cang nhỏ xíu nầy chừng lông tóc ! Phải chăng tôi đã mất thần thông rồi ? ».
Đức Phật dạy : « Ông chẳng mất thần thông. Nầy Đại Mục Kiền Liên ! Thần thông của Bồ Tát có oai thế rất lớn. Thần thông của Thanh Văn và Duyên Giác
chẳng bằng được.
Giả sử những núi Tu Di của hằng hà sa thế giới hiệp lại làm một núi Tu Di còn có thể lay động được, chớ chẳng thể lay nổi chày kim cang nầy.
Bồ Tát lập hạnh, oai lực chẳng thể nghĩ bàn vòi vọi như vậy ».
Ngài Đại Mục Kiền Liên được chưa từng có, bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát Đại Sĩ có được oai lực lớn, như Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây cầm chày kim cang.
Bạch đức Thế Tôn ! Sức lực của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây là do cha mẹ sanh, hay là do thần thông ? ».
Đức Phật dạy : « Đó là sức mạnh do cha mẹ sanh. Nếu Bồ Tát mà dùng sức mạnh thần thông thì có thể thị hiện thấu khắp trên trời và thế gian ».
Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Ông nên cầm chày kim cang lên ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ bước động cõi Đại Thiên, dùng tay mặt cầm chày kim cang lên ném thẳng vào hư không. Chày ấy ở trên hư không lộn quanh bảy vòng rồi rơi trở lại dừng ở trên tay hữu của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ.
Tất cả chúng hội đều được chưa từng có, đồng vòng tay lễ chưn đức Phật, đồng xướng lên rằng : « Khó kịp, khó kịp ! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ có sức lực rất vi diệu. Cầu mong các chúng sanh đều được thế lực vô cùng như vậy ».
Vua A Xà Thế tiến lên bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát có bao nhiêu công hạnh mà được sức lực như vậy ».
Đức Phật dạy : « Bồ Tát có mười hạnh lớn được oai lực ấy :
Một là siêng thọ trì chánh pháp thà bỏ thân mạng.
Hai là chưa từng tự cao tự đại, luôn khiêm hạ lễ kính chúng sanh.
Ba là gặp chúng sanh cang cường khó dạy bảo thì nhẫn nhục chịu đựng.
Bốn là thấy người đói khát thì đem món ăn
ngon để bố thí cho họ được no đủ.
Năm là thấy kẻ sợ sệt thì an ủi cho họ được an.
Sáu là nếu có chúng sanh bị bịnh nặng thì lo thuốc men chạy chữa.
Bảy là nếu có ai yếu đuối bị người khinh mạn thì kính thương che chở.
Tám là lấy nước hồ sạch trét vách điện miếu thờ Phật vá chỗ nứt bể.
Chín là thấy người côi cút nghèo khổ thiếu thốn thường mang vác nặng nhọc, thì giúp đỡ cho họ được khỏi sự nặng nhọc khổ sở.
Mười là nếu có người không chỗ nương nhờ thì thường giúp đỡ họ, nói ra giữ đúng lời không hề quên bỏ.
Đó là mười hạnh lớn của Bồ Tát ».
Vua lại bạch hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nhơn hòa là có bao nhiêu pháp mà Bồ Tát tới lui đó đây luôn luôn hòa nhã chẳng hề nóng giận ? ».
Đức Phật dạy : « Bồ Tát nhơn hòa có tám pháp :
Một là chí tánh chất trực không có dua gièm.
Hai là tánh nết hòa nhã thường không dối nịnh.
Ba là tâm ý thuần phục trọn không hy vọng.
Bốn là tâm hành kiên quyết không hề kém yếu.
Năm là lòng không mê lầm luôn luôn nhơn hòa.
Sáu là làm chỗ nhờ cậy cho người đời được đức hạnh lạ.
Bảy là tâm trí tỏ thấu mà không chấp trước.
Tám là tư duy tội phước mà tâm không tưởng niệm.
Đó là tám pháp nhơn hòa của Bồ Tát ».
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment