Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 85
PHÁP HỘI ƯU BA LY
THỨ HAI MƯƠI BỐN
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội. Đại Bồ Tát có năm mươi vạn người.
Bầy giờ đức Thế Tôn như Long Tượng Vương nhìn xem quan sát bảo chư đại Bồ Tát : Các thiện nam tử ! Ai có thể ở đời mạt thế hộ trì chánh pháp nhiếp thọ pháp Vô thượng Bồ đề được Như Lai tập họp từ trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng
kỳ kiếp và an trụ bí mật dùng các phương tiện để thành thục chúng sanh”.
Liền đó Di Lặc Bồ Tát rời chỗ trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể hộ trì pháp Vô thượng Bồ đề của đức Như Lai tập họp từ trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng
kỳ kiếp”.
Sư Tử Huệ Bồ Tát cũng làm lễ bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể an trụ bí mật dùng các phương tiện thành thục chúng sanh”.
Vô Tận Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể dùng quảng đại nguyện độ thoát vô tận các chúng sanh giới”.
Bạt Đà La Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các chúng sanh được nghe tên tôi đều được thành thục không ai luống công”.
Diệu Đức Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các chúng sanh chỗ nguyện cầu thanh tịnh đều được đầy đủ”.
Vô Úy Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể nhiếp thọ vô biên thế giới chúng sanh mà làm
lợi ích cho họ”.
Kim Cương Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể giải thoát chúng sanh khỏi phiền não trói buộc”.
Trí Tràng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể diệt trừ vô minh che tối cho các chúng
sanh”.
Pháp Tràng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thường làm pháp thí độ thoát chúng sanh”.
Nhựt Tràng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể dùng an lạc thành thục chúng sanh”.
Nguyệt Tràng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể dùng các công đức thành thục chúng sanh”.
Quán Tự Tại Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể ở trong các ác đạo cứu vớt chúng sanh”.
Đắc Đại Thế Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể độ các chúng sanh chưa được độ trong các ác đạo”.
Phổ Hiền Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các chúng sanh nhớ biết quá khứ đã trải qua chịu các sự khổ liền được giải thoát”.
Thiện Số Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể điều phục tất cả chúng sanh khó điều phục”.
Diệu Ý Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể độ những người ưa pháp Tiểu thừa cho họ thành thục”.
Thiện Thuận Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thành thục chúng sanh hạ liệt ít trí”.
Quang Tích Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể cứu vớt kẻ bị đọa súc sanh đạo khiến họ được giải thoát”.
Bất Tư Nghị Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thương xót thành thục chúng sanh ngạ quỷ khiến họ được giải thoát”.
Đại Oai Lực Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể vì các chúng sanh
mà đóng cửa ác đạo”.
Vô Tránh Luận Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể vì các chúng sanh
mà chỉ cho họ con đường giải thoát”.
Nguyệt Quang Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể ban cho các chúng
sanh cứu cánh an lạc”.
Nhựt Quang Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các chúng sanh kẻ chưa thuần thục được thành thục”.
Vô Cấu Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các chúng sanh có
chí nguyện gì đều được viên mãn”.
Đọan Nghi Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể độ thoát tất cả chúng sanh hạ liệt”.
Vô Khả Úy Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể nhiếp thọ các chúng sanh xưng tán lợi ích”.
Huệ Thắng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể tùy thuận các chúng sanh thắng giải khiến họ đều được thành thục”.
Quang Minh Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể hằng dùng chánh cần cứu giúp chúng sanh”.
Vô Lượng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể vì các chúng sanh nơi tất cả pháp chỉ cho họ con đường vô vi”.
Vô Sở Úy Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể đều hay thị hiện theo các thứ chí nguyện của chúng sanh”.
Bửu Thắng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể chỉ cho các chúng sanh
khối trân bửu vi diệu”.
Diệu Huệ Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các chúng sanh thấy tôi họ đều vui mừng và đều được thành thục”.
Bửu Tạng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể độ thoát chúng sanh rời lìa các chướng ngại”.
Bửu Hiền Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các chúng sanh tự biết túc mạng đều được thành thục”.
Bửu Thủ Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể đem các trân bửu ban cho chúng
sanh khiến họ đều an lạc”.
Thắng Ý Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể làm cho chúng sanh
rời lìa hẳn sự bần cùng”.
Hỉ Kiến Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể bố thí cho các chúng
sanh tất cả đồ họ ưa thích”.
Kim Cương Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khai thị chánh đạo cho các chúng sanh”.
Phước Tướng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể làm vui đẹp lòng chúng sanh
khiến họ được giải thoát”.
Pháp Siêu Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể trừ sạch cấu nhiễm mà diễn thuyết chánh pháp”.
Vô Cấu Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể yêu thương hộ trì các chúng sanh khiến họ đều thành thục”.
Pháp Hiện Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thường dùng chánh pháp độ thoát chúng sanh”.
Không Tịch Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khiến các chúng sanh diệt trừ độc phiền não”.
Nguyệt Thắng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể chỉ chỗ nơi chánh pháp cho các chúng sanh”.
Sư Tử Ý Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thường dùng pháp thí lợi ích chúng sanh”.
Đồng Tử Quang Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể từ chỗ ti hạ cứu vớt các chúng sanh”.
Giác Cát Tường Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể khai thị chánh đạo đóng kín cửa ác đạo”.
Kim Quang Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thị hiện thân tướng để thành thục chúng sanh”.
Cát Tường Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thường làm lợi ích cho các chúng
sanh”.
Trì Thế Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể vì các chúng sanh
mà đóng cửa địa ngục”.
Cam Lộ Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể làm cho các chúng
sanh vượt khỏi sanh tử”.
Võng Minh Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể đời mạt thế sau vì các chúng
sanh mà thị hiện quang minh diệt trừ phiền não”.
Tôn Giả Xá Lợi Phất nghe chư Bồ Tát dũng mãnh phát hoằng thệ thành thục chúng sanh như vậy, khen chưa từng có, bạch đức Phật rằng : “Đấng Thế Tôn hi hữu !
Chư đại Bồ Tát nầy bất tư nghị có đủ đại bi phương tiện thiện xảo dũng mãnh tinh tấn để tự trang nghiêm.
Tất cả chúng sanh không
ai lường được, không ai ngăn trở được, không gì che chướng ánh sáng các Ngài được.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi phải ca ngợi sự chưa từng có của chư đại Bồ Tát để cầu xin tất cả tài vật trong thân ngoài
thân mà tâm họ không khiếp nhược, nên biết người ấy là Bồ Tát an trụ bất tư nghị giải thoát vậy”.
Đức Phật phán : “Nầy Xá Lợi Phất ! Đúng như lời ông nói. Trí huệ phương tiện cảnh giới tam muội của chư đại Bồ Tát ấy, tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết được.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát ấy hay hiện được thần thông biến hóa của Phật, làm đầy đủ chỗ muốn cầu của tất cả chúng sanh, mà ở nơi các pháp, tâm các ngài không xao động.
Nếu có chúng sanh
thích làm cư sĩ kiêu mạn phóng dật, vì thành thục họ, đại Bồ Tát hiện thân đại cư sĩ oai đức để thuyết pháp giáo hóa họ.
Nếu có chúng sanh cậy thế lực lớn mà tự kiêu mạn, vì điều phục họ, đại Bồ Tát hiện thân Na la diên đại lực để giáo hóa họ.
Nếu có chúng sanh chí
cầu Niết bàn, vì độ thoát họ, Bồ Tát hiện thân Thanh Văn mà giáo hóa.
Nếu có chúng sanh
thích quán duyên khởi, vì độ thoát họ, Bồ Tát hiện thân Duyên Giác mà giáo hóa.
Nếu có chúng sanh chí
cầu Bồ đề, vì độ thoát họ, Bồ Tát hiện thân Phật khiến họ nhập Phật trí.
Như vậy, nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát ấy dùng những phương tiện thành thục chúng sanh đều khiến an trụ trong Phật pháp. Tại sao, vì chỉ có Như Lai trí huệ giải thoát cứu cánh Niết bàn, không còn thừa nào khác mà được độ thoát, vì lẽ ấy mà gọi là Như Lai. Vì như thiệt giác liễu như nên gọi là Như Lai. Vì biết rõ các chúng sanh nhiều thứ nguyện cầu đều hay thị hiện nên gọi là Như Lai. Vì thành tựu tất cả căn bổn thiện pháp dứt trừ tất cả căn bổn bất thiện nên gọi là Như Lai. Vì hay khai thị con đường giải thoát cho chúng sanh nên gọi là Như Lai.
Vì hay khiến chúng sanh an trụ trong chánh đạo mà xa rời tà đạo nên gọi là Như Lai. Vì diễn thuyết nghĩa như thiệt không của các pháp nên gọi là Như Lai.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát biết các thứ chí nguyện của chúng sanh như vậy rồi theo chỗ đáng nên mà thuyết pháp cho họ được giải thoát, vì hàng
ngu phu khai thị thiện trí, chẳng động pháp giới mà hay hiện các thứ trang nghiêm khiến các chúng sanh thứ đệ sẽ được đến bờ Niết bàn.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát tại gia an trụ tâm từ mẫn chẳng tổn hại nên tu hai thứ bố thí : một là pháp thí, hai
là tài thí. Bồ Tát xuất gia nên tu bốn thứ bố thí : một là bút thí, hai là mặc thí, ba là kinh bổn thí, bốn là thuyết pháp thí. Vô sanh pháp nhẫn Bồ Tát nên an trụ ba thứ bố thí : một là bố thí ngôi vua, hai là bố thí vợ con, ba là bố thí đầu mình tay chưn, bố thí như vậy gọi là đại thí, là cực diệu thí”.
Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Chư Bồ Tát ấy ở nơi tham sân si chẳng e sợ chăng”?
Đức Phật phán : “Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả Bồ Tát có hai điều phạm giới : một là tương ưng với sân mà phạm, hai là tương ưng với si mà phạm, đây gọi là đại phá giới. Còn tương ưng với tham mà phạm thì lỗi vi tế khó bỏ rời, tương ưng với sân mà phạm thì lỗi thô trọng dễ bỏ rời, tương ưng với si mà phạm thì lỗi rất nặng càng khó bỏ rời. Tại sao, vì tham kiết hay làm chủng tử các cõi, sanh tử dây dưa nối nhau chẳng tuyệt, vì lẽ ấy nên vi tế khó dứt. Nhơn sân mà phạm thì đọa ác đạo có thể trừ được mau. Nhơn si mà phạm bị đọa trong tám đại địa ngục khó thoát được.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có Bồ Tát phạm Ba la di thì nên
đối trước mười vị Tỳ Kheo thanh tịnh rồi dùng tâm chất trực mà ân trọng sám hối. Phạm Tăng tàn thì đối trước năm Tỳ Kheo mà ân
trọng sám hối. Nếu bị nữ nhơn nhiễm tâm đụng chạm và nhơn nhìn nhau mà sanh ái luyến thì đối trước một hai Tỳ Kheo thanh tịnh mà ân trọng sám hối.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có Bồ Tát phạm ngũ nghịch, phạm ba la di, phạm tăng tàn, phạm Tháp, phạm Tăng và những tội khác thì nên đối trước ba mươi lăm Phật mà ân trọng sám hối. Nên tự xưng rằng :
Tôi tên là … quy y Phật, quy y Pháp, quy
y Tăng.
Nam mô Thích Ca Mưu Ni Phật.
Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật.
Nam mô Bửu Quang Phật.
Nam mô Long Tôn Vương Phật.
Nam mô Tinh Tấn Quân Phật.
Nam mô Tinh Tấn Hỉ Phật.
Nam mô Bửu Hỏa Phật.
Nam mô Bửu Nguyệt Quang Phật.
Nam mô Hiện Vô Ngu Phật.
Nam mô Bửu Nguyệt Phật.
Nam mô Vô Cấu Phật.
Nam mô Ly Cấu Phật.
Nam mô Dũng Thí Phật.
Nam mô Thanh Tịnh Phật.
Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật.
Nam mô Ta Lưu Na Phật.
Nam mô Thủy Thiên Phật.
Nam mô Kiên Đức Phật.
Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật.
Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật.
Nam mô Quang Đức Phật.
Nam mô Vô Ưu Đức Phật.
Nam mô Na La Diên Phật.
Nam mô Công Đức Hoa Phật.
Nam mô Liên Hoa Quang Du
Hí Thần Thông Phật.
Nam mô Tài Công Đức Phật.
Nam mô Đức Niệm Phật.
Nam mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật.
Nam mô Hồng Viêm Đế TràngVương Phật.
Nam mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật.
Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật.
Nam mô Thiện Du Bộ Phật.
Nam mô Châu Tráp Trang
Nghiêm Công Đức Phật.
Nam mô Bửu Hoa Du Bộ Phật.
Nam mô Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật
Tất cả thế giới chư Phật Thế Tôn hi hữu như vậy thường tại ở đời. Chư Thế Tôn ấy nên thương nhớ tôi. Hoặc tôi ở đời nầy hoặc tôi ở đời trước từ đời vô thỉ sanh tử đến nay đã tạo những tội : hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, thấy làm tùy hỉ ; hoặc vật của tháp, hoặc vật của Tăng, vật tứ phương Tăng, hoặc tự mình lấy; hoặc bảo người lấy, thấy lấy tùy hỉ; năm tội vô gián hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, thấy làm tùy hỉ; những tội đã làm, hoặc có che giấu, đáng đọa địa ngục, ngạ quỉ súc sanh, các ác đạo khác biên địa hạ tiện và kẻ ác kiến, bao nhiêu những tội đã làm như vậy nay đều sám hối.
Nay chư Thế Tôn nên chứng biết tôi nên ghi nhớ tôi, tôi lại ở trước chư Phật Thế Tôn bạch lời như vầy : Hoặc tôi ở đời này hoặc tôi ở đời khác từng làm bố thí hoặc giữ tịnh giới nhẫn đến thí cho súc sanh
thiếu đói chừng một vắt cơm, hoặc tu tịnh có những thiện căn, thành tựu chúng sanh có những thiện căn, tu hành Bồ đề có những thiện căn và trí vô thượng có những thiện căn, tất cả hội họp so đếm tính lường thảy đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề, như chư Thế Tôn quá khứ vị lai và Phật hiện tại hồi hướng như vậy.
Các tội đều sám hối
Các phước đều tùy hỉ
Và công đức chư Phật
Nguyện thành trí vô thượng
Khứ lai hiện tại Phật
Tối thắng trong chúng sanh
Biển vô lượng công đức
Nay tôi quy mạng lễ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát nên quán tưởng ba mươi lăm đức Phật ấy làm thượng thủ, lại nên đảnh lễ tất cả Như Lai, phải làm pháp sám hối thanh tịnh như vậy. Bồ Tát nếu diệt trừ được tội chướng ấy thì chư Phật liền hiện thân cho thấy, vì để độ tất cả chúng sanh nên thị hiện các thứ tướng như vậy mà ở nơi pháp giới cũng chẳng di động, tùy theo các thứ ưa thích của tất cả chúng sanh đều làm viên mãn, đều được giải thoát.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Nếu Bồ Tát nhập đại bi tam muội thì có thể thị hiện địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, để thành thục chúng sanh.
Nếu Bồ Tát nhập đại trang nghiêm tam
muội thì có thể hiện thân Trưởng giả để thành thục chúng sanh.
Nếu Bồ Tát nhập thù thắng tam muội thì có thể thị hiện thân Chuyển Luân Vương để thành thục chúng sanh.
Nếu Bồ Tát nhập xí nhiên oai
quang tam muội thì có thể thị hiện Đế Thích, Phạm Vương sắc thân thù diệu để thành thục chúng sanh.
Nếu Bồ Tát nhập nhứt hướng tam muội thì có thể thị hiện thân Thanh Văn để thành thục chúng sanh.
Nếu Bồ Tát nhập thanh tịnh tam muội thì có thể thị hiện thân Bích Chi Phật để thành thục chúng sanh.
Nếu Bồ Tát nhập tịch tĩnh tam muội thì có thể thị hiện sắc thân chư Phật để thành thục chúng sanh.
Bồ Tát nhập tất cả pháp tự tam muội như vậy tùy chí nguyện của mình mà hiện các thứ sắc thân để thành thục chúng sanh, mà ở nơi pháp giới cũng không di động.
Tại sao, vì Bồ Tát tùy thuận chúng sanh mà thị hiện nhiều thứ để thành thục họ, nhưng Bồ Tát chẳng thấy tướng sắc thân cũng chẳng thấy tướng chúng sanh, do vì vô sở đắc vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ý ông nghĩ sao,
như lúc đại sư tử vương gầm rống thì các dã can
nhỏ kia có làm được như vậy chăng ?
-Bạch đức Thế Tôn ! Không làm được.
-Nầy Xá Lợi Phất ! Như chỗ mang nặng của đại hương tượng, con lừa kia có mang nổi chăng ?
-Bạch đức Thế Tôn ! Không mang nổi.
-Nầy Xá Lợi Phất ! Như oai đức tự tại của Đế Thích và Phạm Vương, ngưòi bần tiện kia có được chăng ?
-Bạch đức Thế Tôn ! Không có được.
-Nầy Xá Lợi Phất ! Như đại lực kim sí điểu vương bay liệng vận động các chim nhỏ kia có bay như vậy được chăng ?
-Bạch đức Thế Tôn ! Không bay như vậy được.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát ấy có những sức lực thiện căn dũng mãnh y nơi trí xuất ly dứt các tội cấu xa rời ưu hối được thấy chư Phật và được các tam muội cũng như vậy.
Các tội chướng như vậy chẳng phải hàng phàm phu
Thanh Văn và Duyên Giác mà dứt trừ được.
Bồ Tát nếu hay xưng danh chư Phật ấy ngày đêm thường hành ba thứ pháp trên thì dứt các tội rời ưu hối được thấy chư Phật và chứng các tam muội”.
Bấy giờ Tôn giả Ưu Ba Ly từ thiền định dậy đến chỗ Phật đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng đứng qua một bên bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi ở chỗ vắng ngồi một mình suy nghĩ rằng đức Thế Tôn nơi giới học thanh tịnh Ba la đề mộc xoa vì hàng tam thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát mà bảo rằng : thà mất mạng chớ chẳng bỏ giới.
Bạch đức Thế Tôn ! Hoặc lúc Phật tại thế hoặc lúc Phật diệt độ rồi, thế nào gọi là Thanh Văn,
Duyên Giác Ba la đề mộc xoa, thế nào gọi là Bồ Tát thừa Ba la đề mộc xoa ?
Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phật nói trong những người trì luật tôi là đệ nhứt. Tôi sẽ làm sao hiểu được nghĩa Tỳ ni thiện xảo. Tôi từ bên Phật nghe dạy thọ trì đến vô sở úy rồi sau đó mới có thể rộng nói lại cho người. Nay chư Bồ Tát đến hội họp và Tỳ Kheo Tăng
cũng đã vân tập. Mong đức Như Lai nói rộng quyết định tì ni dứt trừ nghi hối”.
Đức Phật phán : “Nầy Ưu Ba Ly ! Nay ông biết hàng Thanh Văn và
chư Bồ Tát học giới thanh tịnh chỗ phát tâm chỗ tu hành khác nhau.
Nầy Ưu Ba Ly ! Có Thanh Văn thừa trì thanh tịnh giới mà ở nơi Bồ Tát thừa gọi là phá giới. Có Bồ Tát thừa trì thanh tịnh giới mà ở nơi Thanh Văn thừa gọi là phá giới.
Thế nào là người Thanh Văn thừa trì thanh tịnh giới mà ở nơi Bồ Tát thừa gọi là phá giới ?
Nầy Ưu Ba Ly ! Người Thanh Văn thừa cho đến chẳng nên phát khởi một niệm còn thọ thân sau, đây gọi là Thanh Văn trì
thanh tịnh giới, nhưng ở nơi Bồ Tát thì gọi là đại phá giới.
Thế nào là người Bồ Tát thừa trì thanh tịnh giới mà ở nơi Thanh Văn thừa gọi là phá giới ?
Nầy Ưu Ba Ly ! Đại Bồ Tát tu hành Đại thừa có thể trong vô lượng a tăng kỳ kiếp kham chịu thọ thân chẳng hề chán khổ, đây gọi là Bồ Tát trì thanh tịnh giới mà ở nơi Thanh Văn thừa gọi là đại phá giới.
Vì lẽ trên ấy mà Như Lai vì người Bồ Tát thừa nói vô tận hộ giới, vì người Thanh Văn thừa nói hộ tận giới. Như Lai vì người Bồ Tát thừa nói khai giá giới. Như Lai vì người Bồ Tát thừa nói thâm tâm giới, vì người Thanh Văn thừa nói thứ đệ giới.
Thế nào là Bồ Tát trì bất tận hộ giới và người Thanh Văn trì tận hộ giới ? Người Bồ Tát thừa dầu trì tịnh giới mà ở nơi các chúng sanh phải nên tùy thuận, còn người Thanh Văn chẳng nên tùy thuận. Thế nên Bồ Tát trì bất tận hộ giới còn người Thanh Văn trì tận hộ giới.
Thế nào gọi là Bồ Tát thừa trì khai giá giới, còn người Thanh Văn thừa trì giá giới ? Chư Bồ Tát nếu ở trong Đại thừa phát nguyện tu hành buổi sáng có chỗ phạm giới mà buổi trưa chẳng rời tâm Nhứt thiết trí thì giới thân chẳng hoại, nếu buổi trưa có chỗ phạm giới mà buổi chiều chẳng rời tâm Nhứt thiết trí thì giới thân chẳng hoại, nếu buổi chiều có chỗ phạm giới mà buổi tối chẳng rời tâm Nhứt thiết trí thì giới thân chẳng hoại, nếu buổi tối có chỗ phạm giới mà buổi khuya chẳng rời tâm Nhứt thiết trí thì giới thân chẳng hoại, nếu buổi khuya có chỗ phạm giới mà cuối đêm chẳng rời tâm Nhứt thiết trí thì giới thân chẳng hoại, nếu cuối đêm có chỗ phạm
giới mà buổi sáng chẳng rời tâm Nhứt thiết trí thì giới thân chẳng hoại, thế nên người Bồ Tát thừa trì khai giá giới, dầu có sai phạm thì chẳng nên thất niệm vọng sanh ưu hối tự não loạn tâm mình. Người Thanh Văn thừa nếu có phạm giới thì là phá hoại Thanh Văn tịnh giới, tại sao, vì người Thanh Văn trì giới dứt trừ phiền não như chữa đầu cháy, bao nhiêu chí nguyện chỉ cầu Niết bàn, do đó nên gọi Thanh Văn thừa trì duy giá giới.
Lại nầy Ưu Ba Ly ! Thế nào là Bồ Tát trì thâm nhập giới và người Thanh Văn thừa trì thứ đệ giới ?
Người Bồ Tát thừa trong hằng sa kiếp thọ ngũ dục lạc du hí tự tại chưa hề bỏ rời tâm Bồ đề, Bồ Tát như vậy chẳng gọi là mất giới. Tại sao, vì Bồ Tát khéo giữ gìn an trụ tâm Bồ đề, cho đến trong mộng tất cả kiết sử chẳng làm khổ hại được bao nhiêu phiền não lần lần sẽ hết, chẳng nên một đời bèn hết kiết sử. Người Thanh Văn thừa thành thục thiện căn như chữa đầu cháy, cho đến chẳng ưa thọ sanh dầu chỉ một niệm. Vì thế nên người đại thừa trì thâm nhập giới nói có khai giá gọi là bất tận hộ. Người Thanh Văn thừa trì thứ đệ giới nói duy giá gọi là tận hộ.
Nầy Ưu Ba Ly ! Người cầu Đại thừa nơi Vô thượng Bồ đề rất là khó được, có đủ đại trang nghiêm mới thành tựu được. Thế nên Đại Bồ Tát dầu vô lượng a tăng kỳ kiếp qua lại sanh tử mà trọn chẳng có lòng chán lìa. Vì lẽ ấy nên Như Lai quan sát vì người Đại thừa chẳng nên một mặt nói pháp yểm ly, chẳng nên một mặt nói pháp mau chứng Niết bàn, mà phải nên nói pháp vô nhiễm vi diệu thậm thâm tương ưng với từ và hỉ, pháp không buộc chấp xa rời ưu hối, pháp tánh không
vô chướng vô ngại, Bồ Tát được nghe rồi ở trong sanh tử không có lòng chán mỏi mà quyết định viên mãn Vô thượng Bồ đề”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát tham tâm tương ưng mà phạm giới, hoặc có Bồ Tát sân tâm tương ưng mà phạm giới, hoặc có Bồ Tát si tâm tương ưng mà phạm giới, trong ba thứ phạm ấy người nào nặng hơn?”
Đức Phật dạy : “Nầy Ưu Ba Ly ! Nếu Bồ Tát tu hành đại thừa trong hằng sa kiếp mà tham tâm tương ưng phạm giới tội nầy còn nhẹ, nếu một niệm sân tâm phạm giới thì tội rất nặng, tại sao, vì tham tâm phạm giới thì nhiếp thọ chúng sanh, còn sân tâm phạm giới thì vứt bỏ chúng sanh.
Nầy Ưu Ba Ly ! Bao nhiêu kiết sử hay nhiếp thọ chúng sanh, nơi đây Bồ Tát chẳng nên có lòng e sợ.
Nầy Ưu Ba Ly ! Như đức Phật đã nói : tham dục khó bỏ vì lỗi ấy vi tế, sân hận dễ bỏ vì lỗi này thô nặng, si khó bỏ rời, lỗi thô nặng hơn.
Nầy Ưu Ba Ly ! Ở trong phiền não, nếu là tội phạm vi tế khó xả ly, chư Bồ Tát phải nên kham nhẫn. Nếu là tội phạm lớn nặng dễ xả ly, phiền não nầy dầu là trong mộng, Bồ Tát chẳng nên nhẫn thọ. Vì lẽ ấy nên người Đại thừa nhơn tham mà phạm giới, Phật nói người nầy chẳng gọi là phạm, nên nhơn sân mà phạm là đại phạm giới là tội lỗi lớn, là đọa lạc lớn, rất chướng nạn đối với Phật pháp.
Nầy Ưu Ba Ly ! Nếu chư Bồ Tát ở trong Tỳ ni mà
không thiện phương tiện, nhơn tham phạm giới thì còn sợ nhơn sân phạm giới lại không sợ. Nếu chư Bồ Tát ở trong Tỳ ni có thiện phương tiện, nhơn tham phạm thì không sợ còn nhơn sân phạm thì rất sợ”.
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả các pháp cứu cánh Tỳ ni điều phục chỗ nào ?
Đức Phật nói : “Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Nếu hàng phàm phu biết rõ các pháp cứu cánh Tỳ ni thì đức Như Lai trọn chẳng nói về điều phục, vì họ chẳng biết nên đức Như Lai vì họ lần lượt nói các pháp Tỳ
ni để họ rõ biết các pháp cứu cánh Tỳ ni”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Đức Như Lai đã nói quyết định Tỳ ni nầy. Ngài Văn Thù Sư Lợi ở trong pháp nầy còn chưa nói. Lành nay,
xin đức Như Lai bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi vì chúng tôi mà nói một ít”.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Nay ông nên nói
nghĩa cứu cánh Tỳ ni thiện xảo. Ông Ưu Ba Ly đây muốn được nghe”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với Tôn giả Ưu Ba Ly: “Tất cả các pháp cứu cánh tịch diệt nên gọi là cứu cánh Tỳ ni. Tất cả các pháp vô ngã vì
không nhiễm trước nên gọi là bất hối Tỳ ni. Tất cả các pháp bổn tánh thanh tịnh vì không điên đảo nên gọi là tối thắng Tỳ ni. Tất cả các pháp như thiệt tế vì rời các kiến chấp nên gọi là thanh tịnh Tỳ ni. Tất cả các pháp bất lai bất khứ vì vô phân biệt nên gọi là bất tư nghị Tỳ ni. Tất cả các pháp vô trụ vô trước vì niệm niệm diệt nên gọi là tịnh chư đạo Tỳ ni. Tất cả các pháp trụ hư không tế vì lìa các tướng nên gọi là tự tánh viễn ly Tỳ ni. Tất cả các pháp không khứ lai kim vì bất khả đắc nên gọi là tam thế bình đẳng Tỳ ni. Tất cả các pháp chẳng an lập được vì tâm bình đẳng nên gọi là vĩnh đoạn nghi hoặc Tỳ ni.
Nầy Tôn giả Ưu Ba Ly ! Đây gọi là pháp giới cứu cánh Tỳ ni. Chư Phật y nơi đây mà thành đạo.
Nầy thiện nam tử ở trong pháp ấy mà không khéo
quán sát thì là xa rời Như Lai tịnh giới vậy”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói nghĩa tất cả pháp bất tư nghị”.
Đức Phật phán : “Nầy Ưu Ba Ly ! Pháp của Văn Thù Sư Lợi nói là y nơi nghĩa bất tư nghị vô ngại giải thoát. Vì thế nên phàm chỗ thuyết pháp rời lìa tâm tướng thì gọi là tâm giải thoát. Vì làm cho người tăng thượng mạn được rời lìa tăng thượng mạn vậy”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là người tăng thượng mạn trong Thanh Văn thừa và Bồ Tát thừa ?”
Đức Phật dạy : “Nầy Ưu Ba Ly ! Nếu có Tỳ Kheo suy nghĩ rằng : Tôi dứt tham dục thì gọi là tăng thượng mạn, tôi dứt sân hận dứt ngu si thì gọi là tăng thượng mạn, pháp tham dục khác pháp chư Phật khác thì gọi là tăng thượng mạn, pháp sân hận khác pháp chư Phật khác thì gọi là tăng thượng mạn, pháp ngu si khác pháp chư Phật khác thì gọi là tăng thượng mạn, rằng có sở đắc là tăng thượng mạn, rằng có sở chứng là tăng thượng mạn, rằng có giải thoát là tăng thượng mạn, thấy các pháp không là
tăng thượng mạn, thấy vô tướng là tăng thượng mạn, thấy vô nguyện là tăng thượng mạn, thấy vô sanh là tăng thượng mạn, thấy vô tác là tăng thượng mạn, thấy có các pháp là tăng thượng mạn, thấy pháp vô thường là tăng thượng mạn, rằng các pháp không
nào cần tu tập là tăng thượng mạn, đây gọi là người Thanh Văn thừa tăng thượng mạn.
Nếu chư Bồ Tát suy nghĩ rằng : Tôi nên phải phát tâm cầu Nhứt thiết trí là tăng thượng mạn, tôi nên tu hành
sáu Ba la mật là tăng thượng mạn, rằng chỉ y Bát Nhã Ba la mật mà được giải thoát không còn pháp nào khác mà được xuất ly là tăng thượng mạn, pháp này thậm thâm pháp này chẳng phải thậm thâm là tăng thượng mạn, pháp này thanh tịnh pháp này chẳng thanh tịnh là tăng thượng mạn, đây là pháp chư Phật đây là pháp Duyên Giác, đây là pháp Thanh Văn là tăng thượng mạn, pháp này nên làm pháp này chẳng nên làm là tăng thượng mạn, đây là thâm pháp
đây chẳng phải thâm pháp là tăng thượng mạn, đây là pháp gần đây chẳng phải pháp gần là tăng thượng mạn, đây chánh đạo đây tà đạo là tăng thượng mạn, nơi Vô thượng Bồ đề tôi mau được ư tôi chẳng mau được ư là tăng thượng mạn, tất cả pháp bất tư nghị không ai biết được mà tôi có thể biết rõ là tăng thượng mạn, cho đến nơi Vô thượng Bồ đề bất tư nghị mà nóng tâm suy gẫm là đại chấp trước, đây gọi là người Bồ Tát thừa tăng thượng mạn vậy”.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là Tỳ Kheo rời lìa tăng thượng mạn ?”
Đức Phật dạy : “Nầy Ưu Ba Ly ! Nếu ở nơi tất cả pháp bất tư nghị mà không chỗ chấp trước thì gọi là cứu cánh không tăng
thượng mạn”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Tất cả hí luận từ tâm khởi
Chẳng nên phân biệt pháp phi pháp
Như vậy thấy pháp bất tư nghị
Người này ở đời thường an lạc
Phàm phu mê hoặc theo tâm chuyển
Nhiều kiếp luân hồi trong các cõi
Nếu biết pháp tánh đều vô tánh
Đây gọi chơn thiệt bất tư nghị
Nếu có Tỳ Kheo niệm chư Phật
Chẳng phải nghĩ tốt chánh niệm tốt
Nơi Phật vọng sanh tưởng phân biệt
Mà phân biệt này không chơn thiệt
Nếu có suy gẫm nơi pháp không
Phàm phu như vậy trụ tà đạo
Chỉ dùng văn tự nói nơi không
Văn tự cùng không nào có
được.
Nếu có tư duy pháp tịch tĩnh
Tâm này chẳng có vốn vô sanh
Tâm hành giác quán đều hí luận
Vô niệm gọi là thấy các pháp
Tất cả các pháp không tư niệm
Có tâm có niệm đều không cả
Nếu người ưa thích quán sát
không
Nơi vô niệm ấy chớ sanh niệm
Pháp đồng cỏ cây vô tri giác
Nếu rời nơi tâm bất khả đắc
Chúng sanh tự tánh vô sở hữu
Tất cả các pháp đều như vậy
Như nhơn ánh sáng mắt được thấy
Đêm tối không sáng thì
không thấy
Nếu mắt tự hay thấy hình sắc
Cớ gì chờ duyên mới hay thấy
Mắt thường nhơn các ánh sáng kia
Hay thấy các thứ mầu xanh đỏ
Nên biết tánh thấy nương các duyên
Vì thế biết mắt chẳng hay thấy
Dầu có nghe âm thanh
đẹp ý
Nghe xong liền mất mà không dùng
Suy tìm chỗ đi chẳng thể được
Do phân biệt sanh tướng âm thanh
Tất cả pháp chỉ lời và tiếng
Trong ấy giả đặt ra văn tự
Tiếng ấy không có pháp phi
pháp
Kẻ ngu chẳng biết vọng chấp trước
Phật vì thế gian khen bố thí
Mà bố thí vốn bất khả đắc
Trong không chỗ nói mà diễn nói
Thế nên Phật pháp bất tư nghị
Phật thường khen nói trì tịnh giới
Cũng không chúng sanh người phá giới
Tánh của phá giới như hư không
Thanh tịnh trì giới cũng như vậy
Phật nói nhẫn nhục là tối thắng
Vô kiến vô sanh là nhẫn tánh
Thiệt không chút pháp để được sân
Do đây gọi là thù thắng nhẫn
Phật nói ngày đêm thường tinh tấn
Thức ngủ luôn giác là vô thượng
Dầu trải nhiều kiếp siêng tu hành
Nhưng nơi sở tác không tăng giảm
Thiền định giải thoát và tam muội
Khai thị thế gian môn như thiệt
Pháp tánh bổn lai vô sở động
Tùy thuận giả nói các thiền định
Quan sát biết rõ gọi trí huệ
Rõ biết các pháp gọi người trí
Các pháp tự tánh vô sở hữu
Cũng không người quan sát biết rõ
Phật thường khen nói tu khổ hạnh
Ưa thích đầu đà pháp tịch tĩnh
Biết được các pháp bất khả đắc
Thì gọi người tri túc thanh tịnh
Phật nói địa ngục các sự khổ
Chết đọa trong ác đạo ghê rợn
Vô lượng chúng sanh khởi lòng nhàm
Thiệt không ác đạo qua lại được
Đao trượng mâu sóc khí cụ khổ
Do vì phân biệt mà thấy có
Vô lượng khổ sở bức thân họ
Vườn rừng các thứ hoa đẹp nở
Cung điện châu báu chói
sáng nhau
Cũng không có người là tác giả
Đều từ phân biệt vọng tâm sanh
Các pháp hư ngụy phỉnh thế gian
Phàm phu chấp trước sanh điên đảo
Dường như phân biệt những ảo hóa
Nơi đó thủ xả thẩy đều không
Phật nói phát tâm đại Bồ đề
Lợi ích thế gian rất thù thắng
Mà thiệt Bồ đề bất khả đắc
Cũng không người phát tâm Bồ đề
Tâm tánh thanh tịnh thường quang minh
Chơn thiệt không ngụy không trần nhiễm
Phàm phu phân biệt sanh tham trước
Mà phiền não kia bổn lai không
Các pháp tự tánh thường tịch tĩnh
Nào có tham dục và sân si
Chẳng thấy chỗ sanh tham ly dục
Mới gọi là thiệt được Niết bàn
Biết rõ các pháp như hư không
Thường ở thế gian vô sở úy
Tâm ấy chưa từng sanh nhiễm trước
Do đây thành tựu đại Bồ đề
Trong vô số kiếp tu các hạnh
Độ thoát vô lượng các chúng sanh
Chúng sanh tự tánh vô sở đắc
Thiệt không chúng sanh
để được độ
Ví như thế gian nhà ảo thuật
Hóa ra vô biên ngàn ức người
Rồi lại hại các hóa nhơn ấy
Nơi ảo hóa ấy không tăng tổn
Tất cả chúng sanh như ảo hóa
Cầu biên tế kia bất khả đắc
Nếu biết tánh vô biên như vậy
Người này ở đời không chán mỏi
Rõ biết các pháp như thiệt tướng
Thường đi sanh tử tức Niết bàn
Ở trong dục lạc thiệt không nhiễm
Điều phục chúng sanh nói ly
dục
Đại bi lợi ích các chúng
sanh
Mà thiệt không nhơn không thọ giả
Chẳng thấy chúng sanh mà lợi ích
Nên biết việc ấy là rất khó
Như đưa tay không dỗ trẻ thơ
Bảo là có vật cho nó mừng
Xòe tay trống rỗng không thấy gì
Nơi đây trẻ thơ lại kêu khóc
Như vậy chư Phật nan tư nghị
Thiện xảo điều phục loài chúng sanh
Biết rõ pháp tánh vô sở hữu
Giả danh an lập dậy thế gian
Dùng đại từ bi khuyên bảo rằng
Ở trong ngã pháp rất an lạc
Ngươi nên xuất gia bỏ ân ái
Sẽ được Sa Môn quả thù thắng
Họ đã xuất gia siêng tu tập
Như chỗ tu hành được Niết Bàn
Lại quán các pháp tướng như thiệt
Thiệt không các quả để được chứng
Nơi đây mới sanh lòng hi hữu
Hay thay đấng Đại Bi Đạo Sư
Hay nói pháp tương ưng như thiệt
Tất cả các pháp như hư không
An lập trăm ngàn danh cú
nghĩa
Hoặc nói tên là thiền giải thoát
Hoặc gọi căn lực hoặc Bồ đề
Mà căn lực ấy bổn vô sanh
Thiền định Bồ đề cũng chẳng có
Vô sắc vô hình chẳng lấy được
Chỉ dùng phương tiện dậy chúng sanh
Phật nói tu hành có chỗ chứng
Nên biết xa rời tất cả tướng
Nếu bảo trong ấy có sở đắc
Đây là chẳng chứng quả Sa Môn
Các pháp tự tánh vô sở hữu
Sẽ ở chỗ nào nói được chứng
Nói rằng được chứng là không được
Biết rõ như vậy mới gọi được
Chúng sanh đắc quả gọi thù thắng
Phật nói chúng sanh bổn bất sanh
Còn không chúng sanh để có được
Sao lại sẽ có người đắc quả
Ví như ruộng tốt không hột giống
Trong ruộng chẳng hề có mọc mầm
Như vậy chúng sanh bất khả đắc
Sẽ ở chỗ nào mà nói chứng
Tất cả chúng sanh tánh tịch diệt
Không có ai được căn bổ nó
Nếu hay biết rõ pháp như vậy
Người này diệt độ hẳn không thừa
Quá khứ vô số trăm ngàn Phật
Không có ai hay độ chúng sanh
Nếu chúng sanh ấy là có thiệt
Cứu cánh không thể được Niết bàn
Tất cả các pháp đều tịch diệt
Chưa từng có pháp nào được sanh
Nếu hay thấy các pháp như vậy
Người này đã xuất ly tam giới
Thế nên Phật Bồ đề vô ngại
Trong ấy cứu cánh vô sở hữu
Nếu hay biết rõ pháp như vậy
Phật gọi là người ly dục hẳn
Lúc đức Thế Tôn nói kệ ấy rồi, hai trăm Tỳ Kheo
tăng thượng mạn dứt hết các lậu tâm được giải thoát, sáu vạn Bồ Tát được vô sanh nhẫn.
Tôn giả Ưu Ba Ly bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nên gọi kinh này tên là gì ? Chúng tôi phải thọ trì thế nào”?
Đức Phật phán : “Nầy Ưu Ba Ly ! Kinh này tên là Quyết Định Tỳ Ni, cũng tên
là Tồi Diệt Tâm Thức, ông phải phụng trì như vậy”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tôn giả Ưu Ba Ly cùng chúng Tỳ Kheo, Văn Thù Sư Lợi và chư đại Bồ Tát, tất cả thế gian Trời Người, A Tu La v.v… nghe lời đức Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment