Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 36
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
PHẨM KIM TỲ LA THIÊN THỌ KÝ
Ở giữa đường , đức Thế Tôn làm cho chư Trưởng Giả chứng nhập thánh quả,dùng oai thế Như Lai mà vào thành Vương Xá, bốn chúng vây quanh oai nghi
nghiêm chỉnh.
Lúc ấy trong hàng chư Thiên Thần Dạ Xoa thủ hộ thành Vương Xá có Đại thiện thần Vương hiệu là Kim Tỳ La nghĩ rằng : nay đức Như Lai hình tướng rất lạ, là bực tốI thắng trong thế gian khó được gặp , đáng được sự cúng dường của Trời ,của Người.Chúng ta hôm nay phảI mang những món cúng thượng diệu dâng lên đức Như Lai.
Suy nghĩ xong, Kim tỳ La Vương đem thức uống ăn tốI thắng đầy đủ hương vị diệu sắc trọn vẹn dâng lên đức Phật.
Đức Thế Tôn thương sự hiến dâng ấy nên nạp thọ.
Lúc ấy ,sáu muôn tám ngàn Đại dược xoa của Kim Tỳ La Vương thống lãnh ở trên hư không đều sanh lòng tùy hỉ dùng âm thanh thanh viễn xường rằng : lành thay,lành thay!
Kim Tỳ La Vương bảo chúng Dạ Xoa rằng : “ Ta đã dâng lên đức Phật những món cúng vi diệu .Các người cũng nên đem món cúng dường hiến cho chư Tỳ Kheo tăng. Do đó các ngươi sẽ được lợi ích an lạc mãi mãi”.
Chúng Dạ Xoa tuân lờI truyền dạy của Thần Vương đem món ăn thượng vị cúng dâng cho chư Tỳ Kheo Tăng.
Chư Tăng xót
thương nhận lấy đồ cúng ấy.
Đức Thế Tôn vì khất thực mà vào thành Vương Xá .Khất thực xong, đức Phật trở về chỗ cũ.
Có vô lượng ngàn chúng Thiên ,Long, Dạ Xoa, Càn Thát bà , A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La , Ma Hầu La Già , cùng vô lượng ngàn nhơn và phi nhơn ,vô luợng câu na do tha trăm ngàn
chúng sanh khác đồng tùy tùng theo sau đức Phật.
Bấy giờ đức Như Lai về đến chỗ tối thắng rộng rãi trải tọa cụ rồi ngồi như thường ngày.
Kim Tỳ La Vương và bộ thuộc đem những hoa trời ,hoa mạn đà la ,hoa mạn thù sa , hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi, cũng đem các thứ hương bột cọi trời rải trên đức Phật để cúng dường rồi chắp tay kính lễ đức Phật.Lễ Phật xong, chư Thần Vương đứng yên trước đức Phật.
Đức Phật biết rõ tâm niệm của Kim Tỳ La Vương và bộ thuộc nên liền mỉm cười .
Theo pháp thường của chư Phật mỗi khi mỉm cườI thì từ diện môn phóng ra nhiều thứ ánh sáng có vô lượng màu sắc , như là màu sáng xanh vàng đỏ trắng, màu sáng hồng , sáng vàng, sáng bạc, sáng màu thủy tinh. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng vô biên tất cả thế giớI che khuất cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, dưới chiếu thấu địa ngục làm cho chúng sanh địa ngục vui vẻ, trên chiếu suốt trời Phạm Thế. Công việc chiếu soi đã xong, các ánh sáng ấy quay trở lạI vòng quanh đức Phật bảy lần, rồi hoặc rót vào đảnh đức Phật, hoặc rót vào hai vai hai gốI đức Phật.
Theo pháp thường của chư Phật, lúc thọ ký cho chúng sanh địa ngục thì ánh sáng rót vào dướI hai bàn chưn đức Phật, nếu thọ ký cho súc sanh thì quang minh rót vào lưng đức Phật,nếu thọ ký cho loài quỷ thì quang minh rót vào trước bụng đức Phật, nếu thọ ký cho loài ngườI thì quang minh rót vào hông bên tả đức Phật,nếu thọ ký cho loài TrờI thì quang minh rót vào
hông bên hữu đức Phật,nếu thọ ký cho bực Thanh Văn thì quang minh rót vào hai gốI đức phật, nếu thọ ký cho bực Độc Giác thì quang minh rót
vào hai vai đức Phật,nếu lúc thọ ký cho chư đại Bồ Tát sẽ thành Vô thượng Chánh giác thi quang
minh rót vào đỉnh đầu đức Phật.
Trưởng Lão A Nan Đà thấy đức Thế Tôn mỉm cườI phóng quang ,Ngài liền trịch y thất điều vai hữu ,gốI hữu chấm đất chắp tay lễ chưn đức Phật rồI nói kệ bạch Phật :
“Đấng soi sáng thế gian
Cớ gì phóng quang minh
Đấng lợi ích thế gian
Cớ gì hiện mỉm cườI
Nay ai gieo giống Thánh
Làm nhơn Phật Bồ đề
Nay thọ ký cho ai
Ai đáng được giảI thoát
ĐạI Đạo Sư hùng mãnh
Chẳng vô cớ mà cườI
Nguyện Mâu Ni sẽ nói
Duyên cớ phóng quang minh ».
Đức Thế Tôn liền nói kệ đáp Ngài A Nan :
« Kim Tỳ La tịnh tâm
Dâng những đồ cúng dường
Cho đấng cứu thế gian
Nên ta khiện mỉm cườI
Báo Thần Vương hết rồI
Sanh lên trời Đao LợI
Hưởng mãn phước trời ấy
Sanh lên trờI Dạ Ma
Rồi lại sanh Đâu Suất
Hưởng báo vui cõi Trời
Mãn phước sanh loài người
Làm bực vua trí huệ
Cai quản vua bốn châu
Tự tại Chuyển Luân Vương
Mãn báo nhơn vương rồi
Sanh lên trời Phạm Thế
Trên trời và nhơn gian
Luôn qua lại chẳng ngớt
Thường hưởng thọ diệu lạc
Hai mươi câu chi
kiếp
^Rất sau bỏ nghôi vua
Xuất gia cầu Phật đạo
Đủ các thiện duyên rồi
Thành Vô thượng Bồ đề
Ba muôn chúng Dược Xoa
Do dâng cúng đức Phật
Bỏ báo Dược Xoa xong
Sanh lên trờI Đao LợI
Sau gặp Phật Di Lặc
Được quả A La Hán
Đã được truyền đạo hóa
Liền gọi cúng dường Phật
Cả chúng Dược Xoa ấy
Vì an trụ Bồ đề
Do nơi căn lành ấy
Chẳng sanh các ác đạo
Hoặc có ngàn Dược Xoa
Thường cúng dường chư Phật
Cầu Vô thượng Bồ đề
Để lợI ích chúng sanh
Hoặc hai ngàn ba ngàn
Cầm hương hoa vòng hoa
Sẽ cúng dường chư Phật
Để được Phật Bồ đề
Hoặc có nhiều câu chi
Sẽ cúng dường chư Phật
Tu tự tánh thanh tịnh
Sau chứng đạI Bồ đề
Kim Tỳ La Thần Vương
Đủ sức đạI thần thông
Cũng phát nguyện rộng lớn
Tôi sẽ thành Chánh Giác
Từng cúng dường chư Phật
Phát đủ những hoằng thệ
Nay lạI cúng dường ta
Hướng đến đạo vô thượng
Do sức thiện căn ấy
Bỏ rờI các ác đạo
Sẽ gặp Phật Di Lặc
LạI dâng nhiều lọng báu
Dâng nhiều lọng báu rồI
LạI dâng nhiều y báu
Dâng nhiều y phục rồI
Liền bỏ nhà xuất gia
Tròn đủ năm trăm năm
Chuyên tu hành phạm hạnh
Cầu tốI thượng Bồ đề
Để lợI ích chúng sanh
Vì thành tựu nguyện ấy
Nên tu hành lục độ
Suốt hằng hà sa kiếp
Thường chuyên cần chẳng nghỉ
A Nan ông phảI biết
Vì thị hiện mà nói
Hạnh thù thắng của họ
Lại thêm quá số trên
Như đã nói ví
dụ
Số kiếp hằng hà sa
Được thấy chư Phật kia
Sẽ cúng dường to lớn
Lạ thay trí thắng diệu
Lạ thay tâm vô thượng
Các chúng ĐạI Đạo Sư
Danh xưng chẳng gọI được
Sau sẽ thành Chánh giác
Như Lai Phật Thế Tôn
Hiệu Ngài là Y Vương
Vang khắp mười phưong cõi
Bảy mươi câu chi năm
Thuyết pháp độ chúng sanh
Đấng Lưỡng Túc Tôn ấy
Lâu sẽ nhập tịch diệt
Thuyết pháp hai mươi hội
Điều phục tâm chúng sanh
Một đại hội tối hậu
Trọn hai trăm ức năm
Những đại hội đã nói
Độ vô lượng Thanh Văn
Như số lượng Thanh Văn
Chúng Bồ tát cũng vậy
LợI ích chúng sanh xong
Phật mớI nhập Niết Bàn
Chánh pháp trụ thế gian
TrảI qua trăm ngàn năm
Suốt trong năm trăm kiếp
Tỳ Kheo ấy thành Phật
Nơi mỗI mỗI kiếp ấy
Ngàn đức Phật xuất hiện
Những ngườI có trí huệ
PhảI suy gẫm pháp thủy
PhảI phát tâm dũng mãnh
Hành đa văn chánh lý
PhảI tu tập đa văn
Do đây lớn trí huệ
Bốn pháp nghĩa căn bổn
Tế độ các Bồ Tát
Là thí,giớI,văn, xả
Đường Bồ đề hiền thiện
Vì chúng nói pháp nầy
Thừa vô thượng tối thắng
Khai diễn đạo Thanh Văn
Khéo dứt các lướI nghi
Những ai có thỉnh hỏI
Nay ta đều hứa khả
Đấng chiếu thế khó gặp
Hay nói pháp thâm diệu”.
Kim Tỳ La Vương ở trước đức Phật được nghe thọ ký hớn hở vui mừng được chưa từng có ,nghĩ rằng : nay đức Thế Tôn sẽ lên núi Linh Thứu .Tôi phảI vun trồng chút í căn lành nơi đức Phật.
Suy nghĩ xong ,Kim Tỳ La Vương bảo bộ thuộc rằng : “ Chúng ngươi nên biết rằng đức Như Lai sẽ lên núi Linh Thứu.Chúng ngươi phài tâm dũng mãnh tùy
theo khả năng của mình mà sắm sửa cúng dường”.
Liền đó Thần Vương cùng bộ thuộc rờI thành Vương Xá thẳng đến núi Linh Thứu, toàn con đường chặng giữa đều dọn hết cỏ rác gai góc ngói gạch sỏI đá,khắp nơi sạch sẽ như mặt gương sáng.Chúng Thần lạI rướI nước thơm rồI lót thảm tốt cùng rảI hoa đẹp khắp con đường ,xông hương thơm dọv theo bên dường và dựng những tráng phan, treo những bửu cái ,trên cao giăng che vớI những lụa màu,rồI lạI trổI những âm nhạc trờI .Con đường ấy rất rộng bằng suốt một lằn tên.Khắp nơi theo hai bên đường che rợp vớI những loài hoa mọc dướI nước như các thứ sen xanh vàng đỏ trắng, xen trong hoa sen có những chim đẹp như uyên ương. Dùng lụa màu dệt bằng chỉ vàng ròng trảI lên mặt đường, trên đó lạI trảI lướI bảy báu.
Kim Tỳ La Vương trần thiết trang nghiêm con đường đức Phật sẽ đi qua xong, liền tự biến hóa thân mình rất cao lớn, cùng các bộ thuộc hớn hở vui mừng phát những tâm thù thắng như :
Tâm sướng thích, tâm điều thiện, tâm nhu nhuyến,tâm thanh tịnh, tâm ly cái,ntâm sung mỹ, tâm quy y Phật,tâm quy y Pháp, tâm quy y Tăng, tâm Bồ đề bất động, tâm bất thốI chuyển,tâm vô đẳng ,tâm vô đẳng đẳng, tâm siêu tam giớI, tâm đạI từ,tâm đạI bi đốI vớI tất cả chúng sanh, tâm đạI hỉ,tâm đâi xả,tâm Phật pháp khí,tâm kiên ,tâm cố,tâm bất khả hoạI,tâm bất hủ bạI, tâm rờI bỏ bực Thanh Văn và Độc Giác,tâm thành lập Bồ Tát địa.
Phát và an trụ trong những tâm nguyện ấy ,chư Thần Vương đến chỗ đức Như Lai đảnh lễ chưn đức Phật đi nhiễu ba vòng đứng qua một bên chắp tay nói kệ bạch đức Phật rằng :
“ Tôi đã vì Thế Tôn
Sắm đồ cúng vô thượng
Phật là đấng tôn quý
Diễn nói pháp vô thượng
Thập lực đều thành tựu
An trụ các vô úy
Những sự lợI chúng sanh
Như Đạo Sư đã làm
Phật đủ băm hai tướng
Tám mươi tùy hình
hảo
ĐờI nhờ như mặt trờI
Chiếu sáng khắp thế gian
Chuyển vi diệu pháp luân
MườI hai hành tốI thắng
Tuyên bố pháp sâu diệu
LợI ích các chúng sanh
Hiển thị các thần biến
Như nghi thức của Phật
Vì nhiều câu chi chúng
Mà làm sự lợI ích
Vị lai chư ĐạI Hùng
Giúp đờI như mặt nhựt
Tuyên dương thánh
pháp ấy
Giác ngộ thành Vô Thượng
Làm nhà làm thuyền bè
Làm đường làm nẻo về
Vì các chúng sanh manh
Bố thí cho huệ nhãn
Năm loài các chúng sanh
Tôi sẽ làm chỗ dựa
GiảI thoát các sự khổ
Như chư Phật đã lià
Tôi làm Lưỡng Túc Tôn
Là trờI trong các trờI
Thiên Đế, chúng Long Thần
A Tu La thờ kính
Sắm sửa đồ cúng dường
Trong đời không gì bằng
Tôi tạo nghiệp thượng diệu
Không có ai tương tợ
Như Pháp Vương Thế Tôn
Đủ ba mươi hai tướng
Tám mươi tướng phước diệu
ĐờI không ai sánh kịp”.
Đức Thế Tôn vì Kim Tỳ La Vương mà nói kệ rằng :
“Các ngườI cúng dường Phật
Làm pháp nhơn tốI thượng
Thù thắng trong hữu tình
Chẳng khó được Bồ đề
Cúng dường đấng Thế Tôn
Chiếu sáng đờI nương theo
Bực đáng được cúng dường
Của TrờI, Rồng và NgườI
Ngộ Bồ đề thượng diệu
NgồI đạo thọ tốI thắng
Dẹp trừ các ác ma
Vì chúng sanh thuyết pháp ».
Lúc bấy giờ đức Như Lai ở giữa đạI chúng dùng đạI oai đức, đạI thần thông, đạI tông thế và các thứ đạI tự tạI biến hóa mà phóng đạI quang minh chấn động cả đạI địa,hoa sen lớn mưa xuống khắp hư không ,trăm ngàn na do tha
câu chi nhạc trờI đồng hòa tấu.Cả đạI chúng đều được chưa từng có,thấy thần biến ấy lạI càng kíng ngưỡng đức Phật hơn.
Đức Như Lai chưn bước trên hoa sen lớn như bánh xe theo đường đã trang nghiêm mà đến núi Linh Thứu. Đến núi rồI, đức Phật bảo Ngài A Nan rằng : “Ông vì đức Như Lai mà sắp đặt bửu tọa thù thắng,ta sẽ ngồI trên ấy vì muốn lợI ích cho tất cả chúng sanh mà nói kinh đạI thừa Bồ Tát hạnh sở nhơn tên là Vi Diệu Cát Tường Bồ Tát Tạng.Kinh ấy có thể làm cho núi nghi ngờ của tất cả chúng sanh lở sụp.Kinh ấy có thể làm cho lướI nghi ngờ của tất cả chúng sanh đứt tuyệt.Kinh ấy có thể làm cho gốc nghi ngờ của tất cả chúng sanh chẳng mọc được.Vì kinh đạI thừa ấy lợI ích an lạc các chúng sanh, ta vì thương xót đạI chúng và hàng thiên nhơn nên mớI mở dạy”.
Ngài A Nan y theo lờI đức Phật mà sắp đặt pháp tọa.Trong đạI chúng sáu mươi tám câu chi Thiên Tử cởI thượng y mà trảI trên pháp tọa.
Đức Phật như thường lệ ngồI lên pháp tọa ngó chư Thiên Tử mà nói kê( rằng :
“Chư Thiên trảI y phục
Tối thắng thượng vi diệu
Đại Đạo Sư cứu thế
Ngồi yên trên pháp tọa
Đến bờ kia cáp pháp
Như Lai lên ngồi rồi
Đại địa động sáu cách
Khiến chúng đều vui mừng
Phóng quang chiếu Phật độ
Và chói các núi cao
Thế Tôn hiện thần thông
Tế độ người ưa pháp
Chư Thiên
,Long và Nhơn
Cưu Bàn Trà,
Ngạ quỷ
Những chúng Bố Đát Na
Thấy nhau không chứng cách
Trăm ngàn na do tha
Câu chi các Thiên Tử
Thấy Phật phóng quang minh
Rất là khó gặp gỡ
Vua Tần Bà Ta La
Cùng các quan vây quanh
Đến chỗ đức Thế Tôn
Như Lai đời nương dựa
Phật biết Trời,Rồng,Người
Đại chúng đều ngồi xong
Vì Lợi ích chúng sanh
Nhìn ngó khắp bốn phương
Tuyên cáo ngườI có nghi
Nên hỏI nơi Thế Tôn
Phật dìu dắt chúng sanh
Khéo dứt trừ lướI nghi”.
Lúc ấy bao nhiêu chúng sanh tron cõi ĐạI Thiên đều đến hộI họp để nghe pháp.Vì nghe pháp nên họ đều dứt lặng ngoạI duyên tâm an trụ một cảnh.
Đức Phật bảo Ngài ĐạI Mục Kiền Liên rằng : “Ông coi hôm nay có Tỳ Kheo nào ở xa chưa về dự hộI thì nên mờI về”.
Bấy giờ Ngài ĐạI Ca Diếp đương ở phía Nam núi Tuyết.Ngài ĐạI Mục Kiền Liên đã biết nên dùng thần thông đến thưa rằng :”Hôm nay đức Như Lai ở tạI núi Linh Thứu vì đạI chúng chư Thiên,Ma Vương,Phạm Vương, Sa Môn , Bà La Môn, A Tu La mà nói diệu pháp. Đức Thế Tôn đương chờ Ngài đấy.Ngài nên mau về,chớ để chúng tôi phảI chướng ngạI sự nghe pháp”.
Ngài ĐạI Ca Diếp bảo Ngài ĐạI Mục Kiền Liên rằng : “ Ngài về trước ,tôi sẽ đến sau”.
Nói xong, Ngài ĐạI Ca Diếp chẳng đứng dậy,hiện thần thông lực vào thành Vương Xá dẫn đạo bốn bộ chúng cùng theo Ngài đến núi Linh Thứu đảnh lể chưn đức Phật rồI ngồI gần bên đức Phật.
Ngài ĐạI Mục Kiền Liên dùng thần thông lực về đến chỗ đức Phật đã thấy Ngài ĐạI Ca Diếp đã ngồI ở đó rồI liền thưa rằng : “ Thưa Ngài ĐạI Ca Diếp! Tôn giả đã thành tựu đạI thần thông lực rất mau chóng,có thể chẳng cần đứng dậy rờI chỗ ngồI mà hiện thần thông biến hóa như vậy”.
Ngài ĐạI Ca Diếp nói : “Đức Thế Tôn khen Ngài là thần thông đệ nhứt,nay tôi hiện chút pháp mọn có gì đáng kể”.
PHẨM THÍ NGHIỆM BỒ TÁT
Lúc bấy giờ Ngài Xá LợI Phất đứng dậy trịch y uất đa la tăng vai hữu ,gốI hữu chấm đất chắp tay cung kính bạch rằng :” Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi có chút việc để hỏi.Mong đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xót thương hứa khả vì tôi mà giảI thuyết”.
Đức Phật phán :” Cho phép ông hỏI .Nay đức Như Lai sẽ giảI thuyết khiến lòng vui mừng”.
Ngài Xá LợI Phất thưa:” Bạch đức Thế Tôn! ĐạI Bồ Tát thành tựu mấy pháp mà thân ngiệp không lỗI, ngữ nghiệp không lỗI, ý nghiệp không lỗi.Thành tựu mấy pháp mà thân nghiê(p
thanh tịnh,ngữ nghiệp thanh tịnh , ý nghiệp bất động, chẳng bị thiên ma và chúng ma quân lay chuyển.Tù lúc mớI đầu phát tâm nhứt thiết trí tu hành chánh hạnh,từng bực tăng thắng,thiện xảo phương tiện vì tất cả chúng sanh mà làm đạo sư thù thắng, đạo sự cùng khắp ,làm đuốc sáng lớn,làm cây thang lớnlàm cầu,làm thuyền,làm ngườI tế độ,làm bờ kia,làm nhà,làm ngườI cứu vớt ,làm chỗ về,làm chỗ đến,mà vẫn có thể chẳng bỏ tâm nhứt thiết trí?”.
Ngài Xá LợI Phất muốn tuyên lạI nghĩa ấy nên nói kệ bạch Phật :
“ Bồ Tát có nghĩa gì
Mà ở đạI Bồ đề
Sao gọI đức và pháp
Do đó ngộ vô thượng
LạI làm những hạnh gì
LợI ích các chúng sanh
Đã tu tập pháp gì
Thành Phật Nhơn Trung Tôn
Phục ác ma thế nào
Ở Bồ đề tối thắng
Chấn động câu chi cõi
Ngộ Vô thượng Chánh giác
Bồ Tát là nghĩa gì
Câu ấy là thế nào
Thế nào là Bồ đề
Và vô thượng Phật pháp
Thế nào đi trong đờI
LợI ích các chúng sanh
Chẳng nhiễm như hoa sen
GiảI thoát câu chi chúng
Thế nào là Thiên ,Long
Và Phi Nhơn cúng dường
Những điều tôi thưa hỏi
Xin từ bi giải thuyết”.
Đức Phật bảo Ngài Xá LợI Phất:”Lành thay,lành thay! Nay ta sẽ phân biệt giảI thuyết.
Nầy Xá LợI Phất ! ĐạI Bồ Tát thành tựu một pháp có thể nhiếp thọ những pháp của ông đã hỏI và vô lượng vô biên Phật pháp khác.
Thế nào là một pháp ?
Đó là Bồ đề tâm và tín nguyện đầy đủ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đó gọi là đại Bồ Tát thành tựu một pháp thì có thể nhiếp thọ vô biên Phật pháp ».
Ngài Xá lợi Phất thưa : » Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là tín nguyện đầy đủ.Lại do nghĩa gì mà gọi là Bồ đề tâm ? ».
Đức Phật phán : »Nầy Xá Lợi Phất ! Tín nguyện đầy đủ đó là bền chắc chẳng thể phá hoại được,là nói vững vàng chẳng thể động được.Nói chẳng động là vì không đánh mất.Vì không đánh mất thì có thể khéo an trụ.Vì khéo an trụ nên chẳng thối chuyển.Vì chẳng thối chuyển nên quan sát chúng sanh.Vì quan sát chúng sanh nên đại bi nẩy nở.Vì đại bi nẩy nở nên chẳng mỏi mệt.Vì chẳng mỏi mệt nên thành thục chúng sanh.Vì thành thục chúng sanh nên biết tự vui. Vì biết tự vui nên không hi vọng. Vì không hi vọng nên chẳng nhiễm trước đồ dùng. Vì chẳng nhiễm trước nên làm chỗ dựa cho chúng sanh .Vì làm chỗ dựa cho chúng sanh nên săn
sóc các chúng sanh hạ liệt. Vì săn sóc chúng sanh hạ liệt nên làm người cứu tế.Vì làm người cứu tế nên làm chổ về đến.Vì làm chổ về đến nên chẳng vội gấp. Ví chẳng vội gấp nên khéo quan sát. Vì khéo quan sát nên không oán ghét. Vì
không oán ghét nên khéo điều nhiếp tín nguyện. Vì khéo điếu nhiếp tín nguyện nên không chỗ để còn. Vì không chổ để còn nên khéo thanh tịnh. Vì khéo thanh tịnh nên trắng láng tốt .Vì trắng láng tốt nên rời cấu uế nơi trong.Vì rời cấu nơi trong nên khéo thanh tịnh nơi ngoài.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bền chắc khó phá hoại nhẫn đến trong thì rời cấu uế ngoài thì khéo thanh tịnh như vậy , đó gọi là tín nguyện đầy đủ.
Lại nầy Xá lợi Phất ! Bồ đề tâm có tướng gì mạo gì ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ đề tâm đó không có lỗi lầm vì chẳng bị tất cả phiền não làm ô nhiễm. Bồ đề tâm ấy nối nhau chẳng tuyệt vì chẳng chứng quả trong các thừa khác. Bồ đề tâm ấy bến chắc khó động chuyển vì chẳng bị dị luận nó lôi kéo lấn đoạt. Bồ đề tâm ấy chẳng thể phá hoại vì Thiên ma chẳng khuynh đảo được . Bồ đề tâm ấy thường hằng chẳng biến đổi vì là chỗ chứa họp tư lương căn lành. Bồ đề tâm ấy chẳng lay động được vì quyết có thể độc chứng các Phật pháp. Bồ đề tâm ấy khéo an trụ vì khéo an trụ nơi bực Bồ Tát.
Bồ đề tâm ấy chẳng gián đoạn vì chẳng bị các pháp khác đối trị. Bồ đề tâm ấy như kim cương vì khéo có thể xuyên suốt Phật pháp sâu xa. Bồ đề tâm ấy thắng thiện bình đẳng vì đối với các thứ dục giải của chúng sanh không gì chẳng đồng đều. Bồ đề tâm ấy tối thắng thanh tịnh vì tánh nó chẳng ô nhiễm. Bồ đề tâm ấy không có trần cấu vì phát sanh trí huệ sáng. Bồ đề tâm ấy rộng rãi vô ngại vì gồm nhận tánh tất cả chúng sanh. Bồ đề tâm ấy rộng lớn vô biên vì như hư không. Bồ đề tâm ấy không có chướng ngại vì khiến trí vô ngại đi khắp tất cả vô duyên đại bi chẳng đoạn tuyệt. Bồ đề tâm ấy đáng nên thân cận vì được hàng trí giả khen ngợi . Bồ đề tâm ấy dường như hạt giống vì có thể sanh tất cả các Phật pháp. Bồ đề tâm ấy nó hay gầy dựng vì hay gầy dựng tất cả sự hỉ lạc. Bồ đề tâm ấy phát sanh các nguyện vì do nơi giới thanh tịnh .Bồ đề tâm ấy khó xô diệt được vì do an trụ nơi nhẫn. Bồ đề tâm ấy chẳng bị chế phục vì do chánh tinh tiến. Bồ đề tâm ấy rất tột tịch tịng vì y cứ tất cả đại thiền định. Bồ đề tâm ấy không có kém thiếu vì huệ tư lương khéo viên mãn.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Bồ đề tâm ấy tức là căn bổn giới định huệ giải thoát và giải thoát tri kiến của đức Như Lai.
Bồ đề tâm ấy lại là căn bổn thập lực tứ vô úy mùười tám pháp bất cộng của đức Như Lai ».
Ngài Xá Lợi Phất thưa : « Bồ đề tâm ấy là nói vì tâm ấy dùng Bồ đề làm sanh thể nên gọi là Bồ đề tâm ».
Đức Phật phán : « Đúng vậy .Nầy Xá Lợi Phất ! Vì chư đại Bồ Tát thành tựu tín nguyện Bồ đề tâm nên gọi là Bồ đề Tát đỏa, là Quảng Đại Tát Đỏa ,là Cực Diệu Tát Đỏa , cũng gọi là thân nghiệp không lỗi , ngữ nghiệp không lỗi , ý nghiệp không lỗi ,thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, thân nghiệp vô động, ngữ nghiệp vô động, ý nghiệp vô động. Vì đại Bồ Tát có đủ các nghiệp thanh tịnh như vậy nên chẳng bị thiên ma và chúng ma quân phá rối, từ lúc ban đầu phát tâm nhứt thiết trí, tu hành chánh hạnh, từng bực tăng thắng, thiện xảo phương tiện chẳng bị tất cả thế pháp ô nhiễm, có thể vì chúng sanh mà làm đại đạo sư, thắng đạo sư, phổ đạo sư, làm đuốc sáng lớn, nấc thang lớn, làm cầu ,làm thuyền, làm người tế độ, làm bờ kia, làm nhà , làm người cứu, làm chỗ về chỗ đến.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát phát tâm nhứt thiết trí như vậy thì ma và quân ma không
khuynh động được ».
Đức Phật lại phán dạy Ngài Xá Lợi Phất : « Chư đại Bồ Tát do đủ tín nguyện thanh tịnh như vậy phát tâm Vô thượng Bồ đề xong thì nhiều lòng tin thanh tịnh,thìch thấy các bực hiền thánh, ưa nghe chánh pháp, chẳng bỏn sẻn, mở rộng lòng và tay mà bố thí lớn, vui thích sự xả bỏ và sự bố thí đồng đều. Đối với tất cả chúng sanh, lòng Bồ Tát không chướng ngại, không nhơ đục, không rối loạn, chẳng xen tạp. Đối với nghiệp nhơn và nghiệp quả báo, lòng Bồ Tát rất phụng kính không nghi ngờ không lo lắng, biết pháp thiện ác quả báo chẳng hư mlất, dầu gặp lúc nạn nguy đến tánh mạng cũng chẳng sanh khởi điều ác, chẳng sát sanh trộm cướp tà dâm vọng ngữ ly gián ngữ ác ngữ ỷ ngữ tham nhiễm sân hận và ngu si tà kiến.Vì dứt nghiệp đạo bất thiện như vậy mà Bồ Tát phụng hành mười nghiệp đạo lành . Do vì đủ lòng tin nên đối với các Sa Môn , Bà La Môn
chánh chí hạnh đủ đức giới, tâm Bồ Tát thuần thanh tịnh thành tựu pháp điều thuê(n, đầy đủ đa văn, siêng học hỏi tu chánh tác ý điều thiện tịch tịnh, gần gũi tịch diệt chẳng phát khởi tránh tụng sai trái những lời thô ác, khéo biết tín nguyện chẳng phải là chẳng khéo biết, tương ưng với thiện pháp, lìa xa ác pháp , chẳng cao ngạo bồng bột ,tánh rời lìa tháo động , tánh rời lià lời thô ác, lời nói không phù tạp , giữ chánh niệm, tâm an trụ nơi diệu định, khéo dứt gốc sanh tử chẳng trúng tên độc ,rời bỏ gánh nặng vượt khỏi nghi ngờ lo lắng và thân sanh tử đời sau. Đối với những thiện hữu tri thức như chư Phật Thế Tôn, đại Bồ Tát, Thanh Văn và Duyên
Giác,khi đã biết rõ rồi thì thân cậnkính ngưỡng thờ phụng.Lại đem pháp thí nhiếp thọ tuyên thuyết diệu pháp chỉ dạy vui mừng.Những là nếu thật hành đàn na thì được giàu có lớn, nếu thật hành thi la thì được sanh lên trời hưởng lạc , nếu thích đa văn thì được trí huẽ lớn, nếu tu thiền thì rời hệ phược. Lại mở bày nhiều thứ pháp thù thắng vi diệu thanh tịnh : đây là bố thí, đây là báo bố thí, đây là bỏn sẻn, đây là báo bỏn sẻn, đây là thi la, đây là báo thi la, đây là phạm giới, đây là báo phạm giới, đây là nhẫn nhục, đây là báo nhẫn nhục, đây là sân hận, đây là báo sân hận, đây là chánh cần, đây là báo chánh cần, đây là giải đãi, đây là báo giải đãi , đây là tịnh lự , đây là báo tịnh lự , đây là loạn tâm, đây là báo loạn tâm, đây là trí huệ, đây là báo trí huệ, đây là ác huệ, đây là báo ác huệ, đây là thân diệu hạnh, đây là báo thân diệu hạnh, đây là thân ác hạnh, đây là báo thân ác hạnh, đây là ngữ diệu hạnh, đây là báo ngữ diệu hạnh, đây là ngữ ác hạnh, đây là báo ngữ ác hạnh, đây là ý diệu hạnh, đây là báo ý diệu hạnh, đây là ý ác hạnh, đây là báo ý ác hạnh, đây là thiê(n đây là bất thiê(n, đây nên làm , đây
chẳng nên làm, đây nếu được làm rồi thì mãi mãi lợi ích an vui, đây nếu làm rồi thì mãi mãi bị khổ không lợi ích.
Nầy Xá Lợi Phất ! Vì hàng thiện hữu , hành gỉa tuyên thuyết những phápo như trên để được lợi mừng rồi, biết rõ người kham làm đại pháp khí thì liền khai thị pháp không thậm thâm vi diệu , đó là pháp không , pháp
vô tướng, pháp vô nguyện, pháp vô hành, pháp vô sanh, pháp vô khởi, pháp vô ngã ,pháp không
sát thủ, pháp không thọ mạng, pháp không chúng sanh.Lại khai thị duyên khởi thậm thâm : đó là do vì đây có nên kia có, đây sanh nên kia sanh,
vô minh làm duyên cho hành, hành làm duyên cho thức, thức làm duyên cho danh sắc, danh sắc làm duyên cho lục xứ, lục xứ làm duyên cho xúc, xúc làm
duyên cho thọ, thọ làm duyên cho ái, ái làm duyên cho thủ, thủ làm duyên cho hữu, hữu làm duyên cho sanh, sanh
làm duyên cho lão tử sầu thán ưu khổ thân tâm nhiệt não, các thứ sanh khởi khối thuần khổ to lớn như vậy.
Lại đây không nên kia không, đây diệt nên kia diệt, đó là vô minh diệt nên hành diệt , hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt ,danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt , hữu diệt nên sanh diệt,sanh diệt nên lão tử diệt nhẫn đến sầu thán ưu khổ thân tâm nhiệt não, các thứ sanh khởi khối thuần khổ to lớn diệt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lại nên diễn nói trong ấy không có một pháp nào là có thề được có mà diệt được. Tại sao ? Vì các pháp kia đều từ nhơn duyên sanh không có chủ tể không có tác giả không có thọ giả theo nhơn duyên chuyển đổi. LạI cũng không có một pháp nào lưu chuyển đổi.LạI cũng không có một pháp nào lưu chuyển xoay vần , cũng không chuyển vận theo. Chỉ do vì si vọng mà giả lập ba cõi theo phiền não khổ mà lưu chuyển, chỉ là giả đặt để.
Lúc hành gỉa như thiệt quán sát si vọng, không có một pháp nào có thể tạo ra pháp khác, trong ấy không có tác giả vì tác giả bất khả đắc, nhẫn đến không có một pháp lưu chuyển xoay vần vì lưu chuyển bất khả đắc vậy.
Nầy Xá LợI Phất ! Hành giả nếu nghe pháp thậm thâm như vậy rồI mà không nghi không lo,
khéo nhập vào tánh vô chướng ngạI của các pháp , thì hành giả nầy chẳng chấp trước nơi sắc uẩn, chẳng trước nơi thọ tưởng hành thức uẩn, chẳng trước nhãn sắc và nhãn thức, chẳng trước nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc , ý pháp và nhĩ
thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức , ý thức, vì tất cả đều bất khả đắc vậy.
LạI nầy Xá LợI Phất ! ĐạI Bồ Tát tín thọ pháp tánh không như vậy rồI thì chẳng thốI thất sự thấy Phật nghe Pháp và phụng Tăng. ĐờI đờI sanh ra nơi đâu đều chẳng rờI sự thấy Phật, nghe Pháp và phụng Tăng, mà sanh ra trước chỗ đức Phật chuyên cần tinh tiến chí cầu pháp lành. NgườI ấy an trụ chánh cần rồI chẳng luyến ở nhà vớI nam nữ quyến thuộc tôi tớ và tài sản. NgườI nầy chẳng bị dâm dục làm phiền nhiễu, ở đờI hiệntạI mau bỏ sự lạc thú của tuổI trẻ, dùng lòng tịnh tín ở trong Phật pháp mà xuất gia nhập đạo. Sau khi xuất gia được các bực thiện tri thức thầy lành bạn lành, tư duy lành , tín nguện lành. Do vì tín nguyện lành nên khéo nghe học chánh pháp kiên quyết tu hành, chẳng phảI chỉ có ngôn thuyết là trọn đủ. NgườI nầy giác huệ thành tựu ưa thích học hỏI nhiều không chán đủ. Dùng tâm vô nhiễm đem pháp đã được nghe mà giảng nói cho người. ĐốI vớI lợI dưỡng danh dự cung kính không có lòng hi vọng. Chẳng bao giờ bỏ chánh nghĩa mà vọng thuyết pháp. Đúng nhê pháp đã nghe , đúng như pháp đã an trụ mà giảng thuyết . ĐốI vớI chúng nghe pháp thì sanh lòng đạI từ . ĐốI vớI chúng sanh thì sanh lòng đạI bi.
Nầy Xá LợI Phất ! Hành giả vì có đa văn trí huệ như vậy nên chẳng đoái thân mạng thiểu dục tri túc tịnh thơ thớI, dễ cung cấp dễ nuôi, thường thích vắng lặng rảnh rang suy gẫm ý nghĩa chánh pháp đã được học. Y theo thiệt nghĩa mà chẳng theo văn. NgườI nầy làm chỗ y chỉ cho TrờI, NgườI , A Tu La v.v… Chẳng chuyên vì mình mà vì các chúng sanh cầu đại thừa như là Phật trí , vô đẳng trí, vô đẳng đẳng trí, thắng xuất Tam giới trí.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ta nói người ấy được pháp chẳng phóng dật đệ nhứt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là pháp chẳng phóng dật ? Đó là các căn tịch tịnh.
Những gì là các căn tịch tịnh ? Đó là mắt thấy sắc chẳng lấy tướng mạo ,như thiệt biết rõ sắc say đắm , sắc họa hoạn và sắc xuất ly.
Như vậy ,tai nghe tiếng , mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân giác xúc, ý biết pháp chẳng lấy tướng mạo , như thiệt biết rọ pháp say đắm pháp họa hoạn và pháp xuất ly.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đó gọi là tâm chẳng phóng dật.
Lại chẳng phóng dật là điều phục tự tâm khéo hộ tâm người trừ lòng thích phiền não mà thích chánh pháp. Chẳng mống khởi quan niệm tham dục sân hận tàn hại. Chẳng phát khởi ba căn bất thiện , tham sân và si. Chẳng phát khởi thân ác hạnh, ngữ ác hạnh và ý ác hạnh. Chẳng phát khởi tác ý chẳng đúng lý . Chẳng phát khởi tất cả pháp ác bất thiện. Đây thì gọi là chẳng phóng dật vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát ấy đã chẳng phóng dật , siêng tu tập tác ý đúng pháp , nếu pháp là có thì biết có đúng thiệt. Nếu pháp là không có thì biết đúng thiệt là không có. Quán sát
trong ấy những gì là có , những gì là không có, liền dùng sức trí huệ liền biết đúng thiệt.
Nếu chánh tu tập thì thánh giải thoát có. Nếu tà tu tập thì thánh giải thoát không có.
Không nghiệp báo đó, đây là có.
Có nghiệp báo đó, đây là không có.
Lại nữa , nhãn là có, còn có nhãn là không có . Nhẫn đến ý là có , còn có ý là
không có.
Lại nữa , sắc là pháp vô thường khổ biến dị, đây là có. Còn sắc là thường trụ chẳng biến chẳng hoại, đây là không có.
Nhẫn đến thọ tưỡng hành và thức vô thường khổ biến dị , đây là có. Còn thọ tưởng hành và thức thường trụ chẳng biến chẳng hoại n đây là không có.
Lại nữa ,vô minh là duyên thì có các hành .Nếu không vô minh thì các
hành là không có.
Nhẫn đến dùng sanh làm duyên thì có lão tử. Nếu không sanh thì lão tử là không có.
Lại nữa, bố thí cảm giàu có, đây là có .Còn bố thí cảm bần cùng, đây là không có.
Trì giới sanh thiên, đây là có .Còn phạm giới sanh thiên , đây là không có.
Chánh văn sanh đại trí huệ, đây là có . Các ác huệ mà hay sanh đại trí huệ, đây là không có.
Tu chánh định rời lìa hệ phược, đây là có .Tu chánh định mà bị hệ phược, đây là không có.
Lại nếu tác ý đúng lý mà có hệ phược và tác ý chẳng đúng lý mà rời hệ phược thì cả hai đều không có.
Nếu chư Bồ Tát phát khởi chánh cần thì có Bồ đề, nếu phát khởi giải đãi thì không có Bồ đề.
Nếu không kiêu mạn xuất gia thọ ký đây gọi là có, nếu kiêu mạn thì không có tịch diệt.
Lải khắp tất cả chỗ tánh không , đây là có . Khắp tất cả chỗ có ngã, sát thủ, chúng sanh , thọ mạng , trượng phu v.v… đây là không có.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu chư đại Bồ Tát thật hành chẳng phóng dật , có thể khéo tu tập ,tác ý đúng lý, người trí thế gian đồng biết là có thì thi thiết là có, người trí thế gian đồng biết là không có thì thi thiết là không có.
Nầy Xá lợi Phất ! Nếu quyết định nói có thì chẳng phải chánh liễu tri, nếu quyết định nói không có cũng gọi là chẳng phải chánh liễu tri. Tại sao ? Vì thiệt nghĩa được chư Phật Thế Tôn tuyên nói , có thể liền hiểu rõ được.
Nầy Xá LợI Phất ! Chư Phật Thế Tôn đủ sức đạI trí tổng nhiếp các pháp đặt trong bốn thứ ô đà nam.
Những gì là bốn thứ ?
Đó là tất cả hành vô thường , tất cả hành khổ , tất cả pháp vô ngã , Niết Bàn tịch diệt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả hành vô thường được diễn nói , đó là đức Như Lai vì các chúng sanh quan
niệm thường còn mà dứt trừ quan niệm thường còn của họ.
Tất cả hành khổ được diễn nói , đó là đức Như Lai vì các chúng sanh quan
niệm vui mà dứt trừ quan niệm vui của họ.
Tất cả pháp vô ngã được diễn nói , đó là đức Như Lai vì các chúng sanh quan
niệm ngã mà dứt trừ quan niệm ngã của họ.
Pháp Niết Bàn tịch diệt được diễn nói , đó là đức Như Lai vì các chúng sanh hữu sở đắc điên đảo mà dứt trừ tâm hữu sở đắc điên dảo của họ.
Nầy Xá lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát ấy nếu nghe đức Như Lai nói tất cả hành vô thường thì có thể nhập vào rốt ráo vô thường .Nếu có nghe tất cả hành khổ thì có thể phát khởi tâm chán lìa mong muốn.Nếu có nghe tất cả pháp vô ngã thì có thể tu tập pháp môn chánh định diệu giải thoát. Nếu có nghe nói tịch diệt Niết Bàn thì có thể tu tập chánh định vô tướng mà chẳng phi thời nhập vào chơn tế .
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu chư đại Bồ Tát khéo tu tập được pháp như vậy thì trọn chẳng thối thất tất cả pháp lành và mau viên mãn tất cả Phật pháp”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment