Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 107
PHÁP
HỘI
VĂN THÙ THUYẾT BÁT NHÃ
THỨ BỐN MƯƠI
SÁU
Bạch đức Thế Tôn! Nếu biết ngã tướng mà chẳng nhiễm trước, không biết không trước là chỗ biết của Phật chẳng thể nghĩ bàn. Không biết không trước là chỗ biết của Phật, tại sao, vì thể tánh của biết vốn không có tướng thì làm sao có
biết có trước. Nếu boển tánh của biết không có tướng không có trước thì gọi là không có vật. Nếu không có vật là không xứ sở không có chỗ y không có chỗ trụ. Không y không trụ là không sanh
không diệt. Nếu không sanh không diệt thì là công đức hữu vi và vô vi.
Nếu biết như vậy thì không có tâm
tưởng. Đã không tâm tưởng thì không có biết công đức hữu vi vô vi. Vì thế nên không biết ấy là bất tư nghị. Bất tư nghị ấy là chỗ biết của Phật.
Cũng không có thủ không có chẳng thủ, chẳng thấy tướng tam thế khứ lai, chẳng thủ lấy sanh diệt và những khởi tác, cũng chẳng đoạn chẳng thường. Biết như vậy thì gọi là chánh trí, là
bất tư nghị trí, như hư không, không có thử không có bỉ, chẳng gì so sánh được, không có tốt xấu, không ngang bằng, không có tướng không có mại.
Đức Phật phán: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu biết như vậy thì gọi là trí bất thối chuyển”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Trí vô
tác gọi là trí bất thối chuyển. Ví như quặng vàng, trước hết phải đập luyện rồi mới biết là vàng tốt xấu. Nếu chẳng nung đập thì không biết được.
Tướng của trí bất thối chuyển cũng như vậy, cần phải đi nơi cảnh giới mà chẳng niệm chẳng trước, không khởi không tác, hoàn toàn bất động, bất sanh bất diệt, như vậy tướng ấy mới hiển hiện”.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Như chư Phật tự nói trí của mình thì ai có thể tin?”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Trí ấy chẳng phải pháp Niết bàn chẳng phải pháp sanh tử, là hạnh tịch diệt, là hạnh vô động, chẳng dứt tham sân si cũng
chẳng phải chẳng dứt tham sân si, tại sao, vì vô tận vô diệt vậy, chẳng lìa sanh tử, cũng chẳng phải chẳng lìa, chẳng tu đạo hạnh cũng chẳng phải chẳng tu. Người hiểu như đây thì gọi là chánh tín”.
Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Lành thay,
lành thay! Như lời ông nói là hiểu sâu nghĩa ấy”.
Lúc ấy Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Đời sau nếu có nơi chánh pháp thậm thâm như vậy thì ai có thể tin hiểu lãnh nhận tu hành?”
Đức Phật phán: “Nay trong pháp hội nầy chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, những người được nghe kinh nầy, trong đời vị lai, nếu được nghe pháp nầy thì họ quyết có thể tin hiểu, ở nơi Bát Nhã Ba la mật thậm thâm họ có thể tin hiểu thọ trì, và cũng có thể vì mọi người mà giải thuyết phân biệt.
Ví như Trưởng giả đánh mất châu ma ni lo rầu khổ sở, về sau được lại ông rất vui mừng. Cũng vậy, nầy Đại Ca Diếp! Chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nầy có tâm tin ưa nếu chẳng được nghe thâm pháp
thì lòng khổ não, nếu lúc được nghe thì tin hiểu thọ trì thường thích đọc tụng lòng rất vui mừng. Phải biết những người ấy tức là đã thấy Phật, cũng tức là thân cận cúng dường chư Phật.
Nầy Đại Ca Diếp! Ví như Thiên Đao Lợi thấy cây ba lợi chất đa la nẩy nụ, họ rất vui mừng vì biết chẳng bao lâu cây sẽ trổ hoa. Cũng vậy, nếu chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di được nghe Bát Nhã Ba la mật mà có thể sanh lòng tin hiểu thì chẳng bao lâu sẽ nẩy nở tất cả Phật pháp.
Trong đời tương lai, có Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nghe Bát Nhã Ba la mật tin nhận đọc tụng lòng chẳng mê nghi, thì phải biết người ấy đã từng ở tại pháp hội nầy được nghe thọ kinh ấy rồi và cũng hay vì người khác mà rộng tuyên lưu bố. Nên biết người ấy được Phật hộ niệm.
Trong Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy, ai có thể tin ta không nghi
hoặc, người nầy đã tu học, trồng các căn lành từ lâu nơi chư Phật quá khứ.
Ví như có người tự tay xỏ châu bỗng gặp bảo châu chơn ma ni vô thượng lòng rất mừng rỡ, phải biết người ấy đã từng thấy bảo châu rồi. Cũng vậy, nầy Đại Ca Diếp! Nếu thiện nam, thiện nữ tu học các pháp khác, bỗng được nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm mà hay sanh lòng vui mừng, nên biết người nầy trước đã được nghe rồi. Nếu có chúng sanh
nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm mà hay tin nhận lòng rất vui mừng, những chúng sanh nầy cũng đã thân cận vô số chư Phật và đã được nghe được tu học Bát Nhã Ba la mật.
Ví như có người trước đã đến và thấy thành ấp tụ lạc, lúc sau nghe có
ai khen thuật thành ấp đó những vườn tược, ao suối, rặng cây, bông trái, nhơn dân đều đáng ưa mến, người ấy nghe xong rất vui mừng khuyên khiến thuật lại các cảnh đẹp của thành đó, người ấy nghe rồi lại càng vui mừng hơn, đây là vì các người ấy đã từng thấy thành ấp đó rồi vậy. Cũng thế, nếu thiện nam thiện nữ được nghe Bát Nhã Ba
la mật mà hay tin nhận lòng rất vui mừng thích nghe chẳng nhàm còn khuyên nói nữa, nên biết các người ấy đã theo Văn Thù Sư Lợi nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm vậy”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch đức Phật: “Nếu đời đương lai có thiện nam, thiện nữ được nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm nầy mà tin ưa nhận lấy, do đây nên biết họ cũng đã ở nơi Phật quá khứ, được nghe và tu học rồi”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Đức Thế Tôn nói các pháp
vô tác vô tướng đệ nhứt tịch diệt. Nếu thiện nam thiện nữ hay hiểu chắc nghĩa ấy, đúng như chỗ được nghe mà giải thuyết thì được chư Phật khen ngợi chẳng xa pháp tướng, tức là lời Phật nói, cũng là tướng Bát Nhã Ba la mật phát mạnh, đầy đủ Phật pháp, thông đạt thiệt tướng bất tư nghị”.
Đức Phật phán bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Thuở ta hành đạo Bồ Tát tu các căn
lành muốn an trụ bực bất thối chuyển phải học Bát Nhã Ba la mật, muốn thành Vô thượng Bồ đề phải học Bát Nhã Ba la mật.
Nếu thiện nam, thiện nữ muốn hiểu tất cả pháp tướng, muốn biết tâm hành của tất cả chúng sanh thảy đều đồng đẳng, thì họ phải học Bát Nhã Ba la mật.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Người muốn học tất cả Phật pháp, đầy đủ vô ngại thì phải học Bát Nhã Ba la mật. Người muốn học theo lúc đức Phật thành Vô thượng Chánh giác đủ tướng hảo oai nghi vô lượng pháp thức thì phải học Bát Nhã Ba la mật. Người muốn biết chư Phật chẳng thành Bồ đề Vô thượng tất cả pháp thức và các oai nghi
thì phải học Bát Nhã Ba la mật, tại sao, vì trong pháp không ấy, chẳng thấy có chư Phật Bồ đề vậy.
Nếu người muốn biết các pháp tướng như vậy mà không nghi hoặc thì phải học Bát Nhã Ba la mật, tại sao, vì Bát Nhã
Ba la mật chẳng thấy các pháp hoặc sanh hoặc diệt, hoặc cấu hoặc tịnh.
Người muốn biết tất cả các pháp không có
tất cả các pháp không có các tướng quá khứ, vị lai, hiện tại thì phải học Bát Nhã Ba la mật, tại sao, vì tánh tướng pháp giới không tam thế vậy.
Người muốn biết tất cả pháp đồng nhập pháp giới tâm vô chướng ngại thì phải học Bát Nhã Ba la mật.
Người muốn tam chuyển thập nhị hành pháp luân
cũng tự chứng biết mà chẳng thủ trước thì phải học Bát Nhã Ba la mật.
Người muốn được từ tâm che khắp tất cả chúng sanh không giới hạn, cũng chẳng tưởng nghĩ có tướng chúng sanh, thì phải học Bát Nhã Ba la mật.
Người muốn được đối với tất cả chúng sanh không phát khởi tranh luận cũng chẳng nắm lấy tướng không tranh luận thì phải học Bát Nhã ba la mật.
Người muốn biêt thị xứ phi xứ người trí lực, bốn vô sở uý, an trụ Phật trí huệ được vô ngại biện, thì phải học Bát Nhã Ba la mật”.
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Tôi quán chánh
pháp: vô vi, vô tướng, vô đắc, vô lợi, vô sanh, vô diệt, vô lai, vô khứ, không tri giả, không khiến giả, không tác giả, chẳng thấy Bát Nhã Ba la mật cũng chẳng thấy cảnh giới Bát Nhã Ba la mật, chẳng phải chứng, chẳng phải chẳng chứng, chẳng hí luận, không phân biệt, tất cả pháp vô tận, ly tận, không có pháp
phàm phu, không có pháp Thanh Văn, không có pháp Bích Ci Phật, không có pháp Phật, chẳng phải đắc chẳng phải chẳng đắc, chẳng bỏ sanh tử chẳng chứng Niết bàn, chẳng phải tư nghị chẳng phải bất tư nghị, chẳng phải tác chẳng phải bất tác.
Pháp tướng như vâỵ, chẳng biết phải học Bát Nhã Ba la mật thế nào?”
Đức Phật phán dạy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu có thể biết được pháp tướng như vậy, thì gọi là học Bát Nhã Ba la mật.
Nếu đại Bồ Tát muốn học Bồ đề tự tại tam muội, được tam muội ấy rồi chiếu rõ tất cả Phật pháp thậm thâm và biết danh tự của tất cả chư Phật, cũng biết rõ cả thế giới chư Phật không chướng ngại, thì nên đúng như trong lời Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói về Bát Nhã Ba la mật mà học”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Cớ gì gọi là Bát Nhã Ba la
mật?”
Đức Phật phán dạy: “Bát Nhã Ba la mật: Không danh, không tướng, vô biên, vô tế, chẳng phải tư lương, không nương, không về, không nơi, không chỗ, không tội, không phuớc, không tối, không sáng, như pháp giới không có phần ngằn, không có hạn số. Đây gọi là Bát Nhã Ba la mật, cũng gọi là chỗ sở hành chẳng phải hành xứ chẳng phải chẳng hành xứ của đại Bồ Tát. Đều vào nhứt thừa nên gọi là chẳng phải hành xứ, tại sao, vì vô niệm vô tác vậy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Phải hành thế nào để có thể mau được Vô thượng Bồ đề?”.
Đức Phật phán dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Hành đúng như lời nói trong Bát Nhã Ba la mật thì có thể mau được Vô thượng Bồ đề.
Còn có nhứt hạnh tam muội, người tu tam muội nầy thì cũng mau được Vô thượng Bồ đề”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào gọi là nhứt hạnh tam muội?”
Đức Phật phán dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Pháp giới nhứt tướng, nếu chuyên tâm duyên pháp giới, đây gọi là nhứt hạnh tam muội”.
Nếu thiện nam, thiện nữ muốn vào nhứt hạnh tam muội, phải trước nghe Bát Nhã Ba
la mật rồi tu học đúng như lời, sau đó có thể vào nhứt hạnh tam muội, tâm duyên pháp
giới chẳng thối chẳng hoại bất tư nghị vô ngại vô tướng.
Thiện nam, thiện nữ muốn vào nhứt hạnh tam muội, người nầy phải ở vắng vẻ rảnh rang, bỏ ý tưởng tán loạn, tâm chẳng nắm giữ tướng mạo, buộc chặt tâm tưởng vào một đức Phật rồi chuyên xưng danh hiệu của đức Phật ấy theo phương hướng của đức Phật ấy ngự mà ngồi ngay thẳng mặt hướng về phía ấy.
Có thể ở một đức Phật mà niệm nối nhau không gián đoạn, thì liền trong niệm ấy thấy được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
Tại sao? Vì niệm một đức Phật, công đức vô lượng vô biên, cùng niệm vô lượng chư Phật, công đức cũng không khác.
Bất tư nghị Phật pháp bình đẳng không phân biệt. Chư Phật đều thừa nhất như mà thành bực Tối Chánh Giác, đều đủ vô lượng công đức, vô lượng biện tài.
Người nhập nhứt hạnh tam muội như vây biết hết tướng pháp giới vô sai biệt của hằng sa chư Phật.
A Nan Đà nghe Phật pháp được niệm tổng trì, trí huệ biện tài dầu là hơn hết trong hàng Thanh Văn mà còn có số lượng có hạn ngại.
Nếu được nhứt hạnh tam muội thì ở nơi pháp môn của các kinh, tất cả đều rành rẽ biết rõ quyết định vô ngại, trí huệ biện tài trọn không đoạn tuyệt. Nếu đem biện tài đa văn của A Nan Đà để so sánh thì không bằng một phần trăm một phần ngàn.
Đại Bồ Tát nên nghĩ như vầy: tôi phải thế nào để được nhứt hạnh tam muội công đức bất khả tư nghị danh xưng vô lượng? Rồi lại nghĩ: như đức Phật đã dạy, đại Bồ Tát phải ghi nhớ nhứt hạnh tam muội thường chuyên tinh tiến không giải đãi, theo thứ đệ như vậy mà lần lần tu học, thì có thể được nhập nhứt hạnh tam muội chứng được công đức bất khả tư nghị. Trừ người phỉ báng chánh pháp chẳng tin nhơn quả phạm tội chướng nặng thì không thể nhập được.
Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Ví như có người được châu ma ni đưa cho thợ ngọc xem. Thợ ngọc bảo rằng đây thật là vô giá bảo châu ma ni. Người ấy yêu cầu thợ ngọc giũa giồi chớ để mất màu và ánh sáng. Thợ ngọc trau giồi bửu châu màu sáng chiếu suốt trong ngoài. Cũng vậy, nếu có thiện nam thiện nữ tu học nhứt hạnh tam muội công đức bất khả tư nghị danh xưng vô lượng, tùy lúc tu học biết được các pháp tướng sáng suốt vô ngại công đức tăng trưởng cũng như vậy.
Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Như mặt trời ánh sáng đầy khắp không có tướng tối tắt. Nếu người được nhứt hạnh tam muội thì có thể đầy đủ tất cả công đức kh ông thi ếu k ém, chiếu sáng Phật Pháp như ánh sáng mặt trời.
Này Văn Thu Sư Lợi ! Pháp được ta nói đều là một vị là vị ly , vị giải thoát, vị tịch diệt.
Nếu thiện nam từ, thiện nữ nhân được nhất hạnh tam muộI này thì pháp của họ diễn nói cũng là nhất vị. Là vị ly, vị giảI thoát, vị tịch diệt, tùy thuận chánh pháp không
có tướng sai lầm.
Này văn thù sư lợI ! Nếu đạI bồ tát được nhứt hạnh tam muộI này thì đều đầy đủ cả pháp trợ đạo mau được Vô thượng bồ đề.
LạI này văn thù sư lợI ! Nếu đại bồ tát chẳng thấy pháp giớI có tánh có tướng sai biệt có tướn đồngnhứt thì mau được vô thượng bồ đề , tướng bất khả tư nghị. Trong bồ đề ấy cũng không có đắc Phật. NgườI biết như vậy thì mau được Vô thượng Bồ đề.
Nếu ngườI tin tất cả pháp đều là Phật Pháp , chẳng kinh sợ chẳng nghi hoặc, rõ biết như vậy thì mau được Vô Thượng Bồ Để.
Văn thù ssu lợI bồ tát bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn Do nơi nhơn như vậy mà mau được Vô thượng Bồ đề ư ? ».
Đức Phật phán dạy : « Này Văn thù Sư Lợi Được vvô thượng bồ đề chẳng do nhơn mà được chẳng do phi nhơn mà được. TạI sao ? vì bất tư nghị giớI chẳng do nhơn được chẳng do phi nhơn đuợc.
Nếu thiện nam , thiện nử nghe thuyết pháp như vậy mà chẳng sanh giảI đãi, nên biết ngườI ấy do đã gieo trồng căn lành nơi chư Phật đờI trước.
Vì thế nên Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nghe nói Bát Nhã Ba La mật thậm thâm này mà chẳng kinh sợ thì tức là theo Phật xuất gia. Nếu ưu bà Tắc Ưu bà di được nghe Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm này mà không kinh sợ thì tức là thì tức là thành tựu chỗ quy y chơn thật.
Này văn thù sư lợI Nếu thiện nam thiện nữ chẳng học tập bátnhã ba la mật thậm thâm thì tức là chẳng tu Phật Thừa.
Ví như tất cả cây thuốc đều nương nơi đạI địa mà sanh trưởng. Cũng vậy, đạI bồ tát đều nương nơi bát nhã ba la mật mà tăng trưởng các thiện căn , chẳng trái vớI vô thượng bồ đề”.
Văn thù sư lợI bồ tát bạch đức Phật: “ Bạch đức thế tôn Trong những thành ấp tụ lạc của Diêm Phù Đề nầy, nên ở nơi nào để diễn nói Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy?”
Đức Phật phán dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Trong pháp hội nầy, nếu có người nghe Bát Nhã Ba la mật đều phát thệ rằng: Đời vị lai tôi thường được tương ưng với Bát Nhã Ba la mật. Do sự tin hiểu ấy mà trong đời vị lai được nghe kinh nầy.
Nên biết người nầy chẳng trong căn lành
nhỏ mà đến, có thể kham thọ kinh nầy, được nghe rồi thì vui mừng.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu lại có người theo ông nghe Bát Nhã Ba la mật nầy, nên nói như vầy: Trong Bát Nhã Ba
la mật đây không có những pháp Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật pháp, cũng không có các pháp phàm phu sanh diệt”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu BÀ Di đến hỏi tôi đức Như Lai nói Bát Nhã Ba
la mật thế nào? Tôi sẽ đáp rằng tất các pháp không có tướng tranh luận, làm sao đức Như Lai nói Bát Nhã Ba la mật. Tại sao? Vì chẳng thấy có pháp cùng
tranh luận được, cũng không có
tâm thức chúng sanh để biết được.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi sẽ còn nói cứu cánh thiệt tế. Tại sao? Vì tất cả pháp đồng nhập vào thiệt tế vậy.
A La Hán không có pháp thù thắng riêng biệt, vì pháp A La Hán và pháp phàm phu không đồng không khác vậy.
Lại nữa, bạch đức Thế Tôn! Thuyết pháp như vậy thì không có
chúng sanh đã được Niết bàn, cũng không
có sẽ được và đang được Niết bàn. Tại sao, vì không có tướng chúng sanh quyết định vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người muốn nghe Bát Nhã Ba
la mật, tôi sẽ nói như vầy:
Người nghe pháp ấy, chẳng nhớ, chẳng ham, chẳng nghe, chẳng được. Phải như là huyễn nhơn không có phân biệt.
Thuyết pháp như vậy là chơn thuyết pháp. Thế nên thính giả chớ thấy có hai tướng, chẳng bỏ các kiến chấp, mà tu Phật pháp.
Người tu Phật pháp chẳng lấy Phật pháp chẳng bỏ pháp phàm phu. Tại sao? Vì Phật và phàm phu hai
pháp tướng không, không có
thủ xả vậy.
Nếu có người hỏi tôi, tôi sẽ giảng thuyết như vậy, an ủi như vậy, kiến lập như vậy. Thiện nam thiện nữ phải hỏi như vậy, an trụ như vậy thì tâm không thối lui hư mất. Phải biết pháp tướng rồi tùy thuận Bát Nhã Ba la mật mà giảng thuyết”.
Đức Phật khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Lành thay
lành thay! Đúng như lời Văn Thù Sư Lợi nói.
Nếu thiện nam, thiện nữ muốn thấy chư Phật thì phải học Bát nhã Ba la mật như vậy. Muốn thân cận chư Phật và như pháp cúng dường thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn nói đức Như Lai là Thế Tôn của tôi thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu nói đức Như Lai chẳng phải Thế Tôn của tôi cũng phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn thành Vô thượng Bồ đề cũng phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn chẳng thành Vô thượng Bồ đề cũng phải học Bát nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn thành tựu tất cả tam muội phải học Bát Nhã Ba la mật nhu vậy. Nếu muốn chẳng thành tự tất cả tam muội cũng phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy, tại sao? Vì vô tác
tam muội không có tướng dị biệt vậy, vì tất cả pháp không sanh
không xuất vậy.
Nếu muốn biết tất cả pháp giả danh thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn biết tất cả chúng sanh tu đạo Bồ đề chẳng cầu tướng Bồ đề tâm chẳng thối lui hư mất thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Tại sao, vì tất cả pháp đều là tướng Bồ đề vậy.
Nếu muốn biết tất chúng sanh hành tướng phi hành, phi
hành tức là Bồ đề, Bồ đề tức pháp giới, pháp giới tức thiệt tế, tâm chẳng thối lui hư mất, thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy.
Nếu muốn biết tất cả Như Lai thần thông biến hóa vô tướng vô ngại cũng không có phương sở, thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy”.
Đức Phật phán bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di muốn chẳng bị đọa ác thú thì phải học Bát Nhã Ba la mật một bài kệ bốn câu thọ trì đọc tụng vì người mà giải thuyết tùy thuận thiệt tướng. Nên biết người ấy quyết định được Vô thượng Bồ đề an trụ Phật quốc.
Nếu người nghe Bát Nhã Ba
la mật như vậy mà chẳng kinh sợ sanh lòng tin hiểu. Nên biết người ấy được Phật ấn khả, là chỗ Phật hành pháp ấn Đại thừa. Nếu thiện nam, thiện nữ học pháp ấn ấy thì vượt khỏi ác thú, chẳng vào Thanh Văn, Bích Chi Phật đạo vậy”.
Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích và Thiên Trời Đao Lợi đem các hoa trời: hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa bát đầu ma, hoa phân đà lợi, hoa mạn đà la v.v… các thứ hương trời: hương chiên đàn, các
thứ hương bột, các thứ kim bửu, trỗi kỹ nhạc trờ để cúng dường Bát Nhã Ba la mật cùng chư Như Lai và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Cúng dường xong, chư Thiên Đao Lợi nguyện chúng tôi thường được nghe Bát Nhã Ba la mật pháp ấn!
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn lại phát lời nguyện rằng: Nguyện cho trong Diêm
Phù Đề các thiện nam, thiện nữ thường được nghe kinh nầy quyết định Phật pháp, đều khiến họ tin hiểu, thợ trì đọc tụng, giải thuyết cho người, tất cả chư Thiên ủng hộ họ”.
Đức Phật phán bảo Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn: “Nầy Kiều Thi Ca! Đúng như vậy. Các thiện nam, thiện nữ ấy sẽ được quyết định Vô thượng Bồ đề”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh nầy thì được lợi ích lớn công đức vô lượng”.
Bây giờ do thần lực của Phật, đại địa chấn động sáu cách. Đức Phật liền mỉm cười phóng quang minh
lớn chiếp khắp Đại Thiên thế giới.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Chính đó là tướng đức Như Lai ấn chứng Bát Nhã Ba la mật”.
Đức Phật phán dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Đúng như vậy. Chư Phật thuyết Bát Nhã Ba la mật xong đều hiện tướng lành ấy để ấn chứng Bát Nhã Ba la mật. Khiến người thọ trì không khen
không chê, tại sao, vì pháp ấn vô tướng không khen chê được vậy.
Nay đức Phật dùng pháp ấn nầy làm cho các thiên ma không được tiện lợi”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, chư đại Bồ Tát và bốn bộ chúng nghe thuyết Bát Nhã Ba la mật, đều hoan hỉ phụng hành.
PHÁP HỘI BỬU KẾ BỒ TÁT
THỨ BỐN MƯƠI BẢY
Tôi nghe như vầy:
Một thuở, đức Phật ở tại nước La Duyệt Kỳ, núi Linh Thứu, cùng bốn vạn hai ngàn chúng Tỳ
Kheo.
Tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đều từ thế giới chư Phật mười phương đều đến tập hội. Chư Bồ Tát nầy đều đã thông đạt nhứt sanh bổ xứ, được vô sở trước vô chướng ngại, từ dũng mãnh phục tam muội mà xuất súc sanh, được thượng liên hoa tam muội, kim cương đạo tràng tam muội, thiện kiên trụ tam muội, thuần thục tu tam muội, tràng anh vương tam muội, kim cương tam muội, tịnh đức sự tam muội, phân biệt quyền hành đều được thân cận pháp của chư Phật, ở dưới Phật thọ hàng phục độ các ma giới mà được kiến lập Phật độ, được thành vô tận thuyết pháp tổng trì, được biết căn nguyên của tất cả chúng sanh, dùng biện tài vi diệu làm vui đẹp lòng đại chúng, là bước đi sư tử hùng mãnh vô úy, nếu vào giữa chúng hội thì ứng nghiệm thời nghi tuyên nói văn tự cú, thành tựu các hạnh thì dùng tướng oai đức để tự nghiêm sức, bỏ các sở hữu thế gian, xa rời các ngoại đạo, công đức hiển bày tiếng tăm suốt mười phương. Chư Phật ngợi khen công đức vô lượng, đều từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến , nhứt tâm, trí huệ mà thành, tu tập đạo nghiệp từ vô số kiếp trăm ngàn na do
tha , thấy biết bệnh của tất cả chúng sanh đúng bệnh cho thuốc đều khiến lành bệnh nhập vào pháp duyên khởi để bỏ các sự chấp đoạn diệt và có thường , đức hạnh thanh tịnh chí nguyện không vết nhơ tâm tánh sáng suốt, khai hóa quần sanh và đều nhiếp hộ khiến họ được thành tựu, dạy bảo rõ ràng ý được tự tại, thế lực kiên cường chẳng bỏ tâm từ, đầy đủ bảy thánh tài : tín,
giới, văn, thí, tàm, quý và trí huệ, muốn độ chúng sanh nên dùng thiện phương tiện ở vắng vẻ rảnh rang cố sức tu tập thệ nguyện lành tốt, thánh đức vô lượng, tâm như hư không.
Danh hiệu của chư Bồ Tát ấy là :
Quang Quán Bồ Tát, Thường Minh Diệu Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát, Sư Tử Ý Bồ Tát , Sư Tử Bộ Bồ Tát, Sư Tử Lôi Âm Bồ Tát, Tôn Ý Bồ Tát, Kim Cương ý Bồ Tát, Kim Cương Bộ Bồ Tát, Kim Cương Tràng Bồ Tát, Kim Cương Chí Bồ Tát, Bộ Bất Động Tích Bồ Tát, Độc Bộ Thế Bồ Tát, Thiện Minh Bồ Tát, Liên Hoa Mục Bồ Tát, Liên Hoa Tịnh Bồ Tát, Bửu Tịnh Bồ Tát, Câu Tỏa Bồ Tát, Bửu Tràng Bồ Tát, Bửu Sự Bồ Tát, Bửu Ấn Thủ Bồ Tát, Đức Diệu Vương Bồ Tát, Tịnh Vương Bồ Tát, Chấp Ly Ý Vương Bồ Tát, Điện Quang Nghiêm Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Nhuyến Âm Bồ Tát,Vũ Âm Bồ Tát, Bất Ly Âm Bồ Tát, Ý Tịnh Bồ Tát, Lôi Âm Bổ Tát, Giải Phược Bồ Tát v.v…Còn có Phổ Thủ Chi v.v …mười sáu vị chánh sĩ, Chúng Hương Thủ v.v…sáu mươi Thánh sĩ, Tử Thị Chi v.v …ba mươi hai thanh tịnh hạnh sĩ, đây đều là chư Bồ Tát trong hiền kiếp vậy.
Còn có hàng ma Thiên Tử, Tịnh Phục Tịnh Thiên Tử, Thiện Diệu Thiên Tử, Hiền Hộ Thiên Tử, Hoạch Thắng Thiên Tử, Ỳ Thắng Thiên Tử, Tịch Hóa Âm Thiên Tử, Ý Tư Thiên Tử v.v … hai vạn Thiên Tử đều chí nguyện Đại thừa.
Trời Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương, Ma Vương, Nhuyến Mỹ
Thiên Tử, cùng vô số chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A
Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi Nhơn đồng câu hội.
Lúc ấy đức Thế Tôn cùng đại chúng vô số trăm ngàn quyến thuộc vây quanh mà vì họ thuyết kinh. Đức Phật ngồi tòa đại sư tử thanh tịnh dũng mãnh vô úy
làm sư tử hống, như mặt nhựt chiếu khắp, như mặt nguyệt tròn sáng, như lửa trừ tối, tòa sư tử ấy sáng chói oai
quang hơn hẳn trời Thích Phạm, thân Phật lồ lộ như núi Tu Di hiện giữa đại hải. Kinh điển được đức Phật nói, trước sau lời ý đều diệu thiện, đầy đủ nghĩa hay cứu cánh thanh tịnh. Đại Từ rộng tuyên bày Bồ Tát hạnh, giảng Bồ Tát pháp. Chỗ nên tuân tu gọi là tịnh hạnh.
Phương Đông cách cõi nầy chín trăm hai mươi vạn Phật độ, có thế giới tên Thiện Biến, Phật hiệu Tịnh Trụ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác đương hiện tại thuyết pháp. Bên đức Phật ấy có Bồ Tát hiệu La Đà Lân Na Châu
cùng chung với tám ngàn Bồ Tát, nơi Phật độ ấy bỗng ẩn mất, đến cõi Ta Bà nầy an trụ tại trời Phạm Thiên dùng một bửu cái che trùm cõi
Ta Bà khắp mua hoa trời đủ các màu sắc. Chư Bồ Tát ấy ở tại Phạm Thiên nói kệ rằng :
Chư Thiên nhơn dân được lợi lành
Lòng nguyện thấy Phật Thích Sư Tử
Vì tiêu khổ não các việc tục
Tâm ngưyện kiên cố tu Phật đạo
Vô số Bồ Tát như hằng sa
Được thành Phật đạo lìa ưu phiền
Tôi từ phương Đông mà đến đây
Thế giới tên là Thiện Biến
Phật hiệu Tịnh Trụ hiện giáo hóa
Tôi muốn được lạy Thích Sư Tử
Giả sử có người muốn nghe pháp
Hoặc thấy mười phương chư Bồ Tát
Như muốn đảnh lễ đức Thế Tôn
Phải mau gấp đến núi Linh Thứu
Chư đại Đạo Sư khó được gặp
Pháp yếu kinh điển gặp cũng khó
Thân người khó được rỗi rảnh khó
Tin chắc cấm giới còn khó hơn
Giả sử hiện thời tạo đức bổn
Thì thấy chúng sanh tối và tà
Có thể khai thị khiến diệt độ
Mau cùng nhau đến chỗ đức Phật
Nếu muốn giải thoát ba ác thú
Để được nhơn thiên chỗ an ổn
Sớm chứng vô vi tiêu sanh tử
Phải mau đến chỗ đức Như Lai
Đấng đại Y Vương thí cam lộ
Đấng đại Đạo Sư chỉ đường chánh
Đấng đại Pháp Vương cầm pháp bửu
Hàng phục tất cả loải chúng sanh.
Bửu kế nói kệ ấy rồi đem tiếng kệ ấy truyền rao khắp cõi Đại Thiên.
Nghe tiếng kệ ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Tiếng kệ nghĩa vi diệu ấy tử đâu phát xuất ? ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Xá Lợi Phất ! Cách đây về phương Đông chín trăm
hai mươi vạn Phật độ, có thế giới tên Thiện Biến, Phật hiệu Tịnh Trụ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện tại thuyết pháp. Hầu hai bên đức Phật ấy có Bồ Tát tên Bửu Kế cùng chung với tám ngàn Bồ Tát đồng đến cõi Ta Bà nầy muốn thấy ta để thưa hỏi kinh pháp , cũng muốn thấy chư Bồ Tát mười phương tại pháp hội, nên dừng ở Trời Phạm Thiên nói kệ và khiến kệ ấy truyền khắp cõi Đại Thiên cho vô số chúng sanh gieo trồng cội lành đồng đến chỗ ta, Thích Ca Mâu
Ni Phật.
Bấy giờ Bửu kế Bồ Tát cùng tám ngàn Bồ Tát và vô số Thiên Tử vây quanh, trỗi trăm ngàn kỹ nhạc, mưa các thứ diệu hoa, phóng đại quang minh chấn động cõi Đại Thiên, đến chỗ đức Phật đảnh lễ chưn Phật, nhiễu quanh Phật bảy vòng rổi đứng trước Phật.
Bửu Kế Bồ Tát bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Đức Tịnh Trụ Như Lai kính thăm vô lượng ý chí khương ninh đi đứng khinh tiện thế lực an ổn chăng ?
Ngưỡng mong Thế Tôn ban ân lành vì
chư Bồ Tát mà ban dạy điều phải nên làm. Bồ Tát theo đó được đầy đủ cứu cánh thanh tịnh, mặc giáp tất cả công đức, chứa đầy hạnh lành bình đẳng thanh tịnh tu thân. Thấy sở niệm của tất cả quần sanh xem tướng hành của họ rổi theo sờ ưng mà khai hóa. Dùng trí huệ làm dâm nộ si mà giảng thuyết pháp khiến nên diệu hạnh.
Nếu thấy chúng ta ở nơi tà pháp thì vì họ mà diễn bày giáo pháp
bình đẳng.
Được chư Như Lai hộ niệm giúp đỡ. Tất cả mọi loài chúng sanh đều được nương nhờ. Tất cả chúng ma không thể phá hoại. Được thấy chư Phật không hề trở ngại. Chỗ được tuân tu đều thành hạnh thanh tịnh của Như Lai .
Những lợi lành như vậy do nhơn gì mà được ? ».
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Lành thay, lành thay, nầy Tộc Tánh Tử ! Ông hay hỏi đức Như Lai những nghĩa như vậy. Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ. Ta sẽ giải nói hạnh thanh tịnh của chư Bồ Tát thật hành’’.
Bửu Kế Bồ Tát và đại chúng vâng lời dạy lắng nghe.
Đức Phật phán dạy : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát có bốn pháp, thật hành theo đây thì được thanh tịnh :Một là hành độ vô cực Ba la mật đa.
Hai là thường phài huân tu đạo phẩm của chư Phật .
Ba là đầy đủ thần thông.
Bốn là khai hóa chúng sanh.
Bồ Tát hành độ vô cực thì chỗ được khuyến trợ không đâu chẳng cùng khắp, vào tất cả cội công đức.
Bồ Tát tu đạo phẩm là sử dụng đạI tử biết rõ đúng thờI vào đạI trí huệ.
Bồ Tát có đủ thần thông là phân biệt tâm niệm hành nghiệp thiện ác của nhơn dân.
Bồ Tát khai hóa chúng sanh là đạI bi kiên cố biết rõ chí nguyện căn tánh của tất cả mọI loài.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Sao gọI là Bồ Tát bố thí độ vô cực thật hành thanh tịnh ? Đó là tâm tập xan tham đều vứt bỏ cả, tâm tập bố thí đã có thể phóng xả, phá mất sự tham ái xấu dơ, khuyên gắng bố thí, tất cả sở hữu ban cho chẳng tiếc. Bồ Tát làm việc bố thí rồI mà ở nơi bốn sự chẳng có quan niệm sai biệt :
Một là các loài chúng sanh không sai biệt.
Hai là tất cả kinh pháp chẳng sai biệt.
Ba là chỗ được khuyến trợ cũng không sai biệt
Bốn là chí tánh bố thí cũng không sai biệt.
Thế nào là ở nơi chúng sanh không
có sai biệt ? Bồ Tát chẳng quan niệm : tôi sẽ thí cho
ngườI nầy không cho ngườI kia, thí ngườI nầy được phước nhiều, thí ngườI kia được phước ít, hậu thí cho ngườI nầy bạc thí cho ngườI kia, cúng thí đây xong đến thí cho kia, nên thường thí đây đôi lần thí kia, đích
thân mang thí đây không cần đích thân đến thí cho kia, thí đây đầy đủ thí kia sơ sài, ngườI nầy giữ giớI ngườI kia phá giớI, ngườI nầy được đạI chúng giúp đỡ ngườI kia ít được giúp đỡ , ngườI nầy hay trọn đức chúng giúp đỡ ngườI kia không được trọn, ngườI nầy tu chánh ngườI kia hành tà, ngườI nầy hay thật hành hạnh bình đẳng ngườI kia đọa lạc nghiệp tà vạy.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát bố thí đều nên vứt bỏ các thứ tâm niệm như vậy mà tu tâm bình đẳng chẳng có sai biệt, thường nhờ đến chúng sanh mả cung ứng vớI tâm niệm bình đẳng để khai hóa họ, ý chí bình đẳng, từ bi vui vẻ cứu hộ không hề sót quên. Nói bình đẳng là như hư không chẳng có tăng giảm. Đây gọI là chúng sanh không có sai biệt ».
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Thế nào là các pháp chẳng sai biệt ? Giả sử Bồ Tát thuyết pháp mà tuyên bình đẳng, cũng chẳng quan niệm ngườI phụng tu thì tôi sẽ cho kinh kẻ chẳng thuận pháp sẽ không cho, nếu đủ tất cả pháp tôi sẽ cho còn ngườI không đủ sẽ không cho, ngườI muốn hưng đạo giáo thật hành pháp thí mà bố thí cho phàm phu chẳng gọI là tổn hao bố thí cho hiền thánh chẳng gọI là trưởng ích, lạI biết pháp vốn thanh tịnh bình đẳng không sai biệt vì lẽ ấy mà chỗ bố thí nên bình đẳng. Đây là ở nơi các pháp chẳng sai biệt.
Thế nào là chỗ được khuyến trợ cũng không sai biệt ?
Những vật bố thí cùng đồ cúng dường có được khuyến trợ Bồ Tát cũng không quan niệm sai biệt. Nếu lúc bố thí, Bồ Tát chẳng quan niệm tôi sẽ được phước mong ngôi vị Đế Thích, Phạm Vương, chư Thiên, chẳng ham chỗ năm loài sanh tử xoay vần, chẳng cầu thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Chỗ bố thí chỉ dùng chí nguyện cầu đạo vô thượng chánh nhơn. Đây gọI là khuyến trợ mà chẳng sai biệt.
Thế nào là chí tánh bố thí chẳng sai biệt ? Những gì được phóng xả ? Bổ Tát chí tánh ở nơi đạo, không có lòng sai biệt, hiệp hộI cùng biệt ly tâm Bồ Tát không hề tăng giảm, chẳng cần đền đáp chỉ mong khai hóa tế độ kẻ chẳng bằng vượt đến bờ kia, tâm Bồ Tát nầy chất phác không có dua
siểm, hoài bão đốc biến đổI, khi bố thí vật trân ái lòng rất vui mừng, có ai đến cầu xin mà có thể thí cho được thì Bồ Tát nầy càng vui mừng hơn. Đây gọI là Bồ Tát chí tánh bố thí cũng chẳng sai biệt.
Trên đây là Bồ Tát thí độ vô cực không có sai biệt vậy ».
Đức Phật phán tiếp : « Còn có tám sự vứt bỏ đương lúc thật hành việc bố thí :
Một là chẳng thấy ngô ngã, hai là chẳng thấy có ngườI, ba là chẳng thấy có thọ mạng, bốn là chẳng thấy có đoạn diệt, năm là chẳng thấy có thường, sáu là chằng an trụ ba chỗ, bảy là chẳng thấy chỗ không có, tám là nếu bố thí phài nghiêm tịnh bố thí.
Bồ Tát bố thí trừ bỏ bốn trụ nghiệp :
Một là bỏ phi pháp thì dùng kinh điển khai hóa phàm phu. Hai là bỏ tâm Thanh Văn chí cầu đạI đạo. Ba là bỏ pháp Duyên Giác mà tu pháp bình đẳng. Bốn là xa lìa những chỗ y ỷ chấp trước.
Bồ Tát còn rờI lìa bốn điều tư tưởng : thường tưởng, an tưởng, tịnh tưởng và ngã tưởng.
Còn có bốn sự là bố thí thanh tịnh : thân tịnh, ngôn tịnh, tâm tịnh và tánh tịnh.
Còn cò ba sự bố thí vượt khỏI các trở ngạI : bỏ lòng hy vọng, bỏ lòng hờn giận và lìa Tiểu thừa.
Còn có ba sự xa lìa thì bố thí rời khỏi các sợ sệt : bỏ cống cao, lìa khinh mạng và xa ma nghiệp.
Còn có bốn bố thí dùng pháp được ấn chứng : nộI không, ngoạI không, nhơn không và đạo không.
Còn có bốn bố thí chỉ chuyên tinh tiến : Cho chúng sanh no đủ, đầy đủ Phật pháp, thành tựu đủ tướng hảo nghiêm dung và sửa sang thanh tịnh Phật độ.
Còn có bốn bố thí lòng thường chẳng quên bỏ : Ý thường nhớ đạo pháp, thường muốn thấy Phật, tu tâm đạI từ và diệt trừ uế cấu trần lao của chúng sanh.
Còn có ba bố thí nghiêm tịnh đạo tràng : Thanh tịnh mình, thanh tịnh ngườI và đến đạo tràng thanh tịnh.
Còn có bốn bố thí chỗ đem cho thanh tịnh : Dùng trí huệ bố thí, hay làm vui đẹp lòng chúng sanh, rành rẽ khuyến trợ và hiểu rõ quan sát kinh điển.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Đó là pháp nên được tu của Bồ Tát bố thí độ vô cực thành hạnh thanh tịnh ».
Đức Phật phán bảo Bửu Kế Bồ Tát : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát hành giớI độ vô cực có một sự thành hạnh thanh tịnh : Đó là hiểu tâm Bồ Tát không ngang sánh, tâm ấy siêu quá tất cả thế gian tốI tôn vô tỉ, vượt trên tâm các
Thanh Văn, Duyên Giác, tâm ấy hay hàng phục tất cả các ma, vào trong chúng sanh, đến chỗ nào đều thành danh đức làm vô lượng bửu, các pháp được tuân tập khắp hộ trì lòng chưa hề quên. Đây là một sự thành hạnh thanh tịnh.
Còn có hai sự giớI độ vô cực thành hạnh thanh tịnh : Thường có lòng từ mẫn không hạI chúng sanh và tâm
chí ở nơi đạo điều như tánh hạnh.
Còn có ba sự giớI độ vô cực thanh tịnh :
Một là thân thanh tịnh ba điều thì giớI không thiếu sót rốt ráo trọn đủ.
Hai là ngôn thanh tịnh tất cả lờI được nói ra không có
dua gièm.
Ba là ý thanh tịnh trừ bỏ các tham dục sân hạI cấu uế.
Còn có bốn sự giớI độ vô cực thanh tịnh : Đủ giớI thanh tịnh, giữ giớI cấm chẳng phạm, dùng giớI pháp ấy giáo hóa chúng sanh và thấy ngườI trì giớI thì kính họ như kính Phật.
Còn có năm sự giớI độ vô cực thanh tịnh : Chẳng tự khen mình, chẳng chê ngườI, bỏ chí Thanh Văn, lìa
ý Duyên Giác và không hề tham trước.
Còn có sáu sự giớI dộ vô cực thanh tịnh : Thường niệm Phật chẳng phạm cấm giớI, thường niệm kinh Pháp thuận tu chánh hạnh, thường niệm Thánh chúng chẳng trái Phật giáo, thường niệm bố thí bỏ hết trần dục, thường niệm cấm giớI chẳng còn tham mộ tất cả ngũ thú và thường niệm chư Thiên tuyên những đức lành.
Còn có bảy sự giớI độ vô cực thanh tịnh : Đốc tin ưa thích pháp chư Phật, thường nhớ tàm tu làm trọng nhiệm của chúng, thường nhớ quý thẹn suy nghĩ pháp đạo phẩm mà chẳng tự cao đạI, luôn hòa ái chẳng não phiền hình ngườI, không tàn hạI sợ tộI họa đờI sau, chẳng làm phiền nhiễu ngườI ngăn lòng lo buồn và thấy chúng sanh tạI khổ não thì xót thương họ.
Còn có tám sự giớI độ vô cực thanh tịnh :
Không dua gièm, không lòng mong cầu, chẳng tham lợI dưỡng, bỏ tham lam, không ỳ
lạI, biết vừa đủ nơi sở hữu của mình, hành hiền thánh thiền định đủ lòng đạm bạc, ở chỗ rảnh vắng không tiếc thân mạng và thích ở một mình xa lìa chúng
hội, ưa đạo pháp sợ ba cõi chẳng lấy vô vi.
Còn có chín sự giới độ vô cực thanh tịnh : Y luật giáo hóa chúng sanh cho họ đắc độ, lần lần tập chánh định để tu sửa tâm họ, khiến tâm cứu cánh chẳng có lòng nóng giận, tìm cầu sự tịch mịch ngăn tâm động niệm, tập làm oai nghi lễ tiết nghiêm chánh, vượt qua cấm giới chằng thấy thân mình, chưa hề khi hoặc xót thương quần sanh có đủ Đại thừa, cứu cánh thành tựu giới hạnh chẳng còn thiếu kém và lòng thường hoài niệm siêng tu đức lành.
Còn có mười sự giới độ vô cực thanh tịnh : Thanh tịnh thân ba việc, thanh tịnh khẩu bốn việc, thanh tịnh ý ba việc, nhớ bỏ dua gièm chí tánh
chất trực chẳng nhỏ nhen, tâm tánh vào khắp tất cả không ai chẳng nhờ tế độ, tất cả cảm giác đều biết tiết hạn lấy lòng thương làm gốc đều cởi mở các kiết sử, tâm không cứng rắn giáo hóa chúng
sanh đều dùng hạnh điều hòa, thường tu thân mình thấy kẻ đồng hàng thì khép
nép cung kính, với chúng giúp đỡ thì khuyên dạy pháp sự và cung cấp áo cơm khiến lìa bỏ nghiệp thế gian.
Còn có hai sự giới độ vô cực thanh tịnh : Bị người hủy nhục thà chết chớ chẳng phạm cấm giới chẳng khởi tưởng niệm chẳng mộ của cải và không xoay quanh tham cầu tất cả các pháp giới hạnh rỗng không vô tướng.
Còn có hai sự : Nội tịnh trừ các cảm xúc và ngoại tịnh bỏ các cảnh giới .
Còn có hai sự : Thanh tịnh đạo tâm của mình vì hiểu tướng tự nhiên và giới phẩm thanh tịnh vì không có các
tướng vậy.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Đó là Bồ Tát giới độ vô cực hạnh thanh tịnh ».
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : «Nầy Tộc Tánh Tử ! Thế nào là Bồ Tát nhẫn độ vô cực hạnh thanh tịnh ?
Nếu bị người mắng nhiếc Bồ Tát nín nhịn không mắng lại là khẩu thanh tịnh , bị đánh chịu đau không đánh trả là thân thanh tịnh, bị giận thì thương mà không hận là ý thanh tịnh, bị hủy nhục mà không oán hờn là tánh thanh tịnh.
Lại nữa, Bồ Tát nếu nghe có kẻ phát lời thô lỗ vì hộ chúng sanh mà chẳng khởi giận hờn, dầu có bị đao gậy chém đập, bị ngói đá ném đánh, vì hộ đời sau nên chẳng có lòng giận hại. Dầu bị rã rởi chi thể, Bồ Tát chẳng vì đó mà lo buổn bởi thuận theo đạo vậy. Bị người đòi cầu chẳng hề hờn giân bởi tế độ bốn ơn vậy. Phát tâm đại từ mà chẳng sân giận bởi gần Phật đạo vậy. Sanh tâm đại bi bởi đầy đủ đại nguyện vậy. Công huân bủa rộng không ai chẳng phụng mạng bởi nhiều lòng thương vậy. Lòng nhơn từ nói lời ca ngợi công đức chỗ đem bố thí đều vì đạo pháp bởi xa bỏ thiên ma vậy. Lại nữa, Bồ Tát niệm Phật đạo mà hành nhẫn nhục vì thành tựu thân Phật vậy. Nếu niệm giác ý mà hành nhẫn nhục vì đủ thập lực vậy ? Nếu niệm trí huệ mà hành nhẫn nhục vì để đủ tam đạt vô chướng ngại vậy. Niệm thương xót mà hành nhẫn nhục vì thành lòng đại từ vậy.Niệm độ hư vọng mà hành nhẫn nhục vì trọn lòng đại bi vậy. Niệm không kinh sợ như sư tử chứa vì vô sở úy vậy. Niệm vô kiến đảnh tướng mà hành nhẫn nhục vì ở giữa chúng sanh mà không tự cao đại vậy. Niệm đủ tướng hảo mà hành nhẫn nhục vì muốn cứu tế khắp các thế gian vậy. Đủ các Phật pháp mà hành nhẫn nhục vì thành tựu thông tuệ vậy !
Nầy Tộc Tánh Tử ! Có hai sự pháp mà sức nhẫn nhục thanh tịnh : Chuyên ròng tu đạo nghiệp và hiệp họp nghĩa lực. Bị người nặng lời mà hay nhẫn nhịn thân tâm an lạc, đó là hiệp họp nghĩa lực. Nơi tất cả pháp không hề chấp trước mà hành nhẫn nhục đó là tu đạo nghiệp.
Người có tâm nhẫn thanh tịnh thì hay nhẫn nhịn chúng sanh biết rõ không có người, nhẫn được các pháp thảy đều đạm bạc, đây là tịnh nhẫn. Tại sao ? Vì ở nơi ấy không có gì là đáng nhẫn và chẳng phải nhẫn. Nơi tất cả pháp không có gì để được mới gọi là nhẫn. Nơi ngưởi nhẫn cũng chẳng thấy có, nơi tất cả pháp không chỗ chấp trước mới gọi là nhẫn. Không chỗ nương, không chỗ nhẫn chẳng thọ các pháp đây gọi là nhẫn, chẳng lấy sở thủ cho là nhẫn nhục vậy.
Người chẳng chấp ngã nhơn thọ mạng các pháp đây gọi là nhẫn nhục. Người chẳng chấp có thân mạng xem như loại tường vách ngói đá mới gọi là nhẫn vậy.
Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát có hai nhẫn : một là hiểu rõ thân thể chi phần ly tán, hai là biết rõ các pháp đều bổn vô, như vậy mới thành nhẫn nhục.
Đây là Bồ Tát nhẫn độ vô cực hạnh thanh tịnh”.
Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : “ Nầy Tộc Tánh Tử ! Thế nào là Bồ Tát tinh tiến độ vô cực thành hạnh thanh tịnh ?
Bồ Tát chẳng bỏ đạo tâm, nơi công nghiệp được làm chẳng hề khiếp nhược, thường siêng tu tập mà chẳng ngủ nghỉ, chẳng rời cội công đức, chứa họp công dức, nơi độ vô cực chẳng thối qchẳng lui, nếu đến nhà tu hành thì
phương tiện cầu pháp, có thể vì người mà giảng thuyết kinh pháp, bảo hộ chánh pháp độ thoát nhiều người, chẳng nhàm đại huệ khai hóa chúng
sanh, nghiêm tịnh Phật độ độ hàng Tiểu thừa, đầy đủ bổn nguyện cứu cánh thánh huệ, chưa từng trái mất thí giới đa văn, thân cận quyền huệ đã đến nhà phước đức, nên dùng ý nào để cứu tế chúng sanh cho họ không kiêu mạn. Trên đây gọi là tinh tiến.
Những gì là tịnh ?
Nếu hiểu rõ thân như bóng như vang, nói lời nhu nhuyến, ý niệm chẳng mỏi, trí huệ cứu cánh mà tâm tịch tĩnh, sáng suốt nơi việc làm trọn chẳng cùng tận, phân biệt các diệt huệ không có sở khởi, đây là tịnh vậy.
Bồ Tát ấy có ba sự rời lìa tinh tiến : Nương chấp nhơn duyên, hành điên đảo sự và vọng tưởng nơi diệt pháp. Nếu ở nơi tam giới mà không sở trước chấp nương gá thì là tinh tiến.
Còn có ba sự : Mắt không sờ trước, chẳng nương gá nơi sắc trần và chẳng tham nơi thức phân biệt. Như nơi mắt, nơi tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng vậy, đều không sở trước, không gá nhân và
không ham phân biệt, đây gọi là tinh tiến.
Không bố thí mà chẳng xan tham, không trì giới mà chẳng phạm, không nhẫn nhục mà chẳng tranh cãi, không tinh tiến mà chẳng giải đãi, chẳng thiền định mà chẳng tán loạn, không trí huệ mà chẳng ngu si, không tạo đức bổn mà không gì là chẳng lành, không cầu Phật đạo cũng chẳng lấy bực Thanh Văn Duyên Giác, không sở hành mà không chẳng làm, đây thì thành hai tinh tiến thanh tịnh hạnh : Một là nội tâm vô sở trụ mà hưng khởi các nhơn duyên, hai là bỏ ngoại kiến các tưởng các thức, đây là hai tinh
tiến.
Còn có hai hạnh thanh tịnh : Nội tâm tịch định và chẳng duyên ngoại cảnh cũng chẳng phóng dật. Đây là hai hạnh thanh tịnh, căn tánh tinh tiến, nơi càc sở hành vẫn không có sở hành cũng không có
khinh rẻ đùa bỡn. Đây là Bồ Tát tinh tiến độ vô cực hạnh thanh tịnh ».
Đức Phật phán bảo Bửu Kế Bồ Tát : « Thế nào là Bồ Tát tịch độ vô cực hạnh thanh tịnh ?
Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát ân cần nơi sự hiệp họp nhứt tâm quán chỗ nên quan sát mà
dùng chánh thọ. Bồ Tát nầy nếu được nhứt tâm thì trong thiền định chẳng chấp trước nơi sắc cảnh, vứt bỏ các thức phân biệt đau ngứa tư tưởng sanh tử. Thiền giả như vậy chẳng chấp trước các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, chẳng chấp trước các trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng chấp trước các đại dịa, thủy, hỏa, phong, không, chẳng chấp trước các ngôi vị Đế Thích, Phạm Thiên, tôn hào,
chẳng chấp trước các cõi Dục, Sắc, Vô Sắc, chẳng nương đời nay đời sau, chẳng an trụ nơi thân thể cũng không có chỗ ở, chẳng nương ngôn từ, tâm chẳng mỏi lười, đều không có sở trụ, chẳng sốt chẳng bạo, chẳng an trụ biên tế, được không có sở niệm. Thiền giả như vậy chẳng thấy có thân thể, chẳng hưng khởi các kiến chấp, chẳng tham ngã, nhơn, thọ, mạng, chẳng thấy những sự vi diệu khả bất khả, chẳng thấy đoạn diệt, chẳng thấy vô thường, chẳng thấy sanh diệt hữu xứ vô xứ. Thiền giả như vậy cũng chẳng dứt hẳn nguồn các lậu, chẳng tham trước chư Phật, chẳng nhập vào vị quả chứng tịch diệt, cũng chẳng ở mãi nơi không có sở hành.
Người hành thiền như vậy nhứt tâm thấu hiểu nơi không mà không lấy không làm chỗ chứng nhập, cầu nơi vô tướng vô nguyện mà không chứng nhập vô tướng vô nguyện.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment