Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 43
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
PHẨM THI LA BA LA MẬT
Đại Bồ Tát nghĩ rằng từ lâu vì y theo quan niệm vô nhơn và bất bình đẳng nhơn ấy nên ta gây nhiều nghiệp ác, do nghiệp ác ấy nên ta ở trong nhơn loại cảm lấy thân tật nguyền, nơi các phước điền chưa nuôi lớn huệ mạng. Dầu ở trong loài người nhưng đồng với chậu úp ngu độn mù điếc không có năng lực thọ trì đọc tụng suy gẫm thông đạt những văn cú có chánh nghĩa nhẫn đến những văn cú tương ưng với Niết bàn.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng vì xưa ta chẳng gặp thắng phước điền nên sanh vọng kiến. Nay ta được gặp thắng phước điền nầy, ta phải nương theo nuôi lớn huệ mạng, nhẫn đến chẳng kể thân mạng để cầu lực năng thông đạt những văn cú tương ưng với chánh nghĩa chánh pháp tịch tĩnh chỉ quán và Niết bàn. Những văn cú chánh nghĩa chánh pháp ấy đều nhiếp thuộc pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nay ta thọ trì đọc tụng tư duy rốt ráo quyết sẽ phát khởi chánh cần tối thượng suốt đời thờ phụng thuyết pháp sư. Nay ta y theo Thi la Ba la mật thật hành Bồ Tát hạnh để ở nơi pháp môn Bồ Tát tạng có thể thọ, có thể trì,có thể đọc, có thể tụng và tu hành cúng dường vậy.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng ta nên đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc, phải khéo tu tập hai món tư lương phước và trí. Do sức phước và trí ấy mà được thường gần gũi pháp môn Bồ Tát tạng. Suy nghĩ rồi, đối với thuyết pháp sư, đại Bồ Tát kính thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ đựng nước.
Đây gọi là đại Bồ Tát phát tâm thứ tám”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Văn cú tương ưng chơn pháp nghĩa
Thuận theo tu tập các đạo chi
Vì được chứng nhập tánh tịch diệt
Mà hay lưu thông đường Niết bàn
Xưa ta rời xa pháp như vậy
Trở lại nhiễm quen các văn cú
Phi pháp phi nghĩa phi tịch tĩnh
Nhẫn đến Niết bàn chẳng tương ưng
Không có tinh tấn không năng lực
Không quả trượng phu không oai thế
Bác bỏ công đức không dũng mãnh
Tất cả đều không vô sở đắc
Không có chư Phật cũng không pháp
Không nhìn cha mẹ và quyến thuộc
Không có điều ác không điều lành
Hoặc quả hoặc báo đều bác bỏ
Từ thuở vô thỉ đến ngày nay
Luôn quen làm các ác kiến ấy
Do đó bị đọa trong địa ngục
Thọ khổ mãi mãi khó ra khỏi
Rồi sau chuyển đọa loài bàng sanh
Lại đọa loài quỷ các ác đạo
Có lúc được sanh trong loài người
Ngu mê vô trí thêm câm ngọng
Đần độn chơi bời và đui điếc
Do đó lại gây các nghiệp ác
Rồi đọa địa ngục và quỉ súc
Chịu nhiều khổ cực ngu tối thêm
Ta từ lâu xa vô lượng kiếp
Chưa từng được thân thanh tịnh nầy
Đã được các căn đều đầy đủ
Bấy giờ phải mau thêm tinh tấn
Các pháp tương ưng với thiệt nghĩa
Hay làm trợ bạn cho tịch tĩnh
Đường đến Bồ đề cùng Bồ đề
Ta phải kịp thời cầu pháp ấy
Tạng bí áo chư đại Bồ Tát
Tương ưng nghĩa chơn thiệt rất sâu
Trải qua trăm ngàn câu chi kiếp
Nếu ai được nghe là hi hữu
Và những Phật pháp khác như vậy
Vô lượng vô số bất tư nghị
Ta phải tinh tấn thọ rồi trì
Để được chứng Bồ đề Vô thượng
Lại phải chánh cần khởi cung kính
Kính thờ cúng dường thuyết pháp sư
Đó là chư Phật chư Bồ Tát
Nơi Pháp Sư nghe pháp Vô thượng
Chư đại Bồ Tát vô sở úy
Phát khởi tâm dũng mãnh như vậy
Trí huệ phương tiện khéo thành tựu
Nhẫn đến bố thí đồ đựng nước.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi la Ba la mật, đại Bồ Tát phát tâm thứ tám như vậy rồi, vì muốn cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với thuyết pháp sư càng thêm kính thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi la Ba la mật đa, đại Bồ Tát phát tâm như vầy:
Tất cả chúng sanh bị lệ thuộc nơi việc làm vô nghĩa nên tiếc luyến thân mạng chấp lấy việc vô nghĩa, chẳng hay phấn khởi làm việc nghĩa lợi.
Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là chấp lấy việc vô nghĩa? Đó là với thân mạng thì luyến tiếc, với pháp phần Bồ đề không để lòng, chấp ngã ngã sở làm tiền đạo, nơi thân mình luôn phòng vệ tắm rửa săn sóc trang sức trân quý, đây gọi là chấp lấy việc vô nghĩa.
Lại còn có chấp lấy việc vô nghĩa. Đó là luyến tiếc thân mạng, nơi pháp phần Bồ đề chẳng để lòng, chấp ngã và ngã sở làm tiền đạo, bảo bọc chăm nom vợ con anh em bạn bè thân thuộc, nhẫn đến chấp trước tất cả đồ vật cần dùng và đồ trân ngoạn. Đây là chấp việc vô nghĩa.
Lại còn có chấp lấy việc vô nghĩa. Đó là với thân mạng thì luyến tiếc, với pháp phần Bồ đề thì chẳng để lòng, chấp lấy ngã và ngã sở làm tiền đạo, đối với tôi trai tớ gái thì phòng vệ sai khiến đánh mắng giam nhốt, đây gọi là chấp lấy việc vô nghĩa.
Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là chuyên tu nghĩa lợi? Đó là đối với thân mạng không luyến tiếc, nơi pháp phần Bồ đề có để lòng, dùng tâm Bồ đề làm tiền đạo, chuyên tu điều lành thù thắng nơi thân nghiệp ngữ nghiệp và ý nghiệp. Đây gọi là tu nghĩa lợi.
Lại còn có chuyên tu nghĩa lợi. Đó là nơi thân mạng không luyến tiếc, với pháp phần Bồ đề có để lòng. Dùng Bồ đề tâm làm tiền đạo chuyên tu các công hạnh dẫn phát Đàn na Ba la mật đa nhẫn đến Bát Nhã Ba la mật đa. Đây gọi là chuyên tu nghĩa lợi.
Lại còn có chuyên tu nghĩa lợi. Đó là nơi thân mạng chẳng luyến tiếc, nơi pháp phần Bồ đề có để lòng, dùng tâm Bồ đề làm tiền đạo mà chuyên tu hành bố thí ái ngữ lợi hành và đồng sự để nhiếp hóa chúng sanh. Đây gọi là chuyên tu nghĩa lợi.
Lại còn có chuyên tu nghĩa lợi. Đó là chẳng luyến tiếc thân mạng, cầu Bồ đề phần, dùng tâm Bồ đề làm tiền đạo mà chuyên tu niệm xứ chánh cần thần túc căn lực giác chi chánh đạo. Đây gọi là chuyên tu nghĩa lợi.
Lại còn có chuyên tu nghĩa lợi. Đó là chẳng luyến tiếc thân mạng, cầu Bồ đề phần, dùng tâm Bồ đề làm tiền đạo đối với cha mẹ và các Sư Trưởng thì cúng dường kính vâng cúi đầu chắp tay lễ lạy hỏi thăm tiếp rước cung cấp hầu hạ thảo thuận. Đây gọi là chuyên tu nghĩa lợi.
Lại còn có chuyên tu nghĩa lợi. Đó là chẳng luyến tiếc thân mạng, cầu Bồ đề phần, dùng tâm Bồ đề làm tiền đạo, đối với Tam Bảo tùy thuận giáo hóa pháp kính thờ chuyên tu.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nghĩ rằng chúng sanh chấp lấy vô nghĩa bị sự việc vô nghĩa chi phối, luyến tiếc thân mạng lười biếng phóng túng. Nay ta chuyên tu tập nghĩa lợi được công hạnh nghĩa lợi thủ hộ. Ta phải thêm siêng tinh tấn đem thân nầy cúng dường thuyết pháp sư, đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc, phải tu hai món tư lương phước và trí. Do tu phước lực và trí lực hai món tư lương ấy nên được gần Bồ đề Vô thượng vi diệu.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát y Thi la Ba la mật đa thật hành Bồ Tát hạnh để cầu Bồ Tát tạng như vậy kính thờ cúng dường thuyết pháp sư nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.
Đây gọi là đại Bồ Tát phát tâm thứ chín”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
“Các phàm phu ngu si
Thường luyến tiếc thân mạng
Chẳng mong cầu Bồ đề
Ba Nghiệp sanh tạp nhiễm
Thường vì lợi cho mình
Và vợ con quyến thuộc
Quý tiếc đồ trân ngoạn
Đây gọi si phàm phu
Sai khiê&n tớ trai gái
Nuôi nhiêéu loài bốn chưn
Chấp chặt việc vô nghĩa
Đây gọi kẻ vô trí
Chứa cất nhiều tiền gạo
Chẳng cho chẳng ăn dùng
Chấp chặt việc vô nghĩa
Gọi người ngu cất chứa
Các phàm phu ngu si
Chuyên quý việc vô nghĩa
Chư Bồ Tát trí huệ
Chuyên cầu các nghĩa lợi
Chẳng luyến tiếc thân mạng
Vui thích giúp Bồ Tát
Phát khởi nhiều việc thiện
Đây gọi chuyên nghĩa lợi
Phương tiện khéo tu tập
Thí giới nhẫn chánh cần
Tịnh lự và diệu huệ
Đây gọi chuyên nghĩa lợi
Cúng dường cha và mẹ
Cung cấp các Sưu Trưởng
Kính thờ ngôi Tam bảo
Đây gọi chuyên nghĩa lợi
Nơi diệu Bồ Tát tạng
Nhiếp tất cả diệu pháp
Trì tụng và giảng giải
Đây gọi chuyên nghĩa lợi
Chuyên nghĩa lợi như vậy
Được chư Phật khen tặng
Tinh tấn hiệp pháp lành
Là con đấng Vô Úy
Phát tâm như vậy rồi
Dùng lòng tin thanh tịnh
Kính thờ thuyết pháp sư
Cúng tất cả đồ dùng.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát phát tâm thứ chín rồi , vì muốn cần cầu đại Bồ Tát tạng nên đối với thuyết pháp sư càng thêm kính thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát phát tâm như vầy :
Chúng sanh thế gian làm trái lời dạy của Sư Trưởng nên không có được .Không được những gì? Đó là tánh tài .Gì
là thánh tài ? Đó là tín, giới, văn, tàm , quí , xả và huệ. Các chúng sanh ấy vì chẳng được thánh tài nên gọi là cực bần cùng. Nay ta phải tu pháp lành vi diệu , nơi lời dạy bảo của Sư Trưởng phải tùy thuận kính lãnh.Tại sao ? Vì đại Bồ Tát do diệu huệ tùy thuận kính lãnh lời dạy của Sư Trưởng nên có chứng được. Chứng được gì? Chứng được thánh tài . Những gì gọi là Bồ Tát thánh tài ? Đó là các
pháp môn Bồ Tát tạng. Biết rõ Bồ Tát diệu huệ tức là thuyết pháp sư diệu huệ ở nơi pháp môn Bồ Tát tạng vì chúng sanh mà rộng giảng dạy lưu truyền. Đại Bồ Tát an trụ Bồ Tát tạng như vậy rồi được thánh tài dứt hẳn bần cùng mau chứng được Vô thượng Bồ đề.
Đây gọi là đại Bồ Tát phát tâm thứ mười”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“ Các chúng sanh hạ liệt trong đời
Dua nịnh huyễn hoặc nhiều gian nguy
Điên đảo tà chấp chẳng đúng lý
Chuyên theo ác kiến trái lời Thầy
Bồ Tát biết rồi thuận lời Thầy
Bèn được trí huệ rộng giảng giải
Do đây chứng được bảy thánh tài
Tín , giới, văn, tàm, quý, xả , huệ
Tạng vô tận bảy thánh tài ấy
Chớ truyền dạy kẻ phi pháp khí
Trong đời có nhiều chúng sanh lành
Làm được pháp khí tốt của Phật
Lời tốt không dua đến thỉnh hỏi
Khéo lành tự tại mà nhàn nhã
Thường phát dũng mãnh thường tinh tấn
Cúng kính chánh pháp thích thường nghe
Chẳng kể thân mạng mình đương có
Cầu chứng chư Phật diệu Bồ đề
Biết đó đáng là chánh pháp khí
Hay thọ trì được diệu lý sâu
Đạo Sư phát khởi đại từ bi
Giảng nói tinh thuần chơn pháp khí
Tạng pháp vi diệu đại Bồ Tát
Nương đó gầy dựng thắng Bồ đề
Ở trong ấy lại rộng khai thị
Thánh tài kiên cố của chư Phật
Tất cả các pháp là tướng không
Là tướng vô tướng, tướng vô ngã
Không có thọ mạng không đổi khác
Không những hí luận không thọ tàng
Tự tánh của tất cả các pháp
Chẳng từ duyên sanh cũng không tướng
Không có sơ khởi không chung diệt
Từ vô tướng chơn như hiển phát
Người trí tự tại tánh nhu hòa
Nơi lời Thầy dạy không đảo chấp
Đức Phật Thế Tôn vì đó dạy
Pháp môn giải thoát Phật đã được
Thánh tài : Tín, giới cùng tàm, quí
Chánh văn, xả thí và Bát nhã
Phật vì Bồ Tát rộng giảng giải
Pháp tạng vô tận bảy Thánh tài
Phật tử nhu hoà diệu tự tại
Thuận theo lời hay của thiện hữu
Ta phải kính thờ thuyết pháp sư
Để chứng Vô thượng Bồ đề đạo
Bồ Tát vừa phát tâm ấy rồi
Với thuyết pháp sư thêm yêu kính
Nhẫn đến sắm sửa bình sành sạch
Đựng đầy nước trong đem cúng thí.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát phát tâm thứ mười rồi vì muốn cần cầu Bồ Tát tạng nên đối với thuyết pháp sư càng thêm kính thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , do thành tựu sức thiện căn như vậy, đại Bồ Tát được bốn pháp xứ quảng đại thù thắng:
Một là nơi các pháp lành hay khéo thẳng vào.
Hai là được thuyết pháp sư ngợi khen.
Ba là tu hành thành tựu viên mãn không có hủy phạm.
Bốn là nơi chánh pháp của Phật giữ gìn vững chắc chẳng hư .
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Do sức thiện căn ấy, đại Bồ Tát ở trong cõi trời lại được bốn pháp xứ quảng đại thù thắng :
Một là vì các chúng sanh mà tu học mãi, trụ vững nơi các pháp lành.
Hai là chư Thiên hội họp chiêm ngưỡng dung nhan Bồ Tát và đồng nghĩ rằng hôm nay Bồ Tát sẽ giảng pháp gì? Ta nghe rồi sẽ được tỏ ngộ.
Ba là được Thiên Đế Thích và chư Thiên tham kiến thỉnh pháp giải quyết chỗ nghi, mà Bồ tát ấy không qua chỗ chư Thiên.
Bốn là chư Thiên hiện cung điện lớn cho Bồ Tát ấy ở.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát ấy hoặc sanh trong người, hoặc ở trên trời được vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức pháp môn vi diệu , đều vì thành tựu viên mãn Thi la Ba la mật vậy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Bồ Tát ngồi tòa cao
Được chư Thiên lễ kính
Chiêm ngưỡng tôn nhan Ngài
Sẽ giảng diệu pháp gì
Chư Thiên đều cung kính
Bực trí huệ vô tham
Ở cung điện vui đẹp
Đế Thích đến thỉnh pháp
Trên trới mạng hết rồi
Sanh vào trong loài người
Là vua Chuyển Luân Thánh
Oai lực lớn không tham
Lúc mạng người hết rồi
Trở lại sanh cõi trời
Không bao giờ bị khổ
Do thờ cúng Pháp Sư
Luôn được nhiều bốn thứ
Pháp xứ rộng thù thắng
Do không lòng hạ liệt
Cung kính Thầy thuyết pháp
Nếu lòng kính thờ Thầy
Cúng dâng đồ đựng nước
Thì Trời , Rồng và Người
Đều nên gâén cúng dường.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn ấy nên ở cõi trời lại được bốn pháp :
Một là biết rõ những nghiệp đã tạo ở đời trước.
Hai là biết rõ nhơn nghiệp lành ấy được sanh cõi trời , cũng biết rõ thối thất pháp lành.
Ba là biết rõ từ đây mạng chung đến sanh chỗ nào.
Bốn là vì chư Thiên mà giảng diệu pháp dạy bảo cho họ vui mừng , đã lợi ích chư Thiên rồi bèn bỏ thân trời.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mậy , đại Bồ Tát do thành tựu các căn lành nên lại được bốn pháp viên mãn thù thắng :
Một là khi bỏ thân trời , đại Bồ Tát sanh trong loài người được sanh chung với giới.
Hai là ở trong người được năm pháp sanh thành tựu thù thắng : Đó là được sanh vào nhà thù thắng , được sắc thân thắng diệu , được quyến thuô(c thù thắng , được giới thanh tịnh thù thắng và đối với chúng sanh được tu đức từ thù thắng.
Ba là ở trong người lại được năm pháp thành tựu bất hoại : Đó là được thiện tri thức không ai phá hoại được , thân mạng không yểu thọ, của cải đã được không bị mất , được tâm Bồ đề không hề hư hoại và lúc thiếu pháp lành thì tự được đầy đủ.
Bốn là ở trong người lại được năm pháp hi hữu viên mãn . Đó là trong nhà để những chậu thùng không, tùy tay Bồ Tát rờ đến chỗ nào , thì chỗ ấy đều đầy châu báu , đây là pháp hi hữ thứ nhứt. Lúc Bồ Tát khát thì trước mặt tự nhiên có nước đủ tám đức hiện ra, đây là pháp hi hữu thứ hai . Do phước đức giữ gìn thân thể nên chẳng bị ngoại vật làm tổn hại , như độc , như dao, hoặc lửa hoặc nước , hoặc á quỷ đều chẳng làm tổn hại được. Đây là pháp hi hữu thứ ba. Những thời kỳ mà địa cầu bị nhựng tai kiếp như là cơ cẩn tai, tật dịch tai, đao binh tai, hỏa tai, thủy tai , phong tai, khát kiếp , hỏa quang kiếp , dạ xoa kiếp , đại Bồ Tát ấy chẳng sanh trong người mà ở cung trời vui sướng , đây là pháp hi hữu thứ tư . Đại BồTát ấy vĩnh viễn chẳng sanh vào các chỗ nạn hoặc các ác đạo, nếu có tâm niệm sai lầm thì liền tự giác ngộ mau dứt lìa , đây là pháp hi hữu viên mãn thứ năm.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các căn lành ấy nên thường chẳng rời xa bốn pháp vi diệu :
Một là khi thấy có chúng sanh khổ thì tự nhiên được tâm đại từ .
Hai là quyến thuộc của Bồ Tát đều kính thuận đối với Bồ Tát.
Ba là đại Bồ Tát có thể chế phục sự suy già không để nó xâm tổn.
Bốn là làm ăn sanh lợi thì được lợi gấp trăm gấp ngàn.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các căn lành ấy nên chẳng bị ba thứ nó cướp đoạt :
Một là chẳng bị tham dục cướp đoạt.
Hai là chẳng bị sân khuể cướp đoạt.
Ba là chẳng bị ngu si cướp đoạt.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn nên lại được bốn pháp không bịnh :
Một là chẳng bị bịnh dây dưa lâu ngày làm khổ.
Hai là thân thể nhuần sáng chẳng hề gầy ốm tiều tụy.
Ba là đồ dùng sanh sống chẳng tổn giảm.
Bốn là chẳng bị quan pháp cướp trộm kẻ ác và chúng sanh khác não hại.
Lại nầy Xá Lơị Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn nên lại được bốn tướng tôn quí :
Một là làm Chuyển Luân Vương oai đức khắp bốn châu cai trị đúng pháp , đủ bảy thứ báu là xe báu , voi báu ,
ngựa báu, ngọc nữ báu , châu ma ni báu , chủ tạng thần báu và chủ binh thần báu. Có đủ ngàn con trai, thân hình đoan nghiêm oai thế hùng mạnh hàng phục oán địch. Chuyển Luân Vương nầy được bốn đại châu khâm phục ,lại được tất cả nhơn dân các quan và chư tiểu quốc vương đồng tôn kính tuân lịnh. Đây là tướng tôn quí thứ nhứt.
Hai là đối với ngũ dục như mắt thấy sắc, tai nghe tiếng , mũi ngửi mùi , lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, Bồ Tát chẳng hề tham mê nhiễm đắm , do lòng tin thanh tịnh xuất gia tu hành mau được ngũ thông , người và quỉ thần cung kính . Đây là tướng tôn quí thứ hai.
Ba là đại Bồ Tát sanh tại xứ nào tự nhiên thường được tối thượng giác, tối thượng huệ, tối thượng biện , được các quốc vương tôn kính thỉnh lên ngự tọa như thuở quá khứ ông Đại Ô Mạt Đồ được vua kính trọng, lại được các quan chức và nhân dân đồng tôn ngưỡng. Đây là tướng tôn quý thứ ba.
Bốn là đại Bồ Tát ấy tỏ ngộ Vô thượng Bồ đề rồi thì oai đức thù thắng viên mãn đệ nhứt được Thiên , Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà , A Tu La , Câu Lâu La, Khẩn Na La , Ma Hầu La Già , Nhơn , Phi Nhơn, tất cả chúng sanh đồng quy kính.Tại sao ? Vì Bồ Tá nầy thành tựu phẩm giới, định, huệ , giải thoát , giải thoát tri kiến vậy. Đây là tướng tôn quí thứ tư.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , do đại Bồ Tát ấy dùng lòng tin thanh tịnh đem bình đựng nước dâng cho Hoà Thượng và A Xà Lê hai Tôn Sư nên được vô lượng vô biên công đức diệu pháp như vậy. Vì cầu pháp mà Bồ Tát đi đứng luôn tùy thuận nơi Thầy , chẳng trái lời dạy. Do Thiện căn ấy nên lại được bốn thứ của cải tối thắng :
Một là được của cải vua chúa dùng.
Hai là sanh chỗ nào đều thọ pháp ly dục được tiên tài tín tâm xuất gia gọi là thánh tài.
Ba là sanh chỗ nào đều được trí nhớ đời trước gọi là được niệm tài .Do niệm tài ấy nên đời đời chẳng quên mất tâm Bồ đề.
Bốn là đại Bồ Tát chứng Vô thượng Bồ đề rồi gọi đó là Bồ đề tài thường được tứ chúng và Thiên Long Bát Bộ cung kính vây quanh.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát nhẫn đến thọ rtì bốn câu kệ nơi thuyết pháp sư, đến đi đều tùy thuận lời dạy của Thầy , như là thiện bất thiện, hữu tội vô tội, nên to chẳng nên tu. Hoặc là Thầy dạy rằng làm việc ấy sẽ mãi mãi bị các báo khổ não vô nghĩa vô lợi , làm việc ấy sẽ mãi mãi được báo an vui có nghĩa có lợi. Bồ Tát ấy thuâ(n lời Thầy dạy chẳng làm điều bất thiện mà tu tập pháp lành. Do thiện căn ấy lại được bốn pháp cao thắng :
Một là được đầy đủ Thi la cao thắng.
Hai là cảm được thân thể viên mãn tất cả thân phần.
Ba là được đại huệ, dũng huệ, cao huệ, quảng huệ, tiệp huệ, lợi huệ , tốc huệ, thâm huệ, quyết trạch huệ.
Bốn là khi lâm chung sanh lên cõi trời.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn nên lại được bốn pháp không thể thấy được.
Một là sanh chỗ nào đều cảm được tướng ẩn mật âm tàng.
Hai là từ lúc sơ sanh, hoặc cha mẹ quyến thuộc, hoặc Thiên , Long Bát Bộ , Nhơn, Phi Nhơn và tất cả chúng sanh không ai thấy được đỉnh đầu của Bồ Tát.
Ba là từ lúc sơ sanh, hoặc cha mẹ quyến thuộc , hoặc Thiên , Long đến tất cả chúng sanh , hoặc tịnh tâm , hoặc nhiễm tâm , không ai có thể sửa soạn nhìn ngắm gương mặt của Bồ Tát. Nếu có ai khởi tâm nghĩ rằng tôi sẽ nhìn xem gương mặt của Bồ Tát , thì bóng mặt Ngài liền hiện ra nơi hau chưn Ngài .Tại sao ? Do đại Bồ Tát thành tựu pháp hi kỳ như vậy gọi là thiện trượng phu, lại thành tựu từ biện đệ nhứt tối thắng trượng phu.
Bốn là lúc sơ sanh không ai đỡ dắt , tự đứng nơi đất nhìn khắp bốn phương , liền được trí huệ minh lợi. Tại sao ? Do đại Bồ Tát ấy nơi đời quá khứ dùng tâm không dua dối mà cầu nghe pháp . Đại Bồ Tát nầy lại được đôi mắt không dua tà nên thành thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn người, có thể xem thấy tất cả chúng sanh trong cõi Đại Thiên. Đại Bồ Tát nầy lại được trí tốc tật quảng đại có thể biết rõ hết tâm niệm quá hiện vị lai của tất cả chúng sanh .Tại sao ? Vì thuở xưa lúc cầu pháp , đại Bồ Tát chú ý nhiếp tâm cần cầu cung kính, đối với chánh pháp tưởng là lương dược, là trân bảo , là khó gặp , là diệu thiện , được nghe rồi liến thọ trì. Do đó Bồ Tát lại được trí thiệp tật giản trạch hay cân lường tất cả chánh giới của các chúng sanh nhẫn đến chánh văn, , chánh định, chánh huệ , chánh giải thoát , chánh giải thoát tri kiến.
Lại cân lường đồng tánh Thi La của tất cả chúng sanh nhẫn đến đồng tánh chánh văn, định huệ, giải thoát giải thoát tri kiến .Lại hay cân lường giới đẳng lưu của tất cả chúng sanh nhẫn đến đẳng lưu chánh văn, định ,huệ, giải thoát giải thoát tri kiến.Lại hay cân lường tướng đẳng lưu siêu thắng Thi la của tất cả chúng sanh nhẫn đến tướng đẳng lưu siêu thắng chánh văn, định ,huệ, giải thoát giải thoát tri kiến .Lại hay cân lường tướng tiến chỉ oai nghi dũng mãnh tu hành
chánh hạnh của tất cả chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát lần lượt cân lường suy xét các công đức của tất cả chúng sanh rồi nghĩ rằng tất cả chúng sanh ấy chỗ có chánh giới , chánh văn , chánh định, chánh huệ, chánh giải thoát, chánh giải thoát tri kiến, chỗ có giới đồng tánh đến giải thoát tri kiến đồng tánh , chỗ có giới đẳng lưu đến giải thoát tri kiến đảng lưu, chỗ có tướng giới đẳng lưu siêu thắng đến tướng giải thoát tri kiến đẳng lưu siêu thắng, chỗ có tướng tiến chỉ oai nghi tu hành chánh hạnh dũng mãnh. Những tướng như vậy đều là công đức của chúng sanh có.Nay ta quan sát cân lường trong ấy chẳng thấy có công đức nào bằng công đức của ta , căn bổn vững chắc của tất cả chúng sanh đem so sánh đều không bằng ta cả.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc sơ sanh trong khoảng sát na đại Bồ Tát mau phát khởi diệu trí biết rõ nghiệp báo. Do trí ấy trong khoảng thời gian đàn chỉ khéo biết rõ bao nhiêu thứ tâm tướng của tất cả chúng sanh rồi đem cân lường so sánh đều chẳng thấy có bằng với ta. Do đó đại Bồ Tát biết đúng rằng nay đây ta một mình ở ngôi tôn quí tối thượng , như sư tử chúa ở bực vô úy , như đại long vương có oai đức lớn, chưn Bồ Tát chẳng chạm đất bốn phương đều đi bảy bước mà tuyên xướng lên rằng ở thế gian ta là tối tôn đại , ở thế gian ta là tối thù thắng ,nay ta sẽ chứng mé sanh lão tử, ta sẽ độ tất cả chúng sanh khỏi sanh gìa bịnh chết lo buồn khổ não , ta sẽ vì chúng sanh mà tuyên nói chánh pháp vi diệu quảng đại tối thắng Vô thượng.
Nầy Xá lợi Phất! Lúc đại Bồ tát phát ngữ như vậy , âm tha nh liền nối không hở cáo tri khắp cả cõi Đại Thiên .Chúng sanh trong ấy nghe âm thanh ấy xong đều kinh sợ rởn lông, thiên cổ nổi vang, toàn thế giới đều chấn động. Chỉ có chỗ Bồ Tát đứng chừng bằng bánh xe là an tĩnh, nguồn nước ngay dưới chỗ đất ấy cũng bất động .
Đại Bồ Tát ấy quan sát thân mình thấy có vô lượng tia sáng bao trùm .Sau
khi chứng Vô thượng Bồ đề rồi, được vô lượng chúng sanh đồng chiêm ngưỡng . Đây gọi là pháp không ai nhìn thấy được thứ tư.
Nầy xá Lợi Phất ! Đây gọi là đại Bồ Tát được bốn pháp không ai nhìn thấy được. Đó là do thuở quá khứ đại Bồ Tát đối với thuyết pháp sư luôn kính thuâ(n cúng dường .
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các căn lành ấy nên lại được bốn pháp tấn tốc :
Lúc thành Phật , đại Bồ Tát đầy đủ chánh pháp của chư Phật Như Lai đã nói không giảm thiếu và pháp được nói không hư thiết. Đây là pháp tấn tốc thứ nhứt.
Lúc thành Phật , đại Bồ Tát ấy thành tựu đầy đủ những mạng lịnh của chư Phật Như Lai. Như Bảo Tỳ Kheo đến đây ! Chúng sanh được bảo liền tiến đến chỗ Phật , tóc họ tự rụng , thân mặc ca sa , tay cầm bát đa la. Đây là pháp tấn tốc thứ hai.
Lúc thành Phật , đại Bồ Tát ấy đầy đủ trí khéo biết tâm quá vị hiện tại của tất cả chúng sanh như chư Phật Như Lai. Đây là pháp tấn tốc thứ ba.
Lúc thành Phật , đại Bồ Tát ấy đầy đủ trí biết bịnh cho thuốc đối với tất cả chúng sanh như chư Phật Như Lai. Đây là pháp tấn tốc thứ tư.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu thiện căn ấy nên khi thành Phật lại được bốn pháp chẳng bị làm hại : đó là lửa , dao, độc dược và vật khác không bao giờ làm tổn hại được .Tại sao ? Vì thân Như Lai không sở y, không sở thọ vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn ấy nên khi thành Phật lại được bốn pháp không ai hơn :
Một là vì Phật không sở y không sở thọ nên chẳng có chúng sanh nào có thể ở trước Như Lai mà nói được rằng ta là Như Lai nói pháp chưa từng nghe nhẫn đến một câu.
Hai là vì Phật không sở y không sở thọ nên chẳng có chúng sanh nào có thể ở trước Như Lai mà lập luận được đúng pháp đến một câu.
Ba là vì Phật không sở y không sở thọ nên chẳng có chúng sanh nào có thể tìm được ở Như Lai một chút tâm bất định .Tại sao ? Vì chư Phâ(t Như Lai luôn an trụ trong từ bi hỉ xả các đại định.
Bốn là vì Phật không sở y không sở thọ nên chẳng có chúng sanh nào có thể thấy rõ được các sắc tướng trên thân của Như Lai.
Lại nầy Xá Lợi phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn ấy nên khi thành Phật lại được đầy đủ năm pháp vô lượng :
Một là chư Phật Như Lai Thi la vô lượng.
Hai là chư Phật Như Lai chánh văn vô lượng.
Ba là chư Phật Như Lai chánh định vô lượng.
Bốn là chư Phật Như Lai chánh huệ vô lượng.
Năm là chư Phật Như Lai giải thoát tri kiến vô lượng.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Chư Phật Như Lai đầy đủ Thi la Ba la mật rồi , do thành tựu các thiện căn ấy nên được bốn trí vô chướng vô ngại :
Một là trí biết đời quá khứ vô chướng vô ngại.
Hai là trí biết đời vị lai vô chướng vô ngại.
Ba là trí biết đời hiện tại vô chướng vô ngại .
Bốn là do tâm bình đẳng nên biết tánh ba đời bình đẳng.
Lại nầy Xá lợi Phất ! Chư Phật Như Lai thành tựu chánh trí .Do chánh trí ấy nên chẳng nương gá gì khác mà đều biết rõ tất cả các pháp.
Chư Phật Như Lai lại thành tựu trí bất tư nghị. Do trí ấy mà biết rõ tướng mưa gió.
Nầy Xá Lợi Phất ! Như Lai biết rõ thế gian có gió lớn tên ô lô bác ca , cho đến bao nhiêu sự giác thọ của chúng sanh đều do gió ấy daođộng. Lượng của ngọn gió ấy cao ba câu lô xá . Không gian trên ngọn gió ấy lại có ngọn gió tên vân phong, lượng cao năm câu lô xá. Không
gian trên ngọn gió vân phong lại có ngọn gió cao mười do tuần tên chiêm bạc cao.Không gian phía trên lại có ngọn gió lượng cao ba mươi do tuâén tên phệ sách phược ca. Không gian phiá trên
lại có ngọng gió lượng cao bốn mươi do tuần tên thứ lai.
Nầy Xá Lợi Phất ! Cứ như vậy tuần tự lên trên có sáu muôn tám ngàn tướng phong luân, do đại huệ đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều biết rõ cả.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ngọn gió trên cùng tên châu biến thượng giới là nơi y chỉ của thủy luân. Thuỷ luân ấy lượng cao sáu trăm tám mươi vạn do tuần , là chỗ y chỉ của đại địa trên ấy. Đại địa ấy lượng cao sáu vạn tám ngàn do tuần. Mặt ngoài đại địa ấy có mô(t Tam thiên Đại thiên thế giới.Trong ấy có Phật hiệu Hoằng Uẩn Như Lai đầy đủ mười hiệu đang hiện tại giáo hóa. Phật Hoằng Uẩn thọ ba mươi câu chi tuổi , có ba mươi câu chi na do tha Thanh Văn đệ tử đều là bực đại A La Hán và trăm câu chi đại Bồ Tát.
Nầy Xá Lợi Phất ! Sau khi ta nhập Niết bàn đủ một ngàn năm, đức Phật Hoằng Uẩn mới nhập diệt, chánh pháp trụ thế đầy một ngàn năm, Xá lợi lưu bố lợi ích thế gian như la vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Trí vô chướng ngại của Như Lai lại biết rõ quá trên thế giới của Phật Hoằng Uẩn vô lượng vô biên tướng phong luân và các Phật độ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Quá trên nữa lại có thế giới khác hiện không có Phật xuất thế mà có trăm ngàn vị Độc Giác ở , chúng sanh nơi ấy gieo trồng căn lành từ chư vị Độc Giác ấy.
Nâéy Xá Lợi Phất ! Nương trí vô chướng ngại ấy , đức Như Lai lại biết rõ trên thế giới ấy có hằng hà sa chư Phật xuất thế hiện đang độ chúng sanh .
Mười phương vô lượng vô số bất khả tư nghị bất khả xưng lượng chư Phật Như Lai xuất thế hiện đang độ chúng sanh như vậy, đức Như Lai dùng diệu trí vô chướng ngại đều biết rõ cả. Cũng biết rõ tất cả những thế giới ấy hoặc thành hoặc hoại ».
Đức Thế Tôn nói lời trên đây rồi , Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng đức Như Lai thành tựu những thiện căn gì mà được trí vô chướng vô ngại vô lượng bất tư nghị ấy ?
Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Do đức Như Lai an trụ Thi la Ba la mật ,có trí huệ đối với chánh pháp phát khởi ý tưởng cung kính tôn trọng , tưởng là thuốc hay, là trân bửu , là khó gặp , là thiện căn, lại có thể an trụ nơi ý tưởng nhiếp chánh pháp. Do đó mà Như Lai được trí lớn lẹ sáng như vậy và còn có thể biết rõ vô lượng vô số quá hơn trên nữa.
Nầy Xá Lợi Phất ! Trí vô đoạn của chư Phật Như Lai vô lượng vô số bất khả tư nghị , bất khả xung lượng, bất khả thuyết tướng vãng lai.
Nầy Xá lợi Phất ! Chư Phật Như Lai đầy đủ Thi la Ba la mật lại được sức tự tại , trong khoảng thời gian đàn chỉ , Như Lai qua đến hằng sa thế giới chư Phật rồi trở lại bổn xứ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Như Lai đối với chánh pháp Thi la Ba la mật do tín giải thanh tịnh mà lắng nghe thọ trì nên được mau chóng giải thoát. Do giải thoát ấy mà ta khéo giải thoát . Ở trong pháp gì mà được khéo giải thoát ? Đó là nơi tất cả sự khô » mà khéo được giải thoát .
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có đại Bồ Tát ở nơi bốn thứ cung kính ấy , nghe pháp ấy rồi được lòng tin thanh tịnh vì thật hành Thi La Ba la mật mà phát tâm như vâéy : Ta an trụ như vậy , ta an trụ nơi ấy .Do ta thường an trụ như vậy nên ta thường chẳng rời chánh pháp chư Phật.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát thọ trì chương cú pháp môn của kinh nầy , do sức thiện căn như vậy nên lại được bốn thứ pháp do huệ mà thành tựu :
Một là do đủ huệ mà hay phát khởi đại huệ.
Hai là do đủ huệ nên gặp chư Phật gần giũ kính thờ.
Ba là do đủ huệ nên có lòng tin thanh tịnh xuất gia vào đạo.
Bốn là do đủ huệ nên mau chứng Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , do thành tựu sức thiện căn ấy nên đại Bồ Tát lại được bốn thứ pháp làm nên nhiều :
Một là được thọ thân người gọi là pháp làm nên nhiều .
Hai là gặp Phật xuất thế gọi là pháp làm nên nhiều.
Ba là dùng lòng tin thanh tịnh xuất gia nhập đạo gọi là pháp làm nên nhiều.
Bốn là mau chứng Vô thượng Bồ đề gọi là pháp làm nên nhiều.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ tát do thành tựu sức thiện căn ấy nên lại được bốn thứ pháp chi phần :
Một là được chi chuyê »n luân , tức là làm Chuyển Luân Vương trong loài người.
Hai là sanh trời Phạm Thiên làm Đại Phạm Vương.
Ba là ở trong chúng chư Thiên mà làm Thiên Đế.
Bốn là chứng Vô thượng Bồ đề rồi đủ tất cả pháp hiệu là Pháo Vương giáo hóa thế gian.
Đức Như Lai lại được các năng lực cát tường , trí thanh tịnh chúng sanh , cảnh giới thần thông , làm mắt sáng cho Trời , Người tất cả thế gian ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa â&y mà nói kê(
rằng :
« Đấng mắt sáng cứu đời
Bực tối thượng tất cả
Giỏi hiểu phương chữa trị
Nên chứng quả tịch diệt
Qua lại theo lời Thầy
Cảm báo lành như vậy
Chưa từng bị khổ não
Và các nghiệp bất thiện
Mau sanh lên cõi trời
Mau trở lại loài người
Mau gặp Phật xuất thế
Mau rời xa các nạn
Giàu to của cải nhiều
Mắt thấy các kho kín
Tay rờ đến chỗ nào
Tự nhiên đầy của báu
Hóa hiện ao hồ đẹp
Thường đầy nuớc tám đức
Là quả lành tự tại
Chưa từng bị ưu não
Tay chưn chẳng què vá
Không có tướng xấu xí
Thân thể chẳng khô héo
Cũng chẳng có giảm thiếu
Chẳng gù chẳng thiếu mắt
Ngón tay chẳng thiếu thừa
Đầu khác đỉnh đầu voi
Là quả lành tự tại
Dung mạo đều tròn đầy
Chất nặng như khối vàng
Đoan ngiêm người thích ngắm
Da thứa đều sáng bóng
Chư Thiên ,
Long, Quỉ, Thần
Và mọi người trong đời
Cung kính đồng cúng dường
Là diệu đức tự tại
Rời xa các ác đạo
Đến cõi trời cõi người
Mau ngộ đại Bồ đề
Là quà lành tự tại
So sanh đã biết rõ
Tâm tất cả chúng sanh
Bốn phương đi bảy bước
Tiếng tốt cáo thế giới
Người ấy trí tối thượng
Người ấy huệ tối thượng
Giải thoát cũng tối thượng
Tối thượng trong chúng sanh
Huệ khiếi huệ thanh tịnh
Huệ nương trí gầy dựng
Huệ trí cùng giải thoát
Đều chứng y chư Phật
Tự tánh sanh do huệ
Thấy biết thì do trí
Nếu có đủ trí huệ
Cầu chi đều toại nguyện
Nghĩa thậm thâm như vậy
Phật vì ông nói lượt
Người thiểu dục vô huệ
Đâu thọ được nghĩa nầy
Họ bị si làm si
Các ác bức ngặt họ
Phát khởi lòng giận hờn
Chẳng kính trọng chánh pháp
Nếu chúng sanh thiểu dục
Với chánh pháp như vậy
Chẳng có lòng kính trọng
Lại phát khởi việc khác
Chúng sanh chẳng kính pháp
Hờn ghét và mê chấp
Lòng họ thưởng ô nhiễm
Chẳng nên đem dạy họ
Các người đến ngày già
Suy yếu bịnh trầm trọng
Đến giờ họ lâm chung
Luống nói trụ thân sau
Các người đến ngày già
Suy yếu bịnh trầm trọng
Vọng hưởng phần ứng cúng
Mau đọa vào địa ngục
Còn khó được đủ giới
Huống quả A La Hán
Người tin xây miễu thờ
Do đó lại bị đọa.
Laại nâéy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la Mật , đại Bồ Tát siêng tu hành giới hạnh như vậy.Vì cầu Bồ T᧠tạng nên đại Bồ Tát đem thân thờ các bực thầy chánh hạnh, do đó được công đức như trên đã nói , lại còn được công đức bội hơn trước vô số lượng vô biên bất khả tư nghị.Phải biết đại Bồ Tát an trụ tạng Bồ Tát như vậy khéo thật hành tự tại các Bồ Tát hạnh giới thanh tịnh vi diệu.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là giới thanh tịnh vi diệu ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Vì thật hành Thi la Ba la mật nên đại Bồ Tát được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là đối với chúng sanh không bao giờ làm tổn hại.
Hai là đối với tài vật của kẻ khác chẳng bao giờ cướp trộm.
Ba là đối với thê thiếp của người chẳng bao giờ nhiễm ô.
Bốn là đối với tất cả chúng sanh chẳng bao giờ khi dối.
Năm là với quyến thuộc thì hòa hiệp chẳng bao giờ trái rời.
Sáu là đối với chúng sanh chẳng bao giờ nói thô cộc , vì hay nhịn chịu ác ngôn của họ.
Bảy là xa rời ỷ ngữ , vì lời nói ra đều đã suy gẫm kỹ.
Tám là xa rời tham lam, vì đối với sự thọ dụng của người không có ngã sở.
Chín là xa rời giận hờn , vì hay nhịn chịu lời thô việc nhục.
Mười là xa rời tà kiến , vì chẳng tôn thờ chư Thiên tiên thần quỉ khác.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là Thi la chẳng khuyết , vì chỗ chứng được chẳng do vô trí.
Hai mlà Thi la chẳng thủng vì sự bất bình đẳng đã xa rời.
Ba là Thi la chẳng lem, vì tất cả phiền não chẳng xen tạp.
Bốn là Thi la chẳng nhiễm ô , vì được pháp lành làm tăng trưởng.
Năm là Thi la đáng dâng cúng , vì tùy ý muốn đều tự tại hành động.
Sáu là Thi la đáng ngợi khen , vì các bực trí chẳng quở rầy.
Bảy là Thi la chẳng thể chê , vì tất cả lỗi xấu đều chẳng dung chứa.
Tám là Thi la khéo bảo hộ, vì khéo giữ gìn sáu căn.
Chín là Thi la khéo phòng thủ , vì chánh trí tự nhiên luôn hiện tiền.
Mười là Thi la khéo xu hướng , vì Bồ đề nguyện làm trợ bạn.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment