Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 51
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
PHẨM BÁT NHÃ BA LA MẬT
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Do y Bát Nhã Ba la mật, nên đại Bồ Tát ở nơi tất cả tâm trụ theo tâm quan sát, vì cầu chứng được thắng thần thông nên nhiếp cột tâm mình tu tập thông trí, được thần thông rồi chỉ dùng một tâm mà khéo biết được tất cả tâm tướng, đã biết rõ rồi y nơi tâm tự thể mà tuyên nói các pháp.
Nầy Xá Lợi Phất ! An trụ tùy tâm quán ấy, đại Bồ Tát dùng sức đại bi chế ngự tâm mình để thành thục chúng sanh không hề nhàm mỏi.
Do Bồ Tát tùy tâm quán nên chẳng bị tâm tận chẳng bị tâm diệt mà an trụ nơi tâm, chỉ khiến tâm xa rời kiết phược sanh tử tương tục mà an trụ tâm. Lại đem năng lực chư tâm niệm trí để an trụ nơi các pháp không sanh không
khởi tánh chánh quyết định không thối đọa vào trong bực Thanh Văn, Độc Giác. Lại dùng năng lực niệm trí ấy giữ tâm tương tục đến thành mãn tất cả Phật pháp, một sát na tâm tương ưng diệu huệ giác ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là đại Bồ Tát y Bát Nhã Ba la mật ở nơi tất cả tâm theo tâm quan sát tu tập tâm nìệm trụ.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc tu hành Bát Nhã Ba
la mật, đại Bồ Tát ở nơi pháp tùy theo pháp quan
sát tu tập pháp niệm trụ thế nào ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát ấy dùng thánh huệ nhãn nhìn thấy các pháp nhẫn đến ngồi đạo tràng, chặng giữa không hề mê mất. Bồ Tát ấy ở nơi tất cả pháp an trụ theo pháp quan sát chẳng thấy chút pháp nào xa rời không vô tướng vô nguyện vô trụ vô khởi vô gia hạnh. Lại quan sát nữa chẳng thấy chút pháp nào xa rời duyên khởi. Đại Bồ Tát ấy do an trụ nơi tùy pháp quán ấy nên chẳng quán pháp và phi pháp.
Trong đây lấy gì làm pháp, đó là nghĩa vô nghĩa gọi là nghĩa của pháp, nghĩa không hữu tình không mạn giả không nhơn là nghĩacủa pháp. Lại lấy những gì làm nghĩa phi pháp, đó là ngã kiến hữu tình kiến mạn giả kiến nhơn kiến là nghĩa của phi pháp, đoạn kiến thường kiến hữu kiến vô kiến gọi là phi pháp. Tóm lại mà nói, tất cả các pháp hoặc gọi là pháp, hoặc gọi là phi pháp. Nếu biết rõ được các pháp đều không vô tướng vô nguyện thì tất cả pháp đều gọi là pháp. Nếu kế chấp ngã và ngã sở cùng các kiến phiền não thì tất cả pháp đều gọi là phi pháp.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát y Bát Nhã Ba la mật an trụ tùy pháp quán rồi chẳng thấy một pháp nào là chẳng phải Phật pháp là chẳng phải Phật, là chẳng phải đạo, là chẳng phải giải thoát, là chẳng phải xuất ly. Đã biết các pháp đều là xuất ly rồi, đại Bồ Tát ấy lại được đại bi vô chướng quan sát bao nhiêu phiền não của các chúng sanh đều do vọng tưởng mà phát sanh, biết các phiền não thể tánh nó tự ly. Tại sao ? Vì các phiền não đồng về nơi liễu nghĩa, không có chút phiền não nào tích được tập được, tùy quán như vậy thì Bồ đề phiền não tánh là Bồ đề tánh. Bồ Tát ấy dầu an trụ niệm mà không chỗ an trụ, chẳng nhớ chẳng quên mà biết rõ được chỗ an trụ của niệm.Tại sao? Chỗ an trụ niệm tức là pháp giới. Nếu an trụ pháp giới thì tức là an trụ hữu tình giới. Nếu an trụ hữu tình giới tức an trụ hư không giới. Do đây nên nói các pháp cùng hư không bình
đẳng.
Nầy Xá Lợi Phất ! An trụ tùy pháp quán như vậy, đại bồ Tát do y xu Phật pháp nên tin hiểu các pháp tức là Phật pháp. Dầu lại phát khởi tận trí như vậy nhưng ở nơi pháp vô vi tận diệt có thể chẳng tác chứng. Dầu lại phát khởi trí vô sanh nhưng thương các chúng sanh mà thọ sanh vẫn chẳng rời bỏ thiệt tế vô sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát ấy ở trong các pháp vì an trụ niệm nên nhiếp thọ được khắp các pháp nhị thừa. Dầu ở nơi tất cả pháp giả lập an trụ nơi niệm, mà chánh niệm ấy không tán không thất nhẫn đến tận hậu tế ở nơi tất cả các pháp tùy theo pháp quan sát tu tập niệm trụ, có thể đem vô lượng ngôn thuyết sở thuyết những cảnh bất bình đẳng mà bình đẳng xu nhập tất cả Phật pháp, hay khiến lòng tất cả chúng sanh vui mừng, hay xô dẹp tất cả quân ma kiên cố, do đó chứng được tự nhiên đại trí.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát ấy do tu hành Bát Nhã Ba la
mật nên ở nơi tất cả pháp theo pháp quán sát tu
tập niệm trụ.
Đây gọi là bốn thứ niệm trụ thiện xảo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la
mật phải nên tu tập thiện xảo.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát tứ chánh cần thiện xảo?
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát do tu bát Nhã Ba la mật nên đạo có bốn thứ. Những gì là bốn ?
Một là với pháp ác bất thiện chưa sanh, vì chẳng sanh nên sanh dục lạc dũng mãnh cố gắng phát siêng tinh tấn nhiếp trì nơi tâm bình đẳng an trụ.
Hai là với pháp ác bất thiện đã sanh, vì dứt vĩnh viễn nên sanh dục lạc dũng mãnh cố gắng phát sanh tinh tấn nhiếp trì nơi tâm bình đẳng an trụ.
Ba là với pháp thiện chưa sanh, vì sanh khởi nên sanh dục lạc dũng mãnh cố gắng phát siêng tinh tấn nhiếp trì nơi tâm bình đẳng an trụ.
Bốn là với pháp thiện đã sanh , vì khiến còn chẳng quên tu tập viên mãn nên sanh dục lạc dũng mãnh cố gắng phát siêng tinh tấn nhiếp trì nơi tâm bình đẳng an trụ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bốn thứ đạo ấy cũng gọi là bốn thứ chánh thắng, cũng gọi là bốn thứ chánh cần tinh tấn vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đạo thắng thứ nhất ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Nói rằng với pháp ác bất thiện chưa sanh vì chẳng sanh nên sanh dục lạc dũng mãnh cố gắng, đó là nói như lý tác ý vậy. Còn nói phát siêng tinh
tấn, đó là nói chẳng bỏ như lý tác ý vậy. Còn nói phát siêng tinh
tấn, đó là nói chẳng bỏ như lý tác ý vậy. Còn nói nhiếp trì nơi tâm bình đẳng an trụ, đó là như lý quan sát vậy. Tại sao ? Vì do như lý phương tiện nên pháp ác bất thiện chẳng còn hiện hành.
Nầy Xá Lợi Phất ! Những gì gọi là pháp ác bất thiện? Do nghĩa gì mà pháp ác bất thiện chẳng còn hiện hành.
Nầy Xá Lợi Phất ! Pháp ác bất thiện là những pháp bị đối trị của giới thi la, của định của huệ.
Thế nào gọi là bị đối trị của giới?
Nói bị đối trị đó là nói phạm giới và những pháp phát xu hủy phạm thi la, là những thứ bị đối trị của các khối diệu giới. Đây gọi là bị đối trị của giới
Những gì gọi là bị đối trị của định ? Đó là vi phạm quỹ tắc và những pháp dẫn tâm tán lọan, những pháp đối trị của các khối diệu định. Đây là bị đối trị của định.
Những gì gọi là bị đối trị của huệ ? Đó là hủy phạm chánh kiến và những pháp hay dẫn những kiến triền chướng cái, bị đối trị của các khối diệu huệ. Đây gọi là bị đối trị của huệ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các pháp như vậy đều gọi là pháp ác bất thiện. Nếu có những như lý tác ý chẳng cho các pháp ác bất thiện ấy được sanh khởi, thì gọi là pháp ác bất thiện chẳng còn hiện hành.
Đây là đại Bồ Tát chánh thắng thứ nhất.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đạo chánh thắng thứ hai ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu các pháp ác bất thiện chứa họp nơi tâm không phương không xứ và các pháp ác bất thiện hiện hành, tâm giác quán y chỉ nơi nhơn duyên sở duyên cảnh mà được sanh khởi. Thế nào gọi là duyên cảnh sanh khởi ? Đó là nhơn tướng tịnh diệu mà khởi tâm tham, nhơn tướng tổn hoại mà khởi tâm sân, nhơn tướng vô minh mà khởi tâm si. Bấy giờ Bồ Tát liền an trụ như lý tư duy như vầy : Do tướng bất tịnh mà tham dục tịch tĩnh, do tướng từ mẫn nên sanh sân khuể tịch tĩnh, do tướng duyên khởi nên ngu si tịch tĩnh. Các phiền não ấy dầu do như lý tác ý nên dứt diệt hẳn nhưng giả lập ngôn thuyết mà gọi là tịch tĩnh. Còn thiệt tịch tĩnh thì không gì có được khác mà chỉ là tánh đoạn diệt bình đẳng. Hiện quán các pháp, tức lấy pháp nầy mà gọi là chánh thắng. Đây là đại Bồ Tát chánh thắng thứ hai.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đạo chánh thắng thứ Ba ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Về nghĩa của pháp thiện, văn cú vô lượng ; Tại sao ? Vì đại Bồ Tát vô lượng pháp thiện đều phải chứa họp, do đó mà văn cú vô lượng.
Nầy Xá Lợi Phất ! nên biết tất cả thiện căn của Bồ Tát lấy lạc dục làm gốc, do tinh tấn mà có thể chứa họp tất cả thiện căn. Tại sao ? Vì do pháp ấy nhiếp trì an trụ nên tất cả thiện căn đều được cứu cánh. Đây gọi là đại Bồ Tát đạo chánh thắng thứ ba.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đạo chánh thắng thứ tư ?
Nầy Xá Lợi Phất ! nghĩa ấy nên biết tức là hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Tại sao ? Vì do hồi hướng nên bao nhiêu thiện căn đã có chẳng còn hư mất. Tại sao ? Vì đại Bồ Tát chẳng y tam giới mà phát tâm.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát đã chẳng y tam giới mà tu tập thiện căn lại còn hồi hướng Nhứt thiết chủng trí, nên biết bao nhiêu thiện căn đã có thì là cứu cánh vô tận vậy. Đây gọi là đại Bồ Tát đạo chánh thắng thứ tư.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát vì tu hành Bát Nhã Ba
la mật nên tinh tấn tu tập bốn đạo phần thiện xảo như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đại Bồ Tát năm phần đại thiện xảo?
Những gì là năm ? Đó là tín
căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và huệ căn. Thế nào là đại Bồ Tát tín căn?
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát có bốn pháp tín :
Một là tin ở trong sanh tử như vậy có chánh kiến thế gian, do điều tin nầy mà đại Bồ Tát nương ở nghiệp báo dầu có đến phải mất mạng cũng chẳng hề tác ý gây tạo ác nghiệp.
Hai là tin nơi những Bồ Tát hạnh, do điều tin nầy mà đại Bồ Tát tu chánh hạnh chẳng hề khởi ý thích chứng nhị thừa.
Ba là tin thắng nghĩa liễu nghĩa duyên khởi thậm thâm như vậy, tất cả các pháp không ngã không hữu tình chỉ là giả lập do ngôn thuyết, chỉ là tướng không vô tướng vô nguyện, do điều tin nầy mà chấp kiến hữu tình và các phiền não chẳng còn tăng trưởng.
Bốn là tin những lực vô úy tất cả Phật pháp , đã tin rồi thì rời lìa nghi hoặc mà tu tập tất cả Phật pháp dã có.
Những tưởng như vậy goi là đại Bồ Tát tín căn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát tinh tấn căn ? Đó là những pháp được tín do tinh tấn mà sanh khởi, tức là lấy phap ấy mà gọi là tinh tấn căn vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát niệm căn ? Đó là các pháp do sức tinh tấn chứa họp rồi do sức niệm căn mà chẳng hư mất tức là lấy pháp nầy mà làm niệm căn vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát định căn ? Đó là các pháp đã
do sức niệm căn nên không hư mất , chính các pháp ấy do sức định căn ở một cảnh duyên, tức là lấy pháp nầy mà gọi là định căn vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát huệ căn ? Đó là các pháp do sức định căn nhiếp ở một duyên, các pháp ấy do sức huệ căn mà thấy suốt tỏ rõ nên gọi là huệ căn vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát có đủ năm căn tăng thượng ấy nối luôn không hở tu hành chánh hạnh có thể mau viên mãn tất cả Phật pháp cũng mau xu nhập nhãn lực thọ ký.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ví như ngoại đạo ngũ thông tiên nhơn kia, nếu trong thai tạng hai hình nam nữ còn chưa sanh khởi thì tiên nhơn trọn chẳng ký biệt cho họ.
Cũng vậy, nếu chư Bồ Tát chưa đủ thành tựu năm căn tăng thượng nối luôn không hở ấy, thì đức Như Lai trọn chẳng thọ ký cho họ vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Những tưởng như vậy gọi là đại Bồ Tát năm phần đạo pháp. Đại Bồ Tát vì muốn tu hành Bát Nhã Ba la mật nên có thể tu tập năm phần đạo thiện xảo như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát đạo thiện xảo lại còn có năm phần. Đó là tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, dịnh lực và huệ lực.
Thế nào gọi là đại Bồ Tát tín lực ? Các Bồ Tát ấy thắng giải thanh tịnh tín thọ quyết định kiên cố khó hư chẳng bị chế phục. Giả sử có ác ma giả làm tượng Phật đến chỗ Bồ Tát để làm chướng ngại muốn khiến Bồ Tát ở nơi chánh trí và thắng giải thoát xa rời chẳng ưa, ma lại nói pháp ấy chẳng phải Phật chánh giáo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử tánh tứ đại chuyển biến lẫn nhau cũng trọn chẳng thể khiến Bồ Tát đã thành tựu tín lực thắng giải bị ma ảo hoặc mà tín lực bị lay động. Đây gọi là đại Bồ Tát tín lực.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát tinh tấn lực ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát phát cần tinh tấn phương tiện tu tập tất cả thiện pháp , nơi đó được sức kiên cố trụ trì , do sức lực ấy , những sự được làm chưa đến cứu cánh, không có tất cả chư thiên hay thế gian nào làm cho dời động được sức trụ trì của Bồ Tát ấy khiến chẳng ở tại bổn xứ . Đây gọi là đại Bồ Tát tinh tấn lực vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát niệm lực ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát ở nơi các pháp ấy do niệm an trụ nên khiến tâm an trụ không có gì làm dời động tán loạn được. Do sức niệm gia trì nên đại Bồ Tát ấy có thể xô dẹp tất cả phiền não mà không có gì chế phụ được niệm ấy. Đây gọi là đại Bồ Tát niệm lực.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là đại Bồ Tát dịnh lực ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát an trụ xa rời các chi thiền, dầu quan sát tất cả âm thanh các đạo ngữ nghiệp và âm thanh văn tự mà vẫn có thể chẳng chướng sơ thiển. Bồ Tát ấy dầu đem tất cả thiện pháp như vầy tầm từ suy cầu vô lượng pháp mà vẫn có thể chẳng chướng đệ nhị thiền. Bồ Tát ấy dầu an trụ nơi hoan hỉ được sanh mà vẫn có thể chẳng chướng đệ tam thiền. Bồ Tát ấy dầu vì thành thục tất cả chúng sanh mà nhiếp thọ chánh pháp chẳng trụ nơi xả mà vẫn có thể chẳng chướng đệ tứ thiền. Bồ Tát an trụ bốn thứ tĩnh lự ấy, tất cả pháp bị đối trị của tĩnh lự chẳng thể chế phục được. Bồ Tát ấy dầu an trụ chánh định chẳng bỏ mà chẳng theo định lực ấy thọ sanh . Đây gọi là đại Bồ Tát định lực.
Lại nầy Xá Lợi PHất ! Thế nào là đại Bồ Tát huệ lực ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Sức trí huệ ấy kiên cố khó lay động. Tất cả thế gian và xuất thế chẳng có gì chế phục được trí lực ấy. Bồ Tát đời đời sanh ra chỗ nào, nhẫn đến tất cả chánh hạnh công nghiệp thiện xảo thế gian khó làm khó hiểu , mà Bồ Tát ấy chẳng do thầy dạy đều hiện tiền biết rõ tất cả.
Lại ở nơi pháp xuất thế, đó là hay cứu độ các thế gian, đại Bồ Tát do sức trí huệ đều nhiếp thọ được cả mà chẳng bị tất cả thế gian trời người chế phục. Đây gọi là đại Bồ Tát huệ lực.
Các tướng như vậy gọi là đại Bồ Tát năm phần đạo thiện xảo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát vì muốn tu hành Bát Nhã ba la mật nên tinh cần tu tập năm phần đạo thiện xảo như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát còn có bảy thứ giác phần. Đó là niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần hỉ giác phần, an giác phần, đẳng trí giác phần và xả giác phần.
Thế nào là đại Bồ Tát niệm giác phần ? Đó là chư Bồ Tát y do nơi sức chánh niệm mà tùy giác các pháp,
quan sát các pháp, tầm tư các pháp, biết rõ các pháp, giản trạch các pháp, soi xét các
pháp, do sứ chánh niệm, Bồ Tát tùy giác thể tướng của các pháp.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là trí liễu đạt tự thể tướng của tất cả pháp ? Đó là do dịnh lực của giác sát của pháp tu thể tướng không. Bồ Tát thông đạt thể tướng không ấy thì gọi là niệm giác phần.
Thế nào gọi là trạch pháp giác phần ? Đó là Bồ Tát có trí giản trạch tám vạn bốn ngàn pháp tạng, theo các pháp tạng ấy phải nên giản trạch, như vậy gọi là liễu nghĩa. Liễu nghĩa ấy do bất liễu nghĩa. Bất liễu nghĩa ấy do thế tục nghĩa. Thế tục nghĩa ấy do nghĩa thắng nghĩa. Nghĩa thắng nghĩa do giả thi thiết. Giả thi thiết ấy do thắng quyết trạch . Thắng quyết trạch ấy gọi là giản trạch. Bồ Tát thành tựu giản trạch ấy thì gọi là trạch pháp giác phần vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là đại Bồ Tát tinh tấn giác phần?
Nầy Xá Lợi Phất ! Tức ở nơi niệm trạch tấn hỉ an định xả trí ấy, đại Bồ Tát nhiếp thọ ưa vui thế lực dũng mãnh, lạc dục không lui giảm tinh tấn cố gắng chẳng bỏ pháp lành , vì đạo hiện quán mà phát khởi chánh cần. Bồ Tát thành tựu pháp quán chánh cần như vậy thì gọi là tinh tấn giác phần.Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là đại Bồ Tát hỉ giác phần ?
Do vì Bồ Tát ở nơi pháp sanh hỉ bèn vui thích nơi pháp. Do vui thích nơi pháp nên tâm chẳng trầm lặng do tâm chẳng trầm lặng nên phát sanh thanh tịnh hỉ. Do hỉ thanh tịnh nên thân tâm an ổn rời lìa phiền não. Đây gọi là hỉ giác phần.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát an giác phần ?
Bồ Tát do thân an nên được tâm an. Do tâm an nên dứt các phiền não rời xa tất cả chướng cái. Nơi cảnh sở duyên tâm ấy liền an trụ mà nhập các chánh định . Bồ Tát thành tựu pháp ấy thì gọi là an giác phần.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là đại Bồ Tát tam ma địa giác phần?
Bồ Tát dùng định tâm ấy giác trú nơi pháp mà chẳng phải là tâm bất định . Tại sao ? Vì nếu tâm được định mà giác trí các pháp thì chẳng hề phát khởi các tà giác triền chướng ái kiến v.v... chi trừ ở nơi thiệt tánh bình đẳng của pháp, tâm định xu nhập giác tri tánh bình đẳng của tất cả pháp. Bồ Tát thành tựu noi đây thì gọi là định giác phần.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là đại Bồ Tát xả giác phần ?
Bồ Tát hay thuận nơi pháp hỉ duyệt tâm không chấp trước , nên các pháp thế tục tâm chẳng nhiếp thọ, chẳng cao chẳng hạ an trụ bất động, không mừng không chán không yêu không giận, chỉ hay tùy thuận tu tập thánh đạo. Đây gọi là Bồ Tát xả giác phần.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát muốn ở nơi bảng giác phần ấy thông đạt thiện xảo , thì thích tu hành Bát Nhã Ba la mật chuyên cần tu tập giác phần thiện xảo.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát có tám thánh đạo phần. Đó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh tam ma địa.
Thế nào gọi là Bồ Tát chánh kiến ? Dó là xuất thế kiến của chư Hiền Thánh ? Kiến ấy chẳng phải ngã kiến khởi, chẳng phải hữu tình kiến khởi, chẳng phải mạng giả kiến khởi, chẳng phải chơn kiến khởi, chẳng phải đoạn kiến khởi , chẳng phải thường kiến khởi, chẳng phải hữu kiến khởi, chẳng phải vô kiến khởi, chẳng phải thiện kiến khởi, chẳng phải bất thiện kiến khởi, nhẫn đến chẳng phải Niết bàn kiến khởi.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu Bồ Tát rời lìa những kiến ấy thì gọi là Bồ Tát chánh kiến.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là Bồ Tát chánh tư duy ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu là tư duy hay phát khởi tất cả phiền não tham sân si v.v...Bồ Tát chẳng hề phát khởi. Nếu là tư duy hay sanh trưởng những khối công đức giới định , huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v...Bồ Tát hằng thường phát khởi ? Đây gọi là đại Bồ Tát chánh tư duy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là Bồ Tát chánh ngữ ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Ngữ ngôn của Bồ Tát chẳng tự tổn não chẳng tổn não tha, chẳng
tranh cãi với chúng sanh. Do thành tựu ngữ ngôn ấy mà Bồ Tát hay nhập chứng thánh đạo nên gọi là Bồ Tát chánh ngữ.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát chánh nghiệp ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát chẳng hề tạo tác những hắc nghiệp hay cảm hắc báo. Nếu là những nghiệp hay cảm báo bạch tịnh , nếu là nghiệp hay dứt hết tất cả nghiệp , Bồ Tát phương tiện phát khởi và lấy những nghiệp ấy làm sự nghiệp của mình. Nương nghiệp ấy, Bồ Tát phương tiện tu nghiệp bình đẳng. Đây gọi là Bồ Tát chánh nghiệp.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là đại Bồ Tát chánh mạng ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát bao nhiêu thánh chúng đã có , công đức đầu đà, chẳng siễm cầu chẳng lừa dối, với sự khất cầu tánh không quan thiết, dễ đủ dễ nuôi, với luật nghi thì kính thờ tu hành chẳng lười biếng, với lợi dưỡng của người thì chẳng ganh ghét, với lợi dưỡng của mình thì biết vừa đủ, với chỗ Phật khai cho thì chẳng nhiễm trước lắm mà thường thanh tịnh tự giữ hạnh chánh mạng. Đây gọi là Bồ Tát chánh mạng.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát chánh tinh tấn ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu là những tà đạo những phiền não tham sân si v.v... mà
phát khởi tinh tấn thì Bồ Tát chẳng hề ưa thích . Nếu là những chánh cần nhiếp trong thánh đế, xu nhập thánh đạo, hay đến Niết bàn, dẫn phát chánh hạnh thì Bồ Tát ưa thích tu học phát khởi tinh tấn . Đây gọi là Bồ Tát chánh tinh tấn .
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát chánh niệm ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Có những niệm rất thiện tánh chẳng hạ liệt làm cho tâm lành chánh trực không tà khúc, hay quan
sát lỗi hại của sanh tử, hay làm con đường về đại Niết bàn. Nếu chư Bồ Tát giữ luôn được những niệm ấy khiến chẳng quên mất thánh đạo thì gọi là Bồ Tát chánh niệm.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát chánh tam ma địa ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Tam ma địa là, nếu ở nơi chánh tánh bình đẳng thì ở nơi tất cả pháp bình đẳng , chư Bồ Tát an trụ tam ma địa ấy rồi vì muốn giải thoát tất cả chúng sanh nên
xu nhập chánh tánh. Chánh định ấy là vô tận đạo mà tam thế chư Phật tuyên nói khai thị cho chư Bồ Tát chứng hiện quán. Đây gọi là đại Bồ Tát chánh định.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đây gọi là đại Bồ Tát tám thánh đạo phần. Chư đại Bồ Tát nếu muốn tu hành Bát Nhã Ba la mật, thì nên siêng tu tám thánh đạo phần như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát do tu hành Bát Nhã Ba
la mật nên tu học đạo thiện xảo. Đạo thiện xảo ấy còn có hai thứ : đó là xa ma tha và tỳ bát xá na.
Thế nào gọi là xa ma tha đạo ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát tâm an tĩnh, rất tột tịch tĩnh, tối thắng tịch tĩnh, không tán loạn, các căn điềm đạm, chẳng điệu cử, không tháo nhiễu, không hôn trầm , an tĩnh giũ kín không siễm khúc, điều thuận siêng giỏi, ưa thường ở một mình rời lìa huyên náo thích hạnh viễn ly, thân không nhiễm trần, tâm không mê loạn, nơi môn tịch tĩnh tư duy tác ý rời các dục không hy vọng, xa các đại dục, vui thích trí túc, chánh
mạng thanh tịnh , chánh hạnh viên mãn, giữ kín oai nghi biết thời biết phần dễ nuôi dễ đủ, khéo biết chừng
lượng thường ưa tư duy quan sát không cao
không hạ, tánh hay nhịn chịu được lời thô tiếng xấu, nơi môn tương ưng thì phát tâm an trụ, ưa ở nhà rảnh vắng, nơi phần tĩnh lự thì tác ý duyên niệm, sanh khởi đại từ dẫn phát đại bi, an trụ đại hỉ, tu tập đại xả, từ sơ thiền đến bát định thủ đệ chứng nhập. Đây gọi là Bồ Tát xa ma tha đạo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lại còn có vô lượng xa ma tha chánh hạnh. Chư Bồ Tát ở nơi những tư lương chánh hạnh ấy phương tiện xu nhập , như vậy lại gọi là Bồ Tát xa ma tha đạo.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là tỳ bát xá na đạo ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát ở nơi diệu huệ phần mà tu tập thánh đạo. Trong các pháp, Bồ Tát phát khởi vô tác quán trí, lại phát khởi vô ngã quán trí, vô hữu tình quán trí, vô mạng giả quán trí, vô nhơn quán trí . Trong các uẩn, phát khởi pháp quán trí , trong các giới phát khởi pháp giới quán trí , trong các xứ phát khởi không quán trí, trong các nhãn phát khởi chiếu liễu quán trí, trong duyên khởi phát khởi bất tương vi quán trí, nơi các chấp kiến phát khởi viễn ly quán trí, nơi các nhơn quả phát khởi nghiệp báo quán trí, nơi quả đáng được phát khởi tác chứng quán trí, nơi chánh tánh được nhập phát khởi xu nhập quán trí.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tỳ bát xá na là ở trong các pháp phát khởi như lý kiến, chơn thiệt kiến, bất biến dị kiến, không kiến, vô tướng kiến, vô nguyện kiến.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tỳ bát xá na là chẳng phải do nhơn có mà quán, chẳng phải do nhơn mà quán, chẳng phải do sanh trụ diệt mà quán, chẳng do nhơn hữu sở đắc mà quán.Tại sao ? Vì đại Bồ Tát ở nơi các nhơn ấy đều không chỗ thấy, mà lại quan sát chẳng thấy mà thấy, thấy mà chẳng thấy.
Nầy Xá Lơi Phất ! Nếu chư đại Bồ Tát khởi quán như vậy thì gọi là như thiệt quán, là chơn thiệt quán,, cũng gọi là chứng được tỳ bát xá na thiện xảo phương tiện.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát ở trong quán nầy dầu phát khởi quán giải như vậy mà chẳng sa vào chỗ không làm, cũng chẳng xa rời thiện căn gia hạnh. Đây gọi là đại Bồ Tát tỳ bát xá na.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát vì muốn tu hành Bát nhã Ba la mật nên tinh cần tu tập xa ma tha, tỳ bát xá na đạo pháp thiện xảo.
Lại nầy Xá Lợi ! Đạo tràng của đại Bồ Tát tu hành như vậy, nếu nói lược thì chỉ có một xu đạo thiện xảo. Đó là đại Bồ Tát riêng lộ giữa đại chúng không ai bằng chẳng nhờ bạn giúp vì chứng Vô thượng Bồ đề nên do mình tiếp thọ thế lực tinh tấn dục giải thanh tịnh mà mặc áo giáp kiên cố. Tại sao ? Vì đại Bồ Tát chẳng do người mà giác ngộ, chẳng duyên nơi người, tự mình xây dựng tự lực phát khởi quan niệm rằng áo giáp ấy tất cả chúng sanh chẳng ai mặc được, chỉ riêng tôi mặc, áo giáp ấy tất cả Hiền Thánh hàng tấn phát ý và chư Bồ Tát chưa an trụ chánh vị chưa từng được mặc, nay riêng tôi mặc. Bồ Tát lại nghĩ rằng nay tôi trang bị thế nầy há lại để bố thí tự tại độ tôi, mà tôi phải tự tại độ bố thí ấy, há lại để những trì giới nhẫn nhục tấn định Bát Nhã tự tại độ tôi, mà tôi phải tự tại độ trì giới nhẫn tấn định Bát Nhã ấy. Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng nay tôi lại để Ba la mật phát khởi tôi, mà tôi phải phát khởi Ba la mật, nhẫn đến tất cả thiện căn đều sẽ nhơn nơi tôi mà được phát khởi, chẳng để thiện căn phát khởi tôi. Nếu chư đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy chẳng nhờ bạn giúp tự có thể xây dựng tôi là độc nhứt không ai bằng, tôi sẽ ngồi tòa kim cương kiên cố thù thắng dùng thế lực mình xô dẹp quân ma, dùng một sát na tương ưng huệ chứng Vô thượng Bồ đề
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu đại Bồ Tát phát khởi dục giải phương tiện quyết định quan sát như vậy thì gọi là đại Bồ Tát phát một đạo thiện xảo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát vì muốn tu hạnh Bát Nhã Ba la mật nên tu tập phát xu một đạo thiện xảo như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Bồ Tát y Bát Nhã Ba la mật tu tập duyên khởi , ở tịnh thất kín suy nghĩ như vậy : khối thuần khổ lớn của thế gian như vậy, từ chỗ nào mà nó được tập họp phát khởi ? Liền tự biết khối khổ ấy do tác ý bất như lý tập khởi nên vô minh do vô minh tập khởi nên hành tập khởi , do các hành tập khởi nên các thức tập khởi, do thức tập khởi nên danh sắc tập khởi, do danh sắc tập khởi nên luc xứ tập khởi , do lục xứ tập khởi nên các xúc tập khởi, do xúc tập khởi nên các thọ tập khởi, do thọ tập khởi nên các ái tập khởi, do ái tập khởi nên các thủ tập khởi, do thủ tập khởi nên các hữu tập khởi, do hữu tập khởi nên sanh tập khởi, do sanh tập khởi nên lão tử ưu sầu bi khổ bức não đều tập khởi.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng dầu các pháp ấy tập khởi như vậy nhưng là vô tác vô dụng không có chủ tể. Các pháp ấy thập thiện làm nhơn, bất động làm nhơn, Niết bàn làm nhơn, các pháp ấy do duyên sanh khởi cũng không có chủ tể. Nếu là các chúng sanh , hạ căn làm nhơn , trung căn làm nhơn , thượng căn làm nhơn , các nghiệp làm nhơn, nhơn quả lưu
chuyển cũng làm chủ tể.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả bao nhiêu pháp như vậy do nhơn duyên hòa hiệp mà được tập khởi, đại Bồ Tát đều biết rõ cả. Đây gọi là duyên khởi thiện xảo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng do gì diệt mà các pháp nầy dứt diệt ? Liền tự biết rằng do bất như lý tác ý diệt nên vô minh diệt, do vô minh diệt nên các hành diệt , do các hành diệt nên các thức diệt, nhẫn đến do sanh diệt nên lão tử ưu bi khối thuần khổ lớn diệt. Có trí biết như đây gọi là duyên khởi thiện xảo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng nhơn y nơi chánh pháp y chỉ các duyên y chỉ hòa hiệp mà được tu các thiện pháp. Thiện pháp ấy đã y chỉ hòa hiệp y chỉ các duyên thì nó chẳng y nơi ngã nó chẳng y chỉ nơi hữu tình nơi thọ mạng nơi nhơn, như vậy thì các pháp lành ấy chẳng cân lường được. Như lý quán sát như vậy thì gọi là duyên khởi thiện xảo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát lại quan sát tất cả Phật pháp đều là tướng Bồ đề, là tướng do duyên phát khởi , quan sát các duyên khởi, đều là tướng tận diệt. Do vì hay quan sát chẳng bỏ chúng sanh nên chẳng xu nhập vào cứu cánh tịch diệt. Đây cũng gọi là duyên khởi thiện xảo vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát vì muốn tu hành Bát Nhã Ba la mật nên tu tập duyên khởi thiện xảo như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ Tát nhứt thiết pháp thiện xảo ?
Này Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát do tu hành Bát Nhã Ba
la mật nên ở nơi tất cả pháp nhiếp khắp tất cả hữu vi và vô vi. Đại Bồ Tát nên tu thiện xảo nơi tất cả pháp ấy.
Này Xá Lợi Phất ! Thế nào là Bồ tát hữu vi thiện xảo? Đó là thân hành diệu thiện, ngữ hành diệu thiện, ý hành diệu thiện, đây gọi là hữu vi thiện xảo.
Thế nào là vô vi thiện xảo? Tức là đem thân ngữ ý hành thiện xảo ấy hồi hướng cứu cánh vô vi Bồ đề, hồi hướng diệu quán vô vi Bồ đề , lại hồi hướng nhất thiết chủng trí. Đây gọi là vô vi thiện xảo.
Lại này Xá Lợi Phất ! Đại Bồ tát hữu vi thiện xảo tức là tích tập năm Ba la mật: Bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tấn và tĩnh tự Ba la mật. Nếu do trí vô vi Bát Nhã Ba
la mật thì năm ba la mật ấy chẳng đè phá được diệu trí này, lại còn có thể tích tập được các ba la mật thì các ba la mật tư lương thiện pháp, tín giải vô lậu Vô thượng Bồ đề và hồi hướng Nhứt thiết chủng trí. Đây gọi là vô vi thiện xảo.
Lại này Xá Lợi Phất : Đại Bồ Tát hữu vi thiện xảo là dùng ánh sáng vô ngại chiếu các chúng sanh, dùng tứ nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh, đây gọi là hữu vi. Nếu quan sát các pháp vô ngã
vô hữu tình vô thủ vô chấp, ở nơi tứ nhiếp pháp phương tiện thiện xảo mến thích tin nhận những trí quán vô vi và hồi hướng Nhứt thiết chủng trí. Đây gọi là vô vi thiện xảo.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hữu vi thiện xảo là chẳng đoạn dứt kiết tục hay khiến sanh tử tương tục mà lại dứt đoạn hẳn phiền não hay khiến sanh tử tương tục. Nhiệm vận chấp trì tướng phược Bồ đề kiết phược, một phần kiết phược chẳng còn hiện hành. Đây gọi là hữu vi thiện xảo. Nếu lại tu tập các pháp chánh trí như không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô khởi, hiện quán thiện xảo Vô thượng Bồ đề chẳng do tha duyên mà tự tác chứng nơi pháp vô vi. Đây gọi là vô vi thiện xảo.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hữu vi thiện xảo là chư đại Bồ Tát đi trong tam giới mà chẳng bị tam giới ô nhiểm. Còn đại Bồ Tát dầu có thông đạt tất cả pháp xuất ly tam giới mà chẳng trụy đọa trong xuất ly giới, thì gọi là vô vi thiện xảo.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nhứt thiết pháp thiện xảo thì gọi là Nhứt thiết chủng
trí. Nếu đại Bồ Tát viên mãn chứng nhập Nhứt thiết chủng trí thì tất cả thời gian trí huệ thiện xảo, đây gọi là nhứt thiết pháp thiện xảo.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì muốn tu hành Bát Nhã Ba la mật nên tu tập nhứt thiết pháp thiện xảo như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát y nơi Bồ Tát tạng vì muốn tu hành Bát Nhã Ba la mật nên y theo huệ phân biệt thiện xảo thong đạt tu tập mười thứ thiện xảo như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là đại Bồ Tát diệu huệ? Thế nào là nghĩa Ba la mật !
Nầy Xá Lợi Phất ! Huệ hay hiểu rõ tất cả pháp lành là hiện kiến huệ vì tùy thuận thông đạt tất cả pháp. Là chơn lượng huệ vì như thiệt thông đạt tất cả pháp. Là thông đạt huệ vì tất cả chỗ thấy đến các pháp phiền trược chẳng làm chướng ngại. Là ly nguyện huệ vì xa rời tất cả nguyện dục cầu. Là an duyệt huệ , vì dứt hẳn tất cả các nhiệt não. Là hoan hỉ huệ vì duyên pháp hỉ lạc không đoạn tuyệt. Là y xu huệ vì ở nơi các nghĩa trí đều hiện thấy. Là kiến lập huệ vì kiến lập tất cả pháp giác phẩm. Là chứng tướng huệ vì tùy theo thừa được tu mà chứng được đạo quả. Là liễu tướng huệ vì khéo chìếu rõ được trí tánh ấy. Là tế độ huệ vì cứu độ tất cả các bạo lưu. Là xu nhập huệ vì hay xu nhập pháp chánh tánh vô sanh.
Là sách lệ huệ vì chấn phát tất cả các pháp lành . Là thanh trừng huệ vì rời xa lìa phiền não trược. Là tối thắng huệ vì trèo lên đảnh tất cả pháp. Là vi diệu huệ vì dùng trí tự nhiên tùy giác các pháp. Là ly hành huệ vì không còn tạp nhiễm pháp tam giới. Là nhiếp thọ huệ vì là của hiền thánh nhiếp thọ. Là đoạn nguyện huệ vì trừ khiến tất cả tướng phân biệt. Là xả dật huệ vì xa rời tất cả ngu si hắc ám. Là phương tiện huệ vì an trụ chỗ thành tựu của tất cả du già sư địa. Là phát xu huệ vì sẽ an trụ nhứt thiết chánh trí đạo. Là chiếu minh huệ vì trừ diệt tất cả màn lòa tối vô minh bạo lưu. Là thí nhãn huệ vì khai đạo tất cả như mặt sáng. Là vô lậu huệ vì huệ nhãn siêu quá đường tà tịch. Là thắng nghĩa huệ vì chiếu rõ đại thánh đế ấy. Là vô biệt huệ vì khéo điều thuận. Là quang minh huệ vì là cửa của các trí. Là vô tận huệ vì khắp tất cả chỗ tùy hành chiếu soi. Là vô diệt huệ vì thường thấy rộng. Là giải thoát đạo huệ vì dứt hẳn tất cả chấp thủ. Là bất ly xứ huệ vì chẳng đồng ở với tất cả phiền não chướng pháp.
Nầy Xá Lợi Phất ! Huệ tướng ấy nay Phật lược nói, nên biết đại Bồ Tát còn có vô lượng vô biên huệ. Tại sao ? Như bao nhiêu tâm hành mà tất cả chúng sanh có, thì nên biết đại Bồ Tát cũng có bấy nhiêu huệ nghiệp trí hành. Như tất cả chúng sanh có bao nhiêu dục giải, nên biết đại Bồ Tát cũng có bấy nhiêu trí huệ quan sát. Như tất cả chúng sanh có bao nhiêu phiền não, nên biết đại Bồ Tát cũng có bấy nhiêu quảng đại huệ. Như tất cả Thanh Văn, Độc Giác và Đẳng Giác có bao nhiêu biến trí, nên biết đại Bồ Tát cũng có bấy nhiêu chỗ huệ sở hành.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả huệ xứ như vậy, chư đại Bồ Tát ở trong ấy đều tinh cần tu học. Đây gọi là đại Bồ Tát diệu huệ vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là nghĩa Ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nhẫn đến tất cả chỗ biết các pháp diệu thiện được đến bờ kia, nên biết đều là nghĩa Ba la mật ;
Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả huệ cú đã rộng nói ở trên, nên biết đều là nghĩa Ba la mật.
Chư đại Bồ Tát tu hành nghĩa sai biệt viên mãn, nên biết đều là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa Nhứt thiết chủng trí viên mãn, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa không chấp trước tất cả pháp hữu vi vô vi, là nghĩa Ba la
mật.
Nghĩa khéo giác ngộ được tội lỗi lớn của vô lượng sanh tử, là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa hay khai ngộ bất giác nơi tất cả pháp, là nghĩa Ba la mật.
Hay khai thị pháp bữu tạng nghĩa vô cùng tận, là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa vô chướng giải thoát viên mãn, là nghĩa
Ba la mật.
Giác ngộ nghĩa bình đẳng của thí giới nhẫn tấn định huệ, là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa tối thắng quyết trạch thiện xảo, là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa đi khắp chúng sanh giới, là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa vô sanh pháp nhẫn viên mãn, là nghĩa Ba la
mật .
Nghĩa bất thối chuyễn địa cứu cánh viên mãn, là nghĩa
Ba la mật.
Nghĩa thanh tịnh tu trị chư Phật độ, là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa thành thục tất cả chúng sanh, là nghĩa Ba la
mật.
Nghĩa qua đến đạo tràng lên ngồi tòa Bồ đề, là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa cứu cánh xô dẹp tất cả quân ma, là nghĩa Ba la mật.
Nghĩa tất cả Phật pháp đều viên mãn, là nghĩa Ba la
mật.
Nghĩa chánh an trụ pháp môn sai biệt Bồ Tát tạng, là nghĩa Ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng chánh tu giác ngộ rồi, đức Phật nói đó đều được cứu cánh nơi tất cả Ba la mật.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn an trụ Đại thừa phải nên thỉnh cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng rồi thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa lý giảng dạy mọi người. Tại sao? Vì nếu có ai ở nơi kinh Bồ Tát tạng mà ân trọng lắng nghe thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa lý giảng dạy mọi người, thì người ấy quyết định được mười thứ công đức xưng tán lợi ích. Những gì là mười ?
Một là những chỗ được sanh đều cứu cánh thông đạt tất cả công xảo nghiệp vi diệu.
Hai là sanh tại xứ nào đều ở dòng tộc cao vinh vọng đương đời.
Ba là sanh tại xứ nào đều có oai nghiêm lớn thế lực tự tại.
Bốn là có lời nói ra mọi người đều tin phục nghe theo.
Năm là sanh tại xứ nào đều được giàu sang lớn.
Sáu là sanh tại xứ nào đều được trời người thường kính mến.
Bảy là sanh trong người thì làm Chuyễn Luân Vương được đại tự tại.
Tám là sanh cõi trời thường làm Thiên Đế Thích.
Chín là nếu sanh cõi sắc thì làm Đại Phạm Vương.
Mười là sanh làm chỗ nào thường chẳng xa rời tâm Bồ đề.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thiện nam tử thiện nữ nhơn ấy lại còn được mười thứ công đức xưng tán lợi ích. Những gì là mười ?
Một là chẳng tạp loạn với tà luận ngoại đạo luận.
Hai là chẳng phát khởi ngã kiến.
Ba là không có hữu tình kiến.
Bốn là không có mạng giả kiến.
Năm là không có sát thủ thú kiến.
Sáu là không phát khởi đoạn kiến.
Bảy là không phát khởi thường kiến.
Tám là lòng không có cập tất cả sự đời.
Chín là hằng phát tâm thù thắng thích muốn xuất gia.
Mười là nếu nghe kinh điển thi mau thọ trì ngộ hiểu thâm nghĩa.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Người thọ trì nhẫn đến giảng dạy kinh Bồ Tát tạng nầy còn được mười thứ công đức xưng tán lợi ích. Những gì là mười ?
Một là thành tựu chánh niệm.
Hai là thành tựu chánh giác.
Ba là thành tựu chánh xu.
Bốn là thành tựu chí dũng.
Năm là thành tựu chánh huệ.
Sáu là được đủ không chướng nạn.
Bảy là nhớ sự việc các đời trước.
Tám là tánh mỏng tham dục không tham mạnh nhiều chẳng bị tham nặng nhiễu loạn khổ não.
Chín là tánh mỏng tham sân không sân mạnh nhiều chẳng bị sân nặng nhiễu loạn khổ não.
Mười là tánh mỏng ngu si không si mạnh nhiều chẳng bị ngu si nặng nhiễu loạn khổ não.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Các người ấy còn được mười công đức lợi ích. Những gì là mười ?
Một là thành tựu cơ tốc huệ.
Hai là thành tựu thiệp biện huệ.
Ba là thành tựu mãnh lợi huệ.
Bốn là thành tựu tấn tật huệ.
Năm là thành tựu quảng bác huệ.
Sáu là thành tựu thậm thâm huệ.
Bảy là thành tựu thông đạt huệ.
Tám là thành tựu vô trước huệ.
Chín là thường hiện tiền thấy chư Như Lai và dùng lời đẹp ca ngợi Phật.
Mười là khéo như lý thỉnh hỏi Phật, lại hay như lý khai thích nghi vấn.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Các người ấy lại còn được mười công đức. Những gì là mười ?
Một là thường muốn xa rời các bất thiện hữu.
Hai là thường thích thân cận với các thiện trí thức.
Ba là hay tháo các thứ trói buộc của ma.
Bốn là hay dẹp trừ các quân trận của ma.
Năm là hay khéo quở chán tất cả phiền nảo.
Sáu là với tất cả hành lòng luôn rời bỏ.
Bảy là vì bội tất cả con đường hướng đến ác đạo.
Tám là hướng về tất cả đường đến Niết bàn.
Chín là khéo nói tất cả hạnh bố thí thanh tịnh vượt qua sanh tử.
Mười là hay khéo theo học tất cả quỹ tắc của Bồ Tát làm , lại hay phụng hành lời chư Phật dạy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn ở nơi pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng nầy mà có thể ân trọng lắng nghe thọ trì đọc tụng nghiên tầm nghĩa lý thông đạt rõ ràng lại giảng dạy mọi người, nên biết những người ấy được những công đức xưng tán lợi ích như trên ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
« Người thông sáng có huệ vô biên
Hay khéo thông đạt pháp và nghĩa
Văn từ tôn thắng khéo tròn đủ
Do thọ trì được kinh vương nầy
Thường được giàu nhiều tạng pháp bửu
Hằng vui đẹp dạ làm pháp thí
Phát sanh sự vui tối thượng thắng
Do thọ trì được kinh vương nầy
Nhiều chúng sanh nghe thuyết pháp ấy
Chứng công đức thắng rộng lớn nầy
Phật sẽ tuyên bày công đức ấy
Như người trì kinh đã được có
Người được huệ tối thắng như đây
Ở nơi chánh pháp không hề hư
Do niệm phát sanh trí vi diệu
Nói chỗ nương của vô thượng trí
Siêng cầu khéo nói câu chánh pháp
Chỗ được ngợi khen của chúng thánh
Thường nghe phát khởi hạnh siêu thắng
Do trì đọc giảng kinh vương nầy
Người trí nghe rồi trì thâm nghĩa
Ở nơi văn cú không vọng chấp
Thường theo nghĩa lý để quán chiếu
Tăng trưởng diệu trí vô biên nghĩa
Vô biên diệu trá vô biên nghĩa
Nghĩa giải đệ nhứt khó nghĩ bàn
Đi khắp mười phương rộng khen ngợi
Nghe kinh được lợi không cùng tận
Rất khéo làm mỏng tham sân si
Mau được đệ nhứt tâm thanh tịnh
Do nghe kinh Bồ Tát tạng nầy
Công đức thắng lợi vô biên tế
Dầu được thắng tài không phóng dật
So lý với của gì kiên cố
Biết thấu của đời chẳng bền thiệt
Không luyến của đời đi xuất gia
Ra đến chỗ vắng ở núi rừng
Hôn trầm kia thường xa rời hẳn
Lắng nghe tịnh pháp không hề nhàm
Chánh giáo tĩnh lự không lẫn tiếc
Thỉnh hỏi quyết nghi nơi Đạo Sư
Nghe rồi vì người dạy rộng lại
Do đây tăng trưởng trí vi diệu
Nơi pháp bạch tịnh không hề mất.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát vì muốn tu hành Bát Nhã Ba la mật nên ở nơi kinh điển đại Bồ Tát tạng nầy tinh tấn tu học thật hành Bồ Tát hạnh.
Đây gọi là đại Bồ Tát ở nơi Bát Nhã Ba la mật phương tiện tu học pháp yếu”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment