Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 117
PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI MỐT
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai trí huệ biết đời hiện tại, trí ấy vô ngại cũng vô chướng.
Trí ấy thế nào ? Như Lai biết rõ hiện tại mười phương các thế giới, số lượng chư Phật Bồ Tát Duyên Giác
Thanh Văn, những nhựt nguyệt tinh tú cỏ cây vi trần địa thủy hỏa phong đại hải núi sông vườn rừng, các loại chúng sanh lông
tóc hình sắc tâm ý thứ đệ sanh diệt ẩn mất. Cũng biết chúng sanh địa ngục ngạ quỷ súc sanh hiện nghiệp quả báo ở đời bao lâu lúc nào giải thoát, biết rõ phiền não giới, chư căn giới, ý giới, pháp giới. Tất cả sự việc hiện tại mười phương trí Như Lai biết rõ chơn thiệt, chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi hai của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai Vô thượng chẳng nghĩ bàn
Không ai biết Phật cảnh sở duyên
Chỗ biết của Phật như hư không
Vô lượng vô biên không thể nói
Phật nói vi diệu đệ nhứt nghĩa
Vì muốn chúng sanh được nghiệp Phật
Tự Tại Vương khéo hỏi Như Lai
Phật Thế Tôn đã tùy ý đáp.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn có đủ ba mươi hai nghiệp như vậy thì có thể điều phục tất cả chúng sanh.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn vì chúng sanh
nói các nghiệp ấy, mà thiệt thì Như Lai vô lượng nghiệp Vô thượng không thể kể nói.
Nầy thiện nam tử ! Nghiệp của Như Lai, tất cả thế gian chúng sanh chẳng suy nghĩ được, chẳng biết rõ được cũng chẳng tuyên nói được.
Nghiệp Như Lai ấy đều có thể bình đẳng biết khắp tất cả quốc độ như hư không. Tại sao ? Vì mười phương chư Phật đều bình đẳng vậy.
Nầy thiện nam tử ! Chư Phật Như Lai quan sát chúng sanh cùng thế giới giải thoát Niết bàn đều bình đẳng không sai khác.
Đức Phật Thế Tôn quán pháp giới đều bình đẳng nhứt vị rồi chuyển chánh pháp luân chẳng chuyển được.
Nầy thiện nam tử ! Ví như người thợ ngọc biết rành các loại châu báu, ở nơi núi báu được một viên bửu châu mang về ngâm trong nước, ngâm nước xong vớt ra ngâm dấm, rồi ngâm nước đậu, ngâm rượu đắng, ngâm xong để trong các chất nước thuốc, sau đó dùng nĩ
nhuyễn mài chà thành chơn chánh thanh lưu ly châu.
Cũng vậy, vì biết chúng sanh giới chẳng sáng chẳng sạch nên Như Lai vì chúng sanh
mà nói pháp Vô thường khổ bất tịnh để phá tâm tham ưa sanh tử của họ. Đức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ, lại vì chúng sanh nói
pháp không vô tướng vô nguyện cho họ biết rõ chánh pháp của Phật. Đức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ lại vì họ thuyết pháp cho họ chẳng thối tâm Vô thượng Bồ đề biết tất cả pháp ba đời thành đạo Bồ đề, gọi là đại trân bửu Vô thượng phước điền lành tốt.
Vì vậy nên biết nghiệp của Như Lai chẳng thể tư duy chẳng thể cân lường chẳng thể tuyên nói được.
Đức Như Lai có đủ ba mươi hai nghiệp, dầu biết thân Phật như hư không mà ở nơi thế giới thị hiện thân Phật và cũng thuyết pháp chẳng thể thuyết được.
Đức Như Lai đã dứt hẳn nhơn duyên tất cả tâm nên biết rõ tâm giới của tất cả chúng sanh, cũng biết rõ cảnh giới của tất cả Bồ Tát.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn chơn thiệt nghiệp trọn chẳng đoạn tuyệt, thọ ký cho Bồ Tát. Đây gọi là nghiệp chơn thiệt của Như Lai”.
Lúc đức Thế Tôn nói nghiệp Phật trên đây rồi, mười phương thế giới chấn động sáu cách, quang minh lớn chiếu khắp nơi, vô lượng vô biên thứ hương thơm hoa đẹp từ trên không tuôn xuống. Đại chúng hiện tại trong phường đình báu lớn cho đến hàng Trời, Rồng,Dạ Xoa, Càn Thát Bà,
A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi Nhơn nghe lời đức Phật tuyên nói về nghiệp Như Lai, tất cà đều rất vui mừng. Đại chúng lại đem các thứ hương hoa, kỹ nhạc, bửu tràng, bửu phan, bửu cái, cúng dường, đức Phật. Trong pháp hội lại có các chúng đem
đủ loại vàng ngọc châu báu cùng những vật trang sức, như là tràng chuổi thoa xuyến, những thanh lưu ly châu, liên hoa châu, kim sí điểu châu, diêm phù bửu châu, đế thích bửu châu, hỏa châu, quang châu,
vô lượng quan châu, vô lượng sắc châu, nhu nhuyến thanh tịnh châu, kim cương bửu châu và bạch chơn châu, còn có đem các thứ hương quý như là hương bột, hương chiên đàn hòa với kim sa, hương da già la, hương trầm thủy, hương huân lục, hương di khư đa, hương ma la bạt, còn rải các thứ hoa, những là hoa mạn đà la, hoa ma ha
mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, hoa câu tỳ đà la, hoa ba lợi chất đa la, hoa hỉ lạc, hoa sa la, hoa đại sa la, hoa bách
diệp, hoa thiên diệp, hoa nhiễu diệp, hoa đại quang, hoa hương, hoa lạc hương, hoa lạc kiến, hoa vô lượng sắc, hoa bất định sắc, các loại hoa sanh trong nước như là hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi các loại, các loại hoa trên đất như là hoa bà lợi sư, hoa ma lê, hoa tu
mạn na, hoa dục kỳ, hoa đàn nội già lê, hoa a đề mục đa già, hoa chiêm bà, hoa a thúc ca, cũng cúng dường đức Phật các loại kỹ nhạc, các thứ phan lọng.
Lúc bấy giờ chư Bồ Tát đến từ thập phương thế giới đều thẳng lên hư không trên phường đình báu lớn rồi buông mình rơi xuống đất để cúng dường đức Phật, thân chư Bồ Tát ấy rơi xuống đất tan mất hóa ra lưới thất bửu trùm khắp trên phường đình, lại hiện thân các Ngài ở trong lưới báu ấy.
Lúc bấy giờ mười phương tất cả chư Phật đều riêng sai một cây ba lợi đến phường đình dùng để cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Do thấn lực Phật, mỗi mỗi cây ba lợi ấy đến trang nghiêm phường đình báu lớn.
Trong pháp hội có vô lượng chúng phát tâm
Vô thượng Chánh Giác, vô lượng chúng được Vô sanh Pháp nhẫn.
Đức Thế Tôn đứng dậy ngắm nhìn hàng đại chúng như tượng vương nhìn mà tuyên lời rằng : Các thiện nam tử ! Ai có thể thủ hộ các vật cúng dường nầy và cả phường đình báu lớn đây cho khỏi bị hủy hoại hư hao tổn thất, chờ đến Di Lặc thành Vô thượng Chánh giác rồi mười sáu năm sau sẽ cúng dường lên đức Phật ấy và cũng gìn giữ để cúng dường năm trăm đức Như Lai kế tiếp trong Hiền Kiếp.
Bấy giờ trong chúng hội có một đại Bồ Tát hiệu là Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương liền từ chỗ ngồi dậy quỳ chắp tay bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thủ hộ những vật cúng dường và phường đình báu lớn nầy chẳng cho hư không hủy hoại để chờ Di Lặc thành Phật được mười sáu năm sẽ cúng dường cho đức Phật ấy và cũng thủ hộ cúng dường cho năm trăm đức Phật kế tiếp trong Hiền kiếp nầy”.
Lúc ấy trong đại chúng có một ma vương hiệu là Thần Thông ở nước Tứ Thiên Hạ nói với đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương rằng nay Ngài để những vật cúng dường và bửu phường đình nầy ở trong khí cụ gì để thủ hộ cho khỏi hư hao hủy hoại ?
Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói : “ Nầy thiện nam tử ! Phàm nói là khí cụ thì tánh nó là Vô thường, mà thân thể nầy của tôi luôn thường trụ không biến đổi. Nay Ngài nên nhìn kỹ thân của tôi”
Ma vương Thần Thông nghe xong
liền y theo lời bảo mà nhìn kỹ thân của đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương, thấy trong rún có một thế giới tên là Thủy Vương Quang hiện tại có đức Phật Thế Tôn hiệu là Bửu Ưu Bát La, trong thế giới Thủy Vương Quang ấy có một bửu sơn lớn, Bửu Ưu Bát La Như Lai ở trong đại bửu sơn ấy ngồi Kiết già cùng chư Bồ Tát tuyên nói
chánh pháp.
Thần Thông ma vương thấy rõ rồi trong lòng rất lấy làm lạ mà khen ngợi, liền lạy Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát mà bạch rằng : “Lành thay
lành thay ! Bạch Đại Sĩ ! Nay tôi mới biết là Ngài có khí cụ vi diệu có thể hộ trì được các vật cúng dường và đại bửu phường đình nầy khỏi bị hư hao hủy hoại”.
Thần Thông ma vương lại đảnh lễ đức Phật bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Từ trước tôi chưa từng thấy đại Bồ Tát như vậy, cũng chưa từng được nghe pháp vi diệu như vậy, nên tôi muốn học pháp Thanh Văn nhập Niết bàn. Nay tôi được thấy oai thần lực của Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát tôi liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Bạch đức Thế Tôn ! Giả sử trong hằng hà sa số kiếp thân tôi chịu khổ nơi địa ngục, rồi sau mới được thành đạo Vô thượng, tôi quyết chẳng rời bỏ Bồ đề tâm”.
Đức Phật phán dạy : “Lành thay lành thay ! Nầy thiện nam tử ! Ông có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề tốt như vậy, ông cũng sẽ được Vô lượng thần thông lực như vậy”.
Lúc ấy trong pháp hội có một đại Bồ Tát hiệu là Sư Tử Tràng nói với Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát rằng : “Bạch Ngài, đại Bồ Tát được môn đà la ni gì
mà có thể thọ trì tất cả lời chư Phật dạy, những chữ câu và nghĩa được diễn nói đều không cùng tận ?”.
Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói : « Bạch Ngài Sư Tử Tràng đại Bồ Tát, có tám môn đà la ni mà đại Bồ Tát nếu chứng được thì có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và thuyết pháp chữ câu và nghĩa không có cùng tận.
Những gì là tám môn đà la ni ?
Một là Tịnh Thanh Quang Minh đà la ni môn.
Hai là Vô Tận Khí đà la ni môn.
Ba là Vô Lượng Tế đà la ni môn.
Bốn là Đại Hải đà la ni môn.
Năm là Liên Hoa đà la ni môn.
Sáu là Nhập Vô Ngại Môn đà la ni môn.
Bảy là Tứ Vô Ngại Trí đà la ni môn.
Tám là Phật Trang Nghiêm Anh Lạc đà la ni môn.
Nếu có đại Bồ Tát an trụ trong tám môn đà la ni nầy thì có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và thuyết pháp chữ câu nghĩa đều không có cùng tận ».
Sư Tử Tràng đại Bồ Tát nói : « Lành
thay bạch Đại Sĩ ! Xin Ngài nói rộng cho. Chư Bồ Tát nghe rồi sẽ được thọ trì tất cả Phật pháp ».
Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói : « Nầy Ngài, xin lắng nghe kỹ tôi sẽ vì Ngài mà nói.
Môn Tịnh Thanh Quang Minh đà la ni ấy, nếu an trụ được thì đại Bồ Tát có thể ở nơi chỗ vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn mà thành tựu đầy đủ vô lượng công đức được, tứ đại thanh tịnh, do đây mà âm thanh vi diệu, lúc tuyên thuyết chánh pháp âm thanh ấy vang khắp một Phật thế giới, khắp hai Phật thế giới, khắp năm Phật thế giới , khắp mười Phật thế giới, khắp hai mươi ba mươi Phật thế giới, khắp bốn mươi năm mươi Phật thế giới, khắp trăm Phật thế giới, khắp ngàn Phật thế giói, cho đến khắp trăm ngàn vạn Phật thế giới không thể kể không thể đếm được. Pháp được đại Bồ Tát ấy nói ra đều được nghe khắp nơi. Lúc đại Bồ Tát ấy thuyết pháp, pháp tòa sư tử được ngồi hoặc rộng một do tuần, hoặc lớn như núi Tu Di, rộng lớn như bửu tòa Phạm Thiên Vương.
Giả sử có mười phương vô lượng chư Phật giảng tuyên đạo hóa đại Bồ Tát nầy đều nghe được khắp hết và thọ trì chẳng quên sót, hiểu rành chữ câu và ý nghĩa. Đồng thời tự mình thuyết pháp và nghe chư Phật thuyết pháp không có trở ngại cả hai sự việc. Ở trong một chữ diễn nói tất cả pháp, đó là chữ a. Chữ a là đầu của các chữ. Lúc đại Bồ Tát nầy nói chữ a liền có thể nói tất cả pháp. Chữ a có nghĩa là không có. Không có ấy là các pháp không
có căn, không có sanh, không có sơ khởi, không có biên tế, không có tận cùng, không có tạo tác, không có
lai, không có khứ, không có trụ, không có tánh, không có xuất, không có hành, không có tăng, không có cao, không có giảm, không có chữ không có tác dụng, không có nguyện cầu, không có hí luận cũng không giác
quán, không nói, không nghe, không ở, không vào, các pháp không có ngã, không có chúng sanh, không tịnh, không mạng, không tên,
không chủ, không sĩ phu, không nội, không ngoại, không thường, không tướng, không nhớ, không lường, không làm không
dấu vết, không câu, không chữ, không ngại, không cùng chung, không theo mình, không theo người, không thâu, không phóng, không thủ, không xả, không số, không thân, không
tịnh, không uế, không chuyển, không biến, không thọ nhận, không âm thanh, không tướng hình, không kiết gút, không nhơ, không cuồng, không lậu, không hữu, không che, không đục, không đối, cũng không có sắc thọ tưởng hành thức, không có nhơn quả, không có ấm nhập giới, không có nhơn duyên, không có cảnh giới, không có Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, không có thọ sanh, không có dẫn dắt, không có đen trắng, không cặn bã, không tư duy, không thời gian, không quy về, không thanh tịnh, không tạp uế, không thiêu đốt, không quên tập, không nhà cửa, không chi tiết, không lay động, không đứng ngừng, không bền chắc, không mỏng manh, không thấy được, không chạm được, không sáng, không tối, không lỗi, không tội, không thiệt, không hư, không si ngu,
không quán huệ, không chứng không tu, không kiến, không văn, không giác, không trí, không xúc, không thúc.
Thưa Ngài Sư Tử Tràng ! Đại Bồ Tát được đà la ni Tịnh Thanh Quang Minh
như vậy thì ở một chữ có thể diễn nói tất cả pháp. Trong một chữ nầy nói vô lượng nghĩa không có sai lầm, chẳng hoại pháp giới, chẳng mất chữ nghĩa.
Đại Bồ Tát được đà la ni Tịnh Thanh Quang Minh
nầy thì thân khẩu và ý đều thanh tịnh cả.
Cử động đi ở chúng sanh thích thấy, đó là thân thanh tịnh. Pháp được diễn nói chúng sanh
thích nghe đó là khẩu thanh tịnh. Tu tập tâm từ bi hỉ xả đó là ý thanh tịnh.
Đại Bồ Tát được đà la ni nầy rồi thì có thể thanh tịnh hai bố thí, đó là tài thí
và pháp thí. Có thể thanh tịnh giới hạnh, thấy kẻ phá giới chẳng sanh tâm chê ghét. Có thể thanh tịnh nhẫn nhục, thấy kẻ hại chúng sanh chẳng sanh lòng giận phiền. Có thể thanh tịnh tinh tiến, tu hành pháp lành không hề thôi nghỉ. Có thể thanh tịnh thiền định vì dứt kiêu mạn. Có thể thanh tịnh trí huệ vì trừ vô minh. Có thể thanh tịnh các nghiệp vì phá nhơn ác bất thiện. Có thể thanh tịnh nhãn căn vì được tam minh. Có thể thanh tịnh nhĩ căn vì được thiên nhĩ nghe tiếng nói của chư Phật. Có thể thanh tịnh tỷ căn vì ngửi biết giới hương thanh tịnh của chư Phật. Có thể thanh tịnh thiệt căn vì chẳng tham chất vị cam lộ. Có thể thanh tịnh thân căn vì được hóa thân. Có thể thanh tịnh ý căn vì tư duy lành tốt vậy. Có thể thanh tịnh hình sắc vì được ba mươi hai đại nhơn tướng. Có thể thanh tịnh âm thanh vì nói diệu pháp. Có thể thanh tịnh hơi hương vì giới văn thí v.v... thanh tịnh. Có thể thanh tịnh mùi vị vì được vị Vô thượng. Có thể thanh tịnh cảm xúc vì tu tập các tam muội Vô thượng. Có thể thanh tịnh pháp trần vì quán các pháp
giới vô phân biệt. Có thể thanh tịnh ác niệm vì chẳng quên sót. Có thể thanh tịnh ý tưởng vì vĩnh viễn không hệ thuộc ca ma đảng. Có thể thanh tịnh các hành vì quán
sát các pháp giới thậm thâm vậy.
Nầy thiện nam tử ! Đại Bồ Tát an trụ nơi đà la ni Tịnh Quang Minh nầy rồi theo âm thanh được nói vang đến, chỗ nào thì ánh sáng từ trong thân của Bồ Tát ấy cũng chiếu đến nơi ấy.
Nầy thiện nam tử ! Đà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Đại Bồ Tát an trụ Vô Tận Khí đà la ni rồi thì diễn nói sắc Vô thường chẳng thể cùng tận, nói sắc là khổ là vô ngã cũng chẳng thể cùng tận, nói sắc như bọt nước, như ảo như trăng trong nước, như mộng, như vang, như bóng, như dương diệm, cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không có tánh,
không có tướng là rỗng không cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không nói được chẳng thể nguyện cầu chẳng thể tạo tác là bất sanh bất diệt chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải nội ngoại chẳng phải tịnh uế, chẳng phải ngã ngã sở, chẳng phải khứ lai, chẳng phải đối ngại, chẳng phải nhứt nhị, chẳng phải chúng sanh, thọ mạng, trượng phu, chẳng phải tham sân si, chẳng phải hữu vô, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải hữu vi vô vi tất cả cũng đều chẳng phải cùng tận, nói sắc chẳng phải đui điếc, chẳng phải quẻ thọt, chẳng phải cuồng loạn, chẳng phải cỏ cây gỗ đá, chẳng phải địa thủy hỏa phong, chẳng phải nhà cửa, chẳng phải thành quách, chẳng phải thôn lạc lớn, chẳng phải núi gò, chẳng phải vườn rừng, chẳng phải phương hướng, chẳng phải sắc hương vị xúc, chẳng phải tạo tác chẳng phải lãnh thọ, chẳng phải tiếng, chẳng phải nghe, chẳng phải mười hai nhơn duyên tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải nhơn chẳng phải ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới,chẳng phải Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng phải đống dị, chẳng phải phiền não, chẳng phải tịnh uế, chẳng phải bằng, chẳng phải lõm, tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận.
Nầy thiện nam tử ! Đại Bồ Tát an trụ Vô Tận khí đà la ni nói sắc chẳng thể cùng tận như vậy. Lại còn vô lượng vô biên bất khả thuyết phần. Chia một phần nầy làm ngàn phần, ta ở nơi một phần ngàn ấy còn nói chẳng thể cùng tận.
Về Vô Lượng Tế đà la ni, chữ tế là nói thường kiến và đoạn kiến, vô lượng là nói mười hai nhơn duyên. Lại nữa, chữ tế là nói vô minh
hành thức danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ hữu sanh và lão tử các sự khổ não nhóm họp, vô lượng là nói sanh và tử. Lại nữa, chữ tế là vô thỉ vô chung, là không
có thủ xả, là không sanh không diệt, là không uế không tịnh vì tánh vốn thanh tịnh, là khả kiến, là danh sắc, là hữu vi vô vi, là hữu lậu vô lậu, là nghiệp quả nội ngoại trong ba đời, là không nghiệp nhơn quả báo thiện và bất thiện ngã và vô ngã
sanh tử và Niết bàn.
Vô lượng là vi trần tế đó là địa thủy hỏa phong.
Đây gọi là Vô Lượng Tế đà la ni, đại Bồ Tát an trụ đà la ni ấy rồi ở trong vô lượng kiếp vì chúng sanh thuyết pháp, những tự cú nghĩa vị được nói đều chẳng thể cùng tận. Đà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Còn về Đại Hải đà la ni, nầy thiện nam tử ! Ví như biển lớn, trong tứ thiên hạ có những hình sắc chúng sanh những cỏ cây dược thọ ngũ cốc mặt nhựt mặt nguyệt tinh tú mây rán sương mù sấm chớp quốc độ thành quách tụ lạc thôn ấp điện đường vườn rừng ao hồ núi sông v.v... tất cả hình sắc đều hiện bóng trong biển lớn.
Đại Bồ Tát an trụ đà la ni Đại Hải ấy cũng như vậy, tất cả chúng sanh thân khẩu ý nghiệp đều ấn hiện trong thân đại Bồ Tát, do đây mà những lời nói của đại Bồ Tát đều chơn thiệt cả. Chữ ấn ấy có nghĩa là vô sở hữu, đó là các pháp không có giác quán không có ngôn thuyết là vô biên vô tác
vô tham, đây gọi là nghĩa đệ nhứt chơn thiệt. Còn có giá ấn, giá là nói nhãn
, nhãn là vô thường có thể tịnh có thể thấy. Còn có na ấn, na là nói danh,
vì tất cả các pháp nên danh thiệt vô danh. Còn có la ấn, la là nói thế, tất cả thế gian thuộc ái và vô minh. Còn có đà ấn, đà là nói thập, đức Phật Thế Tôn có thập lực hay hóa độ chúng sanh. Còn có ba ấn, ba là nói ngũ, đức Như Lai xa lìa trừ dứt ngũ dục chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn
có sát ấn, sát là nói lục, vì đức Như Lai chơn thiệt biết rõ lục nhập nên có thể điều phục tất cả chúng sanh, vì đức Như Lai đủ lục niệm xứ nên được đại tự tại, vì đức Như Lai có lục thần thông nên dùng thần thông giáo hóa
chúng sanh. Còn có bà ấn, bà là nói tả, vì đức Như Lai lìa tả đạo nên được Vô thượng Bồ đề. Còn có đa ấn, đa là nói thiệt, vì đức Như Lai biết rõ tánh chơn thiệt, nên gọi là Chánh Giác.
Còn có na ấn, na là nói bỉ, vì đức Như Lai biết khắp các pháp thủ bỉ đều bình đẳng. Còn có bà ấn, bà là nói kiết, vì đức Như Lai xa lìa tất cả phiền não kiết sử nên gọi là a lê ha. Còn có xà ấn, xà là nói sanh lão, vì đức Như Lai đã khỏi phần sanh lão nên gọi là Thế Tôn. Còn có đàm ấn, đàm là nói pháp,
đức Như Lai thuyết pháp thanh tịnh vô cấu. Còn có xa ấn, xa là nói xa ma
tha. Còn có khư ấn, khư là nói hư không, đức Như Lai thấy biết tất cả các pháp đồng như hư không. Còn có ca ấn, ca là nói khổ hạnh, đức Như Lai xa lìa tất cả khổ hạnh. Còn có bà ấn, bà là nói chơn thiệt, tứ đế được đức Như Lai nói tức là chơn thiệt. Còn có ma ấn, ma là nói đạo, đức Như Lai hay nói pháp
bát chánh đạo. Còn có già ấn, già là nói thâm, pháp được đức Như Lai nói nghĩa rất thậm thâm. Còn có sằn ấn, sằn là nói nhẫn, đức Như Lai có đủ nhẫn Ba la mật. Còn có hô ấn, hô là nói tán, đức Như Lai thường tán thán thập phương chư Phật. Còn có nhược ấn, nhược là nói biến tri, đức Như Lai biết rõ khắp tất cả pháp nên gọi là bực Nhứt thiết trí. Còn có bà ấn, bà là nói hữu, đức Như Lai đã thoát khỏi tất cả hữu. Còn có xa ấn, xa là nói dục, đức Như Lai muốn tất cả pháp lành. Còn có ba ấn, ba là nói tiền, đức Như Lai thường vì chúng sanh hiện tiền thuyết pháp . Còn có phả ấn, phả là nói quả, đức Như Lai thường nói bốn quả Sa Môn.
Nầy thiện nam tử ! Nhơn chữ như vậy mà diễn nói các pháp, đó là các chữ đều ấn hiện nơi miệng đại Bồ Tát. Đây gọi là Đại Hải đà la ni.
Luận về Liên Hoa đà la ni ấy, đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy rồi chỗ thuyết pháp thường xuất hiện thất bửu liên hoa thanh tịnh vi diệu để làm pháp tòa, đại Bồ Tát ngồi bửu tòa ấy mà thuyết pháp giáo hóa, lại còn nhiều khi mưa tuôn vô lượng liên hoa, các
liên hoa nầy cũng phát ra các thứ pháp âm thanh tịnh, âm thanh ấy sâu rộng diễn xuất nhiều phương tiện ví dụ. Những là pháp âm mười hai bộ kinh, pháp âm thanh tịnh, pháp âm dứt phiền não, lúc ấy đại Bồ Tát ngồi yên lặng mà các liên hoa đều có thể diễn xuất pháp âm. Cũng còn phát xuất vô lượng các loại quang minh mà tất cả chúng sanh đều thấy. Đại Bồ Tát ngồi trên đài các liên
hoa mà làm Phật sự. Đây gọi là Liên Hoa đà la ni.
Luận về Nhập Vô Ngại Môn đà la ni ấy, đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy lúc nói một pháp không có chướng ngại, hoặc lúc nói hai pháp
ba pháp bốn pháp trăm pháp ngàn pháp trăm ngàn vạn pháp vô lượng vô biên hằng hà sa số pháp cũng không có chướng ngại, cho đến lúc nói pháp số bằng số vi trần trong tứ thiên hạ, bằng số vi trần Đại Thiên thế giới, bằng số vi trần trong hằng hà sa chư Phật thế giới, nơi các chữ câu nghĩa không có
chướng ngại, đây gọi là Nhập Vô Ngại Môn đà la ni vậy.
Luận về Tứ Vô Ngại Trí đà la ni ấy, đó là pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí. Đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy, Đông phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai thưa hỏi pháp yếu, đại Bồ Tát theo đó dùng
pháp vô ngại để giải đáp, Nam phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai hỏi nghĩa, đại Bồ Tát tùy thuận dùng nghĩa vô ngại để đáp, Tây phương vô lương thế giới chúng sanh có ai hỏi về từ, đại Bồ Tát tùy thuận dùng từ vô ngại để đáp, Bắc phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai hỏi lạc thuyết, đại Bồ Tát tùy thuận dùng lạc thuyết vô ngại để đáp. Đây gọi là Tứ Vô Ngại Trí đà la ni.
Luận về Phật Anh Lạc Trang Nghiêm đà la ni ấy, nếu có đại Bồ Tát được đà la ni thứ tám nầy thì trên đỉnh kế có tượng Phật màu chơn kim xuất hiện, tượng Phật ấy có ánh sáng lớn đủ ba mươi hai tướng đại nhơn tám mươi vẻ đẹp, bấy giờ đại Bồ Tát thân khẩu ý đều làm Phật sự, chỗ tư niệm như Phật tư niệm. Đại Bồ Tát có đủ Phật nghiệp như vậy có thể biết các loại tâm niệm của đại chúng, biết rồi tùy ý mà vì đại chúng thuyết pháp trong một ngày hai ngày cho đến vô lượng trăm ngàn vạn năm cũng chẳng thể cùng tận chỗ hiểu biết pháp môn văn tự cú nghĩa của đại Bồ Tát. Lại còn có đủ bốn thứ trí huệ, đó là biết tâm niệm của các chúng sanh,
biết các tự cú , biết chỗ nói vô tận và biết chơn thiệt. Do có đủ bốn thứ trí ấy mà đại Bồ Tát có thể giáo hóa chúng
sanh hướng đến Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Phật Anh Lạc Trang Nghiêm đà la ni.
Nầy thiện nam tử ! Tám môn đà la ni ấy phần của nó vô lượng, trong vô lượng phần nầy đem một phần chia làm ngàn phần, trong ngàn phần ấy chỉ nói một phần còn chẳng thể cùng tận. Các đà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy, Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói tụng rằng :
Như Lai nói tám đà la
ni
Nếu đại Bồ Tát có được rồi
Hiểu được các nghĩa của khế kinh
Cú nghĩa từ chẳng thể cùng tận
Đầy đủ nghiệp lành được diệu thanh
Hay khiến vô lượng thế giới nghe
Chúng sanh nghe rồi tu pháp lành
Tu rồi chứng được chơn giải thoát
Vô lượng kiếp nói một pháp Vô
Nhơn một pháp Vô nói vô tận
Cũng do một chữ hiểu nhiều nghĩa
Đây gọi Phật nói tế tổng trì
Thế Tôn Pháp Vương dứt hai tế
Thuyết pháp đạo nghĩa vô biên tế
Có trí huệ bình đẳng quan sát
Dầu thành tổng trì không người được
Hình sắc bốn phương hiện trong biển
Tất cả tự ấn ấn Bồ Tát
Lúc thuyết pháp không có chướng ngại
Thành tựu Đại Hải đà la ni
Ngồi tòa liên hoa diễn thuyết pháp
Cũng mưa liên hoa rải đại chúng
Liên hoa cũng nói vô lượng pháp
Đây là liên hoa đà la ni
Nói một chữ không có chướng ngại
Nói vô lượng chữ cũng vô ngại
Nói vô lượng nghĩa không có
trệ
Đây gọi Vô Ngại đà la ni
Nói pháp nghĩa sâu không cùng tận
Từ và lạc thuyết cũng vô biên
Hay phá chúng sanh lưới tâm nghi
Chứng được vô thượng trí tổng trì
Đảnh kế thường hiện tượng Như Lai
Thân khẩu ý cùng Phật không khác
Nếu có tổng trì thứ tám ấy
Cùng kiếp khen nói chẳng hết được
Đầy đủ tám tổng trì như vậy
Thế gian chẳng nhiễm như hoa sen
Thế gian cao nhứt như Tu Di
Chẳng thể đếm kể cũng như vậy
Tà luận chẳng động hay phá tà
Bồ Tát có đủ tổng trì nầy
Hay phá đạo các tà kiến
Như tiếng rống sư tử giữa rừng
Nếu được Vô thượng đà la ni
Hay đạt thế gian hạnh thanh tịnh
Hay tăng vô lượng các pháp lành
Cũng hay giáo hóa các chúng sanh
Có đủ đà la ni như vậy
Hay phá chúng sanh tối vô minh
Làm ánh sáng lớn như mặt trời
Cũng hay phá trừ những đen tối
Thuyết pháp vô ngại như hư không
Vì chúng mà đi như gió mạnh
Ban bố thuốc pháp trừ phiền não
Như thầy thuốc hay chữa lành bịnh
Nếu có đủ Vô thượng tổng trì
Ai khen công đức chẳng thể hết
Hay làm mát sáng như trăng thu
Tăng trưởng pháp lành cũng
như vậy
Bồ Tát chứng được tổng trì nầy
Hay độ vô lượng các chúng sanh
Nếu đủ tám đà la ni nầy
Được đại tự tại như Thiên Vương
Hay độ chúng sanh hướng Đại thừa
Hay ban pháp tài phá bần cùng
Hay mưa pháp vũ như Long Vương
Phá nát phiền não như mưa đá
Nếu được tám đà la ni nầy
Hay độ chúng sanh đến Bồ đề
Không nói lỗi được như Đế Thích
Chữ nghĩa vô tận như hư không
Nếu được thành tựu đà la ni
Tất cả đại chúng thích thấy nghe
Tâm ý chẳng tán thường tại định
Tu tập vô lượng tâm từ bi
Phạm hạnh thanh tịnh hiện thần thông
Bốn vô lượng như Đại Phạm Vương
Nếu được thành tựu đà la ni
Liền hay cúng dường mười phương Phật
Nhìn xem thấy rõ mười phương cõi
Nơi thế giới ấy độ chúng sanh
Nếu được đủ đà la ni nầy
Liền được đầy đủ Phật công đức
Thường được mười phương Phật hộ niệm
Cũng như cha mẹ nhớ con một
Nếu Bồ Tát được tổng trì nầy
Hay khen Phật công đức vô lượng
Thành tựu đầy đủ giới định huệ
Hay hiểu chúng sanh tâm sở hành
Nếu được thành tựu đà la ni
Không còn kiêu mạn và xan tham
Giỏi biết phương tiện dạy chúng sanh
Tu tập từ bi phá phiền não
Thành tựu được đà la ni nầy
Phiền não chẳng nhiễm như hư không
Hiểu rõ chúng sanh lời tùy ý
Cũng hay tùy ý diễn thuyết pháp
Nếu có đủ đà la ni nầy
Hay biết rõ căn của chúng sanh
Hay hiểu chỗ hiểu của chúng sanh
Theo chúng sanh hiểu mà thuyết pháp
Theo môn đối trị vì họ nói
Ba mươi bảy phẩm dạy chúng sanh
Được có tám đà la ni nầy
Tu tập vô biên xa ma tha
Được có tám đà la ni nầy
Đủ sáu Ba la mật như Phật
Biết rõ tất cả giới phiền não
Thông đạt tịch tĩnh phiền não dứt
Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh
Hành trụ tọa ngọa đều tịch tĩnh
Được thành tựu tám đà la ni
Không còn phiền não các tập khí
Được pháp thân thanh tịnh vô biên
Chẳng phải bị sanh thường hóa sanh
Thân khẩu ý theo trí huệ hành
Bao nhiêu định niệm cũng theo trí
Thành tựu được đà la ni nầy
Không ai tán thán cùng tận được.
SUA XONG 658
Lúc bấy giờ, đức Như Lai Thế Tôn khen Đà La Ni
Tự Tại Vương đại Bồ Tát : « Lành thay,
lành thay ! Nầy thiện nam tử ! Từ lâu ông đã được đà la ni nầy hay phân biệt giải nói bao nhiêu
nghĩa vô lượng công đức.
Chẳng phải chỉ có hôm nay, mà đã ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ cũng phân biệt giải nói như vậy.
Nầy thiện nam tử ! Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Tịnh Quang Minh Như Lai, thế giới ấy tên Tịnh Kiếp cũng tên là Tịnh Thuần, thế giới ấy bằng tịnh lưu ly làm thành như gương sáng, mặt đất bằng phẳng, bao nhiêu rừng cây toàn bằng thất bửu, có hoa sen diệu bửu lớn như bánh xe, hoa sen ấy thanh tịnh tươi sáng ai thấy đều thích. Nhơn dân cõi ấy đều ở lâu các điện đường bằng thất bửu không khác cõi trời, đã lần nhẹ mỏng lòng tham sân si. Cõi ấy không có mặt nhựt mặt nguyệt chỉ có ánh sáng của đức Phật. Hoa sen sanh nở thì biết là đêm, hoa sen đỏ nở thì biết là ngày. Đại Bồ Tát Tăng có sáu trăm vạn ức, người xuất gia đông nhiều không thể kể đếm, tất cả đều có chí nguyện Vô thượng Đại thừa. Thế giới ấy không có tên Nhị thừa, tất cả đều là bực Bồ Tát bất thối chuyển. Đức Phật Tịnh Quang Minh thọ đủ nửa kiếp, người và chư Thiên đồng nhau không khác, ở đất thì là người, còn ở hư không là trời, không có vua chúa, chỉ có Phật là vị Pháp Vương Vô Thượng. Nhơn dân cõi ấy không có ai tôn
thờ hay quy y với chư Thiên tà thần, cũng không có
danh từ nữ nhơn và phá giới. Tất cả đều đủ ba tụ giới, đó là theo Chánh
giới, theo định giới và theo huệ giới. Phát tâm Vô thượng Bồ đề nhàm chán sanh tử, đây gọi là theo chánh giới, tu tam muội huệ đây gọi là theo định giới, tu tập trí huệ được đại trí huệ đây gọi là theo huệ giới”.
Trong đại chúng ấy có một Bồ Tát hiệu là Quang Đảnh lễ Phật hữu nhiễu cung kính quỳ dài chắp tay bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nói đà la ni ấy, thế nào gọi là đà la ni. Bồ Tát an trụ trong đà la ni nào thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của chư Phật rồi vì các chúng sanh
mà phân biệt giải nói ».
Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói : « Nầy Quang Đảnh ! Có đà la ni
tên là Bửu Cự, Bồ Tát an trụ trong ấy thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của chư Phật rồi vì chúng sanh mà
phân biệt giải nói tùy theo các thứ ngữ ngôn của các loại chúng sanh ».
Quang Minh Bồ Tát bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Xin phân biệt nói rộng đà la ni Bửu Cự ấy. Chúng tôi nghe rồi sẽ thọ trì tu tập ».
Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói : « Lành
thay lành thay ! Ông chí tâm lắng nghe. Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói ».
Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói kệ rằng :
Xa lìa tất cả các phiền não
Thanh tịnh vô cấu như bửu châu
Tâm ấy hay làm đại quang minh
Đây tên Bửu Cự đà la ni
Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh
Dường như trăng thu rất sáng sach
Tu tập đại từ tâm bình đẳng
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Tâm ấy không có các giác quán
Đều được xa lìa hai kiến chấp
Chẳng phải có tưởng không có tưởng
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu đầy đủ niệm ý huệ
Hay nhập vô thượng đại pháp môn
Thanh tịnh vô cấu như hư không
Đây tên Bửu Cự đà la ni
Xa lìa ba loại trần lao nhơ
Thành tựu ba thứ thanh tịnh huệ
Đã được giải thoát cả ba cõi
Đây tên Bửu Cự đà la ni
Đã hay phá hoại tham sân si
Cũng xa lìa được phiền não trược
Trừ được vô minh các tà ám
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Chúng sanh âm thanh thượng trung hạ
Tất cả đều hay biết rành rẽ
Hay theo ý chúng mà thuyết pháp
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Đầy đủ thậm thâm vô lượng nghĩa
Tất cả chữ câu cũng đầy đủ
Xa lìa chấp ngã và ngã sở
Đây tên Bửu Cự đà la ni
Đầy đủ thành tựu pháp Tứ y
Cũng thành đủ bốn trí vô ngại
Tâm ấy thường ở trong Tứ thiền
Đây tên Bửu Cự đà la ni
Hay rộng phân biệt đệ nhứt nghĩa
Đầy đủ được toàn bốn Phạm hạnh
Tu tập đầy đủ ngũ thần thông
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Thọ trì chuyên nhớ Tứ niệm xứ
Tinh tiến tu tập Tứ chánh cần
Trang nghiêm thành tựu Tứ như ý
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu ngũ căn và ngũ lực
Tà phong chẳng động hay phá tà
Tu tập vô thượng Thất giác phần
Đây tên Bửu Cự đà la ni
Thành tựu Định Huệ đủ hai cánh
Liệng bay tự tại Bát chánh đạo
Hướng đến vô thượng trí giải thoát
Đây tên Bửu Cự đà la ni
Hay đi trên đường Bồ Tát đi
An trụ vô thượng chơn giải thoát
Dứt hẳn tất cả phiền não tập
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Hay làm vô lượng đại quang minh
Dường như thế gian mặt nhựt nguyệt
Hay tịnh ba thứ thanh tịnh nhãn
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Hay sạch tất cả các phiền não
Cũng hay xa lìa các ma nghiệp
Quán xét tội lỗi ham ngũ ấm
Đây tên Bửu Cự đà la ni
Giỏi biết điều phục các chúng sanh
Lìa hẳn nhơn duyên của sáu căn
Vì chúng thuyết pháp cho được niệm
Đây tên Bửu Cự đà la ni
An trụ như vậy đà la ni
Hay đến mười phương Phật thế giới
Thấy Phật chí tâm nghe thọ pháp
Cũng hay nói rộng pháp như vậy
Đã nghe pháp rồi chí tâm trì
Hay vì chúng sanh nói tự nghĩa
Do nơi nhơn duyên sức niệm lớn
Hay hiểu chư Phật lời vi diệu
Hay nói vô thường khổ vô ngã
Các pháp đều từ duyên được quả
Quán sát tỏ rõ các pháp giới
Đây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu lạc thuyết vô ngại trí
Tam minh tam huệ cũng thành tựu
Nếu ai an trụ tổng trì nầy
Thì hay nhập được nghĩa giải thoát
Phật nói vô lượng đà la ni
Đều đến nhiếp vào tổng trì nầy
Nếu được như vậy đà la ni
Gọi là thành tựu vô lượng trì
Nếu nhập vô lượng các thiền định
Và được vô lượng các thần thông
Đều do sức tổng trì như đây
Nên hiệu vua trong các tổng trì
Như bốn đại hải không chướng ngại
Tất cả sông suối đều chảy vào
Các dòng chánh pháp cũng như vậy
Thảy đều về tự tổng trì nầy
Được thân vô biên ý vô
tận
Hay rộng phân biệt nói pháp giới
Thành tựu vô lượng các công đức
Mới hay được đây đà la ni
Nếu được vi diệu tổng trì nầy
Thì được tướng tốt ba mươi hai
Sắc thân thù thắng thượng chủng tánh
Của cải nhiều dư được vô sanh
Hay rộng phân biệt các pháp nghĩa
An trụ bất động bất thối địa
Đều do được đà la ni nầy
Bồ Tát nếu muốn tu Bồ đề
Nên tu như vậy đà la ni
Được tổng trì rồi tu đạo tràng
Hay diễn thuyết pháp độ chúng sanh
Trong vô lượng kiếp lúc thuyết pháp
Hai thứ tự nghĩa chẳng thể hết
Hay sạch chúng sanh các phiền não
Do được như vậy đà la ni
Hay chuyển vô thượng chánh pháp luân
Hay làm chúng sanh thoát các khổ
Hay đưa chúng sanh vô thượng đạo
Do được như vậy đà la ni
Nếu có chúng sanh ngàn muôn miệng
Một miệng có đủ ngàn muôn lưỡi
Nói chẳng hết vô lượng công đức
Của Bồ Tát trụ tổng trì nầy
Lúc Tịnh Quang Minh Như Lai nói pháp ấy, Quang Đảnh Bồ Tát cùng ba vạn hai ngàn Bồ Tát đều chứng được Bửu Cự đà la ni.
Nầy Đà La Ni Tự Tại Vương ! Ông có biết thuở xa xưa Quang Đảnh Bồ Tát là ai chăng, chính là thân ông hiện nay. Vì vậy mà hôm nay ông có
thể rộng phân biệt đà la ni nầy. Trong pháp hội đây, người được đà la ni nầy, ông là người hạng nhứt vậy.
Bấy giờ trong pháp hội có một Bồ Tát hiệu Huệ Tự bạch Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát được Bửu Cự đà la ni, được rồi chẳng mất có thể dùng pháp ấy điều phục chúng sanh ? ».
Đức Phật bảo Huệ Cự Bồ Tát : « Nầy thiện nam tử ! Nếu có Bồ Tát an trụ huệ căn tạo tác huệ nghiệp. Bồ Tát như vậy có thể được Bửu Cự đà la ni, được rồi chẳng mất và hay dùng pháp ấy điều phục các chúng sanh ».
Huệ Tự Bồ Tát lại bạch đức Phật : « Lành thay đức Thế Tôn ! Xin nói rộng thế nào là huệ căn và thế nào là huệ nghiệp ».
Đức Phật phán bảo : « Lành thay lành thay ! Nầy thiện nam tử ! Ông nên lắng nghe kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Nầy thiện nam tử ! Nếu có thiện nam thiện nữ chưa được trí huệ mà được nghe đó, đây gọi là căn, nghe rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Dùng huệ quán các pháp thì
gọi là căn, quán rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp.
Lúc đầu quán thiện căn thì gọi là căn, quán rồi cộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Quán bất phóng dật thì gọi là căn, quán rồi đem dạy lại thì gọi là nghiệp. Điều phục tự tâm thì gọi là nghiệp. An trụ tịch tĩnh thì gọi là căn, thanh tịnh thân khẩu ý thì gọi nghiệp. Biết rõ nhứt thừa thì gọi là căn, vì chúng sanh diễn nói thì gọi là nghiệp. Tu xa ma tha thì gọi là căn, có đủ ba thứ huệ thì gọi là nghiệp. Tu tập ba môn giải thoát thì gọi là căn, chứng được ba thứ huệ thì gọi là nghiệp. Tu Tứ niệm xứ thì gọi là căn, chẳng niệm nơi niệm thì gọi là nghiệp. Tu tập Tứ chánh cần thi gọi là căn, lìa tánh phiền não thì gọi là nghiệp. Tu tập Tứ như ý túc thi gọi là căn, biết không có như ý thi gọi là nghiệp. Tu tập tín tâm thi là căn, phóng xả tất cả thì gọi là nghiệp. Tu vô sở úy thì gọi là căn, hay nói rộng đó thì gọi là nghiệp. Tu tập
Tam muội thì gọi là căn, biết chánh định thứ đệ thi gọi là nghiệp. Tu tập trí huệ thì gọi là căn, biết rõ tất cả pháp thì gọi là nghiệp. Trang nghiêm Bồ đề thì gọi là căn, lúc chứng được Bồ đề thì gọi là nghiệp. Chứng Khổ Tập Đạo đế thì gọi là căn, lúc chứng diệt đế thì gọi là nghiệp. Chẳng y bất liễu nghĩa thì gọi là căn, y kinh liễu nghĩa thì gọi là nghiệp. Ban đầu nghe thọ chánh pháp thì gọi là căn, y chỉ nơi người thì gọi là nghiệp. Chẳng y nơi người thì gọi là căn, y chỉ chánh pháp thì gọi là nghiệp. Thấy pháp vô thường thì gọi là căn, thấy pháp vô sanh vô diệt thì gọi là nghiệp. Biết các pháp khổ thì gọi là căn, biết pháp vô tác thì gọi là nghiệp. Biết pháp vô ngã thì gọi là căn, biết pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Biết Niết bàn thanh tịnh thì gọi là căn, biết pháp vốn thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Nghe chơn pháp chẳng sợ thì gọi là căn, y chỉ chơn pháp thì gọi là nghiệp. Biết chữ chẳng sợ thì gọi là căn, biết rồi thích nói thì gọi là nghiệp. nghe nói trí lực của vô ngại của Như Lai mà chẳng sợ thì gọi là căn,, y chỉ trí lực vô ngại của Như Lai thì gọi là nghiệp. Chúng sanh duyên từ bi và pháp tánh duyên từ bi hai duyên ấy gọi là căn, vô duyên từ bi thì gọi là nghiệp. Thương xót chúng sanh
thì gọi là căn, hay làm cho chúng sanh thoát khổ thì gọi là nghiệp. Tư duy thiện pháp được mừng gọi là căn, chẳng trụ trước nơi pháp thì gọi là nghiệp. Không có ái
tham, sân hận và ngu si thì gọi là căn, không có nhứt không có hai thì gọi là nghiệp. Niệm Phật gọi là căn, niệm Pháp thân thì gọi là nghiệp. Niệm Pháp gọi là căn, biết Pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Niệm Tăng gọi là căn, biết Tăng vô vi thì là nghiệp. Niệm giới gọi là căn, biết không có người trì giới gọi là nghiệp. Niệm bố thí thì gọi là căn, hay bỏ phiền não thì gọi là nghiệp. Niệm thiên gọi là căn, được thanh tịnh thiên thì gọi là nghiệp. Nghe chánh pháp rồi tư duy thì gọi là căn, chẳng nhiễm trước thế gian thì gọi là nghiệp. Biết trước không có hiện nay làm ra thì gọi là căn, biết không có tạo tác không có lãnh
thọ thì gọi là nghiệp. Biết tên Niết bàn thì gọi là căn, được đại giải thoát thì gọi là nghiệp. Tự tại gọi là căn, tự lợi lợi tha thì gọi là nghiệp. Thọ trì tám vạn bốn ngàn pháp môn thì
gọi là căn, thông đạt nghĩa của các pháp môn ấy thì gọi thì gọi là nghiệp. Hay diễn thuyết pháp thì gọi là căn, hiểu vô minh v.v... thì gọi là nghiệp. Khuyến hóa các chúng sanh hướng đạo Bồ đề thì gọi là căn, khuyến tu trí huệ phương tiện bất thối thì gọi là nghiệp. Chẳng sơ các cõi thì gọi là căn, nguyện sanh vào các cõi
thì gọi là nghiệp. Từ nơi nghe chánh pháp
mà đắc nhẫn thì gọi là căn, do tư duy mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Tùy ý đắc nhẫn thì gọi là căn, nhơn bất sanh mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Còn dư một đời thì gọi là căn, thân tối hậu thì gọi là nghiệp. Ngồi dưới Bồ đề thọ thì gọi là căn, giác ngộ tất cả pháp thì gọi là nghiệp ».
Lúc đức Thế Tôn nòi rộng về huệ căn và huệ nghiệp, tất cả mười phương chư Phật thế giới đến đại bửu phường đinh nầy đều chấn động sáu cách.
Huệ Tụ đại Bồ Tát bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Có nhơn duyên gì mà mười phương thế giới và cả hư không cùng thất bửu đại phường đình nầy đều chấn động sáu cách như vậy ? ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Huệ Tụ ! Vì huệ căn và huệ nghiệp nầy cũng được diễn nói nơi chư Phật quá khứ nên có sáu cách chấn động như vậy ».
Bấy giờ Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí Bồ Tát bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Có nhơn duyên gì mà Huệ Tụ đại Bồ Tát có tên là Tụ ? ».
Đừc Phật phán dạy : « Nầy Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí ! Thuở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có Phật xuất thế hiệu là Công Đức Tạng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới ấy tên Thiện Sanh, kiếp ấy tên Vô Cấu, tất cả chúng sanh cõi ấy đều thuần thiện. Phật Công Đức Tạng có ba vạn hai ngàn đại Bồ Tát chúng, tám vạn bốn ngàn Thanh Văn chúng. Phật Công Đức Tạng muốn thử chư vị Bồ Tát với trăm ức sự hỏi rằng các thiện nam tử ! Trong chúng có
ai hiểu và nói được các nghĩa như vậy ? Trong chúng có Bồ Tát bạch rằng tôi sẽ tư duy trong một thánh mới có thể hiểu được, hoặc có Bồ Tát bạch nửa tháng, hoặc bảy ngày, hoặc một ngày một đêm tư duy mới có thể hiểu được. Lúc ấy có một Bồ Tát tên Niệm Ý bạch Phật rằng : « Nay tôi chẳng rời chỗ ngồi nầy liền có thể hiểu nghĩa ấy. Bạch Phật xong, Bồ Tát Niệm Ý khởi sư tử hống làm cho đại địa chấn động sáu cách phóng đại quang minh khuyến cáo các địa thần cho đến Trời Sắc Cứu Cánh tất cả đều đến tập họp nơi đức Phật Công Đức Tạng. Chỗ ngồi của đại chúng lúc bấy giở rộng đủ trăm vạn do tuần. Niệm Ý Bồ Tát thấy đại chúng đã tập họp đông đủ liền dùng thần thông lực, trí huệ niệm lực, đà la ni lực, tứ vô ngại lực, vô sở úy lực, Phật thần lực trong trăm ức sự, mỗi mỗi sự giải nói trăm ức nghĩa, không tư duy trước không có đình trệ. Niệm Ý Bồ Tát nói nghĩa ấy rồi, trong đại chúng có sáu vạn chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ đề, bốn vạn chúng sanh đắc vô sanh nhẫn. Tứ chư địa thần, chư Thiên đến Trời Sắc Cứu Cánh , tất cả đều nghe tiếng Niệm Ý Bồ Tát thuyết pháp.
Nầy Cụ Túc tứ Vô Ngại Trí ! Ông có biết thuở quá khứ xa xưa ấy Niệm Ý Bồ Tát là aì chăng
?Chính là Huệ Tụ Bồ Tát đây vậy. Do nhơn duyên như vậy mà Bồ Tát có tên là Huệ Tụ ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Vì nghe thuyết pháp gọi là căn
Hay diễn thuyết pháp gọi là nghiệp
Tư duy pháp lành gọi là căn
Hiểu nói thâm nghĩa gọi là nghiệp
Như pháp mà ở gọi là căn
Theo nghĩa thuyết pháp gọi là nghiệp
Tu xa ma tha gọi là căn
Đủ ba thứ huệ gọi là nghiệp
Bốn thứ niệm xứ gọi là căn
Pháp tứ chánh cần gọi là nghiệp
Tín tiến niệm đinh huệ là căn
Năm thứ đắc lực gọi là nghiệp
Thất Bồ đề phần gọi là căn
Bát chánh đạo phần gọi là nghiệp
Chẳng y chỉ tự cú là căn
Y chỉ nơi nghĩa gọi là nghiệp
Chẳng y chỉ người gọi là căn
Y chỉ chánh pháp gọi là nghiệp
Chẳng y bất liễu gọi là căn
Y kinh liễu nghĩa gọi là nghiệp
Chẳng y nơi thức gọi là căn
Y chỉ trí huệ gọi là nghiệp
Biết rõ vô tác gọi là căn
Thông đạt vô sanh gọi là nghiệp
Sanh pháp hai duyên từ là căn
Từ bi vô duyên gọi là nghiệp
Vô sở úy pháp gọi là căn
Hay tuyên chánh pháp gọi là nghiệp
Sáu chánh niệm xứ gọi là căn
Nghĩa của lục niệm gọi là nghiệp
Hay tự lợi ích gọi là căn
Tự lợi lợi tha gọi là nghiệp
Thọ trì chánh pháp gọi là căn
Hay vì người nói gọi là nghiệp
Còn dư lại một đời là căn
Tối hậu thân thì gọi là nghiệp
Nếu tâm Bồ Tát được bất thối
Thì hay biết rõ huệ căn nghiệp
Có thể chứng được vô sanh nhẫn
Có thể mở cửa đại Bồ đề.
Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát bạch Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Pháp được đức Phật nói chẳng thể nghĩ bàn, Vô thượng Bồ đề cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao, vì chẳng phải là danh tự để nói, vì chẳng nhiếp thuộc danh tự, vì pháp được Như Lai nói vô lượng vô biên, vì nhập vào vô lượng vô biên pháp
môn, vì thập nhị nhơn duyên rất sâu khó hiểu, vì kẻ chấp thấy hai pháp thì chẳng biết được, vì người lợi trí lần lần biết, vì chẳng phải lục tình chỗ biết được, vì chẳng phải cảnh giới của trí huệ Nhị thừa.
Bạch đức Thế Tôn ! Vô thượng Bồ đề như vậy đều là ấn của tất cả pháp, chẳng thể tạo tác được như hư không, rời lìa nhà cửa nên chẳng phải nhà cửa, biết tất cả hành cũng biết tất cả nhơn quả của tất cả chúng sanh. Nhứt thiết trí rộng lớn vô biên, trang nghiêm tất cả vô lượng pháp lành, hay
vì pháp lành mà làm bát đựng thần thông để hiển bày cho người, với người ở nhị đạo dạy cho vô nhị, dạy cho hiểu chư Phật bình đẳng vô sai biệt, không có tự không có nghĩa chẳng thể tuyên nói được, chẳng thể lắng nghe được, hay dạy chúng sanh khối chánh Tam bửu và ba môn giải thoát, giải thoát ba cõi dạy cho ba thứ huệ, do kim cương định an trụ tất cả chánh pháp chư Phật, nghe trọn tất cả chư Phật trí huệ, lợi ích tất cả chúng sanh, cũng hay tuyên thuyết tất cả Phật pháp.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có thiện nam thiện nữ có thể tán thán Bồ đề Vô thượng có bao nhiêu
công đức như vậy được nghe kinh điển Đại thừa phương đẳng nầy, hay thọ trì đọc tụng biên chép diễn nói, thì gọi người ấy là có thể báo được ơn chư Phật ».
Đức Phật phán dạy : « Đúng như vậy, nầy Đà La Ni Tự Tại Vương. Như lời ông đã nói được vô lượng công đức.
Nầy thiện nam tử ! Đem thất bửu đầy cả mười phương thế giới chư Phật dâng hiến lên Như Lai được công đức cùng người hay thọ trì kinh nầy và đọc tụng biên chép giải nói nghĩa kinh được công đức đồng nhau không
khác”.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát : “ Chư thiện nam tử ! Trong đại chúng đây, sau khi Phật diệt độ, ai có thể hộ trì Vô thượng Bồ đề như vậy, và rộng nói nghĩa cho chánh pháp còn ở thế gian được lâu”.
Bấy giờ trong pháp hội đại chúng có chư Bồ Tát và chư Thiên chư Nhơn đều riêng sáu vạn ức đồng thanh bạch Phật : “Sau khi đức Như Lai Thế Tôn diệt độ, chúng tôi có thể hộ trì Vô thượng Bồ đề như vậy và rộng nói nghĩa cho
chánh pháp được còn lâu. Nguyện cầu đức Như Lai Thế Tôn gia hộ nguyện lực cho”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Nếu ta thiệt đồng thập phương Phật
Qua bản sanh tử biển khổ lớn
Công đức vô thượng pháp như vậy
Đáng phải còn lâu không diệt mất
Nếu ta vô lượng đời tu từ
Chơn thiệt vì lợi các chúng sanh
Xem chúng bình đẳng không có hai
Vì vậy chánh pháp được còn lâu
Nếu ta có đủ hai trang nghiêm
Trong vô lượng đời lợi chúng sanh
Đem hai trang nghiêm độ chúng sanh
Vì vậy chánh pháp được còn lâu
Nếu hay phá hoại phiền não kiết
Và cũng trừ diệt các tà kiến
Đầy đủ tất cả các pháp lành
Nên hay giỏi phát nguyện lực nầy.
Nầy chư thiện nam tử ! Chẳng riêng gì các đại chúng tất cả Trời Người tất cả Ma Phạm đây, sau khi ta diệt độ đều có thể hộ trì chánh pháp như vậy. Nầy chư thiện nam tử ! Hư không có thể làm hình sắc, hình sắc có thể làm hư không, thần thông nguyện lực của Phật không thể làm khác được.
Bấy giờ Tứ Thiên Vương xướng lên rằng : “ Nếu có người, sau khi đức Phật diệt độ, có thể thọ trì đọc tụng biên chép kinh nầy và giải nói nghĩa kinh,
chúng tôi sẽ thường theo dõi để thủ hộ”.
Chư Phạm Thiên nói : “
Chúng tôi sẽ xả thiền định diệu lạc để thủ hộ người ấy”.
Trời Đâu Suất Đà cũng nói : “ Chúng tôi sẽ thủ hộ các đệ tử thọ trì kinh nầy”.
Ma Vương Ba Tuần bạch đức Phật : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người hay thọ trì kinh nầy thì tôi ở nơi người ấy trọn không gây ma nghiệp ma sự”.
Công Đức Tạng Thiên Tử nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả chư Phật Vô thượng Bồ đề đều ở trong kinh nầy. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng biên chép giải nói, nên biết người nầy sẽ được Bồ đề”.
Di Lặc Bồ Tát nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi sẽ ở tại Trời Đâu Suất Đà rộng tuyên nói kinh điển vô thượng nầy”.
Tôn giả Đại Ca Diếp nói : “ Bạch đức Thế Tôn ! Hàng Thanh Văn tôi trí huệ dầu kém cũng cần phải theo sức của mình mà thọ trì đọc tụng tuyên nói nghĩa kinh nầy”.
Tôn giả A Nan bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi ở nơi kinh nầy chơn thiệt thọ trì chẳng để mất một chữ một câu như từ miệng đức Phật phát ra không sai
khác. Nếu có người phát tâm Bồ đề, tôi sẽ vì người ấy mà diễn nói rộng”.
Đức Phật phán rằng : “ Lành thay, lành thay, nầy chư thiện nam tử ! Các ông đều có thể sau khi ta diệt độ hộ trì chánh pháp chẳng cho dứt mất.
Nầy chư thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh cầu pháp Đại thừa chưa được pháp nhẫn mà thọ trì kinh nầy, nên biết người nầy chẳng quá bảy đức Phật sẽ được thọ ký. Nếu là người Thanh Văn mà hay thọ trì kinh nầy, lúc Di Lặc xuất thế thành Phật, thì người ấy sẽ ở trong pháp hội đầu tiên.
Nếu là hàng Duyên Giác mà có người thọ trì kinh nầy, sau khi ta diệt độ, thì người ấy sẽ được thành đạo chúng”.
Lúc đức Thế Tôn nói pháp nầy , vô lượng chúng sanh phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng chúng sanh thành tựu pháp nhẫn, vô lượng thế giới chấn động sáu cách.
Chư Bồ Tát từ mười phương thế giới đến dự pháp hội mang hương hoa tốt và các loại kỹ nhạc phan lọng dâng cúng đức Phật đều xướng lên rằng : “Chúng tôi đến trong thất bửu đại phường đình nầy được lợi ích lành rất lớn, nếu chúng tôi mà có
chút ít phước đức, nguyện đem phước lực ấy làm cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở lại lâu thế gian, kinh điển nầy lưu bố khắp mười phương thế giới không hề hư mất. Nếu có hàng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thọ trì kinh nầy, thì làm cho họ xa lìa ưu sầu sợ sệt không có các bịnh khổ”.
Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói : « Bạch đức Thế Tôn ! Chỗ thuyết pháp hôm nay vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn, tất cả tà pháp chẳng thể lay động được, đây là căn bổn của tất cả pháp lành, là căn
bổn của tam thừa, lại là cửa vào của tất cả pháp.
Nếu có chúng sanh hỏi pháp nầy tên gọi là gì và thọ trì thế nào, thì sẽ đáp họ thế nào, xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho”.
Đức Phật phán bảo : “ Nầy thiện nam tử ! Đây gọi là đại bi nói pháp đại bi tên là Như Lai nghiệp thọ ký cho Bồ Tát. Các ông phải thọ trì như vậy”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, tất cả đại chúng Trời Người vui mừng đảnh đời tin thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment