Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 52
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
PHẨM ĐẠI TỰ TẠI THIÊN THỌ KÝ
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất : “Thuở quá khứ xưa, đức Đại Uẩn Như Lai Đẳng Chánh Giác vì Đồng Tử Tinh Tấn Hành mà nói rộng pháp tứ vô lượng và sáu Ba la mật rồi. Đức Đại Uẩn Phật lại nói với Tinh Tấn Hành Đồng Tử rằng : Thế nào là đại Bồ Tát tùy nhiếp pháp chuyển? Đại Bồ Tát có đủ bốn nhiếp pháp , do đây mà đại Bồ Tát mãi mãi nhiếp lấy chúng sanh.
Những gì là bốn? Đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
Những nhiếp pháp ấy thế nào ? Bố thí có hai thứ là tài thí và pháp thí. Ái ngữ là đối với tất cả người đến cầu xin hoặc muốn nghe pháp, Bồ Tát đều hay nói lời mến thương ủy dụ. Lợi hành là hay làm đầy đủ theo ý thích ưa của mình của người. Đồng sự là tùy mình có những trí và công đức vì người mà diễn nói nhiếp thọ xây dựng tất cả chúng sanh cho họ an trụ hoặc nơi trí hoặc nơi pháp.
Lại nầy Đồng Tử! Ở nơi các chúng sanh đến cầu xin thì tâm ý thanh tịnh, đây là bố thí. Dùng lời lành an ủi, đây là ái ngữ. Làm cho đầy đủ thành tựu nghĩa lợi, đây là lợi hành. Hiện hành tâm bình đẳng làm thành nghĩa lợi cho họ, đây là đồng sự.
Lại nầy Đồng Tử! Bố thí là chư đại Bồ Tát phát ý hành xả. Ái ngữ là phương tiện vô gián. Lợi hành là thâm tâm không hối. Đồng sự là hồi hướng Đại thừa.
Lại bố thí là theo từ tâm mà thật hành xả. Ái ngữ là thường chẳng bỏ rời tâm hoan hỉ. Lợi hành là thành tựu đại bi tâm thường ưa thích việc lợi ích chúng sanh. Đồng sự là tu xả bình đẳng không cao hạ tâm luôn hồi hướng Nhứt thiết chủng trí.
Lại bố thí là cầu tài đúng pháp thường nghĩ bố thí cứu nghèo thiếu.
Ái ngữ là đã bố thí rồi còn an trí họ ở nơi pháp nghĩa.
Lợi hành là tự lợi lợi tha bình đẳng nhiếp lấy.
Đồng sự là vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh nên cứu cánh phát tâm Nhứt thiết chủng trí.
Lại bố thí là tất cả sở hữu trong ngoài đều xả ly cả.
Ái ngữ là nơi tất cả công đức trí huệ không hề giấu tiếc.
Lợi hành là xả tự lợi chuyên lo lợi tha.
Đồng sự là nhiếp tài vật như để trong bàn tay rồi tùy duyên ban cho lòng
không ưu sầu.
Lại pháp thí là như pháp đã nghe nói rộng lại cho người .
Ái ngữ là dùng tâm không ô nhiểm mà phân biệt khai thị.
Lợi hành là dạy người đọc tụng nhẫn đến thuyết pháp không nhàm mỏi.
Đồng sự là chẳng rời bỏ tâm Nhứt thiết trí mà đặt để chúng sanh ở chánh pháp.
Lại pháp thí là vì người đến lui cầu nghe pháp, thì dạy nói đúng pháp của Phật mà chẳng tuyên nói tạp loạn.
Ái ngữ là dùng âm thanh vi diệu khai thị chánh pháp.
Lợi hành là đem y phục đồ uống ăn mền nệm thuốc men và những đồ thiết dụng cấp thí cho người nghe pháp hoặc người thuyết pháp mà thiếu thốn.
Đồng sự là thường phát khởi thâm tâm vô gián thuyết pháp.
Lại pháp thí là vì biết rõ pháp thí là tối thượng trong bố thí nên Bồ Tát thường thật hành pháp thí.
Ái ngữ là những sự lợi ích được diễn thuyết.
Lợi hành là diễn đạt nghĩa ấy chẳng y theo văn.
Đồng sự là muốn khiến viên mãn tất cả Phật pháp nên thường vì chúng sanh theo đúng chỗ đáng dạy mà hóa độ họ.
Lại bố thí là Đàn na Ba la mật. Ái ngữ là Thi la Ba la mật và Sằn đề Ba la mật. Lợi hành là Tỳ lê gia Ba la mạt. Đồng sự là Tĩnh lự Ba la mật và Bát Nhã Ba la mật.
Lại bố thí là chư Bồ Tát sơ phát tâm. Ái ngữ là chư Bồ Tát đã phát hạnh. Lợi hành là chư Bồ Tát bất thối chuyển. Đồng sự là chư Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ.
Lại bố thí là muốn vững chắc gốc rễ Bồ đề. Ái ngữ là muốn thành tựu mầm mộng Bồ đề. Lợi hành là muốn khai phát diệu hoa Bồ đề. Đồng sự là muốn thành thục thắng quả Bồ đề.
Nầy Tinh Tấn Hành Đồng Tử ! Đây gọi là đại Bồ Tát bốn thứ nhiếp pháp. Vì muốn tu hành đại Bồ đề nên đại Bồ đề dùng bốn nhiếp pháp ấy ở trong đêm dài nhiếp thọ chúng sanh. Đây gọi là đại Bồ Tát tùy theo nhiếp pháp mà chuyển.
Nầy Đồng Tử ! Nhiếp pháp ấy có vô lượng vô biên đều gọi là đạo Bồ đề vậy.
Đức Đại Uẩn Như Lai khai thị đạo đại Bồ đề như vậy, Tinh Tấn Hành Đồng Tử ở chỗ Phật nghe pháp ấy rồi, lại nghe lời khen ngợi tam thế chư Phật ; Đồng Tử ấy rất vui mừng, liền đem y phục thượng diệu, đồ uống ăn, mền nệm, thuốc men và các vật cần dùng dưng cúng đức Phật Đại Uẩn và chư Thanh Văn Tăng. Trải qua chín mươi sáu câu chi năm cúng dường cung kính tôn trọng tán thán Phật và tăng như vậy và phát nguyện đại Bồ đề.
Dầu Đồng Tử ấy làm vô lượng công đức như vậy, mà đức Phật Đại Uẩn chưa thọ ký Vô thượng Bồ đề cho Đồng Tử ấy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ông có nghĩ Đồng Tử Tinh Tấn Hành thưở xưa kia là ai chăng ? Chính
là thân ta vậy. Thuở ấy ta cúng dường, phụng thờ Phật Đại Uẩn và chư Tăng trải qua bao nhiêu năm như vậy lại phát nguyện đại Bồ đề mà chưa được thọ ký.
Từ sau đức Đại Uẩn Như Lai diệt độ trải qua vô số kiếp, có Phật Bửu Tánh Như Lai xuất thế có tám mươi na do tha đệ tử Thanh Văn đều là đại A La Hán chứng được Đệ nhứt Ba la mật.
Thời kỳ ấy có Chuyễn Luân Thánh Vương tên Thiện Kiến đủ bảy báu. Vua Thiện Kiến dùng luân bửu oai trấn tứ thiên hạ, trị thế với chánh pháp nên hiệu là Pháp Vương, nhơn đức nuôi người được dân chúng mến trọng, cõi nước nhơn dân chỗ ở rộng rãi. Đại thành của vua ngự trị tên Viên mãn , Đông Tây rộng mười hai do tuần. Nam Bắc rộng bảy do tuần, an ổn giàu vui, nhơn dân đông mạnh, rất đáng mến thích, có nhiều của báu, đồ dùng dư dật. Trong thành Viên mãn ấy có Trưởng giả tên Thiện Huệ nhà giàu có lớn. Trưởng giả ấy đã từng cúng dường chư Phật quá khứ gieo trồng cội công đức.
Bấy giờ Phật Bửu Tánh Như Lai quan sát Trưởng giả Thiện Huệ biết Trưởng giả ấy thiện căn đã thục kham làm pháp thí đại Bồ Tát tạng và là pháp khí chư Phật . Đức Phật liền đến nhà Trưởng giả ấy hiện đại thần biến, ngồi kiết già trên không khai diễn đạo Bồ đề cho Trưởng giả ấy và nói lời khen tặng tam thế chư Phật.
Nghe đức Bửu Thắng Như Lai thuyết pháp khai thị và nghe lời khen ngợi tam thế chư Phật, Trưởng giả Thiện Huệ được lòng tin thanh tịnh vui mừng lớn, liền đem y phục thượng diệu đồ uống ăn mền nệm thuốc men đồ cần dùng cúng dường Phật và chư Tăng trải qua ngàn năm và phát nguyện đại Bồ đề. Dầu vậy vẫn chưa được Phật Bửu Tánh thọ ký.
Nầy Xá Lợi Phất ! Trưởng giả Thiện Huệ thuở xưa ấy chính là thân ta vậy. Thuở ấy ta cúng dường Phật và Tăng một ngàn năm vẫn chưa được thọ ký thành Phật.
Sau khi Phật Bửu Tánh nhập diệt vô số kiếp có đức Phật Phóng Quang NHư Lai xuất thế. Tại sao đức Phật ấy hiệu là Phóng Quang ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Thuở ấy nhà vua trị vì hiệu là Thắng Oán, đô thành tên Thạnh Liên Hoa, an ổn giàu vui, nhơn dân đông mạnh. Nhà vua có một đại thần dòng Bà La Môn tên Quang
Chủ rất được vua mến trọng. Thắng Oán Vương cắt một phần tư nước phong vương cho đại thần Quang Chủ. Lúc sau vua Quang Chủ sanh Thái Tử thân hình đoan chánh có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, mỗi thân phần đều phóng tia sáng như mặt nhựt chói lọi, nhơn đó đặt tên là Phóng Quang.
Quang Chủ Vương triệu tập các nhà xem tướng giỏi vào cung rồi đưa TháiTử ra cho họ xem tướng. Xem xong họ đồng quyết đoán Vương Tử sẽ làm Phật. Sau đó ít lâu Thái Tử Phóng Quang trưởng thành có trí huệ thông đạt.
Bấy giờ Trời Tịnh Cư Sắc Cứu Cánh dùng sức thông trí biết Thái Tử sắp lên ngôi Chánh giác, liền đến chỗ Thái Tử hữu nhiễu xong, ở trước Thái Tử mà nói kệ rằng :
Chẳng phải ở an trong Vương cung
Sanh được công đức thắng thanh tịnh
Phải nhờ xuất gia mặc ca sa
Chứng quả Vô thượng diệu Bồ đề
Trẻ mạnh qua mau như nước chảy
Lại còn nhanh chóng hơn gió to
Già suy tồi tệ chẳng nên ưa
Hư hoại những gì người đời mến
Già suy hay làm kém thế lực
Muốn được xuất gia cũng khó được
Bồ Tát ngày nay tuổi tráng niên
Phải nên kịp thời phát tinh tấn
Lành thay lành thay bực đại huệ
Lành thay lành thay bực đại ngộ
Lành thay lành thay mau xuất gia
Quyết thành Vô thượng Đẳng chánh giác.
Được trời Tịnh cư khai ngộ, Phóng Quang Bồ Tát do lòng tin thanh tịnh mà xuất gia. Đương đêm xuất gia ấy liền thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác lấy hiệu là Phóng Quang Như Lai đủ mười đức hiệu được tất cả trời người kính thờ
Bấy giờ Thắng Oán Vương đến bảo Quang Chủ Vương rằng : Ta nghe con trai khanh xuất gia thành Phật. Chẳng rõ đức Thế Tôn đại từ bi giáng lâm chăng ? Nếu đức Phật chẳng thương xót đến nơi đây, thì ta sẽ mang bốn binh chủng đến chỗ đức Như Lai để ta thân thờ cúng dường cung kính.
Quang Chủ Vương liền hội đại thần tuyên rõ việc ấy. Chư đại thần khuyên vua phải tự đến chỗ Phật để bạch hỏi sự việc đức đại bi Thế Tôn luôn thương xót chúng sanh muốn đến chỗ Thắng Oán Vương hay là chẳng đến.
Quang Chủ Vương liền xa giá cùng quan quân qua
chỗ đức Phật Phóng Quang đảnh lễ chưn Phật rồi bạch sự việc ấy.
Phóng Quang Như Lai nói với Phụ Vương rằng : Nay Phật sẽ đến chỗ Thắng Oán Vương vì thương xót chúng sanh vậy !
Đức Phóng Quang Như Lai liền cùng hai mươi câu chi đại A La Hán đi qua nước Thắng oán Vương. Phụ Vương Quang Chủ cũng mang quan quân tùy tuần, sắm đủ thứ sự thường cúng dường Phật và Tăng, đến biên giới nước được trị vì, Phụ Vương lễ chưn Phật buồn khóc trở về.
Bấy giờ Thắng Oán Vương nghe tin đức Phóng Quang Như Lai và đại chúng sắp đến thành Thạnh Liên Hoa, liền truyền nghiêm sức đô thành, trừ bỏ sỏi đá rác rưới , đường sá sửa sang bằng phẳng sạch sẽ, lại rưới nước hương, rải hoa đẹp, trải y báu, treo phan lọng, trổi âm nhạc. Vua lại truyền rao trong và ngoài đô
thành có bao nhiêu hương và hoa không ai được đem dùng, nhà vua sẽ mua hết để cúng dường Phật và Tăng, người nào vi lịnh sẽ bị nghiêm phạt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thắng Oán Vương đem những vòng hoa, hương thoa hương bột, y phục quý đẹp, tràng phan lọng báu, đánh trống trổi nhạc, lai trần thiết nghi vệ oai thế đại vương ra ngoài đô thành để được chiêm ngưỡng đức Phóng Quang Như Lai và kính lễ cúng dường. Vua cùng quan quân và
các hào tộc Bà La Môn Trưởng Giả Cư Sĩ trong nội thành đồng đến chỗ Phật. Đã đến rồi, trước hết vua Thắng Oán đảnh lễ chưn Phật đem hoa hương phan lọng cúng dường. Kế vua truyền lịnh quan quân hào tộc dân chúng cùng đảnh lẽ cúng dường đức Phật. Cúng dường xong vua Thắng Oán có đủ tâm hoan hỉ, tâm diệu thiện, tâm ly cái chướng, tâm vui đẹp cùng chư thần dân theo sau đức Phật.
Nầy Xá Lợi Phất !Lúc ấy có một Bà La Môn tên Trân Bửu ở cạnh núi Đại Tuyết, năm trăm nho đồng tử làm đệ tử, Bà La Môn Trân Bửu ấy được mọi người tôn trọng, danh đức đồn xa, giỏi nghệ thuật, thong đạt cứu cánh ba kinh Tỳ Đà, sách Ni Kiền Trà, luận Kế La Bà, luận Phân Biệt Tự, luận Ý Để Ha Bà, luận Ngũ Phần Ký, luận Tùy Thuận Thế, luận Từ Tự Chủ, luận Trượng Phu Tướng, ở nơi tam minh đại giáo của sự tông sư cũng hiểu rành lý thú khéo biết khai giá. Trong năm trăm đệ tử có một nho đồng tên Mê Già trí huệ thông đạt tài bằng với Thầy là Bà La Môn Trân Bửu, kham làm đạo Thủ, Mê Già thưa cùng Thầy rằng : Đại Sư nên biết cho, tất cả kinh luận được học đều đã thông đạt, nay tôi sẽ trở về sanh quán, làm sao báo đền được ơn đức Đại Sư ? Thầy bảo rằng : Nầy Mê Già! Nếu đệ tử muốn báo ơn Thầy thì dùng của báu mới rõ hậu ý. Đó là những gì ? Nếu kiếm được đủ năm trăm đồng vàng thì đủ để tỏ hết lòng.
Mê Già vâng lời kính lễ từ Thầy mà đi. Nho đồng ấy du hành khắp thôn thành đình quán quốc ấp vương đô, xứ xứ tìm cầu của báu để tạ ơn thầy. Họp đủ số tiền ấy rồi toan đem báo ơn, đi lần đến đô thành Thạnh Liên Hoa, xa trông thấy đô thành trang trí nghiêm
lệ, hỏi thăm được biết ngày ấy có đức Phóng
Quang Như Lai cùng
hai mươi câu chi đại A La Hán và tám vạn bốn ngàn Bồ Tát sắp nhập đô thành nên nhơn dân sắm sửa cúng dường lớn, do đó mà đô thành được trang nghiêm như vậy.
Thoạt nghe danh hiệu Phật, Nho đồng Mê Già được đại hoan hỉ phát lòng tin thanh tịnh tự nghĩ rằng : Chư Phật Như Lai xuất thế rất khó được gặp cũng rất khó như hoa ưu đàm, như rùa mù đáy biển gặp được bọng cây nổi, cả trăm ngàn đại kiếp hoặc được gặp một lần. Nay ta được gặp thật là hy hữu, phải đem năm trăm đồng vàng nầy mua hoa quí rải cúng dâng lên đức Phóng Quang Như Lai, rồi sẽ lại kiếm tiền khác báo ơn thầy. Lúc ấy có một nữ nhơn tay ôm bảy cành bông ưu bát la từ phía chợ đi lại. Mê Già đón hỏi nơi nào có được hoa đẹp sanh dưới nước thế nầy. Nữ nhơn đáp tôi ở tại chỗ bán vòng hoa mua những hoa nầy với giá năm trăm đồng vàng. Mê Già nói nay tôi
trả lại cô số vàng ấy cô có chịu trao hoa chăng ? Nữ nhơn chẳng chịu. Mê Già lại nói : Nay tôi có năm trăm
đồng vàng đây cô giữ lấy một mình. Còn bảy cành hoa nầy hai người cùng có chung được chăng ? Nữ nhơn hỏi, anh muốn dùng hoa nầy vào việc gì ? Mê
Già đáp sẽ đem cúng dường đức Phóng Quang Như Lai. Nữ nhơn nói cứ như lời anh thì từ nay về sau đời đời thường có lòng thương tưởng làm chồng tôi. Nếu chịu như vậy tôi sẽ giao cho anh hoa nầy. Mê Già nói : Thôi đi, cô
chớ nói như vậy. Tại sao ? Vì tánh nữ nhơn giao động nhẹ dạ nhiều phóng túng, tôi không thể hứa nhận lời cô được. Vả lại tôi sẽ ở trong vô số kiếp tu tập Phật pháp bố thí rộng lớn, hoặc của tiền sản nghiệp, hoặc ngôi vua thành ấp, hoặc vợ con, hoặc đầu mắt thịt xương, đại khái là tất cả sở hữu trong thân ngoài thân,
không vật gì là chẳng đem bố thí. Hoặc có lúc sẽ bỏ cô mà vào trong Phật pháp xuất gia. Tánh nữ nhơn giao động nhẹ dạ phóng túng, lúc tôi tu bố thí lớn cô có thể làm chướng ngại hạnh đại xả của tôi. Nữ nhơn ấy đáp : Thiệt như lời anh nói thì có lợi ích lớn cho tôi. Dầu cho hiện nay anh có dem thân của tôi đây bán lấy một đồng vàng, lòng tôi cũng
không hối, quyết chẳng làm ngại sự bố thí của anh. Hoặc chặt thân tôi ra từng đoạn để xả thí, quyết cũng không đổi lòng làm trở ngại sự tu tập Phật pháp của anh. Mê Già nói nếu cô có thể bằng lòng như vậy thì được. Cô nên mau trao hoa cho
tôi. Nữ nhơn cầm hoa trao cho Mê Già.
Được hoa Mê Già tức thì đi đến chỗ Phật, xa trông thấy Đức Phóng Quang Như Lai cùng vô lượng đại chúng oai nghi tường tự vô lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm từ đầu kia đi lại.
Thấy đức Phật Thế Tôn, Mê Già sanh lòng tin thanh tịnh vô lượng hoan hỉ kính mến đến trước Phật kính lạy chẳng xiết vui mừng. Lại thấy nhiều người trải y vô giá để cúng dường Phật. Mê Già tự nghĩ rằng nay tôi không có y tốt, chỉ có cái y da hươu xấu này nên trải giữa đường đở chưn đức Phật. Liền cởi y trải trên đất.
Lúc ấy mọi người đua nhau đến lấy y da đem bỏ ngoài xa và đều cười trách rằng sao lại vì đấng báu quí nhứt trong đời mà lại trải cái y da hươu xấu ấy. Mê Già Nho đồng vội chạy lượm y da rồi đem trải trên chỗ bùn ướt bên đường ngã tư mà nghĩ rằng Phóng Quang Như Lai, đấng đại từ bi thương xót tôi mắt thấy khắp của Phật và trí biết khắp của Phật thấy biết việc nầy mong Phật lấy chưn đạp lên y da hươu của tôi.
Phóng Quang Như Lai cảm thương bèn lấy gót chưn dẫm lên y da hươu. Thấy vậy, Mê Già lòng vui mừng hớn hở liền đem hoa ưu bát la ném lên không phiá
trên đức Phật. Trên hư không lại có vô lượng chư Thiên đồng thời rải hoa trời mạn đà la, ưu bát la, bát đầu ma, câu vật đầu, phân đà lợi, và các thứ hương trời : chiên đàn, hương bột. Âm nhạc trời, thanh ca trời vang khắp hư không cùng cúng dường Phật. Hoa của Mê Già ở riêng một chỗ trên không biến thành vô lượng ngàn hoa ưu bát la, cánh hoa đều thòng xuống hiệp thành lộng hoa bay theo trên Phật.
Thấy như vậy, Mê Già thêm hớn hở phát khởi lòng tin thanh tịnh ở trước Phật tháo mở búi tóc màu hoàng kim mười hai năm để trải trên đất và phát nguyện Vô thượng đại Bồ đề : đời sau nếu tôi được thành Phật, thì nay xin được đức Phóng Quang Như Lai đưa tay an ủi. Lại phát thệ lớn kiên cố rằng : Nếu đức Phật gót chẳng đạp trên tóc tôi, tay chẳng đưa an ủi tôi, chẳng thọ ký Bồ đề cho tôi, thì tôi quyết chẳng đứng dậy mà chết khô trên chỗ đất nầy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Phóng Quang Như Lai Ứng Cúng Đẳng chánh Giác có mắt thấy khắp, có trí biết khắp, trong ba đời không sự việc gì mà chẳng thấu tỏ, biết rõ dục giải của Mê Già nên đức Phật cất gót dẫm lên tóc Mê Già rồi, ngoái ngó bên hữu bảo chư Thanh Văn đại chúng rằng : chư Tỳ kheo chớ đạp tóc nầy. Tại sao ? Vì nho đồng nầy sau đây vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc ấy Mê Già nghe Phật thọ ký hớn hở vui mừng liền bay lên hư không cao bảy cây đa la, chứng được trăm ngàn câu chi na do
tha chánh định vô động, do thần thông trí lực xem thấy phương đông có hằng sa vô lượng chư Phật đều thọ ký cho mình rằng.Nầy nho đồng ! Sau đây vô số kiếp, ngươi sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni . Ba phương kia và bốn hướng thượng hạ mười phương chư Phật thọ ký cũng như vậy.
Được chư Phật thọ ký an ủi rồi, Mê Già từ trên không xuống đến chỗ Phật do lòng tin mà xuất gia tu tập phạm hạnh kiên cố thanh tịnh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nho đồng Mê Già thuở ấy chính là thân ta vậy. Nếu có đại Bồ Tát muốn sớm được Phật thọ ký thì nên ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nghe tụng hiểu biết nghĩa dạy lại người, lại nên tu hành chánh hạnh vô tướng. Tại sao ? Vì ta nhớ lúc trước gặp đức Phóng Quang Như Lai, không có pháp hạnh bạch tịnh nào mà ta chẳng tu hành. Dầu vô lượng cần khổ như vậy nhưng chẳng được Phật thọ ký. Tại sao ? Vì là hữu tướng tu. Sau đó ta mới ở nơi pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng nghe học an trụ chánh hạnh, đó là vô tướng hạnh, vô công dụng hạnh, vô sở đắc hạnh. Tu hạnh vô tướng như vậy nên được đức Phóng Quang Như Lai thọ ký.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ta nhớ lúc đầu mới gặp đức Phóng Quang Như Lai ta được siêu quả tất cả hạnh hữu tướng hữu công dụng. Lúc mới thấy Phật ta được tùy giác tánh tất cả pháp , lại được thông đạt tự tánh vô sanh của tất cả pháp. Kế đó đức Phật thọ ký cho ta rằng Mê Già nho đồng sau đây vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Đương lúc Phật thọ ký, ta chứng được vô sanh pháp nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chứng được những vô sanh pháp nhẫn gì ?
Ta chứng được : Tất cả sắc pháp vô sở đắc nhẫn,tất cả thọ tưởng hành và thức vô sở đắc nhẫn, tất cả pháp uẩn xứ giới vô sở đắc nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nói được nhẫn là nhẫn thọ các pháp đều vô sở đắc. Tại sao ? Vì chẳng phải lúc chứng được nhẫn như vậy mà pháp thế gian còn hiện hành, chẳng phải pháp dị sanh , pháp hữu học, pháp vô học, pháp Độc Giác, pháp Bồ Tát, Pháp Phật mà còn hiện hành. Tại sao ? Vì do tất cả pháp thế gian xuất thế gian chẳng hiện hành mà nói là đắc nhẫn, do tất cả pháp cứu cánh không được cũng không bị được nên gọi là đắc nhẫn. Lại nhẫn ấy, trong một sát na tận hết tất cả tướng và các sở duyên nên gọi là đắc nhẫn. Lại nhẫn ấy chẳng nhẫn thọ nhẫn cũng chẳng hoại mất nhẫn và các sở duyên nên gọi là đắc nhẫn, chẳng nhẫn thọ nhĩ tỷ thiệt thân và ý cũng chẳng hoại mất nhĩ tỷ thiệt thân và ý cùng các cảnh duyên nên gọi là đắc nhẫn.
Nhẫn ấy không tận hết cảnh giới cũng chẳng xu đến cảnh giới nên gọi là đắc nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Vì thế nên đại Bồ Tát muốn mau được Phật thọ ký chứng vô sanh pháp nhẫn ấy, thì phải ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nầy ân trọng nghe học thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa thú rộng giảng dạy người, an trụ chánh hạnh, đó là hạnh vô tướng, hạnh vô công dụng, hạnh vô sở đắc, các hạnh ấy gọi là chánh hạnh vậy”.
Bấy giờ trong đại chúng có trưởng giả tử tên Na La Đạt Đa nghe đức Thế Tôn nói pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, lại nghe tán thán công đức của chư Phật chư Bồ Tát rồi liền rời chỗ ngồi trạch vai hữu, gối hữu chấm đất, hướng Phật đảnh lễ cung kính chấp tay mà bạch Phật rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn, trước vì chư trưởng giả nói rộng các pháp tương tục bất tuyệt khai thị như vậy, giáo đạo như vậy làm cho đều chứng quả A La Hán, tức tại đời nầy tận hết mé sanh tử, mà chưa từng nghe và nói pháp môn vi
diệu đại Bồ Tát tạng và khen ngợi công đức của chư Phật, chư Bồ Tát. nay tôi may mắn được nghe, được lợi ích lớn nên phát sanh quan niệm rằng : Đại thừa như vậy là tôn là thắng là thượng là diệu, là vô thượng là vô quá thượng, đó là Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nay tôi hiện tiền được thân nghe đức Phật nói thọ trì lãnh ngộ mở tỏ các pháp. Các pháp ấy là phân biệt các pháp không chỗ nương nắm, không ngã không ngã sở, không có nhiếp thọ
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi nghĩ rằng : Trong tất cả thừa mà vô thượng đó là Phật thừa . Chư Phật Như Lai cũng nói thừa ấy là tối đệ nhứt, là tối vô thượng. Từ ngày nay tôi phát khởi tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì muốn làm lợi ích an lạc các chúng sanh, vì muốn xót thương các thế gian . Như đức Phật xây dựng chư đại Bồ Tát bao nhiêu học xứ, nay tôi sẽ đều y theo học hết cả “.
Đức Phật bảo trưởng giả tử Na La Đạt La : “ Lành thay ! lành thay ! Nầy thiện nam tử ! Vô thượng Bồ đề rất khó tin khó chứng, rất khó tu khó học. Nay ông có thể phát được tâm ấy”.
Trưởng giả tử Na La Đạt La bạch đức Phật : “ Vô thượng Bồ đề dầu rất khó tin khó chứng, rất khó tu tập, nhưng nay tôi phát khởi tâm dũng mãnh tinh tấn quyết sẽ tu tập Vô thượng Bồ đề chẳng lấy làm khó, lại ở nơi Vô thượng Bồ đề ấy tôi phụng tu mạnh chắc quyết không thối chuyển.
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi phát hoằng thệ :
Giả sử phát tâm Bồ đề như số cát sông Hằng mới chứng được Vô thượng Bồ đề, ở nơi sự ấy tôi càng tinh tấn thêm mỗi mỗi đều phát tâm như vậy trải qua số kiếp như hằng sa nhẫn đến tùy theo chỗ phát tâm ấy, mỗi mỗi chỗ phát phải do chặt đứt hằng sa thân phần đầu mình mới phát khởi được tâm Bồ đề ấy, tôi ở trong sự cần khổ ấy càng thêm tinh tấn trọn chẳng buông bỏ Vô thượng Bồ đề. Tại sao ? Vì mặc dầu gặp phải những sự đau khổ ấy vẫn phải tu tập nhờ duyên ấy tất chứng Bồ đề. Huống là chứng Vô thượng Bồ đề thọ các an lạc mà chẳng tu học . Tại sao ? Vì Vô thượng Bồ đề tánh nó cao rộng đầy đủ lớn khắp. Phật pháp vô thượng chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể cân lường không có bờ mé chẳng thể tuyên nói. Dầu là vô ngại trí của chư Phật trải trăm ngàn câu chi na do
tha kiếp dùng các ngôn âm tuyên nói Bồ đề ấy chẳng dễ hết được.
Trưởng giả tử Na La Đạt Đa ở trước Phật nói kệ rằng :
“Trăm ngàn câu chi kiếp
Mới phát Bồ đề tâm
Dầu nhiều khổ bức hại
Chẳng bỏ chúng sanh giới
Lúc phát tâm Bồ đề
Cần chặt thân và đạo
Khối lượng bằng Tu Di
Tôi cũng kham nhẫn được
Tôi an trụ Bồ đề
Vì lợi lạc chúng sanh
Nguyện cho tôi đời sau
Như Thế Tôn ngày nay
Xa thừa Thanh Văn kia
Gồm cứu người hạ thừa
Nguyện tôi ở đời sau
Như Thế Tôn ngày nay
Thừa đây là đại thừa
Được chư Phật khen tặng
Tôi thấy không gì bằng
Nên tôi thích Bồ đề
vì cứu vớt nguy ách
Vì thoát ba ác đạo
Vì cầu Như Lai đây
Xuất thế hiện thành Phật “,
Nói kệ rồi, Trưởng giả Na La Đạt Đa nghĩ rằng : Nay tôi minh đạt Phật pháp quảng đại sao tôi chẳng đem giáo hóa vợ con quyến thuộc. Trưởng giả liền đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu
ba vòng rồi mau về nhà sắm đồ cúng dường cùng vợ con trai con gái và tôi trai tớ gái tất cả đồng có bảy người, mang bảy cặp y phục thượng diệu và những hoa hương đồ cúng dường với năm trăm nhạc công cùng nhau đi vội ra khỏi thành Vương Xá để được phụng kiến đức Thế Tôn.
Thấy vậy có nhiều người hỏi . Trưởng giả tử ấy bảo mọi người rằng: Nay có đức Phật Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác ở núi Linh Thứu, vô lượng trăm ngàn trời người đại chúng cùng hội. Đức Phật dùng vô lượng phương tiện vì chúng sanh mà tuyên nói khai thị Phật Pháp quảng đại , nên tôi đem quyến thuộc đến chỗ đức Phật ngự để cầu Phật pháp quảng đại ấy, để cầu thành tựu Phật trí huệ chẳng nghĩ bàn chẳng cân lượng được ấy , vì muốn gieo trồng cội lành Vô thượng Bồ đề. Các người nếu muốn thành tựu Phật pháp quảng đại thì nên cùng nhau đi đến chỗ đức Phật Như Lai sẽ cùng gieo trồng cội lành Phật pháp vô thượng quảng đại ấy.
Nghe xong có mười ngàn người ở thành Vương Xá đều muốn đi theo trưởng giả tử đến chỗ đức Phật ngự.
Trưởng giả tử Na La Đạt Đa cùng quyến thuộc và mười ngàn người đồng đến chỗ Phật, đảnh lễ chưn Phật rồi ở qua một bên. Trưởng giả tử cùng đại chúng tùy tùng đem hoa hương y phục phan lọng trỗi nhạc ca tụng cúng dường đức Như Lai, và đem y phục báu đẹp trùm lên mình Phật. Cúng dường xong , Trưởng giả tử vui mừng vô lượng liền ở trước Phật ca tụng ngợi khen nói kệ rằng :
“Đấng trượng phu vi diệu đệ nhứt
Chứng thanh tịnh Vô thượng Bồ đề
Phát khởi vô biên thắng trí kiến
Nay tôi cúng dường đức Như Lai
Xưa vô lượng kiếp nhiều tu hành
Vì lợi chúng sanh cầu đại giác
Chứng pháp tự tại hiện thành Phật
Nay tôi cúng dường đức Như Lai
Tôi cùng vợ con chúng quyến thuộc
Vì lợi chúng sanh cầu Bồ đề
Và cùng mười ngàn nhơn dân chúng.
Đồng chung qui y đấng Đại giác ”.
Trưởng giả tử nói kệ xong bạch đức Phật : “ Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi cùng đại chúng đây đến trước đức Như Lai, tất cả đều đã an trụ Vô thượng Bồ đề. Xin đức Thế Tôn vì thương xót mà lại thuyết pháp cho họ chẳng còn thối chuyển Vô thượng đạo. Nay tôi muốn ở chỗ Phật trồng cội lành xin đức Thế Tôn hiện chứng cho tôi. Sẽ khiến sức thiện căn ấy làm cho chúng sanh bình đẳng mau chứng Vô thượng Bồ đề, lại được vô lượng Phật pháp quảng đại như đức Phật hiện nay.
Trưởng giả tử cùng quyến thuộc và năm trăm nhạc công mười ngàn nhơn chúng nhứt tâm đồng thanh bạch Phật : “ Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi nay ở trước đức Như lai đồng chí thành quy y với Phật, quy y với Pháp, quy y với Tăng. Xin đức Thế Tôn ghi nhớ chúng tôi là Ưu Bà Tắc bắt đầu ngày nay nhẫn đến thọ chung, thà bỏ thân mạng chớ chẳng bỏ tâm tin thanh tịnh quy y. Lại xin đức thế Tôn ghi nhớ chúng tôi , bắt đầu ngày nay cho đến Bồ đề , vì Vô thượng Bồ đề mà phát khởi tâm tăng thượng dũng mãnh. Lại xin đức Thế Tôn ghi nhớ cho chúng tôi, nguyện mau chứng Vô thượng Bồ đề vì các chúng sanh tuyên
nói chánh pháp như đức Phật hiện nay. Lại xin đức Thế Tôn ghi nhớ cho chúng tôi, nguyện đời sau lúc thành Phật, đại chúng vây quanh như Phật hiện nay. Lại xin đức Thế Tôn ghi nhớ cho chúng tôi, nguyện đời sau độ thoát vô lượng chúng sanh khổ bức như Phật hiện nay.
Phát thệ xong, Trưởng giả tử cùng đại chúng và các nhạc công lại đem các thứ âm nhạc vi diệu cúng dường đức Phật
Vì thương đại chúng ấy nên đức Phật bay lên hư không ngồi kiết già. Năm trăm nhạc công thấy Phật hiện thần biến càng sanh tín tâm đối với đức Phật. Do oai lực của Phật, các nhạc khí chẳng cần nhiếp trì tự nhiên bay vọt lên hư không trỗi các bản nhạc âm thanh hữu nhiễu đức Như Lai.
Thấy thần biến ấy, Trưởng giả tử và đại chúng đều cho là chưa từng có vui mừng hớn hở , đồng chấp tay kính lễ đức Như Lai.
Bấy giờ trên hư không giáp vòng đúng một do tuần lại có vô lượng trăm ngàn nhạc khí tự nhiên hiện ra như ổ ong treo lơ lửng không ai cầm giữ , nhạc khí ấy đồng hòa tấu âm điệu vi diệu.
Trưởng giả tử cùng quyến thuộc, năm trăm nhạc công, mười ngàn người thành Vương Xá, vá pháp hội đại chúng sáu mươi ngàn người, chư Tỳ kheo ngàn hai trăm năm
mươi người, do oai lực Phật đều bay vọt lên hư không. Lại do thần lực của Phật, trên hư không hiện ra năm trăm nhạc đài, trong đài ấy đều nói diệu pháp. Lại có bốn đài nhạc lớn hiện trước Phật trang nghiêm điêu sức đẹp lạ khác thế gian. Lại có vô lượng trăm ngàn câu chi chư Thiên chúng đứng trên không rải hoa mạn đà la trên đức Phật. Do thần lực của Phật, hoa ấy ở trên không hóa thành tám vạn đài báu cao đẹp. Đại chúng thấy trong đài trên ấy có những trang nghiêm rộng lớn như vậy, nên đối với đức Như Lai càng thêm sanh lòng tin mến kính khen chưa từng có.
Đức Thế Tôn biết đại chúng tâm tưởng thanh tịnh, lại biết rõ Trưởng giả tử Na La Đạt Đa và chúng mới đến có ý nguyện thanh tịnh rồi , đức Phật hiện mĩm cười, nơi điện môn của đức Phật phóng ra vô lượng tia sáng báu đẹp chiếu suốt mười phương vô lượng chư Phật quốc độ rộng làm Phật sự rồi quay về nhập vào đảnh đức Phật.
Trưởng lão A Nan liền trịch y vai hữu hướng Phật chấp tay cung kính làm lễ bạch đức Phật : “ Bạch dức Thế Tôn ! Có nhơn duyên gì mà đức Phật hiện mĩm cười ? Tôi nghĩ rằng đức Như Lai hiện thần biến tất có nhơn duyên ”.
Đức Phật phán dạy : “ Nầy A Nan ! Trưởng giả tử Na La Đạt Đa và vợ con trai con gái tôi trai tớ gái, ba mươi sáu người nầy do sức thiện căn cúng dường Phật, đời tương lai trải ngàn câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo mà qua lại sanh trong trời người hưởng thọ khoái lạc. Qua khỏi kiếp ấy gặp Phật Thương Chủ xuất thế đủ mười đức hiệu. Ở nơi đức Phật ấy họ cúng dường cung kính tôn trọng tán thán rộng tu phạm hạnh. Sau đó trải qua hai mươi câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo.
Nầy A Nan ! Bảy người vợ bảy con gái và bảy tớ gái của Trưởng giả tử ấy từ thân nầy mạng chung bèn bỏ thân gái được thành thân nam tử hằng chẳng rời Na La Đạt Đa cùng tu Bồ Tát đạo, đời đương lai đồng ở trong một kiếp thành Vô thượng Bồ đề.
Na La Đạt Đa đại Bồ Tát thành Phật hiệu Bình Đẳng Tâm Như Lai đủ mười đức hiệu . Tất cả quyến thuộc sẽ thành Phật đều đồng hiệu A Nhã Mạt Nhã Như lai đủ mười đức hiệu. Năm trăm nhạc công đời sau trải vô số kiếp chẳng đọa ác đạo, lại trải qua làm dực tùng mãn ngàn câu chi Chuyển Luân Vương , Đại lược mà nói, năm trăm nhạc công nầy ở trong kiếp ấy gặp mười ngàn đức Phật đều được gần gũi cúng dường không sót, sau đó đồng ở trong một kiếp thành Vô thượng Bồ đề đều hiệu Mỹ Âm Như Lai đủ mười đức hiệu. Mười ngàn người thành Vương Xá đây do sức thiện căn cúng dường Phật. Bốn trăm nguời trong số đó sẽ gặp Từ Thị Như Lai và đều tu phạm hạnh được lậu tận mà nhập Niết bàn. Số người còn lại trải qua số kiếp hằng sa chẳng đọa ác đạo, lần lược được gặp ngàn câu chi đức Phật và rộng tu Bồ Tát hạnh, sau đó tất cả được thành Vô thượng Bồ đề đều đồng một hiệu Thậm Hi Hữu Như Lai đủ mười đức hiệu.
Nầy A Nan ! Trong chúng hội sáu vạn đây có một ngàn người sau khi ta diệt độ chánh pháp đã hết, lại qua khỏi kiếp đao binh . Từ Thị Như Lai chưa xuất thế , thời kỳ chúng sanh thọ mạng lần tăng trưởng, Thiện Bộ Châu có tám vạn Độc Giác xuất thế, ngàn người ấy đều được gặp và cúng dường tu pháp lành, sau đó gặp Từ Thị Như Lai và cúng dường , sau đó trải qua hai mươi lăm câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo, thân tối hậu làm người do sức thiện căn phát khởi tỉnh ngộ lòng tin thanh tịnh xuất gia chứng ngộ Duyên Giác Bồ đề. Trong đại chúng ấy có mười ngàn người phát sanh thành kiến , ngoài ra đồng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lại còn có sáu mươi na do tha Thiên Tử xa trần rời cấu sanh pháp nhãn thanh tịnh đối với các pháp.
Nầy A Nan! Có ai được thấy thắng lợi đặc biệt nầy mà chẳng phát khởi lòng tin thanh tịnh mến ưa cung kính phát tâm hi hữu đối với đức Như Lai. Chỉ trừ người ngu si bất tiếu . Tại sao ? Vì những đại chúng ấy ở nơi đức Như Lai chỉ tu căn lành nhỏ mà được lợi ích lớn như vậy, hoặc lại chứng nhập Vô thượng Bồ đề”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã ấy mà nói kệ rằng :
“Ở chỗ Phật tu những cúng dường
Được công đức thù thắng như đây
Nếu có mong cầu quả cao lớn
Nên cúng dường chư đại Đạo Sư
Hoặc Phật hiện tại tu cúng dường
Hoặc thời kỳ Phật đã Niết bàn
Cúng dường Xá Lợi như hột cải
Thường được hầu kề chư Như Lai
Nếu lại muốn tu các cúng dường
Như Lai ở đời hoặc Niết bàn
Cúng dường Xá lợi như hột cải
Hành tâm bình đẳng quả bình đẳng
Nếu người có tu tâm bình đẳng
Cúng dường đấng thượng trong bình đẳng
Sẽ thành báo thù thắng bình đẳng
Và chứng diệu Bồ đề bình đẳng
Nếu người muốn nhiếp các thiện đạo
Ngăn chướng trừ tuyệt các ác đạo
Và muốn xu hướng đường Niết Bàn
Sẽ được như vậy chẳng là khó
Phật có đủ thi la thanh tịnh
Phật có đủ tam muội thanh tịnh
Người sanh lòng tin thắng thanh tịnh
Sẽ được quả Như Lai tối thắng
Nếu tu tối thắng các cúng dường
Mau lên thiện đạo tối thù thắng
Và chứng chánh kiến đấng tối thắng
Tuyên nói pháp vi diệu tối thắng
Nếu thích làm người trí sáng suốt
Thân trì Phật chánh pháp thanh tịnh
Nên tu nguyện muốn chánh mãnh lợi
Đa văn như lý chánh tư duy
Có người được làm Chuyển Luân Vương
Hoặc làm Đế Thích Phạm Thiên Vương
Rộng tu vô lượng thắng công đức
Quyết được vô dư đại Niết Bàn”.
Đức Thế Tôn nói tụng kệ xong, bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Nếu có thiện nam tử , thiện nữ nhân an trụ Đại Thừa muốn mau chứng được Vô thượng Bồ Đề, phải ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng phát khởi nguyện muốn nghe học thanh tịnh mãnh lợi ân trọng, nghe rồi thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa thú rộng giảng dạy mọi người. Tại sao? Vì ở nơi kinh này mà nghe học thọ trì nhẫn đến rộng giảng dạy mọi người thì hay khiến Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt, thường chẳng xa rời bốn hạnh vô lượng, thường siêng tu tập sáu Ba la mật, thường chánh phương tiện dùng bốn nhiếp pháp nhiếp hóa chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Pháp môn vi diệu Đại thừa đại Bồ Tát tạng tức là Bồ Tát đạo, vì kinh điển này hay nhiếp trì Vô thượng Bồ đề vậy.
Này Xá Lợi Phất ! Kinh này là thánh trân bửu tạng của chư Bồ Tát. Ta y theo kinh này
chánh tu học rồi, cứu cánh chứng được sanh tử dứt hẳn và chứng tất cả Ba la mật. Do chứng như vậy nên ta hiệu là đấng Chánh đẳng Chánh Giác vô thượng.
Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở nơi tất cả Ba la mật đều đã cứu cánh. Đức Như Lai ở nơi tất cả việc làm đều đã lặng dứt. Đức Như Lai ở nơi tất cả địa đều đã chứng được và còn chứng được địa vô biên. Tại sao ? Do đức Phật chứng các Ba la mật ấy nên hay cứu cánh an trụ tất cả pháp Ba la mật.
Vì thế nên chư đại Bồ tát phải ở nơi pháp môn vi diệu đại Bồ tát tạng này mà tinh tấn tu hành như chỗ Phật đã chứng được”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Nơi nghiệp phải biết nghiệp
Nơi báo phải biết báo
Không nghiệp cũng không báo
Là Niết bàn an ổn
Các hữu vi đều khổ
Trong ấy không có trí
Thế nên trí sanh rồi
Hữu vi đều giải thoát”.
Đức Thế Tôn nói kệ xong, Trưởng Lảo Xá Lợi Phất và các Tỳ Kheo, cùng Thiên Nhơn Bát Bộ tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment