Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 108
PHÁP HỘI BỬU KẾ BỒ TÁT
THỨ BỐN MƯƠI BẢY
Người hành thiền nầy mặc giáp đại đức, hành từ vô cực trụ ở đại bi, tất cả đầy đủ phụng hành không sự.
Thế nào là đầy đủ phụng hành không sự ?
Hảnh giả nầy chẳng tưởng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ, chẳng tưởng thiện quyền các sự khai hóa, chẳng tưởng từ bi hỉ nộ, cũng chẳng hy vọng nhập vào thánh huệ, chẳng tưởng đạo tâm có chỗ quán sát, chẳng tưởng chí tánh có chỗ sở ứng, chẳng tưởng tứ ân các lợi ích huệ thí nhơn ái lợi ích cho người và tất cả sự cứu tế, chẳng tưởng tâm ý an tường mà có sở tồn, chẳng tưởng ý chỉ ý đoạn thần túc, căn lực, giác ý và bát
chánh đạo, chẳng tưởng tịch mặc mà quán sát các
pháp, chẳng tưởng các hạnh điều định nhu nhuyến, chẳng tưởng tàm quý có chỗ hổ thẹn, thường an trụ Phật đạo chưa hề đoạn tuyệt, theo chánh giáo pháp nhãn cầm đuốc sáng lớn, tùng Thánh chúng thường tu giới đức sạch bóng, an lập chúng sanh thành
tựu thân Phật, dùng đức trang nghiêm mà theo đấng Thế Hùng nghe âm thanh cụ túc, phụng Phật tam muội được biện tài chánh giác thần túc, thọ mười tám Phật pháp bất cộng vi diệu, chẳng hiệp đồng với Thanh Văn, Duyên Giác, nhổ bỏ chỗ ở các dục trần ô uế, chẳng rời thần thông dùng bốn biện tài khai đạo chúng sanh, sáng tỏ các pháp hiện đời độ đởi, giáo hóa chúng sanh siêu dị quần chúng , chất trực xuất gia qua khỏi dòng chảy xiết dứt các sở hữu, nơi được ở tự nhiên tĩnh mịch pháp giáo đạm bạc, quán nơi thân và pháp đều không tham ái
kiên chí nơi Phật pháp, trọn xong trí tự nhiên vượt khỏi các trụ hành , nin lặng lời nói, nếu có nói thì thường tuyên Phật ngữ, dùng sự chí thành ấy tiêu diệt thường niên khai hóa chúng sanh. Đây gọi là đầy đủ hành không vậy.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Ví như trong cõi Đại Thiên tất cả nhơn dân đều làm họa sư có sở tập riêng khéo giỏi chẳng đồng nhau, có kẻ chuyên họa nhà cửa mà chẳng thạo vẽ thân hình, có kẻ giỏi mô hình mà chẳng giỏi tô màu, có những người khéo vẽ chưn tay, người khéo vẽ mắt mũi, người vẽ đầu mặt chẳng ngay mà thân
hình đẹp đẽ, có ngưởi vẽ làm vừa lòng kẻ khác, hoặc không vừa lòng, mỗi mỗi thợ vẽ đều tài năng khác nhau.
Nhà vua triệu tập tất cả họa sư khiến họa các hình tượng tam giới mà truyền rằng : Mỗi người tự họa tượng đều đem trình lên ta.
Các họa sư họp ở một chỗ đều riêng họa hình tam giới. Trong số ấy có một họa sư tối thượng vẽ được trọn vẹn.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Ý ông thế nào? Họa sư tối thượng ấy có thể đủ khắp các sở năng hội họa chăng?”.
Bửu Kế Bồ Tát bạch đức Phật : “ Bạch đức Thế Tôn ! Có thể đủ sở năng”.
Đức Phật phán dạy : “Mượn ví dụ được dẫn ra ấy để hiểu nghĩa nầy. Như một họa sư vẽ đủ các hình tượng đều được đắc thể chẳng sai sót. Cũng vậy, người học pháp nầy ân cần tinh tiến tịnh tu phạm hạnh đến thành tựu Phật pháp dùng một chánh hạnh trọn đủ các sự, do đó mà đầy đủ không hạnh không gi chẳng thông đạt bèn được thành tựu tất cả Phật đạo, trừ hết trần dục các tưởng điên đảo cống cao tự đại, chẳng thích phóng dật, dầu ở trong các uế àc mà chẳng cùng hiệp đồng. Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ không hạnh”.
Lúc đức Phật nói lời trên, có tám ngàn Bồ Tát khắp đủ không hạnh được pháp nhẫn.
Đây là Phật nói tịch độ vô cực hạnh thanh tịnh.
Đức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: “ Nầy thiện nam tử ! Thế nào là Bồ Tát trí độ vô cực hạnh thanh tịnh?
Có mười hai sự làm hạnh thanh tịnh : Thấy quá khứ huệ không chướng ngại, thấy đương lai huệ không chướng ngại, thấy hiện tại huệ không chướng ngại, các pháp hữu vi vô vi đều hay hiểu rõ, tất cả nghệ thuật thế gian đáng được tạo nghiệp đều hiểu rõ để độ đời, phân biệt nói nghĩa chơn đế biết sở tập của chúng mà tuyên rõ
bổn mạt, tất cả chúng sanh căn tánh đến đâu người ngu liệt, người minh đạt và người trung dung trí huệ biết quá khứ vị lai không có chướng ngại, thánh trí nguy nguy vượt hơn thế trí. Thấy rõ trí tánh sở hành của chúng sanh hình sắc biến dị, nghĩa thâm áo khó hiểu khó đến tiêu hóa các kiến chấp rời lìa các sự tà các chỗ ở chướng ngại vào nơi thánh huệ, cùng khắp chúng sanh vào nơi pháp huệ, hiểu rõ nghĩa thú
trong thánh tạng rõ thấu chơn tế, trí sáng soi rõ
không sai loạn cũng không chướng ngại, quan sát thời tiết vô lượng thích đáng, sự được thấy đều rành rẽ không hề sót mất, hiểu biết chắc thiệt chẳng diệt tận, trí này quan sát
tất cả vô ngại, bởi dùng một hành duy nhứt mà không có sở hành thấy hết chỗ phụng hành oai nghi lễ tiết của chúng sanh, tâm chí sở thu của nhơn dân thế gian Bồ Tát nầy đều thấy rõ, chẳng rời thế gian mà tập siêu độ cảnh giới các thế gian, còn chưa thành tựu Phật quốc độ mà đều vượt khỏi tất cả nhơn duyên sở tác khai hóa chúng sanh, hơn các hạnh mà khắp cứu cánh các đức hạnh , rộng độ tất cả nhơn duyên tâm hành, đều thấy tâm niệm của chúng sanh hộ pháp thế gian không đâu chẳng khắp, chẳng bỏ thế tục chỗ làm được chúng sanh tín nhiệm, xét trí huệ ấy không có gấp vội, chẳng phạm hí luận, các căn tịch định chưa hề mỏi lười tán loạn, tương ưng thánh huệ thường hiệp thánh đức, đến Bồ đề thọ ngồi đạo tràng hàng phục chúng ma trừ bỏ ngoại đạo, hành đại lợi ích, thánh trí suốt khắp cũng không có sở thủ, đại thánh kiến lập được an trụ chư Phật làm an vui chúng
sanh, thấy hết định huệ vào khắp các nghĩa thú tất cả các pháp đều đồng một vị, nắm quyền phương tiện trí độ vô cực vượt đến bờ kia chẳng hạn lượng được.
Đây mới gọi là trí độ vô cực, đều có thể rõ hiểu tất cả nhơn duyên, ý tưởng phát ra thoại ứng liền hiện cảnh lạ liền biến , tâm hành niệm khởi đều được cứu cánh. Đây gọi là đến bờ kia.
Lại trí huệ nầy có hai điều thanh tịnh.
Một là hạnh vô ngại huệ tưởng thanh tịnh.
Hai là nghiêm tịnh, chẳng thể có ai đương nổi tướng trí huệ ấy.
Còn có hai thanh tịnh : Một là trừ sạch phiền não, hai là bỏ hết các kiến chấp.
Lại nữa Bồ Tát ấy hiện hành trí huệ không đâu là chẳng vào khắp. Đầy đủ thánh minh hiểu rõ chúng sanh biết thấu kinh điển.
Bồ Tát nầy dủng trí huệ ấy hiểu vô sở hữu mà đều vào trần lao hóa hiện ái dục sanh trong các loài ở trong các cõi, kiến lập trí huệ đi khắp quốc độ đều hiểu rõ cảnh giới, trí huệ chắc thiệt chẳng vượt kia đây cũng ở trung gian. Huệ ấy khắp vào thấy cả mười phương vô ngại. Dụng thì không che
khuất, đến không biên tế, huệ thấy chắc thiệt hiểu rõ tất cả các pháp : gốc, ngọn, bộ, đảng, thời tiết. Đã có thể biết rành chơn đế trí huệ ý nghĩa đến đâu, không ứng chẳng ứng, không đồng không khác, chẳng lười chẳng lui, chẳng đôi chẳng lẻ, thấy các pháp cũng không ứng hiệp.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Nếu Bồ Tát thật hành những sự trí huệ, dùng trí huệ làm nhà thì thành phước đường đốc tín danh đức, tột đến đạo pháp an trụ tổng trì, đầy đủ tất cả phân biệt trí biện, đầy đủ sự nghiệp trí huệ.
Đây là Bồ Tát phụng tu trí độ vô cực hạnh thanh tịnh vậy”.
Đức Phật giảng dạy lời trên xong, trong pháp hội có hai vạn hai ngàn người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn, năm ngàn Tỳ Kheo
lậu tận ý giải, một vạn Thiên Tử xa trần lìa cấu đắc pháp nhãn tịnh.
Lúc ấy chư Thiên lên tiếng khen rằng : Nếu có chúng sanh nào
được nghe pháp môn các
độ vô cực đạo hạnh thanh tịnh nầy thì được chư Phật thọ ký. Huống là người được nghe rồi thọ trì đọc tụng thật hành như lời”.
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : “Sao gọi là Phật đạo phẩm pháp hạnh thanh tịnh của Bồ Tát :
Bồ Tát tự quán thân mình biết vốn không có thân đây là ý chỉ. Do hai sự mà lập chí mình : Một là xét sự hoang uế, hai là quán hạnh thanh tịnh.
Sao gọi là hoang uế ? Bồ Tát xét thấy thân thể vô thường chứa đầy vật bất tịnh, thân nầy sức mỏng kém yếu, không thế lực, thân nầy chống đứng như nhà nghiêng xẹo.
Sao gọi là quán tịnh ? Bồ Tát suy nghĩ rằng : Tôi phải dùng thân bất tịnh nầy siêng cần hiểu pháp không được thân pháp thân Như Lai. Pháp thân đồ sộ, đức thân vô hạn vì các chúng sanh mà thị hiện sắc tượng làm lợi vui cho tất cả.
Bồ Tát quán thân hai sự như vậy để lập ý chí mình.
Lại nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát quán thân thấy không có thân rồi thì được hai pháp thanh tịnh : Một là thấy vô thường, hai là xét vô thường thân nầy vô thường chẳng còn lâu già bịnh hội họp tất sẽ phải chết. Đã thấu nghĩa ấy nên chẳng đem thân tạo các tà nghiệp. Vì không tham thân thì tu pháp yếu vững bền, thật hành ba pháp vững bền là thân yếu, mạng yếu và tài yếu.
Thân nầy vô thường mà chúng sanh
quí trọng có lợi ích gì thật đáng thương xót.
Sao gọi là thân yếu ? Thân chẳng phạm ác, khiêm ti cung thuận cúi lạy bực đại trí.
Sao gọi là mạng yếu ? Quên mình bố thí cung cấp nguời nghèo thiếu.
Thân nầy chẳng phải sở hữu của ta, miệng thốt ra lời phần nhiều có lỗi, dua nịnh gièm pha thô tục bất chánh, bỏ hết hành vi ấy chẳng còn phạm quấy nữa.
Đã thấy không có thân nên chẳng bảo trì thọ mạng, dầu bị hại cũng chẳng gây tội ác. Hiểu thân nầy vô thường là thứ chia lìa nên chẳng phạm lỗi. Tất cả sở hữu đem bố thí không tham tiếc. Đã biết không có thân nên
đưọc đức lành công huân hiểu rõ chẳng thể hạn lượng được.
Sao gọi là hữu thường ? Nếu Bồ Tát quán thân thấy không có thân phải thời nhiếp lấy giữ gìn, huệ tâm quán chiếu Nhứt thiết trí, chẳng trái lời Phật dạy, chẳng mất Pháp ngôn, chẳng hư Thánh chúng, khuyến hóa lê thứ ngự trị nhơn dân, đây gọi là hữu thường. Nói là thường vì là vô tận vậy. Nói là vô tận chính là vô vi vậy. Cùng đạo hiệp đồng vô chung vô thỉ huyền diệu hằng còn, đây gọi là vô vi. Vô vi ấy là thường vậy.
Bồ Tát an trụ nơi ấy, dùng các cội công đức quán sát thông huệ đến nơi vô vi, đây gọi là hữu thường. Gọi là thường, do vì là không, vô tướng, vô nguyện. Tu đạo Bồ Tát thường phụng hành không, quán vô tướng, chẳng chấp vô nguyện, khắp có đủ hạnh tinh tiến, đây gọi là hữu thường.
Nói là thường, nghĩa là như hư không. tâm Bồ Tát bình đẳng như hư không vậy, không có tư tưởng . Phụng hành như thế mới là Bồ Tát. Đây gọi là hữu thường vô thượng chánh chơn ».
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Bồ Tát quán thân lấy vốn không có thân thì gọi là ý chỉ. Tất cả thân người đều vốn không có. Bởi biết thân không có nên
ý không chấp trước. Bồ Tát quán chúng
sanh thân đứng tại Phật thân. Nên quán như vầy : Nếu thân Như Lai không có các lậu thì thân tôi cũng
vậy. Xét nơi các pháp mà phụng hành đạo nghĩa chẳng sai lời Phật dạy. Được thân vô lậu mà quán chúng sanh phân biệt các tướng, dùng thân vô lậu thanh tịnh vô lậu, bổn tế cũng thanh tịnh, như cội đức ấy kiến lập các công hạnh khuyến trợ cội đức cũng không có các lậu. Bởi hay kiến lập nên pháp vô lậu nên có thể an trụ các lậu.
Sao gọi là các lậu ? Đó là dục lậu, hữu lậu và kiến lậu.
Bồ Tát dứt hết dục lậu dầu có sanh nơi Dục giới mà khai hóa chúng
sanh. Đã dứt hữu lậu dạo đi trong sanh tử , ở nơi các cảnh thọ mà giáo thọ nhơn dân.
Lại kiến lậu là lậu vô minh mê tối. Nơi đây, Bồ Tát tinh tiến chằng lười, cứu cánh tinh tiến nhổ sạch gốc nguồn nó.
Bồ Tát nầy nếu quán thân phụng tu ý chỉ vượt khỏi các hạnh nghiệp chẳng nên làm từ thuở xa xưa, rời lìa những uế ác mà an trụ tịch tĩnh, đây mới là quán thân .
Bồ Tát nầy không có sở độ cũng không có sở sanh không có sở vị, đây mới là quán thân.
Bồ Tát nầy quán thân rồi chẳng thấy có thân cũng không có đối tượng quán sát, bỏ niệm tham thân chẳng chấp ngô ngã. Đã không
có ngô ngã thì không có sở tham. Đã không có sở tham thì không có sở tránh. Đã không có sở tránh thì không có hận thù. Đã không có hận thù thì được pháp nhẫn. Đã được pháp nhẫn thì không có sở qui. Đã không có sở qui thì không có sốt bạo. Đã không có sốt bạo thì chẳng tự tại mà an trụ nơi pháp. Đã ở nơi pháp thì chẳng hành phi pháp. Người thuận pháp hành thì thường cùng chung với pháp.Người tu đạo pháp thì được pháp từ. Đã thọ pháp từ thì nghe pháp âm. Đã hành pháp âm thì chẳng nghe âm thanh thế giới. Đã vắng bặt âm thanh thế giới thì được tam muội. Đã được chánh thọ thì trí quán sát
thiệt. Đã quán sát thiệt thì không có sở tưởng. Đã không có sở tưởng thì không có sở tác. Đã không có sở tác thì không có phi tác. Đã ở nơi các sở tác không có tác
không có phi tác đến pháp chánh chơn thì các pháp bình
đẳng. Đã bình đẳng các pháp thì đến nhứt thiết trí.
Đây là Bồ Tát quán thân biết vốn không có thân ý chỉ hạnh thanh tịnh ».
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Sao gọi là Bồ Tát thống dượng ý chỉ ? Bồ Tát quán thống dượng vốn không có thống dượng mới là ý chỉ. Quán các thống khổ đều thấy chúng sanh, những kẻ đang bị hoạn nạn, vì họ mà rơi lệ thành tựu đại bi. Bồ Tát nghĩ rằng chúng sanh bị khổ não nếu được an ổn thì không có thống dượng, vì họ mà dứt trừ tất cả sự nguy hại. Dẫn đến quán sát thống dượng biết vốn không có thống dượng, hiện hành ý chỉ. Đã diệt trừ thống dượng rồi vì các quần sanh mà mặc giáp đại đức, trước tự tiêu sạch các hạnh nghiệp phi pháp nơi thân, cũng chẳng tưởng niệm diệt trừ thống dượng của mình. Nếu có gặp sự đau khổ, thì khắp vì tất cả chúng sanh mà sanh
lòng đại bi, vì họ thị hiện thường an lạc tiêu trừ hẳn các hoạn nạn. Vì người tham dục khởì lòng đại bi, trước tự trừ tham dục chẳng bị dục tham trói buộc, dầu thân bị khổ cũng chẳng lấy làm khó khăn. Vì
người sân giận mà phát khởi đại bi tự trừ lòng sân giận, quan sát thấy sự thống dượng không khổ không vui vậy. Vì người ngu si mà khởi đại bi diệt trừ dây ngu si của mình, quan sát thống lạc không chấp trước tiêu trừ các kiết sử mà tự do an ổn, nếu bị khổ thống chẳng lấy đó làm lo buồn, bỏ các hữu vi thì có thể phụng tu khiến không có chỗ vui để phá trừ ngu si, nếu gặp lạc thống thì không tích tụ, nếu gặp hoạn nạn thì rõ thân vô thường quan sát khổ thống vốn không có ngã. Bồ Tát quan sát lạc thống tu hành an ổn, quan sát khổ thống thì bị hoạn nạn, vì thế nên gọi là chẳng vui chẳng khổ. Dầu có thấy sự an lạc đều qui về vô thường, còn các sự khổ cũng đều vô ngã.
Bồ Tát quán lạc thống tu hành an ổn, quán khổ thống là bịnh hoạn, vì thế nên gọi là chẳng lạc chẳng khổ. Giả sử xem thấy những sự an lạc thì đều qui về vô thường, có những sự khổ thì quán nơi người khổ, là chẳng khổ chẳng lạc cũng là vô ngã.
Bồ Tát nếu thấy các sự an lạc thì biết rõ tất cả vốn là không an ; quan sát thống dượng biết thống dượng không có gốc nó vừa sanh khởi thì liền dứt diệt ; biết rõ các pháp không thể lâu dài, xét nơi vạn vật như ngọn lửa sanh rồi bỗng tắt ; xem tất cả các pháp sanh ra như bóng : nó từ đâu đến mà liền tan mất ; quán nguồn gốc các pháp như nhìn bàn tay từ đâu đến rồi đi đến đâu, liền biết nó không từ đâu lại, đi không chỗ đến. Do quán các pháp như vậy nên chẳng bị câu phược mà thấy khắp tất cả chơn thiệt tịch diệt, nhơn đây mà thành đạo, cũng không có sở đắc chẳng còn thối thất. Tại sao ? Bởi có thể thấy được tất cả chúng sanh căn bổn sanh khởi mà cầu tịch diệt chớ chẳng vì thân mình mà
cầu tịch diệt vậy.
Đây là đại Bồ Tát thiện quyền phương tiện dùng đại bi quán thống dượng biết rõ không có thống dượng, hành ý chỉ tiêu trừ các kiến chấp biết rõ nơi đây, chẳng lấy sự diệt trừ các thống dượng siêu quá tam giới mà thủ chứng chơn tế vậy.
Bồ Tát nầy ở nơi các thống dượng quan sát nơi đức Phật tán thán căn bổn hiểu thấu các thống dượng tịch mặc điềm đạm vốn không có sở hữu cũng không bị khổ hoạn. Vĩnh viễn không bị khổ hoạn các pháp đều không rời lìa ngô ngã, luống thấy các pháp hiệp hội đều nương nhơn duyên đều không có chủ cũng không ngô ngã, bỏ các sở kiến không có trưởng dục. Bồ Tát quán sát như vậy thì thấy chơn đế, nhơn duyên hội hiệp đều vô sở đắc, đã bất khả đắc thì quan sát như vầy : như nhơn duyên không từ nơi ấy kiến lập các pháp cũng không. Đã đạt nghĩa không rồi mới là quán thống dượng vốn không có thống dượng là hành ý chỉ vậy. Đó là tịch mịch thân đạm bạc tuyển trạch các nghĩa đạo thánh trí huệ.
Đây là đại Bồ Tát quán thân thống dượng rõ thấu vốn không có thống dượng thành ý chỉ tịnh hạnh ».
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Bồ Tát quán tâm rõ thấu vốn không có tâm thành ý chỉ hạnh, lập đạo tâm. Đã được lập tâm liền dùng ý huệ của mình mà tìm tâm bổn : chẳng thấy nội tâm chẳng thấy ngoại tâm. Xét tâm bổn ấy chẳng thấy ngũ ấm, không có các đại chủng, không có các nhập, tâm Bồ Tát liền tịch định tìm nơi chỗ tịch định từ đâu khởi lên ? Bồ Tát lại suy nghĩ : hễ tâm khởi thì duyên khởi. Rồi lại suy nghĩ : tâm ấy khác hay nhơn duyên khác ? Liền tự hiểu rằng giả sử nhơn duyên khác tâm ấy thì có hai tâm. Giả sử nhơn duyên là tâm và
tâm là nhơn duyên, nếu như vậy thì tâm chẳng thấy được tâm, người chấp nơi tâm chẳng phải là chẳng thấy tâm. Như các bụi trần hư giả không thiệt, đứng nơi hư không bị dao bén đứt ngón tay thành vết thương, ngón tay đã lành không còn đau khổ. Cũng vậy, tâm chẳng thấy tâm, cái mà tâm
thấy ấy là không chỗ bị thấy.Nên quán như vầy : chỗ tâm an trụ cũng chẳng sanh tội, chẳng thấy đoạn diệt cũng chẳng nghĩ là thường còn. Cũng không có thân, thân thể như tường vách nhơn duyên chẳng sai loạn chẳng rời chẳng một chẳng khác, đây là tâm vậy.Gìn tâm như vầy : do pháp mà tâm
động, tâm không có sở trụ cũng không có sở hành, tâm chẳng thể thấy, tâm tướng tự nhiên. Hiểu rõ như vậy thì chằng rời sở kiến mà tâm vắng bặt biết rõ không có bổn tánh.
Đây là Bồ Tát quán tâm không có tâm làm ý chỉ vậy.
Lại nầy Tộc Tánh Tử ! Nếu tâm chẳng khởi lên mà chẳng thể thấy thì không có tưởng không có ứng không có chẳng ứng cũng không khinh
mạn thì chẳng phóng dật. Đây là quán tâm biết vốn không có tâm làm ý chỉ vậy.
Lại như tâm không có sắc, nhân duyên hòa
hiệp ấy và các biện tài cũng đồng như vậy, đức vốn không có sắc.
Như tâm vô vi, đức cũng không có sắc, đạo tâm được quan sát cũng không có sắc. Nếu đạo tâm và trợ đạo không có hình sắc thì đạo cũng như vậy đều không chỗ có. Vì thế nên nói rằng : như tâm ấy các hành cũng như đó.
Nếu trợ và đạo tâm đều như, như đạo tâm ấy, nhân tâm vốn thanh tịnh cũng như đạo. Đạo tâm vốn thanh tịnh, tất cả các pháp cũng như vậy. Như tâm ấy mà hiểu rõ khắp vào, đây là Bồ Tát quán tâm không
có tâm làm ý chỉ vậy.
Các khổ hoạn não hại chưa hề dừng nghỉ, như khỉ vượn, như dòng sông chảy xiết, cũng như ngọn đèn dầu ánh sáng tỏa ra bỗng chiếu đến chỗ xa, không có thân
hình mà dễ thối chuyển, tham lẫn các cõi, bị sáu căn làm hại dùng làm nhà cửa, giây lát biến hoại thì đều tan đi. Tâm không có nơi chỗ mà riêng mình du
hành, không có vững thiệt cũng không chẳng thiệt, vắng lặng riêng mình quán sát.
Đây gọi là quán tâm không có tâm ý thanh tịnh vậy.
Tâm được trí huệ, pháp giới của tâm là chỗ ở của trí huệ, sáng ấy vốn thanh tịnh sạch sẽ không ô uế, biết tâm chơn thiệt, tâm rõ hiện tại, mắt chỗ được thấy, tâm pháp bình đẳng, trí huệ cũng như tâm, tâm bình đẳng tam thế. Đã được bình đẳng thì biết chơn thiệt tâm huệ tự nhiên không hộ không trì không thể thấy được. Đây gọi là quán tâm không
có tâm làm ý chỉ vậy.
Nếu tâm vốn thanh tịnh thì là tự nhiên. Tâm vốn thanh tịnh thì rõ tâm chúng sanh vì tâm thanh tịnh vậy. Khai hóa nhân
dân vì họ thuyết pháp để họ hiểu biết.
Tâm đã tự nhiên, tất cả chúng sanh cũng đều tự nhiên. Nếu hay phân biệt tâm như vậy thì thấy tâm tướng họ mà vì họ thuyết pháp.
Như tâm tướng tự nhiên, chúng sanh tâm tướng tự nhiên như vậy, nếu hay đạt tâm tướng ấy thì hay vì họ mà thuyết pháp. Tâm mình
không thì tâm chúng sanh cũng không, mình hiểu không mà vì họ thuyết pháp.
Chế ngự tâm mình bình đẳng thì có thể bình đẳng chế ngự họ mà vì họ thuyết pháp.
Thân mình bình đẳng, tâm mình đã bình đẳng thì bình đẳng chúng sanh. Đã bình đẳng chúng sanh thì bình đẳng các pháp. Đã bình đẳng các pháp thì bình đẳng chư Phật. Hiểu chơn đế nầy thì chẳng khiến tâm mình rời lìa tham dục mà chẳng ở nơi dục. Tâm đã dừng dứt rồi thì vào pháp giới đến nơi tự nhiên, tâm vô sở trụ ở nơi pháp không động.
Đây gọi là Bồ Tát quán tâm không có tâm ý chỉ thanh tịnh vậy ».
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát quán pháp biết vốn không có pháp là ý chỉ hạnh.
Bồ Tát nghĩ rằng : Pháp khởi thì khởi, pháp diệt thì diệt, xét nơi gốc ngọn cũng không có
thân ta, không có nhơn, thọ mạng, chúng sanh,
sanh lão bịnh tử, chết mất đến kia. Trong các pháp ấy, các pháp hiệp hội, nhơn nó hiệp hội mà làm tập tục, nếu không có duyên hiệp hội thì không có pháp
ấy. Từ nơi quen thích ấy làm nhân mà có
duyên hội hiệp thì sanh khởi gốc lành cùng gốc dữ để rồi quy về vô thường không có duyên hội hiệp. Chẳng từ không có quen ưa mà khởi các pháp.
Bồ Tát quán như vậy hiểu rõ các pháp, thấy chỗ quy về cũng không chỗ có, là không, vô tướng, vô nguyện. Chỗ làm công đức và không công đức, các việc làm ấy đều như ảo huyễn vô thường, phải hành tinh tiến.
Nếu hưng khởi nhơn duyên có mười điều tuân hành cứu cánh vô ngại từ bỏ nhơn duyên chí vững đại pháp. Những gì là mười ?
Thân thanh tịnh không có cấu uế đủ các tướng hảo, vô kiến đảnh kiến siêu độ tất cả những sự xâm hại, chí tánh thanh tịnh đủ có mười sự, nội tâm thanh tịnh đầy đủ chánh hạnh; sáu mươi ức âm thanh từ miệng nói ra làm vui đẹp các chúng sanh;
tâm thường nhơn từ thường xót tất cả không hề làm tổn hại; ý thường tại định không hề tán loạn; biện tài thanh tịnh phàm có giảng thuyết đều đúng pháp đúng nghĩa biện tài vô tận; đại từ thanh tịnh khuyến hóa chúng sanh tất cả đều khuyến khích cảnh Niết bàn; đại bi thanh tịnh vô ương số kiếp chẳng chán sanh tử; thanh tịnh mười trí lực hiểu rõ căn tánh ý niệm của chúng sanh đều riêng biệt chẳng đồng; thanh tịnh vô úy phân biệt chấp trì vô ương số pháp, chúng sanh
tích tụ muốn đủ pháp bất cộng của chư Phật; trí huệ biết tam thế quá vị hiện tại vô ngại; pháp thanh tịnh của chư Phật có thể ứng dụng tự tại vì quy hướng thánh huệ vậy. Đây là mười điều.
Bồ Tát đã được mười hạnh đại pháp vi diệu cứu cánh vô ngại rồi xứng lượng tư duy chẳng hề mỏi nhàm tích tập công huân mà chẳng hư mất sa vào hạnh vô đức, luôn ân cần tinh tiến.
Sao gọi là các pháp căn nguyên bổn lai kiến không có xứ sở ?
Vượt khỏi sở trụ các tích tập trần lao, đã hiểu rõ vạn vật tất cả vô thường thì có thể thành vô thường tam muội. Người được chánh định nầy chẳng rời tam muội, theo bổn nguyện của mình thị hiện thọ sanh, đến có chỗ sở nhập mà lại xuất sanh, dùng các hạnh công đức tuyên thuyết khai hóa các
chúng sanh.
Đây là đại Bồ Tát thiện quyền phương tiện khắp diễn thuyết kinh điển, quán nơi các pháp thấu biết không có pháp làm ý chỉ vậy.
Có người nào đến đạo tuân tu đúng như kinh điển. Nếu hay hiểu rõ các pháp đạo phẩm, chẳng làm các sự lành, chẳng thấy có thường cũng không chấp trước, chẳng trừ các pháp ác, đạo tâm hiển rõ chẳng dứt, cũng chẳng chấp có thường chẳng đọa đoạn diệt. Nếu có Bồ Tát dứt bỏ các sự chấp thường chấp đoạn, giữ lòng bình đẳng vô sở trụ mà ở trung gian. Sao gọi là trung gian ? không khởi niệm, trừ hết vô minh, đây gọi là trung gian. Không có giáo hóa không có dạy truyền, không có ngôn
không có thuyết, đây gọi là trung gian. Tóm lại mà nói, vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thống ái, thủ, hữu, sanh lão, bịnh tử, ưu bi khổ hoạn đều đã trừ hết, đây gọi là trung gian.
Người an trụ trung gian, không
bị sai khiến cũng không kẻ khiến, xét sờ hữu thì không có giáo lịnh không có dạy truyền, xét bổn mạt thì không thể biết được không có xứ sở, chẳng nắm bắt được thì không chỗ chấp lấy, tịch mịch đạm bạc bỗng nhiên đã dứt diệt, đây gọi là trung gian.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Ví như tiếng vang không có xứ sở, người thấy chơn đế thì sa vào nơi chơn ngụy. Trung gian đây
không có ngôn không có thuyết, không có thấy cũng không có xứ sở.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Nhơn do hưng phát là việc của thức và sắc cùng giáo lịnh, nhơn do hiệp thành là từ hai duyên đối đãi. Trung gian ấy là không có giáo
lịnh không có ngôn thuyết, đây gọi là trung gian.
Nhơn duyên hiệp thành chẳng cần nghĩa lý. Nghĩa
lý ấy là bất khả đắc ấy là chẳng trùng lai. Chẳng trùng lai ấy gọi là trung gian.
Lại người quán ngã thì rõ
vô ngã, nơi đây tịch diệt, đối với ngã và vô ngã tự nhiên thanh tịnh, đây gọi là trung gian.
Quán nhơn thọ mạng, đối với nhơn thọ mạng mà không có sở kiến thanh tịnh tự nhiên, đây gọi là trung gian.
Đối với tưởng và vô tưởng mà không có tưởng vui, đây gọi là trung gian.
Những sự sở đắc điên đảo được hưng khởi mà không có sở hữu, đây gọi là trung gian.
Hư vọng ngu si cùng giáo
thuyết chí thành đều chẳng có được, đây gọi là trung gian.
Bờ đây bờ kia tiêu hóa thân mình không để có chỗ dính mắc, hữu vi vô vi chẳng hành chẳng tập, đây gọi là trung gian.
Bỏ trừ sanh tử mà đến Niết bàn, đều không có ngôn giào, đây là ở trung gian.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Người quán sát nơi pháp biết pháp vốn không có làm y chỉ, chẳng hoại pháp giới tâm ý tự nhiên mà được ý chỉ, nhập vào pháp giới hiểu rõ các pháp, quán
pháp giới ấy cùng với nhơn giới, nơi pháp giới kia cũng không hư hoại chẳng hư nhơn giới. Pháp giới và nhơn giới, hai sự ấy đồng như hư không giới. Bồ Tát nầy dùng một giới mà thấy khắp các pháp. Dùng huệ nhãn thấy thì dùng pháp giới quán sở hành của Phật.
Giả sử có người chẳng tuyển trạch pháp, Bồ Tát nầy không thấy, do cớ đây nên các pháp
bao nhiêu đều thấy không có bổn pháp chẳng thấy có bao nhiêu.
Nếu do quán pháp mà thấy vốn không có, thì chẳng nhục nhãn thấy, chẳng thiên nhãn thấy, chẳng huệ nhãn thấy. Tại sao? Vì nhãn ấy rời lìa phân biệt vậy.
Chẳng nhục nhãn thấy thì nhãn ấy chẳng sa vào hành sanh tử. Chẳng thiên nhãn thấy thì chẳng dùng nhãn ấy hành nơi phóng dật. Chẳng huệ nhãn thấy thì quán pháp rõ
pháp vốn không có. Khắp thấy các pháp không có xứ sở, pháp không có sở trụ. Đã thấy các pháp không có sở trụ thì hành pháp ý, thì chẳng trái mất thệ nguyện xa xưa. Đây là Bồ Tát tùy thuận lời Phật dạy mà tự lập ý quán sát các
pháp thâm diệu chẳng bỏ Vô thượng Bồ đề vậy.
Đây là Bồ Tát quán không có pháp ý chỉ hạnh thanh tịnh”.
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : Bốn ý chỉ hành bốn tinh tiến. Những gì là bốn ?
Quán thân không có thân, trừ bỏ chấp kiến điên đảo thấy có thiệt, bất tịnh cho là tịnh.
Quán thống không có thống, trứ bỏ tưởng điên đảo cho khổ là vui.
Quán tâm không có tâm, trừ tưởng chấp vô thường cho là thường.
Quán pháp không có pháp, trừ tưởng không ngã cho là
có ngã.
Nơi bốn điên đảo nầy mà tu bình đẳng thì không có chấp trước.
Bồ Tát nếu có thể tu hành bình đẳng thì có thể thanh tịnh tất cả cộng hạnh
Bồ Tát phụng hành công hạnh bình đẳng thanh tịnh vi diệu nầy thì đến pháp nhẫn tên là bốn ý đoạn pháp nhẫn.
Sao gọi là ý đoạn ?
Hành giả thanh tịnh giảng thuyết đạo pháp, do đây tự nhiên tùy thuận thiện bổn, chẳng theo ác bổn, chẳng phát sanh lỗi lầm. Những mầm mống ác bổn chưa sanh thì chẳng cho sanh khởi. Vì tu tinh tiến nên những ác ngôn phàt khởi sự phi pháp liền dứt diệt. Vì tu tinh tiến nên các sự thiện đúng pháp được khuyến khích phát sanh. Những pháp lành đã khởi thì càng thêm tinh tiến làm cho tròn đủ chẳng để quên mất.
Lại nữa, Bồ Tát vốn tu tịnh nghiệp, hay tự kiềm chế giữ gìn chẳng để mất pháp lành được an trụ tự tại lần lần tăng trưởng hiển dương thiện pháp. Thiện pháp đã hưng thạnh rồi thì chằng còn quên mất.
Bồ Tát nầy tu hành thanh tịnh bốn ý đoạn ấy đầy đủ Bồ Tát hạnh tâm được tự tại tinh tiến chẳng loạn, thanh tịnh vô cấu chẳng trái với trí huệ Phật, thuận theo đạo giáo thật hành đại bi, tâm tâm thấy nhau, xem nơi sờ niệm chẳng mất tinh tiến đã hiện hành bình đẳng, đây gọi là được ý đoạn.
Tại sao vậy ?
Vì từ nơi bình đẳng an lành chẳng cần trái bỏ ác tà. Do nơi an lành chẳng theo ác tà bèn được ý đoạn bình đẳng tam muội, Đã được tam muội rồi thì gọi là bốn ý đoạn bình đẳng vậy”.
Đức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : “ Nếu hay tu hành bốn ý đoạn ấy thì hay phụng hành đầy đủ bốn thần túc :
Dứt trừ tham dục, phụng hành tinh tiến thì làm cho đạo tâm tịch tĩnh không nhiễm uế ít suy tư. Đã bỏ phí pháp rồi thì được khinh an thành tựu đại bi. Tinh tiến khinh an được quyền phương tiện, nhơn đây thành bốn thần túc thăng lên nhà
đạo được bốn tự tại.
Những gì là bốn tự tại?
Một là thọ mạng tự tại, Bồ Tát nầy đã được trường mạng. Vì thọ đã vô hạn nên ở trong đoản mạng mà đầy đủ vô lượng thọ khuyến hóa chúng sanh
nghe pháp quán sát. Hoặc với người nhàm mỏi thì hiện đoản mạng cho nó khát ngưỡng chánh pháp ân cần cầu học. Bồ Tát nầy sanh chỗ nào, hoặc trên trời nhân gian đều được tự tại nơi thọ mạng của mình.
Hai là thân khẩu tự tại. Bồ Tát nầy thân khẩu như ý, tâm chẳng dựa nơi thân tùy ý hiện hình dung mạo sắc tượng, nhơn nơi chúng sanh oai
nghi lễ tiết, thân nó xấu tốt, dài ngắn lành dữ. Bồ Tát nầy nhập chánh định tư duy dùng luật nghi nào có thể khai hóa, họ ? Theo đó Bồ Tát hiển hiện hình mạo mình ngồi đứng tới lui. Trong khoảnh khắc tác ý, Bồ Tát nầy hóa hiện đủ tất cả nhân sĩ thân hình
nhan sắc đổng loại với họ, rồi vì họ mà thuyết pháp.
Ba là thuyết pháp tự tại. Bồ Tát nầy ở trong tam giới nắm giữ chánh pháp độ thế, chẳng làm pháp thế tục. Dầu tùy theo tập tục hiển hiện các sự cảnh mà chẳng xa rời trí huệ độ thế , cũng không lầm lỗi, thường hiệp với đạo thâm áo trí huệ vô ngại . Hoặc tại thiên thượng, hoặc tại nhơn gian. Bồ Tát nầy tùy theo ngữ ngôn của mọi loài làm cho vô số chúng sanh đều thuận luật giáo; đều được quả toại nơi chỗ nguyện cầu.
Bốn là quốc độ tự tại. Bồ Tát nầy tâm đã được tự tại rồi, nhiếp bao nhiêu đại hải trong cõi Đại Thiên hiệp vào một đại hải, cũng không có
qua lại để biến hóa. Đem bao nhiêu núi Tu Di lập lập làm một núi, mà tất cả trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi đều chẳng hay biết sự hiệp tan qua lại ấy. Hoăc hiện rừng cây, hoặc hiện cả hư không, hoặc hiện các thứ châu báu, tùy ý kiến lập phương tiện cứu độ chúng sanh. Công
việc xong rồi thoạt nhiên hoàn lại như cũ.
Nầy Bửu Kế ! Bồ Tát ấy dùng bốn hạnh thần túc để tự tu tập, cùng chư Phật mười phương chung đàm công
luận, ngồi đứng kinh hành không rời bên Phật. Đồng thời cùng Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, các Thiên, Long, Quỷ, Thần, Càn Thát Bà, A
Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi Nhơn, tất cả mọi loài chúng sanh luận đàm thuyết pháp đứng ngồi đến đi.
Tại sao vậy ?
Vì Bồ Tát nầy thần túc vi diệu tự tại quảng đại vô lượng.Do nơi Bồ Tát từ xa xưa tu hành pháp hành
không hề kém khuyết nên được như vậy.
Sao gọi là tu thần túc ?
Bồ Tát ấy từ xa xưa tu hành pháp
lành, coi nhẹ thân mình, cung kính bực tôn trưởng, phụng thờ hầu hạ chẳng biết mỏi nhàm, khiêm ty hạ ý, chẳng có lòng tự đại tự cao, miệng luôn nói lời lành làm vui dẹp mọi người, kính yêu tất cả, cúi đầu tự quy, đầy đủ lễ tiết, ngôn hạnh tương xứng, lòng dạ mềm mỏng không kiêu không
tự, không có ác ý, luôn luôn khiêm cung điều phục tâm ý, nghe nhận lời tôn trường, thuận giáo quỳ lạy, giữ lòng mềm dịu chế ngự ý chí tinh tiến tu hành chưa hề rời bỏ. Bồ Tát nầy đầy đủ lễ tiết oai nghi đúng
chánh giới, cử động khác người, lòng chẳng biến lười khinh mạn, cũng chẳng phóng dật thuận theo tâm niệm tham dục, sân khuể, ngu si. Dứt trừ đây rồi thì không có tham lam tật đố, tham của tham ăn tự hết, tịch tĩnh vô sanh, bịnh tật tiêu lành, các cái chướng năm ấm gánh nặng đều dứt khỏi. Đem ơn huệ ban bố cho chúng sanh. Làm cầu làm đò, dùng thuyền đò đưa tất cả chúng sanh qua khỏi dòng nước sâu rộng. Theo cơ khai hóa chúng
sanh : kẻ loạn làm cho chánh, kẻ rối lảm cho định, kẻ vạy làm cho ngay, kẻ hủy báng thì cười, chẳng ngại nghịch cảnh, giải quyết hồ nghi, nói điều hay lạ, trấn an động điêu, thương cứu mọi loài, giác ngộ kẻ mê, của quí đem bố thi về sau không hối tiếc, giúp đỡ chúng sanh khuyến khích đạo tâm.
Bồ Tát nầy nếu thấy người tích lũy cội công đức thì thay họ mà vui mừng, chưa hề tự khen tự an, thấy người được an thì mừng rỡ khen ngợi.
Bồ Tát nầy dễ nuôi, hay biết đủ chẳng mong lợi lộc của người khác.
Bồ Tát nầy ưa thích xuất gia, khuyên người khác xuất gia tu học đại từ đại dũng, đạo tâm kiên cố, oan thân bình đẳng như hư không. Thấy người nhọc mệt thì sắp đặt xe cộ, thường đem vô úy ban cho chúng sanh.
Bồ Tát nầy thấy bực học vấn thì kính như Ph ật, thấy người chưa học thì chẳng khinh mạn, thấy người thiếu thốn thì ban cho của cải nghề nghiệp, với người tật bịnh thì cấp cho thuốc men để cứu mạng họ, với người cứu hộ thì hiếu thuận để báo ơn, thấy người giữ giới tự tu thì cúng dường phụng sự chẳng để trái ý, thấy kẻ không cung cách
thì khuyến hóa họ vượt qua thế tục.
Bồ Tát nầy đi đến đâu đều chẳng phạm lỗi ác, không hề nhiễm thế sự, thường phụng hành các công đức.
Bồ Tát nầy tu các thần túc vi diệu quảng đại chẳng lui chẳng mất mãi đến thành Phật.
Đây là Bồ Tát thần túc hạnh thanh tịnh”.
Đức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : “Thế nào là Bồ Tát đủ căn hạnh thanh tịnh?
Bồ Tát chẳng thọ các pháp mà tu đạo nghĩa đó là tín căn vậy. Bồ Tát nguyện vượt qua bỉ ngạn chẳng cầu mong người đó là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát vì tất cả chúng sanh mà chẳng rời bỏ đạo tâm đó là niệm căn vậy. Bồ Tát nắm giữ đại bi muốn cứu tế nguy ách đó là định căn vậy. Bồ Tát hay phụng thọ tất cả các pháp mà tu tịch diệt đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, nầy Bửu Kế! Nếu Bồ Tát tin tất cả Phật pháp thuận tùng Phật đạo đó là tín căn vậy. Bồ Tát phụng trì pháp của chư Phật chưa hề lười mỏi đóng là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát nhớ tất cả pháp của chư Phật lòng ghi thánh
nghĩa chưa hề quên sót đó là niệm căn vậy. Bồ Tát tu Phật định không hề lười bỏ đó là định căn vậy. Bồ Tát hay giải trừ nghi kiết cho tất cả chúng sanh mà không mong cầu đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tát hâm mộ Phật đạo chẳng do dự đó là tín căn vậy. Bồ Tát chí tánh điều nhu thuận tu tinh tiến không hề lui sụt đó là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát khuyến trợ cội công đức làm cho tăng trưởng không tổn giảm là niệm căn vậy. Bồ Tát bình đẳng phóng quang minh
soi khắp chúng sanh cứu thoát rối loạn đó là định căn vậy. Bồ Tát phân biệt căn tánh của tất cả mọi người để vì họ mà thuyết pháp đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tát siêu việt tất cả chướng ngại mà không chỗ chấp trước đó là tín căn vậy. Bồ Tát giải trừ kiết sử cho tất cả chúng sanh khiến không bị trói buộc đó là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát phụng hành Phật pháp mà không chấp trước độc bộ trong tam giới đồ sộ đặc dị đó là niệm căn vậy. Bồ Tát biết các chướng ngại nguyên do từ nhơn duyên đó là định căn vậy. Bồ Tát biết rõ các chấp trước thông đạt tất cả đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tát tuân hành phật pháp không có sai lầm đó là tín căn vậy. Bồ Tát giáo hoá người không sai lầm không lỗi thời thường vui đẹp đó là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát thuận tùng phật pháp thường thật hành pháp vi diệu thanh tịnh chẳng mê uế trược chẳng mê đạo nghĩa ngày ngày tăng tiến tu hành đó là niệm căn vậy. Bồ Tát tâm thanh tịnh phụng hành bình đẳng mà dùng chánh thọ và thánh huệ quân bình để đắc độ đó là định căn vậy. Bồ Tát ở nơi pháp giới trọn không chướng ngại không lỗi thời an trụ pháp tánh đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tát diệt trừ tất cả gốc ác phụng hành các gốc công đức đó là tín căn vậy. Bồ Tát tuân theo gốc lành thuận tùng kinh điển đó là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát tích lũy các pháp lành chẳng sót mất các chánh pháp đó là niệm căn vậy. Bồ Tát định ý vui vẻ chẳng tham an lạc phân biệt cội công đức của các chúng sanh đó là định căn vậy. Bồ Tát phụng hành các điều lành theo phương tiện bình đẳng tu các đạo pháp đó là huệ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tát tin pháp siêng tu bỏ các giải đãi, ý không mong cầu không quên mất gìn giữ định ý khiến chẳng mê lầm phụng hành trí huệ khai hóa ngu si đó là Bồ Tát ngũ căn vậy.
Lại nữa, Bồ Tát hành tín căn thì trừ bỏ pháp tà, hành tinh tiến thì buông bỏ ngô ngã, tâm ý chuyên nhứt trừ hết tham thân, hay hành chánh định phá vỡ lưới sáu mươi hai kiến chấp, trí huệ phá trừ tất cả chấp trước ái ân, đó là Bồ Tát tu ngũ căn hạnh thanh tịnh”.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: ” Thế nào là Bồ Tát hành ngũ lực hạnh thanh tịnh?
Nếu Bồ Tát ở nơi ngũ căn đây phụng hành chẳng bỏ, hàng phục tứ ma, chẳng theo Thanh Văn
thừa, Duyên Giác thừa, chỉ theo Ðại thừa chưa hề thối lui, tiêu trừ các cấu uế ái dục trần lao, chí nguyện kiên cố, tâm được tự tại dũng mãnh, thân thể khương ninh mạnh mẽ có oai thế, các căn đạm bạc,lòng tin chẳng hư, đây gọi là tín lực.
Ðiều chẳng nên làm thì chẳng làm, chế ngự tâm mình khiến luôn quân điều, đây là tinh tiến lực.
Ðiều nên tu tập thì đều thật hành ý niệm có thế lực mạnh, đây là ý lực.
Ðạo nghiệp được kiến tạo chưa hề quên mất để độ tất cả chúng sanh, đây là định lực.
Chẳng bị năm trần sắc thanh hương vị xúc chi phối, vượt khỏi tất cả kiết phược chướng ngại, ý chí an trụ chẳng dao động, đây là huệ lực.
Lại nữa, tín lực là chẳng theo lời người khác mà có chỗ thọ nhận, tinh tiến lực là chỗ nên nắm giữ thì chẳng quên bỏ, ý lực là được tổng trì chẳng mất đạo ý, định lực là thuyết pháp bình đẳng chẳng thiên lệch chẳng theo phe, huệ lực là giải quyết các sự hồ nghi giải tán lưới kiết phược của chúng sanh.
Lại nữa, tín lực là đầy đủ thế mạnh thành tín, tinh tiến lực là vững mạnh giải thoát độ người chưa được độ, ý lực là đầy đủ giải huệ tri kiến, định lực là đầy đủ sức chí nguyện cứu cánh, huệ lực là đầy đủ nguyên bổn tất cả công hạnh.
Lại nữa, tín lực là hay chế ngự nạn xan tham cấu uế, tinh tiến lực là hay buông bỏ tất cả sở hữu, ý lực là hiển bày cội công đức khuyến trợ đạo tâm, định lực là tâm bình đẳng tuân hành xả bỏ mong cầu, huệ lực là chỗ đáng tu hành chưa hề mong quả báo.
Lại nữa, tín lực là giải trừ tất cả khối hủy giới, tinh tiến lực là ân cần tu cấm giới chưa hề sai trái, ý lực là đầy đủ đạo tâm chẳng để thiếu sót, định lực là liền được đến bực nhơn hòa, huệ lực là chỗ tu hành đều dứt sanh tử.
Lại nữa, tín lực là rời lìa gốc tránh tụng sân giận, tinh tiến lực là chánh niệm tu hành tuân tu nhẫn nhục, ý lực là đầy đủ đạo hạnh chẳng hề hủy hoại chánh pháp, định lực là trước tiên chế phục tâm ý chẳng để phóng dật ủng hộ tất cả mọi loài chúng sanh,
huệ lực là chẳng chấp ngô ngã cũng không nhơn tưởng.
Lại nữa, tín lực là trừ bỏ giải đãi uế ác trần cấu, tinh tiến lực là siêu độ được tất cả nhơn duyên chẳng bị ác sự làm mê lầm, ý lực là tu hành đạo hạnh làm cho đầy đủ, định lực là thân thể khinh an hay hàng phục các ma, huệ lực là ở nơi chỗ làm không có làm
không chẳng làm.
Lại nữa, tín lực là tiêu hóa các hạnh tà cấu, tinh tiến lực là hiệp hội chúng sanh để khai hóa họ, ý lực là thường nhứt ý chí để khuyến trợ chúng sanh, định lực là thường hành tịch tĩnh chưa hề rối loạn, huệ lực là hiểu rõ các pháp hành
của mọi người.
Lại nữa, tín lực là bỏ các kiến chấp hiểu biết các cấu uế, tinh tiến lực là thường siêng tu hành cầu hiểu biết rộng, ý lực là nghiêm tịnh suy tư ý niệm chỗ làm đều đúng, định lực là tâm không chỗ sanh khởi để đến cứu cánh, huệ lực là chuyên học chuyên hành để được thành tựu.
Lại nữa, tín lực là thường được chí thành đủ thất thánh tài, tinh tiến lực là phân biệt hiểu rõ thành thất giác chi, ý lực là tâm thường chỉnh tề chưa hề rối loạn, định lực là vượt qua chỗ ở của bảy thức, huệ lực là qua khỏi bát tà không có
chấp trước.
Lại nữa, tín lực là tâm thường thanh tịnh không ai phá hoại được, tinh tiến lực là phụng hành thanh tịnh không lui sụt, không tịnh không chẳng tịnh, không đúng không chẳng đúng, ý lực là ý thanh tịnh hội họp các pháp đạo phẩm không có ý không có niệm, định lực là tâm tinh tiến tu tịch tĩnh thường chánh thọ, huệ lực là hay thanh tịnh không bị các kiến chấp làm mê hoặc phụng hành các công đức.
Ðây là Bồ Tát ngũ lực hạnh thanh tịnh vậy”.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: ” Thế nào là Bồ Tát thất giác phẩm thanh tịnh?
Bồ Tát niệm giác phẩm là được tự tại chẳng mất đạo huệ, trạch pháp giác phẩm là quan sát đạo hạnh đúng thời không có chấp trước, tinh tiến giác phẩm là siêng tu hành không chướng ngại, hỉ giác phẩm là thân ý hưu tức được đến cứu cánh, khinh an
giác phẩm là tâm không có sở trụ, định giác phẩm là rời lìa thiền vị mà được thấu đáo, xả giác phẩm là công nghiệp gây tạo đều được thành tựu .
Lại nữa, niệm giác phẩm là tâm cầu đạo không sở đắc không sở thất, trạch pháp giác phẩm là hộ pháp ngày thêm mới, tinh tiến giác phẩm là khai hóa chúng sanh không hề mỏi chán, hỉ giác phẩm là vui pháp lạc siêng cần suy luận, khinh an giác phẩm là hóa độ nhơn dân dứt trứ trần lao kiến lập thánh đạo, định giác phẩm an trụ đẳng trì tâm chẳng tạp loạn, xả giác phẩm là hay xét làm hạnh thánh hiền gầy dựng mọi người.
Lại nữa, không lo chẳng nghĩ như sư tử hơn hẳn Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa là niệm giác phẩm, tất cả các pháp đều thanh tịnh hiểu rõ nơi đây là trạch pháp giác phẩm, hạnh nghiệp thanh tịnh gìn thân khẩu ý không hề sai phạm là tinh tiến giác phẩm, thanh tịnh vô trước rời lìa nguy hại là hỉ giác phẩm, nghiêm trì công
hạnh việc làm đều xong là khinh an giác phẩm, chưa hề thuận theo thế tục đối cảnh bình đẳng là định giác phẩm, chưa hề an trụ nơi nhị pháp rời lìa đoạn thường hai kiến chấp cứu tế gìn giúp chúng sanh là xả giác phẩm.
Nầy Bửu Kế! Sở dĩ gọi là giác phẩm vì biết rõ các pháp không gì chẳng thấu suốt, phân biệt đúng đắn hiểu rành chỗ đến, biết đúng oai nghi lễ tiết khai hóa chúng sanh, tùy họ ở chỗ nào thân mình siêng tu rộng thì hành đạo nghĩa trừ bỏ kiết phược kiến chấp. Giác phẩm này là công hạnh của thánh hiền chẳng phải chỗ tu tập của ngu phu. Nói là
thánh hạnh chẳng phải chỗ làm của ma, chẳng phải chỗ làm của kẻ cống cao tự đại, chẳng phải hàng ngoại đạo dị học đến được. Thánh hạnh là chẳng hành nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thánh
hạnh là không dính mắc các tướng nhơn duyên. Thánh hạnh là không lựa chọn xứ sở phương diện có quên có mất. Thánh hạnh là công hạnh không có tâm ý
thức niệm tưởng ngôn ngữ. Thánh hạnh là rời lìa kiến văn trí thức. Thánh hạnh là không có tạo tác ý niệm tư tưởng Niết Bàn.
Lại nữa, nơi tất cả pháp đều không có sở hành là hiền thánh hạnh. Tu theo kinh điển không có tất cả đúng chẳng đúng, niệm chẳng niệm, cũng không có ý
tưởng khác là hiền thánh hạnh. Nơi tất cả pháp trọn không có sở trụ chẳng mộ tôn xứ sở là hiền thánh hạnh. Nơi tất cả pháp trọn chẳng lầm loạn, thuận hành chánh nghĩa
đều riêng được thành tựu là hiền thánh hạnh. Nơi tất cả pháp chưa hề tránh tụng, hòa đồng cùng ở là hiền thánh hạnh. Phụng hành các pháp
không có pháp tưởng, chẳng mất đạo ý là hiền thánh hạnh.
Ðây là Bồ Tát tu bảy giác phẩm hạnh thanh tịnh của hiền thánh vậy”.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: ” Thế nào là Bồ Tát tu tám chánh đạo hạnh thanh tịnh?
Một là chánh kiến. Sao gọi là chánh kiến?
Bồ Tát nếu hay phụng hành tất cả pháp, nơi ngã chẳng phải ngã chẳng an trụ không quán.
Tại sao? Vì xét thân ngô ngã bình đẳng không có sai biệt.
Cũng chẳng an trụ quán thân nhơn không.
Tại sao? Vì thân nhơn và không cũng là
bình đẳng.
Cũng chẳng an trụ quán nhơn thọ mạng cùng với không sai khác
nhau.
Tại sao? Vì nhơn thọ mạng với không vẫn bình đẳng.
Cũng chẳng thấy những sanh tử rời lìa nghĩa thỉ chung không vô.
Tại sao? Vì các sanh tử thỉ chung họa hoạn cùng sở kiến không vô đều bình đẳng vậy.
Chẳng an trụ quán không đoạn diệt thường kiến có ngô có ngã.
Tại sao? Vì đoạn diệt với thường kiến đều bình đẳng vậy.
Cũng chẳng chấp lấy thân và sở quán không cũng chẳng an trụ nơi đó.
Tại sao? Vì thân ngô ngã và không đều bình đẳng vậy.
Cũng chẳng an trụ nơi công hạnh thấy Phật Pháp Tăng quán
sát không.
Tại sao? Vì thấy Phật Pháp Tăng và sở quán không đều bình đẳng vậy.
Bồ Tát có thử kiến bỉ kiến quán sát đến tịch diệt bình đẳng, đây là chánh kiến thấy Phật Pháp Tăng. Còn tà kiến kia chẳng rời lìa điên đảo vậy.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment