Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 139
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC
THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
Còn nữa, nếu các hành tất cánh tận ấy thì tức là Niết bàn, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, vì vậy nên chẳng phải quá khứ hành diệt gọi là Niết bàn, cũng chẳng phải vị lai hiện tại hành diệt gọi là Niết bàn. Người Tu Đà Hoàn thấy Niết bàn ấy nhẫn đến người A La Hán thấy Niết bàn ấy.
Thế nào gọi là khổ đế?
Quán tất cả hành chẳng thấy Đệ nhứt đế. Quán tất cả nhơn chẳng thấy Đệ nhị đế. Quán tất cả diệt chẳng thấy Đệ tam đế. Quán tất cả đạo chẳng thấy Đệ tứ đế.
Thế nào gọi là sanh?
Bổn không có sau mới gọi là sanh.
Thế nào gọi là diệt?
Có rồi hoàn không gọi là diệt.
Không có xuất diệt đây gọi là tận.
Do nhân duyên gì không có xuất diệt gọi đó là đạo?
Đạo có sáu hành đó là tu và chẳng phải tu, hành và chẳng phải hành, tri và chẳng phải tri.
Nếu có Tỳ Kheo hay thấy các pháp sanh diệt như vậy, thì hay nhàm tất cả các hành, hay thấy tướng vô thường của tất cả hành.
Thế nào là tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường?
Nếu có tướng tạp với hành sơ vô lậu tướng, nếu có tướng tạp với hành vô nguyện giải thoát môn, nếu có tướng không rỗng, tướng khổ, tướng bất tịnh, tướng vô ngã, đây gọi là tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường.
Thế nào là pháp vô thường chẳng phải tướng vô thường?
Đó là tam giới sắc tướng thanh tướng đến pháp tướng, đây gọi là điên đảo tướng, gọi là xả tướng chẳng phải vô thường tướng. Đây gọi là pháp vô thường chẳng phải tướng vô thường.
Thế nào là vô thường tướng cũng vô thường pháp?
Đó là tất cả chúng sanh chưa được quyết định, do thế tục đạo nhập các tam muội tuỳ pháp tướng nhẫn. Đây gọi là tướng vô thường cũng là pháp vô
thường.
Thế nào là chẳng phải tướng vô thường và chẳng phải pháp vô thường?
Đó là tướng tịch tĩnh thường và tướng giải thoát tịnh. Đây gọi là chẳng phải tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường.
Thế nào gọi là được Đệ nhứt đế?
Đó là quán sáu căn ngũ ấm dường như tượng trong gương, đây gọi là được đế thứ nhứt.
Thế nào là nhứt tâm quán Tứ đế?
Nếu quán các hành đều là nhơn khổ. Vì là nhơn khổ nên thấy được diệt dứt được xa lìa được, như vậy gọi là tâm duyên vô lậu. Vì vậy nên nhất tâm được tứ đế, gọi là tâm vô lậu được giải thoát.
Nếu có Tỳ Kheo quán tâm số, đây gọi là vô nguyện giải thoát môn.
Quán tâm số rồi quán mười hai sự:
Mười hai sự là: Nghiệp, hành, khổ, không, hoại, chẳng tự tại, quá khứ, hiện tại, vị lai, nhơn duyên, vô tác và thọ.
Đây gọi là thấy tâm tâm số gọi là vô nguyện giải thoát môn.
Nếu có Tỳ Kheo quán sát tâm ấy, không có tâm sanh không có xuất nhập, không có năng viễn ly, đây gọi là thấy tâm tâm số được không giải thoát môn.
Nếu Tỳ Kheo quán không có tâm nhập định mà được xa lìa tất cả phiền não, vì không nhơn duyên nên phiền não chẳng sanh. Đây gọi là viễn ly phiền não mà thấy tâm tâm số được vô tướng giải thoát môn.
Nếu quán như vậy thì được xa lìa tâm hữu lậu mà được vô lậu giải thoát.
Nầy Kiều Trần Như! Tất cả các hành hữu vi đều không có quyết định. Nếu đã bất định thì thế nào được nhập vào định tụ. Nếu nói rằng quán sát tam thế rồi được nhập định tụ, nghĩa ấy không phải. Tại sao, vì quá khứ đã hết, vị lai chưa xuất, hiện tại vô thường, tam thế quán sai khác thì
thế nào được nhập định tụ ư! Vì thế nên tất cả dị quán, tánh nó chẳng quyết định.
Như điện đường có bốn bực thang. Nếu nói rằng chẳng do bực thang thứ nhứt mà đến bực thang thứ tư thì chẳng có lẽ ấy.
Lúc lên bực thang thứ nhứt chẳng được gọi là lên bực thứ tư. Đã có bốn bực như vậy thì chẳng gọi là một.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu bốn đế ấy là một đế thì mới có thể nhứt tâm được!
Nầy Kiều Trần Như! Lúc quán khác lúc
được cũng khác.
Lúc quán khác đó là nhơn và quả đều hoại hết.
Lúc được khác đó là khổ trí, tập trí, diệt trí và đạo trí.
Nếu có Tỳ Kheo quán các hành là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh, là vô trụ, là lậu, là kiết duyên, là tất cả hữu, đây gọi là hệ phược, vì vậy nên chẳng cầu các ấm các hành mà nhàm
tất cả hành và thích cầu Niết bàn, chí tâm tư duy công đức Niết bàn, rất thích tịch tĩnh, chẳng tiếc thân mạng, tu Xa ma tha và
Tỳ bà xá na. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là Tỳ Kheo tâm
có thể quán sát tâm?
Nếu có Tỳ Kheo có thể quán sát tâm. Tâm vô thường là pháp sanh diệt, đây gọi là Tỳ Kheo tâm
hay quán tâm.
Tỳ Kheo như vậy tu không tam muội.
Thế nào gọi là không?
Đó là ngũ ấm không, thập nhị nhập không, thập bát giới không, tứ đế không, thiệt không, thập nhị nhơn duyên không, tánh
không.
Thế nào là Ngũ ấm không?
Đó là sắc ấm không, không có ngã ngã sở, đến thức ấm không, không ngã ngã sở. Đây gọi là ngũ ấm không.
Nhập và giới không cũng như vậy.
Thế nào là Tứ đế không?
Đó là khổ đế không có đắc không có xả, đến đạo đế không có đắc không có xả. Đây gọi là Tứ đế không.
Thế nào gọi là thiệt không?
Trong tất cả pháp không có giác quán không có ngã ngã sở. Đây gọi là thiệt không.
Thế nào là Thập nhị nhơn duyên không?
Thập nhị nhơn duyên tứ là thập nhị hữu chi, Quán thập nhị chi không có ngã
ngã sở, đây gọi là thập nhị nhơn duyên không.
Thế nào là Tánh không?
Nếu có Tỳ Kheo quán nhãn không, không có ngã ngã sở, đến quán ý không,
không có ngã sở. Đây gọi là Tánh không.
Đây gọi là pháp hành có thể quán tâm tâm số.
Tỳ Kheo như vậy chẳng thấy chúng sanh thọ mạng sĩ phu. Tỳ Kheo ấy biết tất cả pháp tánh chơn thiệt hiểu biết thế đế vì là lưu bố vậy. Nói ấm nhập giới, biết tất cả pháp tánh không có
xuất diệt.
Tỳ Kheo như vậy có thể qua khỏi sanh tử, có thể biết Khổ, Tập, Diệt, Đạo, có thể dứt phiền não.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập pháp hành biết tất cả pháp từ nhơn duyên sanh từ nhơn duyên diệt. Tỳ Kheo như vậy được ba giải thoát, biết sắc chơn tướng. Sắc chơn tướng ấy tức là ngại tướng, thọ thọ tướng, tưởng giác tướng, hành hành tướng, thức tri tướng. Đây gọi là chơn thiệt biết tất cả pháp tướng, quán như vậy rồi được Không giải thoát môn.
Thấy tất cả pháp không có tác giả thọ giả, không có thọ mạng tự tại, chỉ thấy vô thường khổ vô ngã bất tịnh, đây gọi là được Vô nguyện giải thoát môn.
Quán tất cả pháp không có sanh không có diệt, đây gọi là được Vô tướng giải thoát môn.
Nầy Kiều Trần Như! Pháp hành Tỳ Kheo
có thể được thần thông không có ác
giác quán, miệng trọn chẳng nói bốn thứ ác, không có đấu tranh, không nghe lời ác, lúc bấy giờ xa lìa ngũ cái tăng trưởng năm thiện căn được Sơ thiền.
Nhập sơ thiền rồi muốn được thần thông, cột tâm đầu mũi quán hơi thở ra vào sâu thấy chín vàn ngàn lỗ lông, hơi thở ra vào thấy thân đều rỗng không, đến tứ đại cũng như vậy.
Quán như vậy rồi xa lìa sắc tướng được thần thông, đến Tứ thiền cũng như vậy.
Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Nhãn thông?
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào chơn thiệt thấy sắc. Đã thấy sắc rồi tư duy như vầy: như ta được thấy tam thế các sắc, ý nếu muốn thấy tuỳ ý liền thấy. Đến Tứ thiền cũng như vậy.
Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Nhĩ thông?
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ thiền quán hơi thở ra vào. Quán hơi thở ra vào rồi thứ đệ quán âm thanh, đến Tứ thiền cũng như vậy.
Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Tha tâm trí?
Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ thiền quán hơi thở ra vào tu Xa ma
tha và Tỳ bà xá na, đây gọi là Tha tâm trí, đến tứ thiền cũng như vậy.
Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Túc mạng trí?
Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào lúc được Sơ thiền được nhãn thông. Được nhãn thông rồi quán thân ban sơ lúc ca la la nhẫn đến ngũ ấm sanh diệt, trong vô lượng kiếp ngũ ấm sanh diệt. Đến Tứ thiền cũng như vậy.
Nói là thiền ấy, cớ sao gọi là Thiền?
Vì mau chóng gọi là Thiền. Mau rất mau, trụ đại trụ, tĩnh tịch tĩnh, quán diệt viễn ly, đây gọi là Thiền.
Sơ thiền ấy cũng gọi là cụ túc, cũng gọi là viễn ly.
Thế nào là cụ túc? Thế nào là viễn ly?
Nói viễn ly là xa lìa ngũ cái.
Nói cụ túc là có đủ năm chi, đó là giác, quán, hỉ, an và định.
Thế nào là giác?
Như tâm giác đại giác, tư duy đại tư duy quán nơi tâm tánh. Đây gọi là giác.
Thế nào là quán?
Nếu quán tâm hành, đại hành, biến hành, đều tuỳ ý. Đây gọi là quán.
Thế nào là hỉ?
Như chơn thiệt biết, biết rất rõ, tâm động chí tâm. Đây gọi là hỉ.
Thế nào là an?
Đó là thân an, tâm an, thọ an, thọ nơi lạc xúc. Đây gọi là an.
Thế nào là định?
Nếu tâm trụ đại trụ, chẳng loạn nơi cảnh duyên, chẳng sai lầm, không có điên đảo. Đây gọi là định.
Nhị thiền ấy, đồng xa lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là hỉ, an, nội tịnh và định.
Nhập Tam thiền cũng xa lìa ngũ cái, có đủ năm chi là niệm, xả, huệ, an và định.
Nhập Tứ thiền cũng lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là niệm, xả, bất khổ bất lạc và định.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo đầy đủ Tứ thiền, đây gọi là pháp hành.
Nếu có Tỳ Kheo quán thân nhàm sợ, xa lìa thân tướng, tất cả thân xúc, hỉ xúc, lạc xúc, phân biệt sắc ấm, xa lìa sắc ấm, quán vô lượng không xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.
Thế nào là Tỳ Kheo được Thức xứ định?
Nếu có Tỳ Kheo tu Xa ma tha, Tỳ bà xá na quán tâm ý thức, tự biết thân nầy chẳng thọ ba thứ thọ, đã được xa lìa ba thứ thọ ấy, vì vậy nên gọi là được thức xứ định. Đây gọi là pháp hành.
Thế nào là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định?
Nếu có Tỳ Kheo quán tam thế không, biết tất cả hành cũng sanh cũng diệt, không xứ và thức xứ cũng sanh cũng diệt. Quán như vậy rồi thứ đệ quán thức: nay ta quán thức cũng chẳng phải thức, chẳng phải chẳng thức. Nếu chẳng phải thức ấy đây gọi là tịch tĩnh. Nay ta thế nào dứt hẳn thức ấy. Quán như vậy rồi được ít thức xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định.
Thế nào là Tỳ Kheo được Phi tưởng phi phi tưởng xứ định?
Nếu Tỳ Kheo có chẳng phải tâm tưởng, suy nghĩ như vầy: nay tưởng ấy của ta là khổ là thống là nhọt, là ung, là chẳng tịch tĩnh, nếu ta có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là tịch tĩnh.
Nếu Tỳ Kheo có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là được vô tướng giải thoát môn. Tại sao, pháp hành Tỳ
Kheo suy nghĩ rằng:
Nếu có thọ tưởng, nếu có thức tưởng, nếu có xúc tưởng, nếu có không, nếu có thức, nếu có phi tưởng phi phi tưởng. Các thứ tưởng ấy gọi là thô tưởng. Nay nêu ta tu
vô tướng tam muội thì có thể dứt được các tưởng như vậy, vì thế nên thấy phi tưởng phi phi tưởng là tịch tĩnh xứ. Thấy như vậy rồi nhập phi tưởng phi phi tưởng định.
Nếu được Phi tưởng phi phi tưởng định rồi mà không ái không
ái không tham thì có thể phá vô minh, phá vô minh rồi thì gọi là được quả A La Hán.
Ba định trước không thức và thiểu xứ hai đạo sở đoạn. Định thứ tư sau đây trọn chẳng thể dùng thế tục đạo đoạn được. Phàm phu dù ở nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có thô phiền não cũng còn có mười pháp. Đó là thọ, tưởng, hành, xúc, tư, dục, giải, niệm, định và huệ.
Thọ là thức thọ, tưởng là thức tưởng, hành là pháp hành, xúc là ý xúc, tư là pháp tư, dục là muốn nhập định muốn xuất định, giải là pháp giải, niệm là niệm tam muội, định là tâm như pháp trụ, huệ là hụê căn và huệ lực.
Quán hướng tứ quả hành đến được A La Hán quả, quán sanh diệt và không tam muội. Quán tứ đại như bốn rắn độc. Mười pháp như vậy, không xứ thứ tư có đủ cả. Do vì không có thô phiền não nên phàm phu gọi đó là Niết bàn.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập thánh đạo nhàm lìa tứ thiền và tứ không xứ, quán nơi diệt định đạo trang nghiêm tư duy như vầy: Các hơi thở ra vào đều là vô thường, nếu ta dứt được xuất nhập tức thì là an lạc. Do đây nên tất cả các hành nhơn duyên đều diệt, thọ diệt, tưởng diệt, nhẫn đến huệ diệt. Vì giác quán diệt nên ấm nhập giới đều diệt, tham sân si diệt, tất cả tâm số pháp diệt, tất cả phi tấm số pháp cũng diệt. Đây gọi là pháp bất cộng với phàm phu, chẳng phải pháp thế gian, là pháp vô học.
Nầy Kiều Trần Như! Bực Tu Đà Hoàn, bực Tư Đà Hàm trọn chẳng thể được diệt định ấy. Thứ đệ được quả A Na Hàm cũng chẳng thể được. Nếu người A Na Hàm xả thân nầy rồi được quả A La Hán cũng
không thể được diệt định ấy.
Nếu người được bát giải thoát đầy đủ, người nầy mới được diệt định ấy.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu giả sử Như Lai cùng kiếp tận kiếp nói môn Pháp Mục đà la ni ấy mới cùng tận được. Đây gọi là pháp vô ngại trí.
Nầy Kiều Trần Như! Pháp mục đà la ni như vậy chẳng thể nghĩ bàn.
Giả sử có người dùng quỷ mao đếm được số giọt nước biển, nhưng chẳng đếm biết được công đức của Pháp Mục đà la ni. Nếu trừ Như Lai, có ai nói hết được thì không có lẽ ấy. Nhẫn đến tất cả vi trần trong Ta Bà thế giới cũng như vậy.
Đức Phật bảo Kim Cương Sơn Đồng tử rằng: “Nầy Kim Cương Sơn! Pháp Mục đà la ni của ông mang đến đây cùng với chỗ được nói hôm nay có
khác không?”.
Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Bạch đức Thế Tôn! Không có khác vậy”.
Đức Phật hỏi: “Nầy Kim Cương Sơn! Nói như vậy chăng?”.
Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Bạch đức Thế Tôn! Thiệt nói như vậy”.
Đức Phật nói: “Với pháp nầy, nếu có người thọ trì đọc tụng thơ tả rộng vì người giảng nói. Nên biết rằng người ấy thường được Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, tất cả Bát Bộ Thiên Thần thủ hộ. Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, qua sông phiền não nhập vào Bát chánh đạo”.
Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Thiệt đúng như lời đức Phật dạy”.
Đức Phật bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy Kiều Trần Như! Nếu có người trong hàng tứ chúng mà tu pháp ấy thì không gì phá
hoại được. Đây gọi là thí quang, hay
thanh tịnh tịch tĩnh, không có hành xứ, không trược, không động, không có sở y, không ít, không
nhiều, gọi là chí xứ hành, là tế hành, là kiên hành, hay phá bốn ma và tứ ma chúng, cùng tất cả tà kiến, qua sông sanh tử vào biển trí huệ, thường được chư Thánh tán thán, được gần chỗ ngồi của Như Lai, dầu chưa dứt hết tất cả phiền não, cũng được thượng thân thượng sắc thượng lực thượng biện thượng niệm thượng huệ thượng xứ. Hoặc được làm Chuyển Luân Vương thống lãnh bốn ba hai một thiên hạ. Hoặc làm Thiên Đế Thích đến Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương. Hoặc làm Phạm Thiên Vương. Hoặc được toà kim cương dưới cội Bồ đề, phạm âm thâm viễn, tâm thường bình đẳng, được tâm đại bi, được Xa ma tha phá các phiền não gọi là Vô Thượng Tôn”.
Lúc Phật nói pháp ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên v.v… từ chỗ ngồi được quả A La Hán.
Tất cả chư Thiên và thế nhơn tán thán rằng: “Như Lai công đức bất khả tư nghị”.
Vô Lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tứ Thiên Vương và Công Đức Thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tuỳ xứ nào lưu bố kinh điển nầy, tôi sẽ ủng hộ tứ bộ đệ tử tại xứ ấy, cũng ủng hộ quốc độ ấy những thành ấp thôn xóm tụ lạc quốc vương và nhơn dân”.
Lúc bấy giờ Thế Tôn phóng my gian bạch hào tướng quang chiếu suốt thế giới chư Phật mười phương làm mờ cả những nhựt nguyệt tinh tú châu lửa đèn đuốc. Những nơi được ánh sáng bạch hào ấy chiếu đến thì tất cả gai gốc độc không còn hiện. Chúng sanh trong vô lượng hằng hà sa số thế giới mười phương thấy ánh sáng ấy, họ đều nhiếp niệm tư duy pháp lành.
Chư Phật mười phương thấy ánh sáng ấy đều bảo đại chúng mình rằng: “Nầy các thiện nam tử! Cách đây vô lượng hằng hà sa số thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược. Nơi đó hiện có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu. Mười phương có vô lượng Bồ Tát, vô lượng Thanh Văn đều đến đó tập hội. Phật ấy vì đại chúng tuyên nói pháp hành môn Pháp Mục đà la ni. Phật ấy vì hàng Thanh Văn
nói pháp hành xong phóng đại quang minh, sắp sửa tuyên nói môn Tịnh Mục đà la ni, để người trung thừa được quả Duyên Giác, để chư Bồ Tát trang nghiêm
thành tựu Vô thượng Bồ đề đầy đủ thập địa mười tám pháp bất cộng chuyển pháp luân bất thối, phá ba ác thú, khiến tu Bát thánh đạo được quả Vô thượng”.
Vô lượng đại chúng chư Bồ Tát nghe đức Phật mình tuyên lời ấy, tất cả đều bạch Phật mình rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay chúng tôi đều muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và cũng để nghe học môn Tịnh Mục đà la ni”.
Bấy giờ mười phương vô lượng đại chúng Bồ Tát đến Ta Bà thế giới chỗ đức Thế Tôn đầu mặt lễ Phật rồi ngồi qua một phía.
Thế giới nầy, vô lượng Phạm Thiên đồng đến chỗ Phật cúng dường kính lễ rồi ngồi qua một phía.
Trăm ức Ma Thiên, trăm ức Tha Hoá Tự Tại Thiên, trăm ức Hoá Lạc Thiên, trăm ức Đâu Suất Đà Thiên, trăm ức Dạ Ma Thiên, trăm ức Đao Lợi Đế Thích Thiên, trăm ức Tứ Thiên Vương Thiên, trăm ức Nhựt Nguyệt Thiên, trăm ức Diêm La Vương, trăm ức Địa Hành Quỉ, bốn trăm ức A Tu La, bốn trăm ức Long Vương. Đại chúng như vậy đều đến cúng dường kính lễ Phật rồi ngồi qua một phía.
Vô lượng Sa Môn, Bà La
Môn, những người có thần thông cũng đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi qua một phía.
Trong thế giới có các ngoại đạo tướng sư thấy quang minh ấy đều suy nghĩ rằng:
Ánh sáng ấy chẳng phải ánh sáng nhựt nguyệt tinh tú châu lửa đèn đuốc, ắt là ánh sáng lạ, có thể chẳng bao lâu có bảy mặt nhựt mọc sẽ đốt cháy hết đại hải, sông núi, cây cỏ, sau đó Dục giới sẽ có thuỷ tai.
Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa độc giết hại tất cả.
Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa đao kiếm giết hại người vật. Thời kỳ ác hại sắp đến rồi, ai có thể cứu được.
Có người nói: chỉ có Cù Đàm Sa Môn
thương xót tất cả có lẽ ông ấy sẽ cứu được khỏi chết.
Bấy giờ mọi người chí tâm niệm Phật. Niệm rồi liền thấy Đại Bửu Phường Đình, do Phật thần lực, họ đến trong phường đình.
Vua Ba Tư Nặc, do Phật thần lực cũng thấy bửu phường và cũng được đến đó.
Vua Ưu Điền Đà Na, vua Ác
Tánh, vua Luân Đầu Đàn, vua Ma Hê Đà, vua Đầu Đà Xa Na, vua Tần Bà Sa La. Các vua ấy cũng do Phật thần lực thấy bửu phường đều được đến đó. Các vua đến nơi rồi cúng dường kính lễ phật rồi ngồi qua một phía.
Các vua ngồi rồi bảo nhau rằng: “Trong đây có đại tiên nhơn, có Phật Thế Tôn. Vậy nhơn duyên của ánh sáng ấy nên đem hỏi ai?”.
Vua Đầu Đà Xa Na nói: “Tôi có một đại Bà La Môn sư tên Điện Man, giỏi biết tướng pháp, hay giải hay nói, là người đáng nên hỏi”.
Tướng sư Điện Man nghe rồi liền nói: “Tôi xem rộng hết tất cả tướng thơ đều không có ghi sự nầy. Thiệt tôi chẳng thể hiểu được điềm ánh sáng ấy. Chẳng riêng gì tôi, mà
cả năm trăm tướng sư trong Diêm Phù Đề nầy cũng đều chẳng hiểu được”.
Vua Tần Bà Sa La nói: “Nầy các vua! Sao các vua lại rối vậy. Trong đại chúng nơi bửu phường nầy có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni đủ Nhứt thiết trí, giỏi biết tất cả tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ sách tướng lành mười hai tháng, có
lòng đại từ bi thương mến tất cả chúng sanh, thiệt ngữ chánh ngữ. Chỉ có Phật Thế Tôn đây có thể giải nói điềm ánh sáng ấy. Chúng ta nên hỏi Phật”.
Các vua và đại chúng đều tôn ngưỡng đồng bạch rằng: “Ngữa mong Như Lai vì chúng tôi mà nói sách tướng mười hai tháng”.
Đức Phật nói: “Nầy các vua! Nay đại hội nầy chẳng nên nói sách tướng thế gian”.
Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay trong đại chúng nầy có những người chẳng tin công đức Như Lai. Họ lại chẳng tin Thế Tôn là bực Nhứt thiết trí. Nguyện Phật vì phá hoại lòng nghi như vậy mà vì chúng tôi
tuyên nói sách ấy. Những người như vậy được nghe rồi ắt vui mừng sanh lòng tin. Họ sanh lòng tin rồi mới có thể vì họ nói đạo xuất thế. Những người nầy cũng thường thích học hỏi để điều phục”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ nói đó.
Nầy Đại Vương! Thưở xưa tại Tuyết Sơn có một tiên nhơn tên Bạt Già Bà. Tiên ấy ăn rau quả rễ củ, tu tập từ tâm, chưa dứt được phiền não kiết sử, chẳng điều phục được lòng tham dục.
Chỗ tiên nhơn ấy có một cọp cái bèn cùng hành
dục. Cọp cái có thai đủ ngày tháng đến chỗ tiên nhơn đẻ mười hai người con trai. Vì lòng
thương, tiên nhơn tắm rửa các trẻ và mớm nuôi chúng. Cọp mẹ cũng mến yêu luôn cho chúng bú.
Tiên nhơn đặt tên cho chúng: Thứ nhứt tên Đoan Già, thứ hai tên Bạt Già Bà, thứ ba tên Hổ, thứ tư tên Sư Tử, thứ năm tên Đảm Trọng, thứ sáu tên Bà La Đoạ Xà, thứ bảy tên Bộ Hành, thứ tám tên Bà La Nô,
thứ chín tên Kiện Thực, thứ mười tên Ác Tánh, thứ mười một tên Sư Tử Thiềm, thứ mười hai tên Kiện Hành.
Mười hai đồng tử ấy đều ăn rau quả rễ củ, lúc lên bảy tuổi thì cả cha và mẹ đều chết. Các trẻ ấy sầu não lo lắng kêu khóc, ngước mặt lên trời mà nói rằng: Tại sao một lúc không có nơi nương dựa thế nầy.
Có thọ thần nghe lời kêu khóc ấy bảo rằng: Nầy các đồng tử chớ kêu khóc. Có chỗ dựa nương đó là Phạm Thiên thường thương mên chúng sanh.
Các ngươi ngày đêm sáu thời nên tự tắm gội, hướng lên hư không chí tâm lễ lạy cầu khẩn Phạm Thiên.
Phạm Thiên sẽ dùng vô ngại thiên nhĩ nghe tiếng của các ngươi. Nghe rồi Phạm Thiên sẽ đến chỗ chúng ngươi ở. Đến rồi vì thương xót Phạm Thiên sẽ phá trừ si ám cho các ngươi mà ban cho ánh sáng trí huệ. Được trí huệ rồi thì tất cả chư Thiên sẽ cúng dường các ngươi huống là thế nhơn.
Các đồng tử y theo lời thọ thần mà thi hành suốt mười hai năm Phạm Thiên mới nghe tiếng kêu cầu của họ mà xuống cung Trời Đao Lợi.
Thiên Đế Thích thấy Phạm Thiên đến liền cung kính cúng dường rồi hỏi rằng: Đại Sĩ muốn việc gì?
Phạm Thiên nói: Nầy Kiều Thi Ca! Ông chẳng thấy mười hai tiên nhơn trong Tuyết Sơn kia sao? Nên cùng
qua đó.
Thích Đề Hoàn Nhơn cùng vô lượng chư Thiên theo Phạm Thiên xuống Tuyết Sơn.
Thấy Phạm Thiên đến, mười hai tiên nhơn vui mừng hớn hở lễ bái cúng dường.
Phạm Thiên Vương hỏi:
Các người cớ chi trong mười hai năm tinh cần khổ hạnh cúng dường ta muốn cầu sự gì? Vì cầu danh tiếng sắc lực của cải, hay cầu thánh đạo trí huệ, hay cầu được thân chư Thiên?
Kiệt Già Tiên bạch Phạm Thiên: Thưa Đại Sĩ! Nay tôi chẳng cầu những sự ấy. Tôi muốn cầu trí huệ để vì chúng sanh.
Chúng tôi côi cút trẻ nít sớm mất cha mẹ tự theo ý mình không có ai dạy bảo.
Duy nguyện Đại Sĩ ban cho chúng tôi trí huệ, cho chúng tôi biết các nghiệp thiện ác, cũng rõ chúng sanh những nghiệp thiện ác, cũng biết chúng sanh quốc độ thành ấp Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, nam nữ đại tiểu các tướng thiện ác các sự khổ vui, các vua tham
nước chẳng biết chán đủ hưng binh đánh nhau các tướng thạnh suy. Nếu tôi được biết rồi sẽ dùng phương tiện dạy họ dứt diệt tướng xấu ác cho họ được an lạc.
Nầy Đại Vương! Đây là nhơn duyên có sách tướng lành mười hai tháng, là nhơn sanh diệt thế gian chẳng phải pháp nhơn duyên vượt qua tam giới lục đạo cũng chẳng phải pháp dứt diệt ba ác đạo khổ”.
Lúc ấy Di Lặc Bồ Tát ở trước Phật tâm niệm nói kệ hỏi nơi đức Phật Thế Tôn:
Chẳng phải có đướng sá
Mà cũng có luân chuyển
Như Lai cũng chẳng trụ
Tất cả đạo phi đạo
Phi đạo thấy là đạo
Đạo thấy là phi đạo.
Đức Phật nói: “Nầy Di Lặc! Phi đạo là chẳng xuất chẳng diệt chẳng trụ, chẳng phải trí chẳng phải cảnh giới của trí, chẳng phải minh ám, chẳng phải thường đoạn, chẳng phải thiện ác, chẳng phải sắc ấm đến thức ấm. Đây gọi là thiệt tánh, là pháp
tánh, là nhứt thiết hành, là chơn thiệt tiết. Đây gọi là phi đạo.
Trong đạo ấy, chư Phật Như Lai chuyển chánh pháp luân mà chẳng thủ trước.
Các đạo như vậy, nếu có chúng sanh đạo thấy là phi đạo, phi đạo thấy là đạo thì chẳng đạt được đạo và phi đạo. Mới biết rằng ba đạo Như Lai đều hay phân biệt giải nói nhẫn đến chẳng dứt nơi đạo.
Nầy Di Lặc! Như Lai Thế Tôn ở trong không có đạo mà chuyển pháp luân để phá hoại chúng sanh ba thứ đạo vậy. Những gì là ba thứ đạo? Đó là phiền não đạo, khổ đạo và nghiệp đạo.
Nghiệp đạo là hành và hữu. Phiền não đạo là vô minh, ái và thủ. Khổ đạo là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh và lão tử.
Ba đạo như vậy do nhơn duyên gì mà có. Đó là do xúc làm duyên mà có.
Nầy Di Lặc! Nhơn nhãn thấy sắc mà sanh ái tâm,
ái tâm ấy là vô minh. Do ái tâm gây tạo nghiệp gọi là hành, chí tâm chuyên niệm gọi là thức, thức cùng đi chung với sắc gọi là danh sắc, sáu căn sanh tham gọi là lục nhập, nhơn nhập cầu thọ gọi là xúc, tâm tham
trước gọi là ái, cầu lấy các pháp ấy gọi là thủ, pháp như vậy sanh gọi là hữu, thứ đệ chẳng dứt gọi là sanh, thứ đệ dứt gọi là tử, sanh tử nhơn duyên các khổ bức bách gọi là não, nhẫn đến thức nhơn duyên sanh tham cũng như vậy.
Mười hai nhơn duyên ấy, nơi một người trong một niệm đều có đủ cả.
Xuất có ba thứ, đó là nhơn xuất, vật xuất và đạo xuất.
Nếu có Tỳ Kheo tu hành pháp hạnh quán sát tướng mạo ái tâm mà mình
có. Tỳ Kheo nên quán sát nếu có ái tâm tức là vô minh.Thể tánh của vô minh hay xuất ra hai lỗi đó là xuất ra hành và thức. Thức cũng hay xuất ra hai lỗi đó là xuất ra danh và sắc. Danh sắc xuất ra hai là vô trụ và làm lục nhập. Lục nhập xuất ra hai là chẳng nhàm dục và xúc. Xúc cũng xuất ra hai là sanh tâm thọ và cầu thọ. Thọ xuất ra hai là thọ khổ lạc và tâm tham ái. Ái xuất ra hai là hệ phược bền chắc và cầu lấy tức là thủ. Thủ xuất ra hai là tâm
thâm và cầu có tức hữu. Hữu xuất ra hai là thích ở và nhơn duyên. Duyên xuất ra hai là sanh
già và khổ duyên. Già xuất ra hai là hư hoại sắc trẻ và làm nhơn cho tử. Tử cũng xuất ra hai là hư hoại thọ mạng và ái biệt ly. Đây gọi là xuất nhơn.
Nếu Tỳ Kheo tu tập pháp hành quán các pháp như vậy cũng là xuất cũng là diệt thì gọi là vật xuất”.
Đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là đạo xuất?
Nếu Tỳ Kheo kiến đạo thì có hai hạng là hành hành và huệ hành. Chừng ông có biết hành hành và huệ hành ấy chăng?”.
Tôn giả Kiều Trần Như nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi chưa biết. Duy nguyện Như Lai vì Tỳ Kheo
quán mười hai nhơn duyên được đại trí huệ phá phiền não kiết sử mà phân biệt giải nói. Tỳ Kheo nghe
rồi sẽ thọ trì đầy đủ”.
Đức Thế Tôn hỏi Bửu Tràng đồng tử rằng: “Nầy Bửu Tràng! Chừng ông có biết hơi thở ra vào chăng?”.
Bửu Tràng đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi chẳng biết”.
Đức Phật nói: “Nầy thiện nam tử! Pháp hành Tỳ Kheo trước tiên quán vô minh
đến lão tử.
Thế nào gọi là trước quán vô minh?
Trước tiên quán trung ấm nơi cha mẹ sanh tâm tham ái. Do ái nhơn duyên nên tứ đại hoà hiệp hai giọt tinh huyết hiệp thành một giọt bằng hột đậu gọi là ca la la. Ca
la la ấy có ba sự là mạng căn, thức và hơi nóng. Nghiệp duyên quả báo trong đời quá khứ không có tác giả và thọ giả. Sơ tức xuất nhập gọi là vô minh ca la la. Lúc ấy hơi thở ra vào có hai đường đó là theo hơi thở lên xuống của bà mẹ cứ bảy ngày thì một lần biến đổi. Hơi thở ra vào gọi là thọ mạng đây gọi là phong đạo. Chẳng thúi chẳng rã đây gọi là noãn nóng. Tâm ý trong ấy gọi là thức.
Nếu người muốn được quả Bích Chi Phật thì nên quán mười hai nhơn duyên như vậy.
Lại quán ba thứ thọ, nhơn duyên ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới. Quán thế nào?
Theo nơi niệm tâm quán hơi thở ra vào, quán sát nội thân da thứa thịt gân xương tuỷ như mây trên không. Gió động trong thân cũng
như vậy. Có gió hay lên,
có gió hay xuống, có gió hay đầy, có gió hay cháy, có gió hay tăng trưởng. Vì vậy nên hơi thở ra vào gọi là thân hành. Vì
hơi thở ra vào theo giác
quán mà sanh nên gọi là ý hành. Hoà hiệp phát ra âm thanh nên gọi là khẩu hành. Do nhơn duyên ba hành ấy nên có thức sanh. Do nhơn duyên thức nên có bốn ấm và sắc ấm nên gọi là danh sắc. Nhơn duyên ngũ ấm mà thức hiện hành sáu chỗ gọi là lục nhập. Nhãn và sắc đối nhau đến ý và pháp đối nhau gọi đó là xúc. Nhơn duyên xúc nên nhớ ghi sắc ấy đến pháp ấy gọi là thọ. Tham trước nơi sắc đến pháp thì gọi đó là ái. Nhơn duyên ái nên tìm cầu bốn phương đây gọi là thủ. Do nhơn duyên thủ nên có thân sau
đây gọi là hữu. Do nhơn duyên hữu nên có sanh và
lão tử các thứ khổ.
Đây gọi là cội cây lớn mười hai nhơn duyên, ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới vậy.
Vì thế nên duyên nơi xuất nhập tức hay sanh ra tất cả các khổ phiền não. Phàm phu lúc
sanh là phiền não hệ phược, lúc tử cũng phiền não hệ phược, trọn chẳng được thân tâm tự tại, chẳng được tam muội, chẳng hết các lậu.
Nếu có Tỳ Kheo quán xuất nhập tức như gió trong hư không, không có ngã ngã sở, không có tác giả không có thọ giả, nó theo duyên mà
sanh cũng từ nơi duyên mà diệt, không có tướng không có vật không có giác quán.
Gió của chúng sanh cũng như vậy, cùng chung tứ đại mà hiện hành.
Lúc sanh Ca la la chín lỗ đến chín vạn chín ngàn lỗ. Các lỗ ra vào không có tác giả không có thọ giả, chỉ là gió ra vào khối thịt như vậy.
Do nhơn duyên ấy mà có vô minh đến lão tử các khổ tụ họp.
Nầy thiên nam tử! Ví như hư không không có vật không có ngã. Cũng vậy, các hơi thở ra vào địa thuỷ hỏa phong thọ mạng noãn ấm thức tâm vô minh đến sanh lão bịnh tử cũng không có ngã
không có vật.
Chúng sanh mê lầm điên đảo ở trong chẳng phải ngã mà lầm thấy ngã, trong chẳng phải vật mà lầm thấy vật. Nơi những thứ đồng hư không mà tưởng ấm nhập giới. Do điên đảo mê lầm như vậy mà phàm phu luân chuyển sanh tử không có cùng tận.
Nếu Tỳ Kheo quán hơi thở ấy lạnh thì cả thân lạnh, nếu quán hơi thở ấy ấm nóng thì cả thân ấm nóng. Thân thể lúc ấy theo ý theo hơi gió.
Nếu lúc quán lạnh mà chẳng được thiền định chẳng vào định tụ, thì người quán ấy đoạ vào lãnh địa ngục.
Nếu lúc quán nóng mà chẳng được thiền định chẳng vào định tụ, thì người quán ấy đoạ vào nhiệt địa ngục.
Nếu đệ tử Phật tu tập pháp hành lúc quán hơi thở ra vào lạnh hay nóng thì được chánh đạo.
Pháp hành Tỳ Kheo như thiệt quán sát vô minh
đến sanh lão bịnh tử, tâm chẳng điên đảo thì gọi là Tịnh Mục đà la ni vậy.
Nầy thiện nam tử! Nếu ông có thể học đà la ni ấy, tức là chơn thiệt quán xuất nhập tức”.
Bửu Tràng Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, chẳng phải Thanh Văn, Duyên Giác đến được”.
Tứ Đại Thiên Vương bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tuỳ xứ nào có lưu bố kinh điển nầy, chúng tôi cần phải theo hầu thủ hộ, bao nhiêu ác sự đều làm cho tiêu diệt”.
Vua Tần Bà Sa La bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nhơn nơi các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật tu hành pháp hạnh nên khiến Diêm Phù Đề không có tật dịch đói kém và các
ác sự.
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm, nếu có tứ tánh chúng sanh
cung kính cúng dường thì được bao nhiêu phước đức?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm, tuỳ xứ nào có Bồ Tát ấy ở thì xứ ấy có đủ tám sự lành cao thượng.
Một là nhơn dân xứ ấy cúng dường cha mẹ, tăng trưởng tàm quí, cung
kính Sa Môn các Bà La Môn, bực kỳ cựu có đức thọ trì cấm giới.
Nầy Đại Vương! Xứ nào có Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng thì nhơn dân xứ ấy thành tựu sự lành tốt ban đầu như vậy.
Hai là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy tu tập từ tâm xa lìa sát hại, lòng họ điều nhu không có tham dục sân hận mà thường bình đẳng không hai.
Ba là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy không tham gian, ưa thích bố thí, quở trách trộm cắp.
Bốn là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy vợ chồng trinh chánh, quở trách gian dâm phi pháp.
Năm là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy chơn ngữ, thiệt ngữ, hoà hiệp ngữ, nhu hoà ngữ, quở trách vọng ngôn, ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ.
Sáu là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy không có lòng ganh tỵ ghét ghen ác độc.
Bảy là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy chánh kiến chẳng mê lầm, không có tà kiến.
Tám là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy tất cả cung kính cúng dường Tam bửu xa lìa ác kiến.
Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng ở xứ nào thì xứ ấy không có tám sự bố uý.
Một là không có sự bố uý về binh cách trong nước và ngoài nước.
Hai là không có bố uý về ác quỉ.
Ba là không có bố uý về ác tinh tú.
Bốn là không có bố uý về ác bịnh.
Năm là không có bố uý về ác thú.
Sáu là không có bố uý về ác tặc.
Bảy là không có bố uý về hạn khô và lụt lũ.
Tám là không có bố uý về thiếu lương thực.
Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì xứ ấy có tám hạng đại trượng phu:
Một là có các chúng sanh từ quá khứ ở chỗ vô lượng Phật vun trồng thiện căn thích sanh
vào xứ ấy.
Hai là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu trì tịnh giới và đa văn thích
sanh vào xứ ấy.
Ba là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ hiếu kính cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng kỳ cựu bực có đức thích sanh vào xứ ấy.
Bốn là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu tập nghiệp trời sẽ thọ thân trời mà cố ý chuyển báo trời thích sanh vào xứ ấy.
Năm là có các chúng sanh hay phá trừ ác nghiệp ba ác thú thích
sanh vào xứ ấy.
Sáu là có các chúng sanh đủ pháp Thanh Văn thừa thích sanh vào xứ ấy.
Bảy là có các chúng sanh đủ pháp Duyên Giác thừa thích sanh vào xứ ấy.
Tám là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu sáu Ba la mật thích sanh vào xứ ấy.
Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng ở xứ nào thì xứ ấy đất đai mầu mỡ, nước dùng lành tốt, có pháp vị vô thượng, tất cả nhơn dân cùng mọi loài có lòng thân
yêu nhau, xả thân hiện tại đều được sanh cõi trời được Thiên thân.
Nầy Đại Vương! Như một cái hộp đựng bốn thứ hương thơm là trầm thuỷ hương, đa già la hương, ngưu đầu chiên đàn hương và đa ma la diệp hương. Bốn thứ hương ấy hiệp có bốn lượng. Có người trong tứ tánh đem bốn thứ y phục để vào hộp hương ấy được vài ngày rồi mỗi người mỗi tánh tự cầm y phục của mình mà đi.
Bốn thứ hương ấy vẫn còn đủ phân lượng, không có hao tổn, mà trong các y phục ấy đều có mùi thơm của hương.
Nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy thành tựu các thứ công đức, mà Bồ Tát ấy không có tổn giảm”.
Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tứ vô lượng tâm bất khả tư nghị. Tại sao, vì đại Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng mà có thể làm cho vô lượng vô biên chúng sanh được lợi ích lớn”.
Bây giờ trong đại hội có một Bồ Tát tên là Tịnh Quang nói với Vô Thắng Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Nay Ngài đã được lợi ích vô thượng. Tại sao, vì Ngài thường tu tập tứ vô lượng tâm vậy.
Vô Thắng Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ ! Nay tôi thế nào được đại lợi ích! Vì trong pháp như vậy không có tác
không có thọ, không có giác không có tri không có kiến, không có thử không có bỉ.
Như có người nói tôi có thể đem anh lạc trang nghiêm khắp hư không. Dầu nói như vậy mà chơn thiệt chẳng thể trang nghiêm hư không được.
Tất cả các pháp cũng như hư không, không có xuất không có hoại, không sanh không
diệt, không nơi chỗ, không có giác
quán, là tịnh tam muội giải thoát không có tướng không có tác
không có nguyện. Pháp giới như vậy không có chuyển đổi, không có tan rã,
không có hiệp tụ, không có chướng ngại, không có trược, không có biên dường như hư không, không có
hòa hiệp, không có mong muốn, không có tánh, không thấy không nói, pháp tánh không số không ít không nhiều, không có cảnh giới, không có hai, không thủ trước, không lượng, không sắc không thanh tịch tĩnh, không biến đổi không biên lượng, dường như hư không, không sánh, không hơn, không thường không đoạn, khó thấy khó biết, khó tư duy được, kiên cố không có hành,
không có sân hận, nhiếp chư Phật giới, đây gọi là phạm hạnh, gọi là Tứ vô lượng, Như Lai tu tập tâm không có nhàm
đủ siêng tu tinh tiến, đây gọi là Phật pháp, là đại tín, đại niệm, đại bất phóng dật, chí tâm chẳng quên.
Nếu đại Bồ Tát tu tập tứ vô lượng tâm như vậy tức là đại Bồ Tát tu hành thậm thâm pháp giới. Bồ Tát như vậy gần nhập vô sanh pháp nhẫn hành sáu Ba la mật hộ trì chư Phật pháp. Bôt Tát như vậy đã gần đệ tam như pháp pháp nhẫn chơn thiệt thấy thân Phật, hay phá ma chúng
trừ tà đạo qua sông sanh tử vào biển đại trí, thông đạt tất cả cảnh giới chư Phật, trang nghiêm tất cả công đức chư Phật. Bồ Tát như vậy có sắc thân chủng tánh tài vật đều hơn các chúng sanh. Thứ đệ sẽ ngồi pháp toạ Như Lai, đầy đủ tất cả tam muội tổng trì, chẳng bị tất cả Thánh nhơn khinh, được hàng Duyên Giác tán thán, thường được chư Phật hộ niệm, hay hiểu ngữ ngôn của các loài chúng
sanh trong tất cả quốc độ, trong tất cả pháp chẳng thấy người thọ người thí, cũng không thấy có người nói người nghe pháp, không có tác giả không có thọ giả, dường như hư không”.
Tịnh Quang Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Vì lẽ như vậy nên tôi nói Ngài thành tựu vô lượng công đức. Tại sao, vì đã trong
vô lượng vô biên đời siêng tu tinh tiến vậy.
Thưa Đại Sĩ! Nếu đức Phật có được Thập lực, Tứ vô sở uý, Thập bát bất cộng pháp, xuất gia khổ hạnh ngồi cội Bồ đề thành Chánh giác chuyển diệu Pháp luân hiện đại thần thông nhập đại Niết bàn, tất cả đều do tu Tứ vô lượng tâm, như vậy tức là Tứ vô lượng quả.
Vì nghĩa như trên nên các thiện nam tử các thiện nữ nhơn phải nên tu tập Tứ vô lượng tâm”.
Lúc nói pháp ấy, có hai vạn chúng sanh được tuỳ từ nhẫn, vô lượng chúng sanh đủ tứ vô lượng tâm, tất cả đại chúng hoan hỷ đồng cúng dường Phật.
Lúc bấy giờ có một đồng tử Bồ Tát tên Vô Thắng Ý quỳ dài chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ vô lượng tâm có những tướng gì? Có những thể gì? Những nhơn duyên gì? Những quả báo gì? Thế nào là đầy đủ?”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Vô Thắng Ý có thể hỏi nghĩa thậm thâm như vậy”.
Như Lai liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là Điều phục chúng sanh vô sở uý cụ.
Nhập tam muội rồi từ nhục kế Phật phóng đại quang minh. Ánh sáng ấy rất mạnh có các màu sắc chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới, phát ra diệu âm thanh nói kệ rằng:
Trong sình lầy mọc hoa sen đẹp
Cũng còn mọc lên các thứ hoa
Chúng sanh mang lấy cúng dường Phật
Và cùng tất cả chư thiên thần
Tất cả ác quốc cũng như vậy
Sanh các thánh nhơn đại Bồ Tát
Hay điều chúng sanh rất khó điều
Dường như chúng sanh cúng dường hoa
Ta Bà thế giới ngũ trược ác
Trong ấy Thích Ca tuyên nói pháp
Nếu muốn có được vô lượng lợi
Phải nên đến cõi Ta Bà kia.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment