Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 141
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC
THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
Đức Phật nói: “Nay Phật cũng vì đệ tử vị lai mà chế bốn trọng ấy.
Lại nầy Đại Vương! Vương Tử bao nhiêu tuổi thì chẳng cho vào nội cung?”.
Vua nói: “Bạch Thế Tôn! Quá hai mười tuổi thì chẳng cho vào nội cung”.
Đức Phật nói: “ Ta cũng vậy! Sa Di hai mươi tuổi nhẫn đến đắc đạo chẳng cho nhập chúng”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Như quốc pháp của tôi có người phạm trọng tội thì quyết định phải chết, hoặc phải tội đánh, hoặc mắng, hoặc nhốt, hoặc trói, hoặc thâu tài vật, hoặc đuổi ra khỏi nước.
Trong pháp Phật thì thế nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đai Vương! Trong pháp Phật của ta cũng như vậy. Nếu có người sai phạm thì hoặc bắt phải làm việc nhọc một tháng hai tháng,
hoặc chẳng cùng nói chuyện, chẳng cùng ngồi chung ăn chung, hoặc chẳng ở chung, hoặc đuổi đi, hoặc ra một nước, hoặc ra bốn nước. Xứ có Phật pháp xử trị các ác Tỳ Kheo như vậy rồi, các thiện Tỳ Kheo an lạc học chánh phá nên làm
cho Phật pháp còn lâu chẳng dứt diệt.
Nầy Đại Vương! Đời vị lai nếu có đệ tử Phật giàu sang nhiều của nhiều thế lực được vua quan thân ái, tất cả đại chúng chẳng đuổi trị được thì các vua chúa
sẽ trị phạt. Nếu Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà chẳng thể trị được thì hàng tứ tánh như vậy làm dứt chủng tánh Tam bửu của Phật, hay làm tắt đuốc pháp, làm chìm thuyền pháp, cháy cạn pháp vị, cướp mắt chúng sanh. Lúc
chánh pháp Phật diệt hoại thì tâm buông bỏ.
Nầy Đại Vương! Ví như một người đoạt tất cả con mắt của mọi người thì tội ấy có nhiều chăng?”.
Vua nói: “Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn! Chẳng thể cân lường được, chẳng thể tính đếm được”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có hàng tứ tánh có thế lực lớn thấy Phật pháp diệt bỏ mà chẳng thủ hộ, người nầy mắc tội cũng như vậy.
Nầy Đại Vương! Nếu có quốc chủ trong vô lượng đời tu thí giới huệ thấy Phật pháp diệt bỏ mà chẳng thủ hộ, thì vô lượng thiện căn đã vun trồng thảy đều diệt mất. Xứ ấy sẽ có ba sự bất tường: một là gạo quí, hai là binh cách và ba là tật dịch. Tất cả thiện thần đều bỏ đi qua xứ khác, giáo lịnh nước ấy nhơn dân chẳng theo, thường bị lân quốc xâm lăng nhiễu loạn, lửa dữ ngang nổi dậy, mưa gió xấu ác, lụt lũ tăng trưởng cuốn trội nhơn dân, người thân tín trong ngoài cùng nhau mưu phản. Vua xứ ấy chẳng lâu sẽ mắc trọng bịnh, chết sanh vào địa ngục. Nếu phước lành đời trước theo đến được lại sanh trong loài
người, thì nhiều đời thường đui mù, nghèo cùng linh đinh xin ăn để sống thường sanh ác tâm, do ác tâm ấy nen lại đoạ trong địa ngục. Như vua, phu nhơn, thái tử, đại thần, chủ thành, chủ thôn, tướng soái, quận thú, tể quan cũng như vậy”.
Vua Tần Bà Sa La tai nghe lời ấy buồn khóc nghẹn ngào lau lệ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi được gặp Như Lai mà vẫn còn chưa trị nước đúng chánh pháp, huống là đời vị lai các vua chúa phóng dật chẳng thể trì giới tu hành tinh tiến, chẳng trị được ác Tỳ Kheo để hộ trì Phật pháp, chẳng thể nối thạnh chủng tánh Tam bửu. Các vua chúa như vậy mãi mãi thường đi trong ba ác đạo”.
Lúc ấy các vua, phu nhơn, thái tử, đại thần, thành chủ, thôn chủ, tướng soái, quận thú, tể quan đều bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay trong đời hiện tại, chúng tôi cần phải siêng tâm thủ hộ Phật Pháp, cũng nên cúng dường người thọ trì chánh pháp những món vật cần dùng như y phục, món ăn uống, giường nệm, thuốc men, chúng tôi phải trị ác Tỳ Kheo, nối thạnh Tam bửu”.
Đức Phật nói: “Nầy đại chúng! Nếu các người có thể kiến lập sự việc ấy, đó là cúng dường tam thế chư Phật, cũng được vô lượng bất khả tư nghị các thiện công đức”.
Đức Phật lại bảo chư Thiên rằng: “Nầy chư Thiên Tử! Hôm nay các Ngài chớ có lòng lo lắng. Nay ta vì các chánh pháp nên sẽ lập nghiêm cấm chế cho hàng đệ tử Phật ở vị lai, vì để chẳng đoạn tuyệt tánh Tam bửu, vì muốn tăng trưởng các thiện pháp, vì tăng trưởng đa văn đầy kho pháp bửu, vì lìa tất cả khổ phiền não, vì thành đạo Vô thượng Bồ đề.
Nầy chư Thiên Tử! Nay chỗ Phật nói tất cả Thanh Văn đầy đủ thành tựu được Thanh Văn thừa, tất cả Duyên Giác đầy đủ thành tựu được Duyên Giác thừa, tất cả Bồ Tát thành tựu đầy đủ ba thứ phạm hạnh được trí vô thượng.
Nầy chư Thiên Tử! Kinh nầy có thể lìa các ác chúng
sanh, hay phá hoại các pháp ác bất thiện của các chúng sanh, hay diệt thân khẩu ý ba nghiệp bất thiện, hay phá trừ tất cả các quả báo ác.
Nếu có thiện nam thiện nữ cúng dường kinh nầy thì là cúng dường thập phương chư Phật”.
Lúc bấy giờ Ta Bà thế giới tất cả chúng sanh khác miệng đồng lời nói rằng: “Lành thay lành thay, bạch đức Thế Tôn! Tôi trước chưa nghe pháp tụ lớn nầy nay được nghe đó. Tôi có
thể thọ trì thủ hộ pháp ấy, vì cớ hộ pháp tôi chẳng tiếc thân mạng. Nếu có hàng tứ chúng đệ tử Phật thọ trì pháp ấy, tôi sẽ cúng dường tuỳ chỗ cần dùng đều cung cấp cho họ. Nếu còn có người hay cúng dường những người thọ trì kinh nầy, chúng tôi cũng sẽ siêng thủ hộ người ấy, khiến nội ngoại của cải vàng ngọc chẳng bị tổn hao. Xứ nào có kinh nầy lưu bố, tôi cũng thủ hộ xứ ấy khiến không có các sự ác”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Người có thể thủ hộ chánh pháp như vậy đó là cúng dường tam thế chư Phật.
Nầy thiện nam tử! Nếu các chúng sanh có tâm hộ pháp hoặc sanh nhơn thiên được đại tự tại, nhẫn đến sanh trong loài chim thú cũng có đại lực, người nể trọng chẳng bị các sự khốn khổ.
Nầy thiện nam tử! Người hộ pháp ấy, ác chẳng hại được, lòng không sợ sệt, không ai phá hoại được, các ma phiền não chẳng được tiện lợi, quyến thuộc đông nhiều, trí huệ đầy đủ. Phàm có nói ra không bị chướng ngại, thích làm thập thiện tu tập chánh định. Cha mẹ các vua quan thấy thì cung kính,
hay thăng pháp toà chuyển chánh pháp luân, pháp đã được nghe trọn chẳng quên mất”.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ngồi trên toà sư tử phóng đại quang minh dường như nhựt nguyệt, được đại tự tại như Phạm Vương, Đế Thích, công đức cao hiển như núi Tu Di, pháp giới thậm thâm dường như đại hải. Đức Thế Tôn ở trong đại chúng diễn nói chánh pháp sơ trung hậu thiện, tự nghĩa chơn chánh, đầy đủ thanh tịnh ban tuyên phạm hạnh, vì chư Bồ Tát mà thanh tịnh pháp ấn, khiến chư Bồ Tát nghe rồi tinh cần tu tập.
Đông phương quá chín vạn hai ngàn thế giới chư Phật, có thế giới tên là Thiện Hoa, có Phật hiệu Tịnh Trụ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn tuyên nói chánh pháp để giáo hoá chúng sanh. Có một Bồ Tát tên là Bửu Kế cùng tám ngàn Bồ Tát rời thế giới ấy muốn đến cõi nầy mang theo lọng báu vi diệu muốn dâng lên Phật. Lọng báu ấy che khắp nhứt thiên Tiểu Thiên thế giới. Cũng còn mang theo hương hoa muốn cúng dường Phật. Dùng âm thanh vi diệu nói kệ tán thán Như Lai:
Nếu hàng nhơn thiên được thấy Phật
Thì tức là được lợi ích lớn
Như Lai trước thọ khổ vô lượng
Vì siêng tinh tiến được Bồ đề
Thưở trước tinh tiến được Bồ đề
Vượt hơn tất cả chư Bồ Tát
Vì khiến chúng sanh được lợi ích
Nên chuyển vô thượng chánh pháp luân
Như Lai như vậy khó được thấy
Chánh pháp Phật nói khó được nghe
Được thân loài người cũng là khó
Các căn đầy đủ cũng như vậy
Nếu các chúng sanh làm nghiệp ác
Cũng chẳng làm được ba nghiệp thiện
Nếu người muốn được đại lợi ích
Phải nên gặp thấy Thích Thế Tôn
Nếu muốn nghe học pháp vô thượng
Cùng thấy mười phương chư Bồ Tát
Đầy đủ ba mươi hai diệu tướng
Phải nên mau đến Đại Bửu Phường
Nay nếu chẳng trồng các thiện căn
Sau ắt chẳng được đại Niết bàn
Nếu muốn đầy đủ được thân người
Phải nên mau đến cõi Ta Bà
Nếu muốn phá hoại ba ác đạo
Muốn thọ nhơn thiên vi diệu lạc
Muốn được vô thượng vô tỉ lạc
Phải nên mau đến cõi Ta Bà
Y Vương nay ban vị cam lộ
Trừ diệt chúng sanh các phiền não
Như Lai Đạo Sư Đại Pháp Vương
Ngày nay nói pháp giới vô thượng.
Lúc Bửu Kế Bồ Tát nói kệ tán thán Phật, âm thanh ấy vang khắp Đại Thiên thế giới.
Tôn giả Xá Lợi Phất nghe tiếng kệ ấy bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tiếng nói kệ ấy diễn tại xứ nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Đông phương quá chín vạn hai ngàn thế giới chư Phật, có thế giới tên là Thiện Hoa, có Phật hiệu là Tịnh Trụ Như Lai, có Bồ Tát tên là Bửu Kế cùng tám ngàn Bồ Tát đều muốn đến đây. Tiếng nói kệ ấy là của Bửu Kế Bồ Tát ấy nói vang khắp Đại Thiên thế giới đồng được nghe để khuyên các chúng sanh tu tập thiện pháp”.
Bửu Kế Bồ Tát và tám ngàn Bồ Tát cùng vô lượng nhơn thiên đến chỗ Phật đầu mặt lễ lạy bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện Hoa thế giới Tịnh Trụ Như Lai kính lời thăm hỏi Thế Tôn đi đứng nhẹ nhanh khí lực an lành chăng, đại chúng có thích học chánh pháp chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Tôi từ thế giới kia đến đây để nghe Bồ Tát tịnh hạnh pháp ấn. Duy nguyên Như Lai đại từ thương xót vì tất cả đại chúng mà phân biệt giải nói. Khiên chư Bồ Tát nghe rồi tu tập, phá hoại tất cả phiền não tập khí, tu Bồ Tát hạnh biết rõ tất cả tâm chúng sanh, có
thể tu tất cả hành tướng của Bồ Tát, hay hiểu rõ được trí huệ hành, hay biết tất cả phiền não hành, hay tu pháp hành của Bồ Tát tu, hay quán sát sâu tất cả tội lỗi, thân được vô ngại, được thấy tất cả Phật”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Bửu Kế! Lắng nghe lắng nghe, nay phật sẽ nói một phần mười tịnh hạnh như vậy.
Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát có bốn hạnh, đó là Ba la mật hạnh, trợ Bồ đề hạnh, thần thông hạnh và điều phục chúng sanh hạnh.
Ba la mật hạnh là nguyện phương tiện. Trợ Bồ đề hạnh là tu tập đạo phương tiện. Thần thông hạnh là điều tâm phương tiện. Điều phục chúng sanh hạnh là Bồ đề tâm kiên cố phương tiện.
Nầy Bửu Kế! Thế nào gọi là Đàn Ba la mật? Đàn Ba la mật tức là tịnh hạnh, hay phá hoại si tâm, hay tu xả tâm, tu xả tâm rồi hay bố thí tất cả. Nếu Bồ Tát hay bố thí tất cả thì được bốn thứ vô phân biệt tâm, đó là chẳng phân biệt chúng sanh, chẳng phân biệt pháp, chẳng phân biệt tâm và chẳng phân biệt nguyện cầu.
Chẳng phân biệt chúng sanh là chẳng phân biệt kẻ đáng cho kẻ chẳng đáng cho, kẻ nầy cho nhiều kẻ kia cho ít, đây cho phần thượng đây cho phần hạ, đây kính cho kia
khinh cho, đây cho trọn kia cho một phần, đây trì giới kia phá giới, đây phước điền kia chẳng phước điền, đây được báo lớn kia chẳng báo lớn, đây chánh kiến kia tà kiến, đây hành chánh tụ kia hành tà tụ v.v…
Lúc bố thí không tâm kiêu mạn, không có tâm thượng hạ, không có tâm chướng ngại, là tâm bình đẳng, là tâm chơn chánh, bình đẳng thí giới, bình đẳng từ bi, tâm không có
phân biệt dường như hư không. Đây gọi là chẳng phân biệt chúng sanh.
Chẳng phân biệt pháp là chẳng phân biệt người học thì dạy người chẳng học thì chẳng dạy, với người học pháp thì cho vật cần dùng, trọn chẳng quán sát với kẻ phàm phu thì chẳng nên ban cho với bực Hiền Thánh thì nên ban
cho. Đây gọi là chẳng phân biệt pháp.
Chẳng phân biệt tâm là quán sát các chúng sanh tâm Bồ Tát đều bình đẳng, chẳng vì báo đáp mà bố thí, chẳng tham nội ngoại vật mà bố thí, chẳng phải vì danh mà bố thí, chẳng cầu quả báo mà bố thí, vật được mến thích đem bố thí rồi thì chẳng hối tiếc, vì nhiếp chúng sanh nên làm việc bố thí. Đây gọi là chẳng phân biệt tâm.
Chẳng phân biệt nguyện cầu là lúc bố thí chẳng vì cầu được thân Đế Thích, thân Phạm Vương, thân Ma Vương, thân Chuyển Luân Vương, thân Trưởng Giả, thân Đại Thần, lại cũng chẳng vì cầu được đại tự tại, được đại quyến thuộc, được cõi trên, cũng chẳng vì cầu Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa nhẫn đến chẳng vì cầu Vô thượng Bồ đề mà bố thí. Đây gọi là bất phân biệt nguyện vậy.
Nầy Bửu Kế! Lúc Bồ Tát tu bố thí đầy đủ thành tựu bốn sự như vậy thì được xa lìa tám bất chánh kiến, đó là ngã kiến, thường kiến, đoạn kiến, thọ mạng kiến, sĩ phu kiến, thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến. Lại còn xa lìa bốn thứ công đức hạ liệt, đó là phàm phu công đức, Thanh Văn công đức, Duyên Giác công đức và những công đức tu tập khác. Lại còn chẳng quán sát bốn tướng, đó là tướng thường, tướng lạc, tướng ngã và tướng tịnh. Lại còn hay tịnh bốn pháp, đó là tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh tâm và tịnh nguyện. Lại còn xa lìa ba chướng ngại, đó là quả báo ngại, Thanh Văn ngại và hối tâm ngại. Lại còn được xa lìa ba sự bố uý, đó là kiêu mạn uý, thượng mạn uý và ma nghiệp uý. Lại còn có đủ bốn thứ pháp ấn, chúng sanh ấn và Bồ đề không ấn. Lại còn đủ bốn thứ tinh tiến, đó là vì đầy đủ cho chúng sanh nên
tinh tiến, vì thủ hộ Phật pháp nên tinh tiến và vì tịnh Phật độ nên tinh tiến. Lại còn được đủ bốn niệm, đó là niệm Bồ đề tâm, niệm muốn thấy Phật, tâm thường niệm từ và niệm rời lìa phiền não. Còn được tịnh ba sự, đó là tịnh tự thân, tịnh tha thân và tịnh Bồ đề. Còn tịnh bốn trí, đó là tịnh giới trí, tịnh chúng sanh mãn
túc trí, tịnh nguyện trí và tịnh trợ Bồ đề trí.
Bồ Tát nếu có thể hành các pháp như vậy thì có thể tịnh được Đàn Ba la mật.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Thi Ba la mật?”.
Có một thứ tịnh, đó là Bồ Tát thương xót tất cả thế gian chúng sanh hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, lòng từ có thể phá hoại ma nghiệp điều phục các chúng sanh đầy đủ vô lượng công đức bửu tụ không có phóng dật.
Còn có hai thứ, đó là nơi các chúng sanh chẳng có ác tâm và điều phục chúng sanh khiến họ hướng đến Bồ đề.
Còn có ba thứ, đó là tịnh thân vì xa lìa tất cả ác nghiệp nơi thân vậy. Tịnh khẩu vì xa lìa tất cả ác nghiệp nơi khẩu vậy. Tịnh ý vì xa lìa tất cả tham sân và tà kiến vậy.
Còn có bốn thứ, đó là khuyên các chúng sanh khiến họ thọ trì giới cấm. Khuyên các chúng sanh khiến họ trì tịnh giới. Có thể điều các người phá giới. Thấy người trì giới thì cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.
Còn có năm thứ, đó là trì giới rồi chẳng sanh kiêu mạn. Thấy người phạm giới chẳng sanh khinh mạn. Thấy người trì giới tâm không ganh ghét. Trọn chẳng cầu Thanh Văn thưa. Chẳng niệm Bích Chi Phật thừa.
Còn có sáu thứ, đó là niệm Phật vì siêu quá giới vậy. Niệm Pháp vì siêu quá giới rồi tâm không hối. Niệm Tăng vì đầy đủ Như Lai giới vậy. Niệm giới vì chẳng cầu các quả báo trong tam giới. Niệm thí vì có thể tất cả đều thí cho. Niệm thiên vì muốn đầy đủ tất cả thiện pháp.
Còn có bảy thứ, đó là thâm tín tất cả Phật pháp. Siêng tu tinh tiến để được Phật pháp. Đủ trí để biết tất cả Phật pháp. Nghe rồi có thể nói tất cả Phật pháp. Hay cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng. Sợ các ác nghiệp hiện tại và vị lai. Có tâm tàm
quí.
Còn có tám thứ, đó là chẳng vì lợi dưỡng mà hiển dị hoặc chúng. Chẳng nói sự của mình vì rời lìa tất cả vậy. Chẳng tán thán cúng dường vì tâm tri túc vậy. Tu thánh chủng tánh vì thích thiện pháp vậy. Tu pháp đầu đà vì chẳng tiếc thân mạng vậy. Thích tịch tĩnh vì lìa nói thế sự vậy. Thâm tâm thích chánh pháp vì nhàm tam giới vậy. Chí tâm hộ pháp chẳng tiếc thân mạng.
Còn có chín thứ, đó là lìa chín ác tâm vì vượt quá chỗ ở của chín chúng sanh vậy. Niệm tịnh. Niệm tu. Tăng trưởng thiện pháp. Tâm thích tịch tĩnh. Lìa phiền não nhiệt. Trang nghiêm Xa ma tha. Siêng tu tinh tiến. Chẳng khi chúng sanh.
Còn có mười thứ, đó là tịnh thân ba nghiệp. Tịnh khẩu bốn nghiệp. Tịnh ý ba nghiệp. Xa lìa tật đố. Lìa tâm siểm khúc. Chí tâm niệm giới. Vì trì giới nên siêng tu tinh
tiến. Lời dịu dàng để điều chúng sanh. Thọ thân để chịu sự sai sử của chúng sanh. Nơi các phước điền chẳng khinh mạn.
Nầy Bửu Kế! Bồ Tát tu Thi la Ba la mật có hai thứ tịnh hạnh: Một là có tâm có tướng và trang nghiêm,
thà bỏ thân mạng trọn chẳng phá giới. Hai là vô tâm vô tướng và không có
trang nghiêm, nơi tất cả pháp tâm không chỗ thủ trước.
Còn có hai thứ: Một là thường nguyện tâm Bồ đề. Hai là chẳng quán bổn hướng Bồ đề giới tướng.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là đại Bồ Tát tịnh Sằn đề Ba la mật hạnh? Đại Bồ Tát bị mắng chẳng báo vì khẩu nghiệp tịnh vậy. Bị đánh chẳng báo vì thân nghiệp tịnh vậy. Bị sân chẳng báo vì ý nghiệp tịnh vậy.
Đại Bồ Tát dầu bị mạ nhục mà chẳng báo vì thủ hộ chúng sanh vậy. Bị các đau khổ mà chẳng báo vì thủ hộ đời sau vậy. Bị chặt tay chưn mà từ tâm chẳng sân vì thủ hộ Bồ đề vậy. Thấy có người cầu xin lòng chẳng sân hận vì tứ nhiếp pháp vậy, vì sanh tâm từ vậy, vì tăng Bồ đề đạo vậy, vì phá xan tham vậy, vì phá ma nghiệp vậy.
Đại Bồ Tát niệm Phật rồi tu nhẫn nhục thọ tất cả sự khổ để được thân Phật.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì muốn được đầy đủ mười lực vậy.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì muốn thành đại sư tử hống vậy.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì để biết tam thế không chướng ngại vậy.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục để được sức đại từ đại bi vậy.
Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục để được đầy đủ Nhứt thiết trí vậy.
Đại Bồ Tát thành tựu hai lực thì được thành tựu hai nhẫn. Đó là trí lực và tu lực. Do trí lực quán sát thân tâm
nên thành tựu nhẫn. Do tu lực nên chẳng thủ trước các pháp mà thành
nhẫn.
Còn nữa, nầy Bửu Kế! Tịnh nhẫn Bồ Tát có thể quán sát trong tất cả pháp không có chúng sanh nên tu nhẫn nhục. Vì tất cả pháp tánh nó giải thoát nên Bồ Tát quán tất cả pháp không nhẫn không sân, nơi tất cả pháp tâm không có chỗ thủ trước đây gọi là nhẫn.
Bồ Tát có hai nhẫn, đó là quán như pháp thân và quán
như pháp giới. Đại Bồ Tát nếu có thể quán hai pháp như vậy thì gọi là Bồ Tát tịnh Sằn đề Ba la mật hạnh.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Tỳ lê gia Ba la mật? Nếu đại Bồ Tát nơi các hạnh tu tập chẳng nghỉ dứt chẳng hối, nơi các thiện pháp tâm không nhàm đủ, cũng thích tu hành năm Ba la mật thường cầu trang nghiêm tất cả thiện pháp, ủng hộ chánh pháp thích
tuyên nói chánh pháp, điều phục chúng sanh lòng không thôi nghỉ, quá Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, ủng hộ tất cả chư Phật chánh pháp, tu
các khổ hạnh lòng không hối, trọn chẳng hư mất căn lành xưa trước, rộng tu đa văn lòng
không nhàm mỏi, vì chúng mà chạy lo công việc lòng chẳng buồn hối, đây gọi là tinh tiến.
Tinh tiến như vậy thế nào gọi là tịnh?
Nếu Bồ Tát có thể quán thân như tượng như bóng, quán khẩu không ngôn thuyết, quán tâm rốt ráo thanh tịnh. Dùng tận trí quán các
pháp. Dùng vô sanh trí biết các hữu đều tận. Lúc quán như vậy thì có thể trang nghiêm ba thứ tinh tiến: một là thể trang nghiêm, hai
là giác trang nghiêm và ba là phân biệt trang nghiêm.
Còn có ba thứ bất trước tinh tiến: một là chẳng trước nhãn, hai là chẳng trước sắc và ba là chẳng trước nhãn thức. Nhẫn đến chẳng trước ý pháp và ý thức cũng như vậy.
Đây gọi là chẳng thủ chẳng xả tinh tiến đầy đủ.
Siêng tinh tiến như vậy rồi, chẳng thủ bố thí chẳng xả xan tham, chẳng thủ trì giới chẳng xả huỷ giới, chẳng thủ nhẫn nhục chẳng xả sân hận, chẳng thủ tinh tiến chẳng xả giải đãi, chẳng thủ thiền định chẳng xả loạn tâm, chẳng thủ trí huệ chẳng xả ngu si, chẳng thủ thiện pháp chẳng xả ác pháp, chẳng thủ Phật đạo chẳng xả Nhị thừa. Đây gọi là hai thứ cần tinh tiến vậy. Hai tinh tiến ấy có thể thành tựu đủ Phật pháp.
Còn có hai thứ tinh tiến, đó là nội tinh tiến và ngoại tinh tiến vậy.
Đây gọi là tịnh Tỳ lê gia Ba la mật hạnh.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Thiền Ba la mật hạnh?
Nếu có đại Bồ Tát thủ các thiền chi, quán các thiền chi. Quán rồi nhập định. Đã nhập định rồi chẳng tham trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước nhãn thiền nhẫn đến ý thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước sắc thiền nhẫn đến pháp thiền. Đây gọi là thiền chẳng phải trước địa, thuỷ, hỏa, phong, không thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước nhựt, nguyệt, Thích, Phạm, Tự Tại Thiên Thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước thử bỉ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải quán thân tâm thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước thượng hạ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước tứ thủ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tướng thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải cứu cánh lậu tận thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải nhập định tụ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải được Sa Môn quả thiền.
Thiền như vậy đó chẳng phải cứu cánh hành thiền. Gọi là không điều phục thiền chẳng phải chơn không thiền. Gọi là vô tướng điều phục thiền chẳng phải chơn vô tướng thiền. Gọi là vô nguyện điều phục thiền chẳng phải chơn vô nguyện thiền. Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ thành tựu đại từ đại bi nhứt thiết không hành thiền.
Thế nào gọi là đủ nhứt thiết không?
Nếu Bồ Tát có thể chẳng quán bồ thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, phương tiện, từ bi, hỉ xả, tứ đế, Bồ đề, trí huệ, phương tiện, từ bi, hỉ xả, tứ đế, Bồ đề, trí huệ, thệ nguyện, trang nghiêm, xa ma tha, tỳ bà xá na, giải thoát, tàm quý,
đây gọi là chư Phật phương tiện tam muội thần thông vô ngại trí, nhiếp thủ thập lực, tứ vô sở uý và thập bát bất cộng pháp, chẳng bị nhị thừa nhiễm ô, đoạn các tập khí, đầy đủ vô lượng đại thần thông trí, được các chúng sanh quy y, trang nghiêm thế pháp và xuất thế pháp, hay khéo điều phục tất cả chúng sanh qua khỏi bốn dòng và biển lớn sanh tử, hay dứt tất cả hệ phược, tịnh các pháp tánh, đây gọi là tánh tịch tĩnh chẳng phải là hướng pháp tịch tĩnh, cũng lấy hướng pháp xả tánh, thấy rõ hướng pháp manh tánh,
nghe rõ hướng pháp lung tánh,
siêng điều phục hướng pháp đình trụ, tiêu diệt tịch tĩnh, điều phục xí nhiên. Đây gọi là Nhứt thiết hành không.
Nầy Bửu Kế! Ví như tam thiên Đại thiên thế giới tất cả chúng sanh đều giỏi biết hoạ. Trong ấy hoặc có kẻ giỏi đắp tô, hoặc giỏi mài cho màu, hoặc biết hoạ thân chẳng hiểu hoạ tay chưn, hoặc hiểu hoạ tay chưn mà chẳng hiểu hoạ mắt.
Có quốc vương trao chúng ấy một trương lụa mà bảo rằng: Người nào có khả năng hoạ thì đến tụ họp tại đây hoạ hình thân ta trên
trương lụa nầy. Chúng ấy đều đến tụ họp tuỳ khả năng mình mà cùng
chung làm. Có một hoạ sư vì duyên sự riêng nên không đến họp được, Chúng ấy họa xong đồng đem bức hoạ dâng cho quốc vương.
Nầy Bửu Kế! Như vậy có thể gọi là mọi người đều tụ họp tất cả chăng?”.
Bửu Kế Bồ Tát nói: “Không, bạch đức Thế Tôn!”.
Đức Phật nói: “Nầy Bửu Kế! Ta nói ví dụ ấy nghĩa của nó chưa tỏ. Vì còn một người chưa đến nên chẳng được gọi là tất cả đều họp lại làm, cũng chẳng được nói hình tượng thành tựu.
Phật pháp hành cũng như vậy. Nếu còn có một hành chẳng thành tựu thì chẳng gọi là đầy đủ Như Lai chánh pháp. Vì vậy cần phải đầy đủ các hành mới gọi là thành tựu Vô thượng Bồ đề”.
Lúc nói pháp ấy, có sáu vạn Bồ Tát nơi tất cả hành được đầy đủ không.
“Nầy Bửu Kế! Thế nào gọi là Bồ Tát tịnh Bát Nhã Ba la mật hạnh?
Đại Bồ Tát đủ mười hai huệ:
Một là biết quá khứ vô ngại, hai là biết vị lai vô ngại, ba là biết hiện tại vô ngại, bốn là biết hữu vi vô ngại, năm là biết vô vi vô ngại, sáu là biết tất cả thế tác vô ngại, bảy là biết xuất thế tác vô ngại, tám là biện tài vô ngại, chín là biết thiệt vô ngại, mười là biết thế đế vô ngại, mười một là biết đệ nhứt nghĩa vô ngại, mười hai là biết các chúng sanh lợi độn vô ngại. Đây gọi là huệ.
Huệ nầy, với khó phá thì hay phá được, với khó thấy thì hay thấy được, với khó hiểu thì hay hiểu được. Ví như kim cương không gì trở hoại được. Đây gọi là huệ xuất thế, là cứu cánh huệ, là Nhứt thiết chúng sanh chơn giải tâm huệ, khó hành khó vào,
thậm thâm khó thấy, khó tập học được, là chánh kiến chánh tụ xa lìa các kiến và tập khí, tự biết tỏ rõ, thấy biết tâm tất cả chúng sanh, là
pháp trí nghĩa trí không có tham trước, là quang minh rộng lớn không tranh không
gần, khéo biết thời tiết vượt quá thời tiết, là chánh tụ thủ hộ chánh tụ, là cứu cánh giác chánh
giác thiệt giác, xa lìa cấu uế, chẳng bị tất cả Thánh nhơn quở trách, là nhứt hành vô hành, là
tất cả chúng sanh hành, là hành không có dấu chưn, dầu rời lìa tất cả thế gian hành mà cũng chẳng xa lìa tất cả thế gian hành, dầu lìa thế giới mà chẳng rời Phật độ, dầu lìa tất cả các hành trang nghiêm mà chẳng rời xa điều phục chúng sanh, dầu rời các hành mà chẳng lìa thiện hành, dầu rời chúng sanh tâm hành nhơn duyên mà chẳng rời thấy biết tâm hành tất cả chúng sanh, dầu rời thế hành mà chẳng lìa thế pháp, dầu lìa các thân
chúng sanh mà cũng nhập vào tâm chúng sanh. Đây gọi là huệ.
Trí huệ như vậy rất là khó được.
Nếu chẳng phải thiện căn thuần thục thì trọn chẳng thể được. Người chẳng thường tu hành thiện pháp luôn thì
cũng chẳng thể được trí huệ như vậy. Người ngồi toà kim cương dưới Bồ đề thọ mới được đó. Là chơn như pháp tánh được chư Phật hộ niệm, đã qua đến bờ kia, biết tất cả pháp ban bố vị cam lộ, vì vậy nên gọi là Bát Nhã Ba la mật.
Nầy Bửu Kế! Trí huệ như vậy cứu cánh biết rõ tất cả duyên, tất cả tướng, tất cả tâm hành của tất cả chúng sanh, vì vậy nên gọi là trí huệ.
Trí huệ như vậy có hai tịch tĩnh: một là biết tướng ngại tịch tĩnh và hai là biết tướng vô ngại tịch tĩnh.
Còn có hai thứ: một là vô giác tịnh và hai là lìa các kiến tịnh.
Trí huệ như vậy, Bồ Tát thường dạo đi trong căn lợi độn của chúng sanh, trong tâm chúng sanh, trong tất cả pháp, quán các phiền não tức là trí huệ. Bồ Tát dầu trụ các cõi mà phần nhiều trụ cõi Phật. Hay khéo xem thấy thập phương thế giới, lìa tất cả cái chướng, đều là tất cả Phật pháp căn bổn, đầy đủ tất cả vô thượng Phật pháp, chẳng học các pháp chẳng rời các pháp, chẳng hoại một pháp chẳng thành một pháp.
Bồ Tát thành tựu trí huệ như vậy có thể làm công đức, hay đọc tụng hay tuyên thuyết tất cả Phật pháp, tất cả phước đức đều có thể được, đều có thể tu thành tất cả thiện pháp. Đây gọi là Bồ Tát tịnh Bát Nhã Ba la mật hạnh”.
Lúc nói pháp ấy, có hai vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn, năm trăm Tỳ Kheo
lậu tận ý giải, mười ngàn Thiên Nhơn được quả Tu Đà Hoàn.
Tất cả hàng Nhơn Thiên đồng nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu người có thể tin pháp nầy thì nên biết người ấy được chư Phật hộ niệm, huống là người có thể thọ trì đọc tụng thơ tả cúng dường!”.
Đức Phật lại bảo Bửu Kế Bồ Tát: “Nầy Bửu Kế! Thế nào là đại Bồ Tát tịnh trợ Bồ đề hạnh?
Đại Bồ Tát thân niệm xứ có hai thứ hạnh: Một là bất tịnh hạnh, hai là tịnh hạnh.
Thân bất tịnh hạnh là quán thân bất tịnh hôi dơ đầy dẫy, vô thường vô trụ nó dội phỉnh phàm phu.
Thân tịnh hạnh là tư duy như vầy: Nay ta nhơn nơi thân bất tịnh nầy mà được tịnh Phật thân, được tịnh pháp thân, được tịnh công đức thân, được thân mà tất cả chúng sanh thích thấy.
Còn nữa, nầy Bửu Kế! Bồ Tát quán thân rồi có thể tịnh hai hạnh: Một là vô thường, hai là thường.
Bồ Tát quán thân vô thường tất định sẽ chết. Quán như vậy rồi chẳng vì thân mà gây kiết sử tạo ác nghiệp, chẳng tà mạng tự sống, tu ba kiên pháp: Đó là thân kiên, mạng kiên và tài
kiên. Quán như vậy rồi, Bồ Tát có thể vì chúng sanh mà
làm cấp sử liền được xa lìa thân khẩu ý siểm khúc. Bồ Tát quán thân vô
thường được vô lượng công đức như vậy.
Thế nào là thường?
Bồ Tát quán thân vô thường rồi thì được thường thân, nhơn quán vô thường mà được công đức thân, nhơn nơi vô thường mà chẳng dứt Phật chủng, Pháp chủng và Tăng chủng.
Lại nầy Bửu Kế! Thường ấy tức là vô tận, vô tận ấy tức là vô vi, vô vi ấy là chỗ sở hành của Nhứt thiết trí, sở hành của Nhứt thiết trí ấy tức là không, vô tướng vô nguyện.
Lại thường ấy tức là hư không. Đại Bồ Tát quán tất cả pháp dường như hư không. Đây gọi là đại Bồ Tát thường hạnh.
Nầy Bửu Kế! Còn có Bồ Tát tu thân niệm xứ, quán sát thân tất cả chúng sanh rốt ráo sẽ là thân Phật Như Lai. Như Phật thân, pháp thân cũng vậy. Hai thân như vậy thân ta cũng vậy. Đây gọi là Bồ Tát quán vô lậu thân. Bấy giờ những thiện pháp mà Bồ Tát đã được hoặc nhiều hay ít tất cả đều vô lậu. Đem pháp như vậy phát nguyện hồi hướng Nhứt thiết chủng trí. Đã được vô lậu thì trọn chẳng còn khởi hữu lậu. Nói là lậu ấy có ba thứ là Dục giới lậu, Sắc, Vô Sắc giới lậu cũng gọi là hữu lậu và vô minh lậu.
Bồ Tát biết rõ ba lậu rồi, vì chúng sanh mà thọ sanh Dục giới cũng chẳng bị dục lậu làm ô nhiễm, thọ sanh Sắc giới và Vô Sắc giới cũng vậy.
Vô minh lậu ấy đã nhỗ gốc rễ nó. Tại sao, vì nhổ vô minh thì không có kiến lậu.
Bồ Tát tu thân niệm xứ rồi, ở trong thân chẳng thấy có ngã ngã sở, chẳng sanh kiêu mạn, vì đã lìa ngã ngã sở nên chẳng cầu chẳng lấy tất cả tài vật. Vì chẳng cầu lấy nên ở nơi tài vật không tranh. Vì
không tranh nên là tịch tĩnh. Luận về tịch tĩnh ấy tức là nhẫn nhục. Trụ nơi nhẫn nhục chẳng thượng chẳng hạ tức là như pháp trụ. Như pháp trụ thì chẳng hành thiện pháp chẳng hành ác pháp.
Chẳng thượng chẳng hạ rồi thì được thiện hữu. Được thiện hữu rồi thì được gặp thiện tri thức. Vì được gặp thiện tri thức nên được nghe chánh pháp. Vì nghe chánh pháp nên chẳng dùng tâm hữu lậu hướng pháp hữu lậu. Đây gọi là vượt quá cảnh giới các lậu. Quá cảnh giới các lậu rồi sẽ nhập thiền định. Đã nhập định rồi nhẫn đến nơi một pháp cũng chẳng sanh giác quán. Vì không có giác quán nên chẳng làm một pháp chẳng biến một pháp. Đây gọi là như pháp. Đây gọi là tất cả pháp bình đẳng. Nếu được tất cả pháp bình đẳng như vậy thì gọi là Nhứt thiết trí.
Đại Bồ Tát nếu có thể quán thân niệm xứ như vậy đây gọi là quán thân niệm.
Nầy Bửu Kế! Bồ Tát ấy kế đến quán thọ niệm xứ. Đối với kẻ có thọ Bồ Tát sanh tâm từ bi hướng đến các chúng sanh mà
bảo rằng: cứu cánh lạc ấy dứt tất cả thọ. Nếu người có thể dứt tất cả thọ tức là thường lạc. Lúc bấy giờ Bồ Tát tuỳ sở thọ sanh tâm từ bi hoặc tự hoặc tha lúc thọ lạc thọ xa lìa tâm ái trước mà sanh tâm từ, lúc thọ khổ thọ xa lìa tâm sân mà
sanh tâm bi, lúc thọ khổ bất lạc thọ thì xa lìa tâm vô minh mà sanh xả tâm.
Vì vậy nên Bồ Tát lúc thọ lạc chẳng sanh tham trước, lúc thọ khổ chẳng sanh sân hận, lúc thọ chẳng khổ chẳng lạc chẳng sanh vô minh. Bồ Tát lúc nầy quán tất cả thọ là vô thường khổ không vô ngã. Thấy người thọ lạc liền biết là khổ, thấy người thọ khổ như nhọt như ghẻ, thấy thọ chẳng khổ chẳng lạc là tịch tĩnh. Quán lạc thọ là vô thường, quán khổ thọ là rỗng không, bất khổ bất lạc thọ là vô ngã. Lúc
quán như vậy rồi, Bồ Tát thấy các thọ tức là không có thọ, thấy tất cả thọ là hữu vi. Nếu là hữu vi tức là sanh diệt tán lậu vô trụ. Quán như vậy chẳng thấy có ngã, chẳng thấy người thọ, đây gọi là Bồ Tat đại trí phương tiện.
Nhơn phương tiện ấy, Bồ Tát thấy tất cả thọ vô thường sanh diệt, quán tất cả pháp thảy đều không vô, không
có thọ không có thọ giả, không có tác không có tác giả, theo duyên mà sanh theo duyên mà diệt, không có thuộc không nhiếp thủ, nơi các nhơn duyên chẳng sanh giác quán.
Nhơn vì không có giác
quán nên nói như vầy: Các pháp nhơn duyên thảy đều là rỗng không.
Lúc quán như vậy, đại Bồ Tát thành tựu thọ niệm xứ có thể làm cho thân tâm
thảy đều tịch tĩnh biết tất cả hành, đây gọi là nhứt thiết trí. Đây gọi là tu thọ thọ niệm xứ.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tu tâm niệm xứ?
Đại Bồ Tát trụ tâm Bồ đề, quán sát tâm tánh ấy, chẳng thấy nội nhập tâm, chẳng thấy ngoại nhập tâm, chẳng thấy nội ngoại nhập tâm, chẳng thấy tâm ở trong ngũ ấm, chẳng thấy tâm ở trong thập bát giới. Đã chẳng thấy tâm rồi, Bồ Tát suy nghĩ rằng: Tâm duyên như vậy là dị biệt hay chẳng dị biệt. Nếu tâm khác với duyên thì lẽ ra trong nhứt thời có hai tâm, nếu tâm là duyên thì
chẳng nên tâm lại hay quán tự tâm, như đầu ngón tay chẳng nên có tự chạm lấy nó. Quán vậy rồi, Bồ Tát thấy tâm vô trụ vô thường biến dị, chỗ sở duyên diệt thì biết là tâm, chẳng phải tâm duyên sanh, chẳng phải chẳng duyên sanh, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải nội, chẳng phải ngoại, chẳng phải hữu, chẳng phải vô. Bồ Tát quán tâm như vậy chẳng ngại pháp như, biết tâm tịch tĩnh. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.
Còn nữa, nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát quán tâm chẳng phải sắc chẳng thể nhìn thấy được, chẳng phải giác quán. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.
Như tâm, các tâm số cũng vậy. Như tâm số, các tâm hành cũng vậy. Như tâm hành, các pháp
sở cầu của tâm cũng vậy. Như pháp sở cầu, Bồ đề cũng vậy. Như Bồ đề, tất cả thiện pháp cũng vậy.
Bồ Tát nếu quán tâm như di hầu, vẽ nước, sương mai, ong chúa,
ngư mẫu, như sông, như lửa, như tưởng sự xa, như độc hành không thân, thường chuyển không dừng, tham trước các giới, thứ đệ sanh diệt, Bồ Tát có thể tư duy nhiếp vô lượng tâm như vậy, khiến trụ một chỗ chẳng động chẳng chuyển chẳng lậu chẳng lầm chẳng loạn chẳng tan. Đây gọi là Xa ma tha.
Bồ Tát nếu có thể quán như vậy, đây gọi là thành tựu quán tâm tâm niệm xứ. Đây gọi là biết tâm cảnh giới, là biết tâm pháp giới, là biết tâm chơn thiệt tướng, là biết tâm chơn thiệt tánh, tức là quảng tri, tức là tịnh tri, liễu tri, chơn tri, thiệt tri như huyễn ảo, đây gọi là tri pháp, tri tâm tánh, tri tâm tận, gọi là vô thủ tri, vô quái ngại tri.
Đại Bồ Tát quán như vậy rồi, khéo biết tất cả chúng sanh tâm
tánh. Biết rồi Bồ Tát như chỗ đáng nên mà vì họ thuyết pháp.
Như biết tâm tánh ấy, biết tất cả chúng sanh tâm
tánh cũng như vậy.
Như biết tự tâm tướng, biết tất cả chúng sanh tâm tướng cũng như vậy.
Như biết tự tâm không, biết tất cả chúng sanh tâm
không cũng như vậy.
Như quán tự tâm bình đẳng, quán tất cả chúng sanh tâm
bình đẳng cũng như vậy.
Quán như vậy rồi, chẳng động pháp giới. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tu pháp niệm xứ?
Đại Bồ Tát quán sát như vầy: pháp xuất pháp diệt không có ngã,
chúng sanh, thọ mạng, sĩ phu, không sanh, không diệt, không một, không xuất, đây gọi là pháp tánh. Nếu hay cầu pháp đây gọi là xuất pháp, nếu chẳng cầu pháp đây gọi là diệt pháp.
Các pháp hoặc thiện hay bất thiện, pháp xuất theo duyên, pháp diệt theo duyên.
Lúc quán như vậy, Bồ Tát quán nơi ba hành là ác hành, thiện hành và bất động hành.
Trong ba hành ấy, ta nên thường hành cực thiện hành là thập thiện pháp. Thập thiện pháp ấy là tịnh thân nghiệp để cầu Như Lai ba mươi hai tướng tám mưới hình hảo người khác chẳng hại được. Thập thiện pháp ấy là tịnh khẩu nghiệp, phàm có lời nói ra mọi người thích nghe học. Thập thiện pháp ấy là tịnh tâm nghiệp, với các chúng sanh tâm thường bình đẳng, thường nhập thiền định tịnh tứ vô ngại trí. Vì tịnh tâm bi nên trong vô lượng đời vì chúng sanh thọ khổ mà tâm chẳng hối. Tịnh thập lực để biết chúng sanh các
căn lợi độn. Tịnh tứ vô uý để biết chúng sanh chướng không chướng. Tịnh thập bát bất cộng pháp để biết tam thế vô ngại. Tịnh tất cả Phật pháp vì tất cả chúng sanh không ai hơn được vậy.
Đại Bồ Tát hay quán như vậy thì ở nơi các thiện pháp và các công đức tâm không nhàm đủ, gần kề thiện hành xa lìa ác hành và phiền não tập khí, chơn thiệt biết rõ bất động hành. Dầu biết chẳng tham mà tâm được tự tại tuỳ nguyện vãng sanh chẳng phải kiết nghiệp sanh, Bồ Tát sanh vào dục giới là vì chúng sanh vậy.
Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát được thiện phương tiện quán pháp niệm xứ tu tập trang nghiêm pháp trợ Bồ đề, xa lìa tất cả cấu chướng Bồ đề. Được công đức ấy, Bồ Tát chẳng trước thường kiến chẳng trước đoạn kiến, lìa hai kiến ấy hành nơi trung đạo.
Luận về trung đạo có hai pháp: Một là niệm bất thiện và hai là vô minh. Trong hai pháp ấy tâm chẳng phóng dật đây gọi là trung đạo.
Còn có hai pháp: Một là hành, hai là thức.
Còn có hai pháp: Một là danh sắc, hai là lục nhập.
Còn có hai pháp: Một là xúc, hai là thọ.
Còn có hai pháp: Một là ái, hai là thủ.
Còn có hai pháp: Một là hữu, hai là sanh.
Còn có hai pháp: Một là lão, hai là tử.
Trong những hai pháp ấy tâm chẳng phóng dật đây gọi là trung đạo.
Trung đạo như vậy, trí huệ thế gian chẳng thể thấy được, chẳng tuyên nói được, chẳng hiển thị được, không có tướng mạo, không sắc, không xứ, không thủ, không xả, là thanh tịnh là tịch tĩnh.
Nầy Bửu Kế! Về trung đạo ấy, chẳng thể nhãn thấy được nhẫn đến chẳng thể thân xúc được, cũng không chỗ đến, cũng thế cũng xuất thế, chẳng tuyên nói được, chẳng phải nhiều chẳng phải ít, nên gọi là trung đạo.
Nầy Bửu Kế! ngã cùng vô ngã gọi là nhị biên.
Nếu có Bồ Tát nói rằng: Chẳng thường chẳng đoạn, chẳng mạng căn chẳng sĩ phu, chẳng tưởng chẳng chẳng tưởng, chẳng giác chẳng chẳng giác, chẳng thiệt chẳng hư, chẳng thử chẳng bỉ, chẳng hữu chẳng vô, chẳng hữu vi chẳng vô vi, chẳng hành chẳng hành chẳng chẳng hành, chẳng sanh tử chẳng Niết bàn. Đây gọi là trung đạo.
Còn nữa, nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát quán pháp pháp niệm xứ chẳng phân biệt pháp giới. Như pháp giới, chúng sanh giới cũng vậy. Hai giới như vậy gọi là hư không giới. Pháp giới ấy tức là chúng sanh giới. Chúng sanh giới ấy tức là vô phân biệt. Đây gọi là quán sát tất cả pháp bình đẳng, thấy tất cả giới tức là pháp giới. Dầu thấy rành rõ mà tâm chẳng thủ trước, vì không trước thì không phân biệt.
Đại Bồ Tát chẳng dùng nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn quán pháp niệm xứ, tại sao, vì ba nhãn như vậy không có tướng mạo. Vì thế nên quán pháp, Bồ Tát dùng pháp nhãn. Dầu tỏ rõ biết mà Bồ Tát tâm chẳng trước. Dầu chẳng trước mà chẳng mất pháp giới, đây gọi là phật trí. Có thể biết thậm thâm pháp giới như vậy mà chẳng mất nơi Nhứt thiết trí niệm. Đây gọi là Bồ Tát tu pháp pháp niệm xứ.
Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát cớ chi tu tập bốn niệm xứ ấy, vì muốn xa lìa bốn điên đảo vậy. Tu thân niệm xứ để lìa tịnh đảo. Tu thọ niệm xứ để lìa lạc đảo. Tu tâm niệm xứ để lìa thường đảo. Tu pháp niệm xứ để lìa ngã đảo.
Còn lìa bốn thứ thực: tu thân niệm xứ để lìa đoàn thực, tu thọ niệm xứ để lìa xúc thực, tu tâm niệm xứ để lìa thức thực, tu pháp niệm xứ để lìa tư thực.
Còn xa lìa bốn trụ xứ của thức. Tu thân niệm xứ xa lìa trụ sắc xứ. Tu thọ niệm xứ lìa trụ niệm xứ. Tu tâm niệm xứ lìa trụ tưởng xứ. Tu pháp niệm xứ lìa trụ hành xứ.
Vì lìa ngũ ấm mà tu Tứ niệm xứ. Tu thân niệm xứ, để lìa sắc ấm. Tu thọ niệm xứ, để lìa thọ ấm. Tu tâm niệm xứ, để lìa thức ấm. Tu pháp niệm xứ, để lìa tưởng hành ấm.
Đây gọi là Bồ Tát tịnh Tứ niệm xứ hành.
Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Tứ chánh cần hành?
Đại Bồ Tát thường thích tu tập tất cả thiện pháp.
Ác pháp chưa sanh vì chẳng sanh mà siêng tu
tinh tiến. Ác pháp đã sanh vì xa lìa mà siêng tu tinh tiến. Thiện pháp chưa sanh vì sanh mà siêng tu tinh tiến. Thiện pháp đã sanh vì
trụ vững chẳng mất mà siêng tu tinh tiến.
Đại Bồ Tát nơi vô lượng đời tu tập thiện hành vì vậy nên tánh thiện chẳng dùng phương tiện khiến ác chẳng sanh. Nếu Bồ Tát tu Tứ chánh cần thì tâm được tự tại.
Chánh cần ấy, Bồ Tát lúc ấy tâm và tâm số cùng đại từ đại bi hoà hiệp cộng hành, đây gọi là chánh cần.
Bồ Tát lúc bấy giờ kế thứ tu Tứ như ý túc là dục, tâm, tiến và huệ.
Chuyên niệm chí tâm niệm nơi Bồ đề đây gọi là dục.
Vì tu đại bi nên giác tâm nhẹ nhàng tiện lợi đây gọi là tâm.
Xa lìa ác pháp đây gọi là tinh tiến.
Vì được phương tiện nên gọi là huệ.
Bồ Tát tu Tứ như ý túc rồi được bốn tự tại. Một là thọ mạng tự tại. Do tự tại nên dầu sanh đoản thọ mà tự được trường thọ để điều phục chúng sanh cùng kẻ trường thọ, nên diễn nói chánh pháp. Ở trong trường thọ có thể hiện đoản thọ. Tuỳ xứ nào Bồ Tát thọ sanh hoặc Trời hoặc loài người, Bồ Tát đều được thọ mạng tự tại.
Hai là thân được tự tại. Do tự tại nên tuỳ tâm mà
làm thân, tuỳ tâm mà làm sắc, thị hiện oai nghi vì chúng sanh vậy. Bồ Tát nếu muốn thân mình cùng thân chúng sanh đồng cao lớn nhỏ bé đều có thể tuỳ tâm làm được cả.
Ba là được pháp tự tại. Vì tự tại nên có thể biết tất cả pháp thế gian tất cả pháp xuất thế. Chỉ dạy các chúng sanh tất cả thế sự, nơi xuất thế hành tâm cũng chẳng thối thất, biết rõ thậm thâm thập nhị nhân duyên được vô ngại trí có thể vì chúng sanh nói
các pháp. Vô lượng chúng sanh nghe
pháp ấy rồi phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bốn là nguyện được tự tại. Do tự tại nên có thể khiến bốn đại hải hiệp làm một mà chẳng lai chẳng khứ, không có động chuyển như cũ không khác. Cũng có thể khiến tất cả Tu Di sơn trong tam thiên Đại Thiên thế giới hiệp làm một mà chẳng lai chẳng khứ không có động chuyển như cũ không khác, với Tứ Vương Thiên Đao Lợi Thiên không có
phòng ngại. Nếu muốn khiến tam thiên Đại Thiên thế giới đều làm kim bửu, thất bửu, chiên đàn, anh lạc, hương hoa, hư không, thuỷ, hỏa đều tuỳ ý thành cả. Đây gọi là Bồ Tát được tứ tự tại.
Nầy Bửu Kế! Bồ Tát được Tứ như ý túc thì được diện kiến thập phương chư Phật cùng nói năng đi
đứng một chỗ. Cũng diện kiến tất cả Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương cùng Thiên, Long, Dạ Xoa, Bát Bộ Thần đồng nói năng đi đứng một chỗ.
Thế nào là trang nghiêm Tứ như ý túc?
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment