Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 32
PHÁP HỘI
XUẤT HIỆN QUANG MINH
THỨ MƯỜI MỘT
Chủng tộc và thân
Thảy đều xấu ác
Giận thù hung dữ
Hình mạo xấu xa
Dầu sanh làm người
Thân thường hạ liệt
Chấp trước ngã tướng
Mê nơi chân lý
Không có trí huệ
Phân biệt lời hay
Nghe pháp tánh không
Chẳng ưa chẳng thích
Như Lai Thế Tôn
Từ lâu xa rời
Tất cả thế gian
Ngôn ngữ hí luận
Nơi đây phàm
phu
Rất hay nhiễm trước
Trọn đời của họ
Chẳng rõ biết được
Dầu khen trì giới
Chẳng tu phạm hạnh
Miệng nói đúng pháp
Thân làm phi pháp
Tự nói là luật
Thường hành phi luật
Phật dạy đệ tử
Mặc y hoại sắc
Những người phá giới
Mà mặc y này
Càng thêm kiêu mạn
Và lòng phóng dật
Họ ăn của thí
Như nuốt lửa đỏ
Đã bỏ gia đình
Không ngũ dục lạc
Ở trong Phật pháp
Lại không diệu lạc
Thích những hạnh tạp
Chẳng rời nhỉ biên
Bao nhiêu ý thích
Đều chẳng thanh tịnh
Người ngu như vậy
Ở trong đại chúng
Không khác chồn cáo
Nhập bầy sư tử
Dầu nói những pháp
Tịch tịnh như vậy
Cũng chẳng biết rõ
Nghĩa không chơn thiệt
Được người ca ngợi
Sanh lòng ngạo mạn
Chẳng nhớ Đại Sư
Thẹn hổ khiêm hạ
Nhận vật bất tịnh
Như được bửu châu
Vui mừng cầm giữ
Lòng không tạm bỏ
Bọn nầy hạ liệt
Dầu lại xuất gia
Gìn giữ oai nghi
Chấp trì y bát
Chỉ có hình tượng
Không trí huệ thiệt
Dầu lại thế phát
Chẳng bỏ ác tâm
Sa vào đảo kiến
Trái pháp Sa Môn
Mất đạo Niết Bàn
Tịch tịnh vô vi
Cũng không được quả
Của Sa Môn chứng
Vô minh phiền não
Chẳng giảm mảy may
Đi dạo xóm làng
Tự xưng tịch tịnh
Ngưởi ngu vô trí
Chẳng biết đạo chánh
Lòng họ thích muốn
Chỉ là bất thiện
Vì cầu lợi dưỡng
Mà ở chủa chiền
Chẳng chịu tu tập
Chánh nhơn Niết Bàn
Hôn trầm ưa ngủ
Chỉ muốn an thân
Thường ưa thật hành
Những sự như vậy
Dầu ở chùa am
Trải qua nhiều năm
Do vì đảo kiến
Mất đạo Niết Bàn
Trọn chẳng thể được
Đạo quả Sa Môn
Phá hư chánh kiến
Trái phạm cấm giới
Thích y phục tốt
Trang nghiêm thân mình
Nơi các dục lạc
Thường sanh ái nhiễm
Nếu vào thành ấp
Hiện tướng kiêu mạn
Phóng túng thân nghiệp
Chẳng giữ oai nghi
Hoặc vào thành ấp
Dạo đi rao nói
Ở tại chùa am
Trong hang núi kia
Mọi người nên biết
Là chỗ tôi ở
Bước chậm ngó xuống
Đi đứng an tường
Phát ngôn dối lạ
Hiện tướng La Hán
Khiến chúng bạch y
Đều bảo nhau rằng
Lan nhã Tỳ Kheo
Là thiệt bậc Thánh
Hoặc tại chùa am
A lan nhã kia
Thấy có người đến
Liền chỉ thị rằng
Tôi ở chỗ này
Ngày đêm kinh hành
Hoặc trải cỏ mềm
Làm chỗ tĩnh tọa
Hoặc vào tụ lạc
Đến nhà bạch y
Dối hiện ân cần
Hỏi thăm an ổn
Nói bàn vua giặc
Những sự thế tục
Hoặc do nhiễm tâm
Ở trước người nữ
Nhiều thứ phương tiện
Tự khen đức mình
Tôi làm ruộng phước
Cho người trong đời
Tôi bỏ ngôi vua
Xuất gia tu hành
Cung nhơn thể nữ
Đều sanh cõi trời
Mọi người nghe nói
Càng thêm cung kính
Cúng dường đủ thứ
Y phục ẩm thực
Xin ngài thương xót
Thường đến nhà tôi
Tham ưa vị ngon
Chẳng biết tội lỗi
Bị ma làm hại
Như rùa sa lưới
Với chúng lan nhã
Kiêu căng dành lợi
Khi dễ chê bai
Tỳ Kheo tinh tiến
Lòng mê danh lợi
Càng sanh tham luyến
Vì cớ sống còn
Thường làm dối trá
Thêm lớn nghiệp ác
Nơi thân ngữ ý
Nếu có thí chủ
Tịnh tâm cúng dường
Do vì giải đãi
Làm tổn phước họ
Người ngu như vậy
Thường sanh ác dục
Nơi pháp tánh không
Lòng chẳng thuận chịu
Nếu ở trong Phật pháp
Rời được lỗi như vậy
Siêng tu chẳng phóng dật
Được pháp nầy chẳng khó
Với lợi với phi lợi
Khen chê khổ vui thảy
Thế pháp chẳng động được
Được pháp nầy chẳng khó
Quán thân tưởng bất tịnh
Ngũ uẩn tưởng độc hại
Ăn uống tưởng chữa bịnh
Được pháp nầy chẳng khó
Dầu mặc y phục tốt
Cũng chẳng sanh kiêu mạn
Chỉ để che hổ thẹn
Được pháp nầy chẳng khó
Chẳng cậy ỷ sắc lực
Nơi ăn không tham luyến
Chỉ nuôi sống để tu
Được pháp nầy chẳng khó
Biết rõ những hữu không
Nơi dục không thủ xả
Thường tu hạnh không tịch
Được pháp nầy chẳng khó
Núi cách một do tuần
Ngồi một mình tu thiền
Quán hữu vi vô ngã
Được pháp nầy chẳng khó
Quán nhãn tận sanh biên
Và tướng nhãn lưu chuyển
Siêng tu đạo nhãn tịnh
Được pháp nầy chẳng khó
Nhĩ tỷ thiệt thân ý
Sắc thanh hương vị xúc
Nhẫn đến âm thanh danh
Tất cả đều như vậy
Vô lượng các Tỳ Kheo
Người siêng người biếng trễ
Tất cả đều phải biết
Người gặp bạn thiện ác
Tu tập chẳng tu tập
Sanh tín và bất tín
Tất cả đều phải biết
Người gặp thiện ác hữu
Nơi đạo các căn tận
Tu tập chẳng tu tập
Tất cả đều phải biết
Nếu ưa thích Bồ đề
Hoặc một hai ba tháng
Lúc sau lại thối thất
Tất cả đều phải biết
Nếu người nghe pháp nầy
Sanh được lòng ưa thích
Dầu có lúc thối thất
Rồi lại được lòng tin
Nếu người nghe pháp nầy
Chẳng rời được phóng dật
Họ sanh ý nghĩ rằng
Kinh nầy phi Phật thuyết
Nếu người nghe pháp nầy
Bị ma nó nhiếp trì
Trước dầu phát lòng tin
Sau thì lại vứt bỏ
Không ưa thích chánh pháp
Dối phỉnh cầu danh lợi
Du hành nơi tụ lạc
Khen nói đà la ni
Tam muội tổng trì sáng
Thiệt ra họ chẳng hiểu
Ràng buộc nơi ngũ dục
Tham cầu những thế nghiệp
Dùng lời lẽ phân biệt
Chê ngưởi tu pháp không
Họ không có niệm huệ
Trọn đời họ luống qua
Người ngu bỏ pháp không
Đó là họ phá giới
Sẽ đọa ngục A tỳ
Trọn chẳng được sanh Thiên
Nếu trong một sát na
Tạo lập ngàn tòa tháp
Chẳng bằng nghe kinh nầy
Thọ trì bốn câu kệ
Đem trăm ngàn vòng hoa
Cúng dường nơi Phật pháp
Chẳng bằng nghe kinh nầy
Suy gẫm bốn câu kệ
Nếu người xây bửu tháp
Số nhiều như hằng sa
Chẳng bằng khoảng sát na
Suy gẫm kinh điển nầy
Đem hoa rải cúng dường
Nơi trăm ức cõi Phật
Chẳng bằng khoảng sát na
Suy gẫm kinh điển nầy
Ca sa trăm ngàn ức
Dâng cúng lên chư Phật
Chẳng bằng khoảng sát na
Suy gẫm kinh điển nầy
Phật nhãn thắng thanh tịnh
Không gì chẳng thấy biết
Nếu ưa thính kinh nầy
Sẽ được mắt của Phật
Quá khứ vô số kiếp
Có Phật hiệu Nhiên Đăng
Ta làm tiên Ma Nạp
Cầm hoa đến cúng dường
Phật ký ta thành Phật
Hiệu Thích Ca Mâu Ni
Sẽ ngồi nơi đạo tràng
Diễn nói kinh điển nầy
Còn ông làm đồng tử
Nghe ta được thọ ký
Vui mừng phát lòng tin
Chắp tay phát thệ nguyện
Nếu Ma Nạp thành Phật
Tôi sẽ giúp giáo hóa
Đến lúc Ngài diệt độ
Tôi hộ trì pháp tạng
Như Phật Nhiên Đăng kia
Nói kinh Xuất Hiện Quang
Ma Nạp cùng đồng tử
Lúc ấy đồng nghe thọ
Thuở xưa ta đã từng
Đem hoa sen thơm đẹp
Cúng dường Phật Nhiên Đăng
Thuở ấy ở pháp hội
Ông phát nguyện như vậy
Trong mạt pháp của ta
Thọ trì kinh điển nầy
Lòng chẳng sanh bực dọc
Hay thọ trì đọc tụng
Thì gọi đại trượng phu
Ông phải ở đời sau
Trì pháp khó nghe nầy
Rộng vì các chúng sanh
Phân biệt nghĩa thú ấy
Thuở quá khứ ta cũng
Lúc chánh pháp sắp diệt
Trì kinh Hiện Quang nầy
Rộng nói cho chúng sanh
Người ngu chẳng siêng tu
Hủy báng kinh pháp nầy
Ta dầu nghe họ chê
Cũng chẳng hề phiền giận
Ta thường tu nhẫn nhục
Lợi ích cho thế gian
Do nhẫn lực thành tựu
Thân tướng hảo trang nghiêm
Đồng tử nầy ! Phải xem
Thân Phật diệu viên mãn
Kim sắc rất thanh tịnh
Đều từ nhẫn lực sanh
Ngón chưn ta ấn đất
Chấn động vô biên cõi
Mà chúng sanh chẳng té
Đều là do nhẫn lực
Ta từ một lỗ lông
Phóng trăm ngàn quang minh
Thanh tịnh chiếu tất cả
Đều do thắng nhẫn lực
La Sát rất đáng sợ
Hút lấy tinh khí người
Thường mến kính nơi ta
Đều do thắng nhẫn lực
Những quyến thuộc của ta
Khéo điều phục được tâm
Tôn trọng nơi Như Lai
Đều do thắng nhẫn lực
Trăm ngàn thứ âm nhạc
Khắp ở trong đại chúng
Khen ngợi Phật công đức
Đều do thắng nhẫn lực
Trăm ngàn vị Long Vương
Sân độc rất đáng sợ
Thấy Phật liền vui mừng
Đề do thắng nhẫn lực
Chúng Dạ Xoa La Sát
Cầm trăm ngàn vòng hoa
Đồng đến cúng dường Phật
Đều do thắng nhẫn lực
Vô lượng trăm ngàn cõi
Hiện tại chư Như Lai
Khen ngợi công đức ta
Đều do thắng nhẫn lực
Tám ngàn Cưu Bàn Trà
Và A Tra Phạ Ca
Rải hoa cúng dường ta
Đều do thắng nhẫn lực
Sáu mươi trăm câu chi
Chúng Dạ Xoa Vương thảy
Đồng đến cúng dường ta
Đều do thắng nhẫn lực
Lại có ngàn Long Vương
Ma Na Bà Già thảy
Dâng ta xích chơn châu
Đều do thắng nhẫn lực
Trăm ngàn Cưu Bàn Trà
Tỳ Lô Thích Ca thảy
Hương hoa cúng dường ta
Đều do thắng nhẫn lực
Long Vương giữ đại địa
Hiện ra nửa thân rồng
Chắp tay cung kính ta
Đều do thắng nhẫn lực
Có trăm ngàn câu chi
La Hầu A Tu La
Tịnh tâm cúng dường ta
Đều do thắng nhẫn lực
Nầy Nguyệt Quang phải xem
Phật quang chiếu đến đâu
Hết khổ được an vui
Đều do thắng nhẫn lực
Trăm ngàn chúng chư Thiên
Rải hoa trời cúng dường
Họ bỏ vui ngũ dục
Đến ở gần Như Lai
Ông xem Phật thần thông
Tiếng diễn thuyết thí giới
Khắp mọi noi đều nghe
Đều do thắng nhẫn lực
Tiếng diễn thuyết uẩn giới
Và tiếng nói tứ đế
Khắp mọi nơi đều nghe
Đều do thắng nhẫn lực
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Nhãn tận biên tịch tịnh
Sanh biên cũng tịch tịnh
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Nhãn từ nhơn duyên sanh
Không lai cũng không khứ
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Quan sát nhãn tịch tịnh
Do đó sanh chư Phật
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Nhãn tận biên tịch tịnh
Do đó sanh chư Phật
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Nhãn biên tế tịch tịnh
Do đó sanh chư Phật
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Nhãn sanh biên tịch tịnh
Do đó sanh chư Phật
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Nhãn lưu chuyển tịch tịnh
Do đó sanh chư Phật
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Nhãn vô sanh tịch tịnh
Do đó sanh chư Phật
Do thần thông của ta
Nghe hư không thuyết pháp
Nhãn tịch diệt tịch tịnh
Do đó sanh chư Phật
Nhĩ tỷ thiệt thân ý
Sắc thanh hương vị xúc
Nhẫn đến âm thanh danh
Tất cả đều như vậy
Tham sân si phẫn phú
Tật đố và siểm cuống
Cống cao cùng kiêu mạn
Nói rộng cũng như vậy.
Nguyệt Quang Đồng Tử nghe đức Phật nói pháp tối thắng như vậy, vui mừng chắp tay bạch đức Phật rằng: ỘBạch đức Thế Tôn! Ngày mai con muốn thỉnh đức Như Lai và đại chúng đến nhà con thọ trai. Mong đức Như Lai từ mẫn nhận lời.
Đức Phật biết ý nguyện của Đồng Tử thanh tịnh. Đức Phật cũng biết sẽ lợi ích vô lượng chúng sanh. Nên đức Phật xót thương mà nín lặng nhận lời thỉnh của Đồng Tử.
Đồng Tử Nguyệt Quang liền đảnh lễ chưn Phật đi nhiễu bên hữu ba vòng, vui mừng mà trở về nhà cùng với quyến thuộc và chúng Thiên, Long Bát
Bộ đồng nghiêm sức thành Vương Xá. Nơi nghã tư đường giăng bày màn che bằng lụa màu. Màn ấy cao rộng che khắp mọi nơi, dây vàng kết xen, chuỗi ngọc thòng rũ, những lá phan sư tử, hoa vàng câu vòng trăm
ngàn thứ để trang sức. Lại còn có hoa báu rất lạ xen lẫn nhau mà làm thành vòng hoa, hoa chiêm bặc, vòng hoa mục chơn lân đà, vô lượng vô số thứ vòng hoa như vậy thòng rũ giáp vòng trong
màn trướng báu. Khắp nơi đều trang nghiêm. Trong ấy sắm đặt chỗ ngồi, đốt những hương quý: hương tất lực ca, hương đô ma già, hương chiên đàn, hương uất kim thơm tho vui dạ. Hòa hiệp nhiều thứ diệu hương như vậy để dùng cúng dường. Còn đem nước thơm rưới khắp mặt đường. Hoa đẹp phủ trên đất chỗ nào cũng đầy khắp.
Chư Thiên nữ, A Tu La nữ, Ma Hầu La nữ số đông vô lượng, lòng họ vui mừng vì muồn thành tựu nhơn Bồ đề nên đồng đến nghiêm sức đại thành ấy.
Trong thành khắp nơi nghiêm sức đã xong, đến giờ ngọ trai, Đồng Tử Nguyệt Quang đến bạch đức Phật: ỘMong đức Thế Tôn vì lợi ích các chúng sanh mà vào
đại thành.
Bấy giờ đức Phật và đại chúng đi vào cửa thành.
Đương lúc đức Phật hạ chưn xuống, khắp mặt đất trong thành đều chấn động. Trăm ngàn ức thế giới mười phương cũng đều chấn động. Trong thời gian ấy, kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ khổ được vui, kẻ xấu thành đẹp, kẻ nghèo được no đủ, không con có con, không
áo có áo, không vàng bạc châu báu có vàng bạc châu báu, không thân thuộc được thân thuộc, người thiếu đồ trang sức thì được có đồ trang sức.
Còn có các thứ chim: chim câu chỉ la, chim anh vũ, chim khổng tước, chim xá lợi, chim ca lăng. Những chim ấy thấy đức Phật, chúng nó vui mừng hót ra những âm thanh vi diệu. Ai nghe tiếng hót ấy cũng đều đẹp dạ.
Đức Phật lại dùng thần lực hóa hiện vô lượng cây hoa chiêm bặc ca. Trăm ngàn chúng sanh
cầm hoa thanh tịnh ấy và các thứ hương khác rải lên cúng dường đức Phật.
Chư A Tu La nữ và Ma Hê Thủ La cầm xích chơn châu và bột chiên đàn vui vẻ kính rải trên đức Phật.
Chúng A Tu La và chư Thiên cầm lọng báu bằng hoàng kim bạch ngân đứng trên hư không che cho Như Lai.
Đức Phật lại dùng thần lực hóa hiện vô lượng cây hương chiên đàn, trăm ngàn cây kim cương, bửu khí và y phục. Những cây như vậy vô lượng vô biên trân bửu trang nghiêm, hoa lá rậm rợp. Đó là do quả báo phước đức cuả tất cả chúng sanh chung lại kết thành. Gió nhẹ thổi động, hơi thơm tối thắng vi diệu lan khắp vô lượng Phật độ. Trăm ngàn chúng sanh đồng rải cúng đức Phật.
Vô lượng chúng sanh, hữu tình và phi tình như vậy đều do thần lực của đức Phật hóa hiện.
Nếu có ai mong cấu, do thần lực ấy, đều làm cho đầy đủ theo ý muốn của họ cả.
Lúc đức Phật vào thành, tất cả đại chúng nghe tiếng hay lạ trên hư không. Tiếng ấy diễn xướng chẳng thể nghĩ bàn, cũng chẳng biết từ đâu xuất phát, nói lên trăm ngàn kệ tụng để tuyên diệu pháp.
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Rõ tham tận biên thường không tịch
Chứng thiệt tánh ấy được Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Rõ tham sanh biên thường không tịch
Chứng thiệt tánh ấy được Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Rõ tham biên tế thường không tịch
Chứng thiệt tánh ấy được Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Rõ tham tịch tịnh thường không tịch
Chứng thiệt tánh ấy được Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Rõ tham lưu chuyển thường không tịch
Chứng thiệt tánh ấy được Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Rõ tham không có thường không tịch
Chứng thiệt tánh ấy được Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Rõ tham không sanh thường không tịch
Chứng thiệt tánh ấy được Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Rõ tham tịch diệt thường không tịch
Chứng thiệt tánh ấy được Bồ đề
Sân si phẫn phú cùng tật cuống
Siểm khúc cống cao kiêu mạn ưu
Khổ tập diệt đạo và hữu tình
Đồng nam đồng nữ với phụ nữ
Trượng phu dưỡng dục gồm sáu căn
Sáu trần bốn đại tánh sự vật
Thế gian khổ uẩn giới thế sanh
Âm thanh danh vân vân cũng
vậy
Pháp Vương diễn nói tiếng vi diệu
Tất cả chúng sanh đều vui mừng
Chư Thiên thế nhơn cùng nghe rồi
Thích muốn ở nơi Như Lai thừa
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Nơi sức bố thí Phật rất thích
Do sức bố thí chứng Bố đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Nơi thanh tịnh giới Phật rất thích
Do sức tịnh giới chứng Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Nơi hạnh nhẫn nhục Phật rất thích
Do sức nhẫn nhục chứng Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Nơi hạnh tinh tiến Phật rất thích
Do sức tinh tiến chứng Bồ đề
Lúc đức Thế Tôn mới vào thành
Hư không có tiếng nói như vầy
Nơi hạnh thiền định Phật rất thích
Do sức thiền định chứng Bồ đề
Sức thần thông phước đức trí huệ
Sức phương tiện sắc sức danh xưng
Sức nghiệp nhơn duyên sức tín văn
Sức bố thí và sức tịch tịnh
Sức điều phục thiệt tế đế thiện
Sức vô úy hoan hỉ lợi lạc
Từ bi hỉ xả nhẫn vô não
Không vô tướng vô tác cũng vậy
Đấng thập lực thánh chúa thiên tôn
Công đức danh văn vô đẳng lượng
Đương lúc vào thành mới hạ chưn
Đã làm lợi ích nhiều chúng sanh
Xưa ở ba cõi tu tịnh nghiệp
Thêm lớn hạnh lành cho chư Thiên
Tất cả thế gian đều tôn ngưỡng
Nghe lời Phật nói đều vui mừng
Lúc Phật vào thành mới hạ chưn
Thành ấp đại địa đều chấn động
Đồng thấy tịnh quang minh của Phật
Thảy đều khát ngưỡng sanh vui mừng
Thế Tôn vào thành lợi ích lớn
Nhơn thiên đại chúng lòng vui mừng
Ba cõi từ đất đến không gian
Đều khen Như Lai khéo an lạc
Túc luân của Phật vừa ấn đất
Tịnh quang chiếu khắp chưa từng có
Trong thành Thiện Mã vang tiếng diệu
Trên không các chim cũng
vui mừng
Lại có chúng nữ nhơn thanh tịnh
Tay chưn hoàn xuyến và chuỗi ngọc
Nhiều thứ trang sức báu như vậy
Chẳng gõ tự vang tiếng vi diệu
Các nàng cùng đến mừng rỡ nhau
Đồng thanh khen ngợi Thắng Cát Tường
Đui điếc tàn phế được lành lặn
Đều là quả thù thắng của Phật
Thế Tôn vào thành người đều mừng
Troi người rải hoa cúng dường Phật
Khắp trong hư không vang tiếng diệu
Vô lượng chư Thiên rất vui mừng
Còn có những chúng sanh mất trí
Đã hết cuồng loạn lòng vui mừng
Nữ nhơn thai nghén lòng lo sợ
Nhờ ánh sáng Phật được an vui
Hoặc có các nam nữ hổ thẹn
Vì họ nói pháp rời cấu nhiễm
Đều sanh lòng thanh tịnh vui mừng
Đảnh lễ dưới chưn đức Mâu Ni
Hoặc cầu Như Lai đạo vô thượng
Hoặc cầu Bồ Tát Thanh Văn thừa
Như vào thành chiên đàn tối thắng
Chiêm ngưỡng Tôn nhan tự mừng rỡ
Phật huệ thấu rõ hạnh mọi người
Tùy thuận thế gian làm lợi ích
Pháp tài sâu xa cho Bồ Tát
Trân bửu thượng diệu thí chúng sanh.
Lúc Thế Tôn vào thành
Hư không nói như vầy
Nếu thích nhãn tận biên
Thì tôn trọng nơi Phật
Lúc Thế Tôn vào thành
Hư không nói như vầy
Nếu thích nhãn tận biên
Thì tin chắc nơi Phật
Nếu thích nhãn tận biên
Được Phật bất hoại tín
Tịnh tín được nối nhau
Do quán nhãn tận biên
Nếu thích nhãn tận biên
Được pháp bất hoại tín
Tịnh tín được nối nhau
Do quán nhãn tận biên
Nếu thích nhãn tận biên
Được Tăng bất hoại tín
Tịnh tín được nối nhau
Do quán nhãn tận biên
Nếu thích nhãn tận biên
Được giới không chấp trước
Tịnh giới được nối nhau
Do quán nhãn tận biên
Nếu thích nhãn tận biên
Rời ác thú tham dục
Rời bỏ tham tương tục
Do quán nhãn tận biên
Nếu thích nhãn tận biên
Rời ác thú sân hận
Rời bỏ sân tương tục
Do quán nhãn tận biên
Nếu thích nhãn tận biên
Rời ác thú ngu si
Rời bỏ si tương tục
Do quán nhãn tận biên
Nếu quán nhãn tận biên
Thì được trí Bồ đề
Trí Bồ đề tương tục
Do quán nhãn tận biên
Nhẫn đến nhãn sanh biên
Biên tế và lưu chuyển
Tịch tịnh cùng không có
Vô sanh với tịch diệt
Các pháp môn như vậy
Nói đồng như nhãn tận
Nếu thích nhãn tận biên
Thì thường không nghi hoặc
Do vì không nghi hoặc
Liền được Phật thần thông
Nếu thích nhãn sanh biên
Thì thường không nghi hoặc
Do vì không nghi hoặc
Liền được Phật thần thông
Nếu thích nhãn biên tế
Thì thường không nghi hoặc
Do vì không nghi hoặc
Liền được Phật thần thông
Nếu thích nhãn lưu chuyển
Thì thường không nghi hoặc
Do vì không nghi hoặc
Liền được Phật thần thông
Nếu thích nhãn tịch tịnh
Thì thường không nghi hoặc
Do vì không nghi hoặc
Liền được Phật thần thông
Nếu thích nhãn vô sanh
Thì thường không nghi hoặc
Do vì không nghi hoặc
Liền được Phật thần thông
Nếu thích nhãn không có
Thì thường không nghi hoặc
Do vì không nghi hoặc
Liền được Phật thần thông
Nếu thích nhãn tịch diệt
Thì thường không nghi hoặc
Do vì không nghi hoặc
Liền được Phật thần thông
Nhĩ tỷ thiệt thân ý
Sắc thanh hương vị xúc
Nhẫn đến âm thanh danh
Tất cả đều như vậy
Biết nhãn sanh vô biên
Phát khởi trí vô biên
Do vì trí vô biên
Nói pháp nầy cũng vậy
Biết nhãn tận vô biên
Nơi nhãn không chướng ngại
Do vì không chướng ngại
Được Phật vô ngại trí
Nhĩ tỷ thiệt thân ý
Sắc thanh hương vị xúc
Nhẫn đến âm thanh danh
Tất cả đều như vậy
Lúc Thế Tôn vào thành
Trăm ngàn loài chúng sanh
Nghe hư không thuyết pháp
Không nghi Phật công đức
Dầu có khởi tham dục
Chẳng hư Phật trí huệ
Hoặc có khởi tham dục
Thối thất Phật công đức
Hoặc dầu khởi tham dục
Mà cầu vô thượng trí
Siêng tu pháp bất cộng
Chẳng thích Thanh Văn thừa
Người ngu tu tập thiền
Ưa nơi thiền định vui
Bèn sanh tăng thượng mạn
Nói được quả Sa Môn
Người ngu tu tập thiền
Không trí nhãn tận biên
Dầu trải trăm ngàn kiếp
Vẫn không được giải thoát
Với tất cả ái sanh
Đều nghiễm trước trong ấy
Nếu biết sanh tánh không
Chỗ thấy thường thanh tịnh
Nếu người tu tứ thiền
Không trí nhãn tận biên
Dầu trải trăm ngàn kiếp
Nơi thiền chẳng thanh tịnh
Nếu chứng được đẳng dẫn
Không trí chứng tận biên
Vì chẳng biết chứng tận
Thường hành nơi chứng lậu
Nếu chấp trước nơi tưởng
Không trí tưởng tận biên
Vì chẳng biết tưởng tận
Thường hành nơi tưởng lậu
Nếu luyến trước thế gian
Không trí thế tận biên
Vì chẳng biêét thế tận
Thường hành nơi thế lậu
Nếu ở tâm hữu lậu
Không trí tâm tận biên
Vì chẳng biết tâm tận
Thường hành nơi tâm lậu
Nếu ở pháp hữu lậu
Không trí pháp tận biên
Vì chẳng biết pháp tận
Thường hành nơi pháp lậu
Nếu đủ pháp đầu đà
Không trí nhãn tận biên
Vì chẳng biết nhãn tận
Chẳng phải thiệt đầu đà
Dầu mặc y hoại sắc
Không trí nhãn tận biên
Vì chẳng biết nhãn tận
Chẳng phải ứng pháp phục
Dầu sanh nhà quý tộc
Không trí nhãn tận biên
Vì chẳng biết nhãn tận
Chẳng phải nhà thanh tịnh
Dầu quyến thuộc đông nhiều
Không trí nhãn tận biên
Chóng đọa trong ác thú
Quyến thuộc chẳng cứu được
Dầu giỏi thanh minh luận
Không trí nhãn tận biên
Vì chẳng biết nhãn tận
Chẳng đạt được thanh minh
Dầu giỏi các công xảo
Không trí nhãn tận biên
Vì chẳng biết nhãn tận
Chẳng phải giỏi công xảo
Dầu với nhiều gạn hỏi
Rộng giải thích một chữ
Không trí nhãn tận biên
Chẳng phải giải nghĩa đúng
Dầu học với người trí
Chẳng biết mật chẳng mật
Không trí nhãn tận biên
Không có được nơi pháp
Dầu rõ các luận thuyết
Thế luận và các pháp
Không trí nhãn tận biên
Như té vực níu dây
Dầu giỏi nơi thanh minh
Suy đoán tường cát hung
Và văn tự âm vận
Đọc tụng đều rõ suốt
Chẳng biết nhãn tận biên
Người ầy vẫn vô trí
Dầu biết tướng nữ nhơn
Lời tà làm mê hoặc
Cách đấm bóp hết mỏi
Những ảo thuật bí mật
Chẳng biết nhãn tận biên
Người ấy vẫn vô trí
Dầu diễn thuyết trăm tông
Không sót mất một chữ
Chẳng biết nhãn tận biên
Lời nói vẫn vô nghĩa
Sanh biên với biên tế
Lưu chuyển và tịch tịnh
Vô sanh cùng vô hữu
Tịch diệt như tận biên
Nhĩ tỷ thiệt thân ý
Sắc thanh hương vị xúc
Nhẫn đến âm thanh danh
Tất cả đều như vậy
Dầu đọc tụng thanh luận
Mà biết hết nghĩa ấy
Chẳng biết nhãn tận biên
Họ vẫn là hạ liệt
Dầu tụng tứ Vi Đà
Thần chú đều thông thuộc
Chẳng biết nhãn tận biên
Họ vẫn là hạ liệt
Như vậy nhãn sanh biên
Biên tế và lưu chuyển
Nhẫn đến nhãn tịch diệt
Phải biết cũng như vậy
Nhĩ tỷ thiệt thân ý
Sắc thanh hương vị xúc
Nhẫn đến âm thanh danh
Tất cả đều như vậy
Lúc Thế Tôn vào thành
Vô lượng các chúng sanh
Nghe tiếng nói hư không
Được trí nhãn tận biên
Lúc Thế Tôn vào thành
Vô lượng các chúng sanh
Nghe tiếng nói hư không
Biết rõ nhãn tự tánh
Rốt ráo không vô ngã
Đều được nhãn thanh tịnh
Nhĩ tỷ thiệt thân ý
Sắc thanh hương vị xúc
Nhẫn đến âm thanh danh
Tất cả đều như vậy
Tham sân si phẫn mạn
Xan tật cuống cống cao
Nhẫn đến nơi phóng dật
Phải biết cũng như vậy
Lúc Thế Tôn vào thành
Vô lượng loài chúng sanh
Nghe tiếng hư không nói
Danh hiệu của chư Phật
Hoặc nghe diệt hoại tham
Danh hiệu không gì bằng
Hoặc nghe diệt hoại sân
Danh hiệu lợi cho đời
Hoặc nghe hết ngu si
Danh hiệu dẹp kiêu mạn
Hoặc nghe dạy thế gian
Tên đạo sư tịch tịnh
Hoặc nghe hiện trí huệ
Tên lợi ích thế gian
Hoặc nghe hiện phương tiện
Tên lợi ích chúng sanh
Hoặc nghe hàng phục ma
Tên không có hận thù
Hoặc nghe đem pháp dạy
Tên thị hiện giải thoát
Hoặc nghe tên rộng độ
Những chúng sanh khốn khổ
Hoặc nghe đấng Nhơn Tôn
Tên cứu tế chúng sanh
Được nghe danh hiệu Phật
Đều được nhãn thanh tịnh
Hư không vá nước biển
Nhẫn đến núi Tu Di
Tất cả đều lường được
Trí Phật không cùng tận.
Nếu nơi nhãn tận quyết định được
Thành tựu pháp thân chẳng có khó
Nếu thành tựu được thắng pháp thân
Sẽ được vô biên trí tổng trì
Nếu được vô biên trí tổng trì
Tỏ ngộ vô lượng những khế kinh
Nếu ngộ vô lượng những khế kinh
Nơi Phật thần thông được chẳng khó
Nếu nơi nhãn sanh quyết định được
Thành tựu pháp thân chẳng có khó
Nếu hay thành tựu thắng pháp thân
Sẽ được vô biên trí tổng trì
Nếu được vô biên trí tổng trì
Tỏ ngộ vô lượng những khế kinh
Nếu ngộ vô lượng những khế kinh
Nơi Phật thần thông được chẳng khó
Như vậy nhĩ tỷ thiệt thân ý
Sắc thanh hương vị và xúc pháp
Nhẫn đến âm thanh cùng với danh
Phải biết tất cả đều cũng vậy
Lúc ấy đại địa đều chấn động
Biển lớn các núi cũng chấn động
Chúng A tu La và chư Thiên
Tất cả thảy đều sanh hoan hỷ
Ma và ma quân hết siểm khúc
Đều cầu thành tựu Phật trang nghiêm
Chư Thiên các xứ cung điện đẹp
Lòng sạch vui mừng bảo nhau rằng
Đạo Sư nay đã hiện ra đời
Để lợi tất cả chúng Trời người
Chúng Địa Cư Thiên ở cung mình
Cũng đều vui mừng bảo nhau rằng
Lành thay Đạo Sư nay xuất thế
Làm nhơn an lạc khắp thế gian
Chúng Không Cư Thiên nghe lời ấy
Thảy đều vui mừng sanh tịnh tín
Dùng tiếng đẹp dạ khen ngợi Phật
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Chúng Tứ Thiên Vương nghe lời ấy
Thảy đều vui mừng sanh tịnh tín
Dùng tiếng thù thắng khen ngợi Phật
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Chư Thiên Đao Lợi nghe lời ấy
Thảy đều vui mừng sanh tịnh tín
Dùng tiếng thù thắng khen ngợi Phật
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Chư Thiên Dạ Ma nghe lời ấy
Thảy đều vui mừng sanh tịnh tín
Dùng tiếng thù thắng khen ngợi Phật
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Chúng tôi phải phát Bồ đề tâm
Chí cầu Như Lai vô thượng trí
Đấng Tối Thắng Người Tròi nương dựa
Độ thoát tất cả loài chúng sanh
Chư Thiên Đâu Suất nghe lời ấy
Thảy đều vui mừng sanh tịnh tín
Dùng tiếng thù thắng khen ngợi Phật
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Phật trải câu chi vô số kiếp
Tu tập vô biên hạnh thù thắng
Dạy đạo an ổn cho chúng sanh
Khiến siêu sanh tử chứng Niết Bàn
Chư Thiên Hóa Lạc nghe lời ấy
Thảy đều vui mừng sanh tịnh tín
Dùng lời thù thắng kken ngợi Phật
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Chư Thiên Tha Hóa nghe lời ấy
Thảy đều vui mừng sanh tịnh tín
Dùng tiếng vi diệu khen ngợi Phật
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Như Lai đã khỏi hẳn sanh tử
Hàng phục chúng ma và ngoại đạo
Thành tựu vô thượng Phật Bồ đề
Cứu vớt quần sanh lên bờ giác
Các chúng Phạm Thiên nghe lời ấy
Thảy đều vui mừng sanh tịnh tín
Dùng tiếng vi diệu khen ngợi Phật
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Như vậy xoay vần nghe tiếng nhau
Quyến thuộc Phạm Thiên đều mừng rỡ
Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian
Ma quân sợ sệt đều lo khổ
Trên đến chư Thiên Sắc cứu Cánh
Nghe Phật xuất hiện lợi thế gian
Như vậy xoay vần tiếng nghe khắp
Tu La tổn giảm chư Thiên tăng
Cung điện ác ma đều trống vắng
Quyến thuộc chư Thiên đều đông nhiều
Dùng sức vô úy hàng chúng tà
Mau thành tối thắng đại Bồ đề
Trong khoảng sát na trời biết khắp
Thế Tôn xuất thế lợi quần sanh
Lành thay thế gian Đại Đạo Sư
Đem mắt thanh tịnh cho chúng sanh.
Lúc Thế Tôn vào thành
Người khổ vì tham dục
Nghe nói bất tịnh quán
Tham dục dứt không còn
Lúc Thế Tôn vào thành
Người khổ vì sân hận
Nghe nói pháp từ bi
Sân hận dứt không còn
Lúc Thế Tôn vào thành
Người khổ vì ngu si
Nghe nói pháp trí huệ
Ngu si dứt không còn
Lúc Thế Tôn vào thành
Người khổ vì kiêu mạn
Nghe pháp lìa kiêu mạn
Kiêu mạn dứt không còn
Lúc Thế Tôn vào thành
Người khổ vì tật đố
Nghe pháp lìa tật đố
Tật đố dứt không còn
Lúc Thế Tôn vào thành
Người khổ vì xan lẫn
Nghe pháp lìa xan lẫn
Xan lẫn dứt không còn
Lúc Thế Tôn vào thành
Người khổ vì phẫn nộ
Nghe pháp lìa phẫn nộ
Phẫn nộ dứt không còn
Nếu tu hạnh điều phục
Nghe vô biên pháp nầy
Thì vào biển đa văn
Thành tựu môn tổng trì
Lại nghe tiếng hư không
Đem hoa cúng dường Phật
Thành tựu thắng công đức
Đại bi thần thông thuyết
Lại nghe tiếng hư không
Khen ngợi thân Như Lai
Chỗ sanh và chủng tộc
Tiếng nói đều thù thắng
Như loài chúng sanh ấy
Thần thông tùy loại nói
Nhãn nhĩ tỷ thiệt thân
Hoặc sắc hoặc thanh thảy
Co duỗi hoặc cúi ngửa
Hiện bày đều thù thằng
Như Lai siêu thế gian
Mà làm đèn thế gian
Thị hiện các sắc tượng
Đều là Phật thần thông
Phàm phu ưa luyến sắc
Vì hiện các thứ thân
Tùy theo loài chúng sanh
Nói sắc không kiên cố
Nếu người nhiều chấp trước
Như Lai hiện thần lực
Tùy họ khí phi khí
Dạy họ pháp đối trị
Chúng sanh từ nhiều đời
Chưa từng cúng dường Phật
Cang cường khó điều phục
Đem địa ngục bảo họ
Nếu người mê nghiệp đạo
Cố chấp ưa hí luận
Đức Phật khiến họ nghe
Pháp dứt chấp hí luận
Lại nghe tiếng hư không
Nhãn tánh quyết định không
Không lai cũng không khứ
Không tướng không sở hữu
Lại trăm ngàn chúng sanh
Nghe hư không diễn thuyết
Nhục nhãn và huệ nhãn
Nhẫn đến nói pháp nhãn
Sức thần biến của Phật
Nghe tiếng nói giới định
Trí huệ và giải thoát
Tiếng giải thoát tri kiến
Chúng sanh có nhiều loài
Hiện thần biến đúng chỗ
Dùng ngôn ngữ tùy loại
Diễn thuyết pháp chơn thiệt
Nếu có các chúng sanh
Thích tu thí giới nhẫn
Thần thông tùy loại nói
Tiếng thí gìới nhẫn nhục
Sức thần biến của Phật
Tùy căn tánh chúng sanh
Vì họ rộng phân biệt
Khiến thọ trì diễn thuyết
Do thần biến cuả Phật
Nghe nói uẩn giới xứ
Phược giải hoặc viễn cận
Tướng địa vị sai biệt
Lại nghe nói các địa
Vô lượng trí chiếu sáng
Lại nghe phiền não tập
Có lìa có chẳng lìa
Do thần biến của Phật
Nghe nói tánh nhơn thiên
Do nghiệp quả chẳng đồng
Thọ sanh có sai biệt
Hoặc nơi chúng nữ nhơn
Hóa thân nữ xinh đẹp
Hư không nói nên chán
Nhgười nghe trừ lòng dục
Nếu nơi Xá lợi Phật
Có lòng sâu tin tưởng
Đức Phật liền ứng hiện
Vì nói pháp vô thượng
Câu Luật Đà Ca Diếp
Kiếp Tân Na Nan Đà
Ma Ha Ca Diếp Ba
Và Kiều Trần Na thảy
Tùy chỗ họ ưa thích
Nghe nói pháp Thanh Văn
Trời và A Tu La
Cùng các chúng Dạ Xoa
Quyến thuộc Tỳ Lũ Ca
Vô lượng Cưu Bàn Trà
Do Phật lực được nghe
Thần chú Đà la ni.
1.Nhứt trí tỉ, 2. Tất trí tỉ, 3. Y ra tô y ra, 4. Ô
nang tỉ, 5. Mạn nang tỉ, 6. Ô xí, 7. A nộ xí, 8. A Khất sai la mang nang di, 9. Đà la ni nễ sắc tra nễ danh, 10. Đa ca nễ, 11. Y danh mãn đa ra, 12.
Nễ ha ra, 13. A bất rị bộ để, 14. Nễ ra a khứ sát ra, 15. Vi gia khất lí dạ đế, 16. A khứ sát ra phược ra nhĩ đế, 17. Ca ra phạ hê ninh, 18. Tát nhương vi xà ni
để nhương nẳng, 19. Bát ra xá tát đế xá tát đa, 20. Bát ra xá
tát đa, 21. Đa ra nghiệt đa bộ danh, 22. Ám phạ ra ám phạ ra, 23. Li la phạ nẳng thất giả, 24. Chất đa vi phạ nhĩ đa, 25. Chất đa a nan đa, 26. Ô bế ra ha phạ nhĩ đa bộ danh, 27. Nang nam, 28. Ca na a ca ni vi phạ nhĩ đa, 29. Thất li sắc tra, 30. A ma la ninh ma
la, 31. Phất lý để nẳng ra thủy giả, 32. Ha ha lý, 33. Ma ma lý, 34. Phệ ra ni, 35. Để sắc tra, 36. Chước sô ni ha ra, 37. Ô địa ri da phạ chỉ, 38. An tra ri, 39. Cú tra
ri, 40. Kế đô, 41. Tô kế đô, 42. Tố phả ra nễ, 43. Ca ra nễ, 44. Cú tố ma nễ duệ, 45. Ca ca lê, 46. Khước khư lê, 47. Ninh bát la mộ lê, 48. Để sắc tra hê, 49. Đà la ni, 50.
Na ca ni ha ra, 51. Bát ra la dã để, 52. A để bát ra la dã để, 53. Án đa ra bát đề, 54. An đa ra đa phạ địa thất già, 55. Ha hê ri, 56. Ma khư lý, 57. Y
ni tam bà lê, 58. Để sắc tra hê, 59. Đà la ni, 60. Trấm bộ lô nhã đề.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment