Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 99
PHÁP HỘI A XÀ THẾ VƯƠNG TỬ
THỨ BA MƯƠi BẢY
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ
Đà Quật cùng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.
Bấy giờ con trai yêu quí của vua A Xà Thế là Vương Tử Sư Tử cùng chung đồng bạn năm trăm người đều đã hướng đếnVô thượng Bồ đề, mỗi người cầm tràng phan bửu cái xuất thành Vương Xá qua núi Kỳ Xà Quật đến chỗ đức Như Lai lễ lạy cúng dường.
Vương Tử Sư Tử bạch Phật : “ Ngưỡng mong đức Thế Tôn vì tôi mà tuyên nói các hạnh Bồ Tát”.
Vương Tử liền nói kệ rằng :
“ Thế nào được đoan chánh
Hóa sanh trong hoa sen
Thế nào biết túc mạng
Nguyện Phật tuyên dạy cho
Thế nào được thành tựu
Tam muội đà la ni
Khi có nói lời gì
Mọi người đều kính thọ
Thế nào được chánh niệm
Đầy đủ sanh trí huệ
Như pháp mà tu hành
Kiên cố chẳng hư hoại
Thế nào thành diệu tướng
Đầy đủ ba mươi hai
Tám mươi tùy hình hảo
Người nhìn vui chẳng chán
Thế nào được phạm âm
Tiếng ca lăng tầng già
Thế nào khiến thế gian
Người thấy đều vui mừng
Do đâu được hạnh nghiệp
Được sanh trước chư Phật
Hay thỉnh nghĩa vi diệu
Ngưỡng mong Như Lai dạy
Thế nào rời các nạn
Mà sanh nơi thiện đạo
Thế nào tất cả đời
Tánh siêng không phóng dật
Thế nào được thần thông
Và chứng túc mạng trí
Hãy sạch hết các lậu
Nguyện Phật khai diễn cho
Thế nào tịnh nghiệp thành
Lưới ma chẳng trục được
Mà trong tất cả đời
Được mọi ngưòi kính yêu
Thế nào được trường thọ
Thân ít sanh bịnh tật
Được quyến thuộc vững bền
Nguyện Mâu Ni tuyên nói ».
Đức Thế Tôn nói kệ đáp Vương Tử :
Nhẫn nhục được đoan chánh
Bố thí xen hóa sanh
Pháp thí biết túc mạng
Ông nên hiểu như vậy
Tu tâm được tam muội
Nhẫn được đà la ni
Kính trọng các chúng sanh
Pháp môn người kính thọ
Chẳng siểm được chánh định
Quán khéo sanh trí huệ
Tôn trọng chỗ tu hành
Đắc pháp tâm kiên cố
Do thí được tướng tốt
Hành từ được tùy hình
Với chúng sanh bình đẳng
Người nhìn không chán đủ
Thành ngôn được phạm âm
Ca lăng do nhuyến ngữ
Lìa ỷ ngôn lưỡi thiệt
Người thấy đều vui mừng
Ở trong các pháp thí
Chẳng từng bị chướng ngại
Do đây nên thường được
Gặp gỡ các Như Lai
Tịnh tín lìa các nạn
Trì giới sanh thiện đạo
Do tu tập pháp không
Đời đời không phóng dật
Thí xe được thần thông
Giáo thọ thành túc mạng
Bỏ rời cả hai bên
Do đấy hết các lậu
Thắng giải thành tịnh nghiệp
Tinh tiền xô dẹp ma
Như thuyết mà tu hành
Đời đời được người yêu
Chẳng hại được trường thọ
Trừ khổ lo cho người
Thân tráng kiện ít bịnh
Hòa giải quyến thuộc vững”.
Vương Tử Sư tử lại bạch hỏi :
“Thế nào được của giàu
Đồ dùng không tổn giảm
Đời đời sanh chỗ nào
Thành tựu oai đức lớn
Thế nào được đại lực
Chúng ma chẳng hại được
Oai thế thường siêu thắng
Duy nguyện Thế Tôn dạy
Thế nào được thành tựu
Thiên nhãn và thiên nhĩ
Thế nào biết rõ được
Các tâm của chúng sanh
Thế nào được tịnh độ
Và pháp chúng viên mãn
Được tùy thân viên
quang
Đấng trọn đức xin dạy
Thế nào chỗ sanh ra
Tâm Bồ đề chẳng hư
Nhẫn đến trong mộng mơ
Cũng vẫn không quên mất
Thế nào Đại Mâu Ni
Được đại chúng kính yêu
Nhiếp thủ tất cả pháp
Duy nguyện Thế Tôn dạy ».
Đức Thế Tôn đáp rằng :
«Chẳng ganh được của giàu
Chẳng xan đồ dùng tăng
Khiêm hạ thành tôn quí
Có oai đức tự tại
Hằng thí món ăn ngon
Kẻ sợ khiến an ổn
Do đây được đại lực
Oai thế thường siêu thắng
Thí đèn cảm thiên nhãn
Cúng nhạc thành thiên nhĩ
Xa rời chấp hai bên
Nên được tha tâm trí
Tịnh nguyện được tịnh độ
Nhẫn lực pháp chúng thành
Thí các tướng báu đẹp
Được viên quang chiếu khắp
Có du hành xứ nào
Trong thành ấp tụ lạc
Dạy người phát đại tâm
Bồ đề tâm chẳng hư
Thắng chí nguyện đầy đủ
Chẳng thối tâm Bồ đề
Do đây nhiếp các pháp
Được đại chúng kính yêu”.
Vương Tử và đại chúng nghe đức Phật nói kệ xong, đồng bạch đức Phật rằng :
“Như lời đức Thế Tôn dạy các hạnh vi diệu ấy, từ nay chúng tôi đều sẽ tu học hết”.
Đức Thế Tôn liền hiện mỉm cười phóng đại quang minh chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới.
Di Lặc Bồ Tát bạch Phật : “ Bạch đức Thế Tôn ! Do nhơn duyên gì mà đức Thế Tôn hiện mỉm cười, duy nguyện tuyên nói trừ nghi hoặc cho chúng tôi”.
Đức Phật phán : “ Nầy Di Lặc ! Vương Tử Sư Tử đây cùng đồng bạn năm trăm người thuở xưa vì cầu Vô thượng bồ đề nên đã cúng dường mười na do tha tám mươi ức chư Phật, thời kỳ Phật Nhiên Đăng ta làm
Bà La Môn Tử thành thục cho họ. Các người ấy ở thời vị lai ở chỗ Di Lặc Phật và chư Thế Tôn hằng thọ hóa sanh thân thừa cúng dường. Các người ấy phụng sự mười ức Như Lai như vậy mãn ba trăm kiếp, Phật tối hậu ấy hiệu Vô Biên Tri Như Lai biết tâm nguyện của họ nên tùy sở ưng đều thọ ký Vô thượng Bồ đề đồng ở trong Kiếp An Lạc Quang Nghiêm thành Đẳng chánh Giác đều đồng hiệu là Trí Huệ Tràng Tướng, Phật độ trang nghiêm như nước Cực Lạc của Vô Lượng Thọ Như Lai ở Tây phương.
Nầy Di Lặc ! Nếu có chúng sanh nghe lời nói nầy mà tin hiểu phát nguyện sẽ thành đại Bồ đề, thì phải biết người nầy được công đức không gì sánh bằng.
Nầy Di Lặc ! Nếu có người trong sáu trăm kiếp thường có thể đem các châu báu đến khắp các Phật độ cúng thí chư Như Lai, lại nếu có người nghe kinh điển nầy phát sanh thiện căn hơn công đức người trước, toán số so tính chẳng bằng được.
Lúc đức Phật nói kinh pháp nầy, trong chúng có tám mươi ức chúng sanh đồng thời xu hướng Vô thượng Bồ đề. Tam thiên Đại Thiên thế giới đều chấn động, trời mưa hoa đẹp.
Được nghe đức Phật thọ ký rồi, Vương Tử Sư Tử và năm trăm đồng bọn vui mừng hớn hở đều nghĩ rằng : Chúng ta quyết định thành Vô thượng Giác.
Vương Tử và đồng bạn đã cúng dường xong được ngũ thần thông liền ở trước Phật biến hiện nhiều cách rồi đồng xuất gia tu hành.
Chư đại Bồ Tát và chúng chư Thiên xu hướng đại Bồ đề thấy Vương Tử và đồng bạn tùy chỗ thích của đại chúng mà hiện thần biến đều rất vui mừng mà đồng nói rằng : “Vương Tử Sư Tử hỏi các điều nghi, đức Như Lai Thế Tôn đều giải quyết hết. Như vậy, đức Thế Tôn bất khả tư nghì, chánh pháp của Như Lai và người tín thọ quả báo bất khả tư nghị, công đức Như Lai vô lượng vô biên nơi tất cả pháp không gì chẳng thấu tỏ, là Đạo Sư của đời độ người chưa độ, khắp mười phương thế giới đều rõ biết cả các pháp ba đời.
Ai là người có trí được nghe khối công đức sanh xứ an lạc như vậy mà chẳng phát khởi tin ưa mãnh lợi xu hướng cầu Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Vương Tử Sư Tử cùng đồng bạn năm trăm người, tất cả đại chúng đều vui mừng phụng hành.
PHÁP HỘI PHÁP HỘI ĐẠI THỪA PHƯƠNG
TIỆN
THỨ
BA MƯƠI
TÁM
Như
vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở
nước
Xá Vệ tại
tịnh xá Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc Viên cùng đại Tỳ kheo tám ngàn người câu hội, đều là bậc Vô học đại Thanh Văn chúng.
Đại Bồ Tát một vạn hai ngàn người đều được thần thông mọi người quen biết được đà la ni vô ngại biện tài được chư
pháp nhẫn vô lượng công đức đều thành tựu cả.
Bấy giờ đức
Như Lai từ tam muội dậy vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh cung kính vây quanh
mà vì thuyết pháp.
Trong đại chúng có đại Bồ Tát tên Trí Thắng đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chấp tay hướng Phật mà bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi muốn hỏi một việc xin được cho phép, nếu đức Phật cho phép tôi mới dám thỉnh hỏi.
Đức Phật phán : “Nầy Trí Thắng ! Cho phép ông hỏi, ta sẽ giải đáp trừ chỗ nghi cho ông”.
Trí Thắng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nói là phương
tiện ấy,
những gì là Bồ Tát phương
tiện, đại Bồ Tát hành các phương
tiện thế nào ?”.
Đức Phật khen rằng : “Lành thay lành thay, nầy Trí Thắng ! Ông vì chư
đại Bồ Tát mà thỉnh hỏi nghĩa phương
tiện đem lại nhiều lợi ích nhiều an lạc cho cả chư
Thiên và người
thế gian, để nhiếp lấy trí huệ của
Bồ Tát vị lai và chư
Phật pháp quá khứ vị
lai hiện tại vậy. Lắng nghe lắng nghe, ta sẽ nói cho ông phải khéo suy nghĩ nhớ đó”.
Trí Thắng Bồ Tát thọ giáo vui mừng lắng nghe.
Đức Phật phán dạy : “Nầy Trí Thắng ! Bồ Tát hành phương
tiện dùng một vắt cơm
bố thí cho tất cả chúng sanh. Tại sao ? Vì Bồ Tát hành phương
tiện đem một vắt cơm
nhẫn đến bố thí xuống đến loài súc sanh nguyện cầu Nhứt thiết trí, do Bồ Tát nầy cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề
dùng hai nhơn duyên sau đây để
nhiếp thủ tất
cả chúng sanh : một là cầu Nhứt thiết trí tâm, hai là nguyện phương
tiện. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy. Lại nầy Trí Thắng ! Đại Bồ Tát thấy người bố thí thì sanh lòng tùy hỉ, đem căn lành tùy hỉ nầy
nguyện cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề,
cũng nguyện người thí kẻ thọ chẳng rời Nhứt thiết trí tâm, dầu người thọ là hàng nhị thừa cũng nguyện họ chẳng rời Nhứt thiết trí tâm. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy.
Lại nầy Trí Thắng ! Đại Bồ Tát nếu thấy trong thế giới mười phương
có các thứ cây hoa và các thứ hương vô chủ, liền nguyện họp lại cúng dường chư
Phật, hoặc thấy trong thế giới mười phương
có các thứ hoa hương
có chủ hoặc lá gió bay liền nguyện họp lại cúng dường chư
Phật mười phương
hoặc tự làm hoặc vì chúng sanh mà làm để được Nhứt thiết trí tâm, do thiện căn nầy nên được vô lượng giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy.
Lại nầy Trí Thắng ! Đại Bồ Tát nếu thấy trong thế giới mười phương
các chúng sanh thọ các báo vui, Bồ Tát thấy rồi liền suy nghĩ rằng : nguyện tất cả chúng sanh được vui Nhứt thiết trí. Nếu thấy các chúng sanh thọ báo khổ, Bồ Tát liền vì các chúng sanh mà sám hối tội nghiệp nguyện rằng : những khổ não mà chúng sanh phải chịu như
vậy, tôi đều thay họ lãnh chịu cho họ được an vui. Đem căn lành nầy nguyện thành Nhứt thiết trí trừ đứt
khổ não cho tất cả chúng sanh, do nhơn
duyên mà cứu cánh chẳng thọ tất
cả khổ thuần thọ tất
cả lạc.
Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy.
Lại nầy Trí Thắng ! Nếu đại Bồ Tát ở nơi một đức Phật kính lễ cúng dường tôn trọng tán thán suy nghĩ như
vầy : tất cả Như
Lai đồng một giới một pháp thân một giới một định một huệ một
giải thoát một giải thoát tri kiến, vậy thì phải biết rằng nếu lễ kính cúng dường tôn trọng tán thán một đức Phật tức là lễ kính cúng dường tán thán tôn trọng tất cả chư
Phật, nếu cúng dường một đức Phật tức là cúng dường chư
Phật mười phương.
Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy.
Lại nầy Trí Thắng ! Bồ Tát nếu là độn căn thì chớ nên tự khinh, nhẫn đến nếu có thể đọc
thuộc một bài kệ bốn
câu, suy nghĩ như vầy
: nếu hiểu nghĩa một bài kệ bốn
câu tức là biết tất cả Phật pháp, tất cả Phật pháp đều nhiếp trong nghĩa trong một bài kệ, thông đạt như
vậy rồi lòng chẳng giải đãi, nếu đi đến thành ấp tụ lạc
dùng lòng từ bi mà rộng giải nói cho mọi người chẳng cầu lợi dưỡng danh văn tán thán, nguyện rằng bài kệ bốn
câu nầy nguyện cho người khác được nghe, đem thiện căn nầy nguyện cho tất cả chúng sanh đều đa văn như
A Nan và được
biện tài Như
Lai. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy.
Lại nầy Trí Thắng ! Nếu Bồ Tát sanh trong nhà bần cùng nhẫn đến khất thực được một vắt cơm
cầm đem thí cúng chư
Tăng, nếu cúng thí một người chẳng lấy đó làm thẹn, nên suy nghĩ rằng : như
lời Phật dạy tâm tăng thượng quãng đại thí hơn
dùng của bố thí, của tôi bố thí dầu ít mà do Nhứt thiết trí tâm nguyện căn lành nầy thành Nhứt thiết trí khiến các chúng sanh đều được bửu thủ như
đức Phật Thế Tôn, do nhơn
duyên ấy nên đầy đủ thí giới thiền định phước đức. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy.
Lại nầy Trí Thắng ! Bồ Tát nếu thấy hàng Thanh Văn Duyên Giác được nhiều lợi dưỡng tôn trọng tán thán, Bồ Tát nầy tự hai điều để an ủi tâm mình : một là nhơn
nơi Bồ Tát mà có Như
Lai, hai là nhơn nơi
Như Lai mà có Thanh Văn Duyên Giác, như
vậy hàng nhị thừa dầu được lợi dưỡng mà tôi vẫn hơn
họ, vật họ an dùng là vật của cha tôi tại sao ở nơi ấy
tôi sanh lòng hi vọng. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy.
Lại nầy Trí Thắng ! Lúc Bồ Tát hành thí liền đủ cả
sáu Ba la mật. Thế nào là sáu ? Lúc thấy người xin, Bồ Tát từ lòng xan tham đầy đủ đại
thí xả, đây gọi là Đàn Ba la mật. Bồ Tát tự trì giới thí người trì giới, thấy người phá giới thì khuyên họ trì giới rồi sau cấp thí cho, đây gọi thì Thi La Ba la mật. Bồ Tát tự trừ sân khuể khởi lòng từ nhẫn không uế trược lợi ích chúng sanh bình đẳng bố thí, đây gọi là Sằn đề Ba la Mật. Nếu Bồ Tát bố thí ẩm thực thuốc thang tức thì đầy đủ, thân tâm tinh tiến đến đi cúi ngước, đây gọi là Tỳ Ly Gia Ba la mật. Nếu Bồ Tát hành thí rồi tâm được định vui vẻ sung sướng chuyên nghiệm bất loạn, đây gọi là thiền Ba la Mật. Bồ Tát bố thí rồi phân biệt các pháp : Ai là người thí ai là người thọ ai là người thọ báo quan sát như
vậy rồi không có một pháp nào gọi là người bố thí người lãnh thọ và người thọ báo, đây gọi là Bát Nhã Ba la mật. Đây gọi là Đại Bồ Tát hành phương
tiện đủ sáu Ba la mật vậy ».
Trí Thắng Bồ Tát bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Thật chưa
từng có, đại Bồ Tát hành phương
tiện, do sức phương
tiện nên lúc hành bố thí nhiếp tất cả Phật pháp và các chúng sanh ».
Đức Phật dạy : « Nầy Trí Thắng ! Như
lời ông nói, đại Bồ Tát hành phương
tiện, do sức phương
tiện nên dầu hành chút ít bố thí mà được phước đức vô lượng vô biên a tăng kỳ.
Nầy Trí Thắng ! Đại Bồ Tát dầu đến bực bất thối chuyển địa cũng dùng phương
tiện thật hành bố thí, đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy.
Nầy Trí Thắng ! Có lúc ác tri thức bảo Bồ Tát rằng : Ông cần gì ở mãi nơi
sanh tử nên từ thân nầy mà sớm nhập Niết bàn.
Bồ Tát biết là ác tri thức liền xa rời họ và suy nghĩ rằng : Tôi phát đại thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh, người nầy làm lưu
nạn tôi. Nếu không ở trong sanh tử thì làm sao có thể giáo hóa vô lượng chúng sanh ».
Trí Thắng Bồ Tát bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh do vì vọng tưởng mà phạm bốn trọng tội ».
Đức Phật dạy : Nầy Trí Thắng ! Nếu Bồ Tát xuất gia do vọng tưởng mà phạm bốn trọng tội, Bồ Tát hành phương
tiện đều có thể dứt
trừ hết
, nay ta cũng nói không có phạm tội và người thọ báo ».
Trí Thắng Bồ Tát bạch rằng : Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát phạm tội ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Trí Thắng ! Bồ Tát bắt đầu hành giải thoát giới, trong trăm ngàn kiếp ăn trái ăn rau hay nhẫn nhịn lời thiện ác của cá chúng sanh, nếu cùng chung tư
duy pháp với hàng Thanh Văn Duyên Giác, đây
gọi là đại Bồ Tát phạm trọng tội.
Nầy Trí Thắng ! Như
hàng Thanh Văn và Duyên Giác phạm trọng cấm thì chẳng phải thân nầy được nhập Niết bàn. Còn Bồ Tát chẳng trừ bỏ
việc cùng chung với hàng Thanh Văn Duyên Giác tư
duy pháp thì trọn chẳng được thành Vô thượng Bồ đề
vậy.
Bấy giờ Tôn giả A Nan bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Sáng nay tôi vào thành Xá
Vệ thứ đệ
khất thực thấy Chúng Tôn Vương
Bồ Tát với một nữ nhơn
đồng ngồi một giường ».
Tôn giả A Nan vừa nói xong, tức thì đại địa chấn động sáu cách. Chúng Tôn Vương
Bồ Tát tại trong đại chúng thăng lên hư
không cao bằng bảy cây đa la bảo A Nan rằng : “ Có ai phạm tội mà có thể dừng
ở hư không được chăng ? Tôn giả nên đem sự nầy
hỏi đức Thế Tôn thế nào là tội thế nào chẳng phải tội ?”.
Tôn giả A Nan ưu
sầu hướng Phật quỳ lễ chưn
Phật bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi sám hối, bực đại long như
vậy mà tôi nói phạm tội, Bồ Tát như
vậy mà tôi tìm cầu tội lỗi. Nay tôi sám hối xin Phật hứa khả”.
Đức Phật dạy : “Nầy A Nan ! ông chớ nên tìm cầu tội lỗi nơi
bực Đại thừa Đại sĩ. Nầy A Nan ! Hàng Thanh Văn các ông ở chỗ chướng nạn hành tịch diệt định không có lưu
nạn dứt tất cả kiết sử. Nầy A Nan ! Bồ Tát hành phương
tiện thành tựu Nhứt thiết trí tâm dầu ở
trong cung cùng thể nữ
vui đùa mà chẳng khởi ma sự và các lưu
nạn và sẽ được Vô thượng Bồ đề.
Tại sao ? Nầy A Nan ! Bồ Tát hành phương
tiện không bao giờ ở
nơi chúng sanh thọ lạc
như vậy mà chẳng đem Tam bửu hoặc Vô thượng Bồ đề
giáo hóa họ.
Nầy A Nan ! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn
được
Đại thừa được Nhứt thiết trí tâm khí thấy ngũ dục khả ý liền ở
trong ấy cùng chung thọ lạc.
Nầy A Nan ông nên suy tưởng như
vầy : Bồ Tát như
vậy tức là có thể thành tựu căn bổn Như
Lai.
Nầy A Nan ! Ông nên lắng nghe do duyên cớ gì mà Chúng Tôn Vương
Bồ Tát cùng nữ nhơn
ấy cùng ngồi chung giường.
Nầy A Nan ! Nữ nhơn
ấy từ quá khứ đã từng năm trăm đời làm vợ của
Chúng Tôn Vương Bồ Tát. Do tập khí cũ ấy, nàng thấy Chúng Tôn Vương
Bồ Tát sanh lòng yêu thương
ràng buộc chẳng thôi. Do sức trì giới nên Chúng Tôn Vương
Bồ Tát có oai Đức đoan chánh. Nàng ấy thấy rồi vui mừng hớn hở ngồi riêng một mình sanh tâm như
vầy: Nếu Chúng Tôn Vương
Bồ Tát có thể đến
ngồi chung giường với tôi thì tôi sẽ phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan ! Vì biết tâm niệm của nàng ấy, nên sáng sớm Chúng Tôn Vương
Bồ Tát đắp y cầm bát vào thành Xá Vệ thứ đệ
khất thực đến nhà nàng ấy liền vào và liền suy nghĩ pháp môn như
vầy; hoại nội địa đại hay ngoại địa đại đồng là một địa đại. Dùng tâm Địa đại ấy
cầm tay nữ nhơn
cùng ngồi chung giường. Chúng Tôn Vương
Bồ Tát liền từ chỗ ngồi ấy
nói kệ rằng
:
Đức
Phật chẳng khen ngợi
Hàng phàm
phu hành dục
Ly dục ly tham ái
Mới thành Thiên Nhơn
Sư
Nầy A Nan ! Nàng ấy nghe kệ rồi
rất vui mừng hớn hở vô lượng, liền đứng dậy lạy chưn
Chúng Tôn Vương Bồ Tát mà nói kệ rằng
:
Tôi chẳng tham ái dục
Tham dục bị Phật quở
Ly dục ly tham ái
Mới thành Thiên Nhơn
Sư
Nói kệ xong nàng ấy thưa
rằng :
Trước tôi sanh lòng ái dục nay nên sám hối.
Nàng ấy liền sanh thiện dục phát tâm Bồ đề
nguyện muốn lợi ích tất cả chúng sanh.
Nầy A Nan ! Lúc ấy Chúng Tôn Vương
Bồ Tát khuyến hóa nữ nhơn
phát tâm Vô thượng Bồ đề
rồi liền đi
Nầy A Nan ! Ông quan sát phước báo của nữ nhơn
chuyên tâm ấy.Nay ta dùng Chán Biến Tri thọ ký cho nữ nhơn
ấy nơi
đây mạng chung được chuyển thân nữ sẽ
thành nam tử, đời sau chín mươi
chín kiếp cúng dường trăm ngàn vô lượng a tăng kỳ chư
Phật đầy đủ tất
cả Phật pháp được thành Phật hiệu Vô Cấu Như
Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, lúc đức Phật Vô Cấu không có một người nào khởi tâm bất thiện.
Nầy A Nan ! Ông nên biết rằng Bồ Tát hành phương
tiện nhiếp lấy quyến thuộc trọn chẳng đọa ba ác đạo”.
Bấy giờ Chúng Tôn Vương
Bồ Tát từ hư không hạ xuống lễ Phật bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát hành phương
tiện nếu vì một người mà phát tâm đại bi hợp tập thiện pháp hoặc tợ phạm tội hay thiệt pham tội trong trăm ngàn kiếp đọa đại địa ngục. Bồ Tát nầy kham chịu được các ác và địa ngục khổ, do vì căn lành ấy mà nguyện chẳng bỏ một
chúng sanh”.
Đức Phật khen rằng : “Lành thay, lành thay, nầy Chúng Tôn Vương
! Bồ Tát thành tựu tâm đại bi như
vậy dầu thọ ngũ dục mà chẳng phạm trọng tội được lìa các tội và xa tất cả nghiệp đọa ác đạo.
Nầy Chúng Tôn Vương
! Ta nhớ quá khứ a tăng kỳ kiếp, lại quá số kiếp ấy,
bấy giờ có phạm chí tên Thọ Đề
bốn mươi
hai ức năm ở trong rừng vắng thường tu phạm hạnh. Quá năm ấy, phạm chí Thọ Đề
ra khỏi rừng vào thành Cực Lạc. Vào thành rồi thấy một nữ nhân. Lúc nữ nhơn
ấy thấy phạm chí nghi dung đoan nghiêm liền sanh dục tâm chạy đến té xuống đất nắm chơn
phạm chí. Phạm chí hỏi nữ nhơn
: Chị tìm cầu gì ? Nữ nhơn
đáp : Tôi cầu phạm chí. Phạm chí nói : Tôi chẳng hành dục. Nữ nhơn
nói : Nếu không theo ý tôi nay tôi sẽ chết. Phạm chí Thọ Đề
suy nghĩ : Sự nầy
chẳng phải pháp của tôi cũng chẳng phải thời của tôi. Tôi đã bốn mươi
hai ức năm tu tịnh phạm hạnh nay sao lại hủy hoại ? Phạm chí cố gắng
tự chế rời
đi bảy bước. Đi được bảy bước rồi sanh lòng sót thương
suy nghĩ như vầy : Tôi dầu phạm giới bị đọa
ác đạo, tôi có thể chịu được khổ địa
ngục, nay tôi chẳng nở thấy nữ nhơn
nầy thọ khổ não, chớ để
nàng vì tôi mà chết. Suy nghĩ rồi, phạm chí Thọ Đề
lấy tay hữu nắm nữ nhơn
nói : Chị dậy
đi, tùy ý chị muốn. Sau mười hai năm cùng nữ nhơn
ấy làm chồng vợ, phạm chí Thọ đề
lại xuất gia tức thì lại đủ tứ
vô lượng
tâm, mạng chung sanh trong cõi trời Phạm Thiên.
Nầy Chúng Tôn Vương
! Ông chớ có nghi. Thuở ấy
phạm chí Thọ Đề
tức là thân ta, nữ nhơn
kia tức là Cù Di hiện nay vậy.
Nầy Chúng Tôn Vương
! Thuở ấy
vì lòng dục của nữ nhơn
kia mà ta tạm khởi tâm đại bi liền được siêu việt khổ sanh tử trăm vạn kiếp.
Chúng Tôn
Vương, ông xem các chúng sanh khác do vì ái dục mà đọa địa ngục, còn Bồ Tát hành phương
tiện do đó mà sanh Phạm Thiên. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương
tiện vậy”.
Đức Phật lại bảo Trí Thắng Bồ Tát : “ Nầy Trí Thắng ! Nếu Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên v.v...hành phương
tiện thì chẳng khiến Cù Già Ly phải đọa địa ngục.
Nầy Trí Thắng ! Ta nhớ thuở quá khứ thời kỳ Phật Cựu Lưu
Tôn có một Tỳ Kheo tên Vô Cấu ở
tu tại hang trong rừng vắng. Gần hang ấy có năm tiên nhơn.
Một hôm trời bỗng mưa
to, có cô gái nghèo bị mưa lạnh và kinh sợ liền vào hang ẩn núp, tạnh mưa
rồi Vô Cấu Tỳ Kheo cùng cô gái đồng ra khỏi hang.
Năm tiên
nhơn thấy bảo nhau : Vô Cấu Tỳ Kheo lòng gian siểm làm hạnh bất tịnh. Biết vậy Vô Cấu Tỳ Kheo liền vọt thân lên hư
không cao bằng bảy cây đa la. Năm tiên nhơn
thấy thế lại
bảo nhau : Chúng ta được thấy kinh luận có ghi rằng nếu người làm hạnh bất tịnh thì không thể bay lên hư
không như vậy còn người tu tịnh hạnh thì bay được như
vậy. Năm tiên nhơn
liền hướng Vô Cấu Tỳ Kheo phát lồ sám hối.
Nầy Trí Thắng ! Nếu lúc ấy Vô Cấu Tỳ Kheo không phương
tiện bay lên hư
không thì năm tiên nhơn ấy
sẽ bị
đọa địa ngục.
Thuở ấy
Vô Cấu Tỳ Kheo tức là Di Lặc Bồ Tát vậy.
Nầy Trí Thắng ! Nếu các ông Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên phương
tiện bay lên hư
không thì Tỳ Kheo Cù Già Ly chẳng đọa địa ngục. Nay ông nên biết những phương
tiện được thiệt hành của đại Bồ Tát, các hàng Thanh Văn và Duyên
Giác không có.
Nầy Trí Thắng ! Ví như
dâm nữ giòi biết sáu mươi
bốn thái độ, vì tài bửu mà mỵ ngôn dụ người dối nói xả thân không tiếc, lúc đã được tài bửu rồi liền xua đuổi người đi chẳng có lòng ân hận.
Bồ Tát hành phương
tiện giáo hóa tất cả chúng sanh như
vậy, tùy theo sở dục
của họ mà hiện thân, nơi
các vật dùng không hề ham tiếc, nhẫn đến xả thân vì chúng sanh, ưa
thích thiện căn chẳng cầu quả báo, khi biết chúng sanh đã làm thiện căn lòng không thối chuyển rồi liền xả ly, nơi
ngũ dục được hiện lên không hề luyến tiếc.
Nầy Trí Thắng ! Như
trong loài súc sanh con ong đen kia lấy
phấn mật trong các bông hoa mà không có
ý tưởng
cư trụ trong hoa không luyến ái hoa chẳng mang hoa đi.
Vì giáo
hóa chúng sanh nên Bồ Tát hành phương
tiện ở
nơi ngũ dục thấy pháp vô thường chẳng tưởng là thường mà sanh ái nhiễm, lại chẳng hại mình cũng chẳng hại người.
Nầy Trí Thắng ! Vì như
hột giống nhỏ dầu
sanh mầm nhưng
bổn chất không kém tổn chẳng sanh vật khác. Cũng vậy chủng tử trí huệ không vô tướng vô tác vô ngã, Bồ Tát dầu hiện phiền não vui thú trong ngũ dục lạc, mà chẳng sanh mầm ba ác đạo, chẳng tổn bổn chất thiện căn cũng chẳng thối chuyển.
Nầy Trí Thắng ! Ví như
ngư ông dùng vật thực trét lưới ném xuống vực sâu, lúc thỏa mãn chỗ mong cầu thì kéo lưới lên. Cũng vậy, Bồ Tát hành phương
tiện dùng không vô tướng vô tác vô ngã trí huệ huân tu tâm mình, biết sử dụng
làm lưới,
Nhứt thiết trí tâm dùng làm vật thực trét, dầu ném vào vực sâu bùn lầy ngũ dục, lúc thỏa bổn nguyện liền kéo lên khỏi Dục giới, sau khi mạng chung sanh trời Phạm Thế.
Nầy Trí Thắng ! Ví như
có người
giỏi biết chú thuật bị quan bắt gông cùm xiềng xich trói nhốt, người ấy
dùng sức chú thuật làm đứt rã gông xiềng tùy ý mà đi. Cũng vậy đại Bồ Tát hành phương
tiện dầu ở
ngũ dục cùng nhau vui thú để hóa độ chúng sanh như
chỗ mong cầu, rồi dùng sức chú thuật Nhứt thiết trí làm đứt rã ngũ dục sanh trời Phạm thế.
Nầy Trí Thắng ! Ví như
sĩ phu giỏi biết chiến pháp giấu kín một con dao bén hộ tống
người
du hành. Trong chúng ấy không ai biết sĩ phu có mưu
lạ nên coi thường và xót thương
không có lòng kính trọng, họ bảo
nhau rằng : Sĩ phu nầy đã không khí giới lại không bạn đảng, chẳng phải dũng sĩ lại không thế lực
tất sẽ bị
khổn ách. Sĩ phu ấy đi đến vùng hoang vắng gặp cướp ào ra, sĩ phu ấy liền rút dao bén được dấu kín ra vung lên giặc cướp đều táng mạng. Phá tan giặc cướp xong, sĩ phu ấy lại dấu kín dao bén. Cũng vậy đại Bồ Tát hành phương
tiện giấu dao trí huệ mà dùng phương
tiện ở
trong ngũ dục cùng nhau vui thú để hóa độ chúng sanh. Hàng Thanh Văn thấy vậy sanh lòng khinh rẻ hoặc lòng xót thương
cho là người
phóng dật và bảo rằng : Người như
vậy còn chưa
tự độ
huống là cứu vớt tất cả chúng sanh, không thể phá hoại tứ ma. Bồ Tát ấy khéo dùng dao phương
tiện trí huệ, lúc đã thỏa mãn sở nguyện liền chặt đứt phiền não khiến dứt hết rồi mang dao trí huệ sang tịnh độ nơi không có nữ nhơn
và không có một niệm tưởng tham dục”.
Bấy giờ có một Bồ Tát tên Ái Tác vào thành Xá Vệ thứ đệ
khất thực, đi lần đến nhà một trưởng giả. Con gái trưởng giả tên Đức Tăng ở trên lầu cao nghe tiếng Bồ Tát liền mang vật thực ra khỏi nhà thấy hình dung tướng hảo và thanh âm của Bồ Tát lòng dục nổi dậy, bị dục
niệm bức thiêu nên nàng ấy liền chết.
Ái Tác Bồ Tát thấy nàng ấy cũng khởi ác niệm dâm dục, Bồ Tát liền tự suy nghĩ rằng : Những thứ ấy
là gì mà ái trước ? Cặp mắt đó ư,
gì là mắt, mắt ấy
chẳng phải có biết chỉ là cục thịt, nó chẳng yêu chẳng biết chẳng suy chẳng hiểu không phân biệt gì, tánh nó vốn không. Như
mắt, cả tai mũi lưỡi thân và ý cũng vậy, da mỏng da dầy máu thịt mỡ gân tóc lông móng răng xương
tủy gân mạch, quan sát từ chân đến đầu như
vậy rồi, hoặc trong hay ngoài không có một pháp gì ái trước được hoặc sân hay si được. Nơi
tất cả pháp. Bồ Tát quan sát như
thiệt liền lìa tâm ái dục được vô sanh nhẫn, lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng liền thăng lên hư
không cao bằng một cây đa la bay nhiễu thành Xá Vệ bảy
vòng.
Lúc ấy đức Thế Tôn thấy Ái Tác Bồ Tát bay trên hư
không vô ngại như
nga vương, Đức Phật bảo Tôn giả A Nan rằng :
“ Nầy A Nan ! Ông có thấy Ái Tác Bồ Tát bay trên hư
không vô ngại như
nga vương chăng ?”.
Tôn giả bạch
rằng : “ Vâng, bạch đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy”.
Đức Phật phán : “ Nầy A Nan ! Ái Tác Bồ Tát ấy do vì khởi tâm dâm dục liền suy xét các pháp phá được chúng ma sẽ chuyển pháp luân.
Còn nàng Đức
Tăng sau khi chết sanh cung trời Đao Lợi được thành Thiên Tử ở
cung điện thất bửu tự nhiên ngang rộng mười hai do tuần có vạn bốn ngàn Thiên nữ thị vệ.
Đức
Tăng Thiên Tử ấy
có trí túc mạng suy xét do nghiệp gì trước kia mà nay sanh nơi
đây ? Liền thấy thân trước làm con gái nhà trưởng giả trong thành Xá Vệ thấy Ái Tác Bồ Tát sanh lòng dâm dục, vì lòng dục xí thạnh nên chết được chuyển thân nữ sanh làm Thiên Tử nầy.
Tôi do sự việc ấy
mà được
vô lượng
thần lực.
Đức Tăng Thiên Tử lại
suy nghĩ rằng : Nhơn
khởi tâm dâm dục mà được báo như
vầy, nay đối với Ái Tác Bồ Tát tâm tôi rất thanh tịnh cung kính cúng dường, nay nếu tôi còn có lòng ái dục trước thì chẳng nên chẳng phải. Tôi nên đến chỗ đức
Như Lai và muốn lễ kính cúng dường Ái Tác Bồ Tát”.
Lúc ấy Đức Tăng Thiên Tử cùng quyến thuộc cắm hoa hương
trời đầu hôm đến chỗ đức
Phật, tự dùng ánh sáng của mình chiếu khắp tịnh xá Kỳ Hoàn vào lễ chưn
Phật và Ái Tác Bồ Tát, rải hoa hương
cúng dường
hữu nhiễu ba vòng rồi chắp tay hướng Phật mà nói kệ rằng
:
“Đấng Thiên Nhơn
Sư
Bất khả tư nghị
Công hạnh Bồ Tát
Cũng bất khả nghị
Giáo pháp
Như Lai
Đấng Đại Danh Xưng
Cũng bất khả nghị
Xưa
tại Xá Vệ
Tôi làm đồng nữ
Con nhà
trưởng
giả
Tên là Đức Tăng
Tuổi còn thơ
bé
Dung nhan
đoan chánh
Cha mẹ cưng yêu
Nuôi nấng giữ gìn
Đức Phật Thế Tôn
Không có
khinh đùa
Phật Tử Ái Tác
Có oai đức lớn
Vào thành
Xá Vệ
Thứ đệ
khất thực
Lần đến trước nhà
Của chúng tôi ở
Lúc ấy tôi nghe
Âm thanh
hay tốt
Lòng rất vui mừng
Liền mang cơm
ra
Hướng đến trước mặt
Người tu đại tâm
Ái Tác Bồ Tát
Con của Như
Lai
Lúc ấy Bồ Tát
Tôi đã để tâm
Nhìn xem
tướng
đẹp
Sanh lòng
dục nhiễm
Nếu tôi chẳng được
Toại lòng sở nguyện
Chắc sẽ tức
thời
Thân mạng chết mất
Tôi lúc bấy giờ
Nguyện chẳng thể nói
Tay cầm vật thực
Chẳng thể trao cho
Trong
lòng nóng đốt
Phát tưởng dâm dục
Thân bị nóng bức
Dứt hơi
liền chết
Sau khi mạng chung
Trong khoảng một niệm
Liền được sanh lên
Cung trời Đao Lợi
Lìa khỏi thân nữ
Tối ư hạ
liệt
Được thành Thiên Tử
Mọi người ngợi khen
Cung điện thắng diệu
Tự nhiên xuất hiện
Đủ các thứ báo
Vi diệu hi hữu
Có đủ một
vạn
Bốn ngàn Thiên nữ
Quyến thuộc như
vậy
Của tôi sở hữu
Do duyên
cớ ấy
Tôi suy đời trước
Mà tự tư duy
Liền biết nghiệp xưa
Do phát
lòng dục
Được báo như
vầy
Tôi dùng
tâm dục
Nhìn ngó
Ái Tác
Do thấy Bồ Tát
Được hỉ quang minh
Thân tôi phát
sanh
Ngọn lửa quang minh
Do nghiệp duyên ấy
Được báo trời nầy
Tôi trọn chẳng muốn
Cầu nơi
nhị thừa
Chỗ tôi nguyện cầu
Chỉ có Phật biết
Nhiễm tâm dâm dục
Được báo còn vậy
Huống là có thể
Tâm tốt cúng dường
Như
tôi hôm nay
Hướng về Thế Tôn
Phát nguyện như
vậy
Cầu Nhứt thiết trí
Dầu phải tu hành
Số kiếp hằng sa
Trọn chẳng thối chuyển
Nơi
Phật trí huệ
Gặp thiện tri thức
Ái Tác Bồ Tát
Nay tôi sẽ dùng
Chơn
pháp cúng dường
Những cúng dường khác
Chẳng phải cúng dường
Chỉ phát Bồ đề
Là chơn
cúng dường
Tu hạnh Bồ đề
Tối thắng tối tôn
Chẳng còn lòng dục
Nhìn ngó
nữ nhơn
Tôi nguyện như
vậy
Rời lìa thân nữ
Hướng chư
Phật nói
Bốn vô sở úy ».
Bấy giờ vợ
chồng trưởng giả, cha và mẹ của
nàng Đức Tăng tìm gặp thân con gái buồn khổ kêu khóc mắng trách Tỳ Kheo. Đức Phật dùng thần lực khiến Đức Tăng Thiên Tử đến
chỗ cha mẹ khuyên can chớ giận mắng Tỳ Kheo để rồi
phải thọ khổ nhiều lâu và bảo cha mẹ rằng
: « Nàng Đức Tăng ấy sau khi chết liền sanh lên cung trời Đao Lợi rời thân nữ được thành Thiên Tử ánh sáng chói lọi. Nay cha mẹ nên đến chỗ đức
Thế Tôn sám hối tâm giận ác trước. Nếu ngoài đức Như
Lai chư Phật Thế Tôn thì không còn người nào đáng quy y ».
Đức Tăng Thiên Tử dùng tâm vô úy khuyên bảo cha mẹ. Được nghe danh Phật tức thì cha mẹ cùng nhau đồng đến chỗ Phật đầu mặt kính lạy sám hối tâm sân hận trước và bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào cúng dường Phật Pháp và Tăng ? Thế nào tu tập hạnh lành ? Duy nguyện đức Thế Tôn thương
xót chỉ dạy,
chúng tôi sẽ chuyên tâm tu hành’’.
Biết tâm quyết định của hai người, đức Phật phán : « Nầy thiện nam tử thiện nữ nhơn
! Nếu người muốn cúng dường chư
Phật thì nên nhứt tâm kiên cố phát tâm Bồ đề
».
Cha mẹ nàng Đức Tăng và quyến thuộc năm trăm người nghe lời đức Phật dạy đồng phát tâm bồ đề
và lập đại nguyện.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : “ Nầy A Nan ! Nay ông lắng nghe, công hạnh của Bố Tát chẳng thể nghĩ bàn, vô thượng trí huệ cùng các phương
tiện chẳng thể nghĩ bàn. Ái Tác Bồ Tát kia thường phát nguyện : Nữ nhơn
thấy tôi mà phát lòng dục thì liền được lìa khỏi thân nữ thành nam tử mọi
người
mến trọng.
Nầy A Nan ! Ông xem sức oai đức của Bồ Tát như
vậy. Người khác nếu phạm tội phải đọa ác đạo. Còn Đại Sĩ làm đó thì phá hoại ma chúng khiến kia sanh Thiên được làm Thiên Nhơn.
Nay Thiên Tử Đức
Tăng nầy cúng dường ta cung kính phát tâm Bồ đề.
Thiên Tử nầy
sẽ cúng dường vô lượng Thế Tôn đời sau thành Phật hiệu Thiện Kiến Như
Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Vợ chồng trưởng giả và năm trăm người đã cúng dường và phát tâm Bồ đề
đây cũng sẽ thành Phật làm bực Thiên Nhơn
Sư.
Nầy A Nan ! Phật có oai đức như
vậy ai mà chẳng cung kính cúng dường . ở nơi đức Phật có lòng thâm tín thì được vô lượng phước lạc.
Nầy A Nan ! Chẳng phải một nữ nhơn,
chẳng phải hai ba nữ nhơn,
mà vô lượng
trăm ngàn na do tha ức nữ nhơn
thấy Ái Tác Bồ Tát phát tâm dâm dục liền chết chết được thành nam tử.
Nầy A Nan ! Bồ Tát y vương
có đại danh xưng
như vậy ai chẳng tôn kính. Thấy Bồ Tát sanh lòng dâm dục còn được phước lạc huống là sanh lòng cung kính đối với Bồ Tát”.
Tôn giả A Nan bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Ví như
núi Tu Di, nếu các vật tạp sắc đến bên núi thì đồng một kim sắc. Nếu có chúng sanh đến bên Bồ Tát, hoặc tâm dục tâm sân hoặc tịnh tâm, tất cả đều
đồng một tâm Nhứt thiết trí. Từ nay với chư
Bồ Tát, tôi sanh lòng tôn trọng xem như
núi Tu Di vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Ví như
thuốc Dược Vương
tên là Tất Kiến. Người sanh tâm người tịnh tâm nếu uống thuốc ấy
đều được lành cả, thuốc ấy
hay trừ tất
cả độc.
Cũng vậy, người sân tâm người tịnh tâm đến chỗ Bồ
Tát đều có thể trừ sạch
tất cả bịnh
tham sân si”.
Đức Thế Tôn khen rằng : “ Lành thay, lành thay, nầy A Nan ! Đúng như
lời ông nói”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Thật chưa
từng có, đại Bồ Tát tối tôn đệ nhứt, chư
đại Bồ Tát tu thiền định, tu thiền định xong trở vào Dục giới giáo hóa chúng sanh. Dầu Bồ Tát hành không vô tướng vô tác dùng đó để giáo hóa chúng sanh khiến họ thành Thanh Văn Duyên Giác, mà
do đại từ bi nên tự mình trọn chẳng rời Nhứt thiết trí tâm. Bạch đức Thế Tôn ! Đại Bồ Tát hành phương
tiện bất khả tư nghị, dầu thọ sắc
thanh hương vị xúc mà không ái trước trong ấy. Nay tôi dùng lạc thuyết biện tài nói chút phần công đức của Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn ! Ví như
chầm hoang đói rộng lớn có tường cao đến Vô Sắc giới, chỉ có một cửa ngõ, trong chầm ấy
có đông chúng sanh. Cách chầm chẳng xa có một thành lớn giàu có vui sướng tịnh diệu trang nghiêm, nếu có ai vào trong thành ấy thì không già bịnh chết. Con đường từ chầm hoang vào thành ngay chỉ rộng
một xích. Chúng nhơn
trong chầm có một người trí thông thái bỗng khởi tâm đại từ bi muốn lợi ích an lạc tất cả chúng sanh, liền to tiếng xướng rằng : Mọi người nên biết cách đây không xa có một thành lớn giàu vui an ổn, nếu ai vào trong thành ấy thì không già bịnh chết và cũng hay nói pháp lìa già bịnh chết. Mọi người nên cùng đi đến thành ấy, tôi sẽ là người dẫn đường.
Trong chầm hoang ấy, có những chúng sanh hạ liệt sanh lòng hi vọng, muốn được tìm hiểu, họ nói rằng nếu có thể khiến tôi ở trong chầm nầy tôi sẽ thọ giáo, còn muốn khiến tôi ra khỏi chầm nầy thời tôi chẳng nhận.
Có những chúng sanh hạng thượng nói : Tôi sẽ cùng Ngài đến thành ấy. Có những chúng sanh bạc phước nghe lời xướng trên chẳng tin chẳng theo người trí.
Bạch đức Thế Tôn ! Bấy giờ người trí ra khỏi tường chầm trông bốn phía thấy chỉ có một con đường thẳng rộng một xích quá nhỏ hẹp
hai bên là hố lớn
sâu trăm ngàn thước. Người trí dùng ván be hai bên đường, người đi phải bò mà tiến chẳng ngó hai bên kể oán tặc khủng bố phía sau, người bò đi cũng chẳng ngoái nhìn lại, dũng nhuệ chẳng sợ lần
lần qua được đường hẹp thấy thành lớn. Đã thấy thành rồi không còn bố úy liền đi vào thành. Sau khi vào thành
không già bịnh chết cũng làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh vì họ mà nói pháp lìa già bịnh chết.
Bạch đức Thế Tôn ! Chầm lớn hoang đói ấy là sanh tử vậy.
Tường
cao lớn đến Vô Sắc giới ấy
là vô minh hữu ái vậy. Nhiều chúng sanh ở trong chầm ấy
là tất cả phàm phu sanh tử vậy.
Đường
thẳng hẹp dẫn đến thành chỉ rộng
một xích ấy là nhứt chi đạo vậy. Người trí trong chầm ấy
là đại Bồ Tát vậy. Chúng sanh hạ liệt hy vọng dục giải ở
yên bất đông ấy là Thanh Văn Duyên Giác vậy. Những chúng sanh hạng thượng nói sẽ cùng đi đến đại thành ấy là chư
Bồ Tát khác vậy. Những chúng sanh bạc phước chẳng tin ấy là tất cả ngoại đạo tà kiến và các đệ tử
họ vậy.
Ra khỏi chầm hoang ấy là siêng tu Nhứt thiết trí tâm vậy. Đường chật hẹp một xích ấy là môn pháp tánh vậy. Hai bên đường có hố lớn
sâu trăm ngàn thước ấy
là nhị thừa Thanh Văn và Duyên Giác thừa vậy. Lấy ván be hai bên đường hẹp ấy
là trí huệ phương
tiện vậy. Bò mà đi tới ấy
là Bồ Tát dùng tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh vậy. Phía sau có oán tặc theo khủng bố ấy
là ma và ma dân chúng sanh khởi sáu mươi
hai kiến chấp và kẻ khinh báng Bồ Tát vậy. Chẳng ngoái ngó lại phía sau ấy là Nhẫn nhục Ba La Mật chuyên tâm trọn vẹn vậy. Chẳng nhìn hai bên ấy là chẳng khen nhị thừa vậy. Thành lớn ấy
là Nhứt thiết trí tâm vậy. Lần lần qua khỏi thấy thành lớn lòng không bố úy ấy là Bố Tát thấy Phật và chỗ sở
hành của Phật nhứt tâm kính ngưỡng trí huệ oai đức của Phật, khéo học Bát Nhã Ba la mật phương
tiện lần lần tùy nghi gần gũi tất cả chúng sanh không có nghi nan vậy. Vào trong thành rồi không già bịnh chết ấy
là Bồ Tát lợi ích vô lượng chúng sanh lìa già bịnh chết vậy. Người thuyết pháp ấy là đức Như
Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi kính lễ tất
cả Bồ
Tát”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nói lời nầy rồi, có mười ngàn Trời Người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đức Thế Tôn khen rằng : “Lành thay, lành thay, nầy Ma Ha Ca Diếp ! Ông hay khuyến phát chư
đại Bồ Tát, ông hay thành tựu vô lượng công đức.
Nếu là việc làm hay tự hại
và hại người thì đại Bồ Tát trọn chẳng làm. Hoặc lời nói có thể tự
tại hại tha đại Bồ Tát cũng trọn chẳng nói”.
Bấy giờ Đức
Tăng Bồ Tát bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nếu là việc làm hay lời nói có thể tự
hại hại tha tất cả Bồ
Tát đều trọn chẳng làm, thì tại sao xưa
kia, thời đức Phật Ca Diếp, đức Thế Tôn còn làm Bồ Tát đạo thừa một đời làm phạm chí tên Thọ Đề
nói rằng : Đạo Bồ đề
rất là khó được, đâu có kẻ trọc mà làm nên việc ấy,
tôi chẳng muốn thấy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thuở xưa Thọ Đề
phạm chí nói như
vậy là có nghĩa gì ?”.
Đức Phật dạy : Nầy Đức Tăng ! Đối với Như
Lai và Bồ Tát ông chớ nên nghi ngờ. Vì Phật và Bồ Tát thành tựu phương
tiện chẳng thể nghĩ bàn. Phật và Bồ Tát an trụ các thứ phương
tiện giáo hóa chúng sanh.
Nầy Đức Tăng ! Ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ, có kính
tên Phương Tiện Ba La Mật, ta sẽ nói cho ông. Bồ Tát từ thuở Phật Nhiên Đăng đến nay lần lần học phương
tiện, nay cũng sẽ vì ông mà khai thị phân biêt phần ít.
Nầy Đức Tăng ! Lúc đại Bồ Tát thấy Phật Nhiên Đăng liền được vô sanh pháp nhẫn từ đó đến nay không có sai lầm chơi
cười
mất chánh niệm, cũng không có tâm bất tịnh, trí huệ chẳng tổn giảm.
Nầy Đức Tăng ! Đại Bồ Tát như
bổn nguyện của mình được vô sanh nhẫn rồi sau bảy ngày thì có thể được thành Vô thượng Bồ đề,
nếu muồn trăm kiếp cũng có thể được thành. Vì chúng sanh mà đại Bồ Tát thọ tất
cả thân, tùy ở chỗ nào, do dùng trí lực nên tùy theo chỗ mong cầu đều được trọn sở nguyện rồi sau mới thành Vô thượng Bồ đề.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment