Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 113
PHÁP HỘI NHẬP PHẬT CẢNH GIỚI
TRÍ QUANG MINH TRANG NGHIÊM
THỨ NĂM MƯƠI
Nếu tương ưng nơi pháp tánh cứu cánh kiên cố thì chính là không
chỗ tương ưng cũng không chỗ dứt diệt lại cũng không có quả để chứng, tại sao, vì tâm pháp bổn lai tự tánh sáng suốt chỉ do khách trần phiền não làm ô nhiễm, nhưng thực ra không thể làm ô nhiễm tự tánh được. Nếu tự tánh vẫn sáng suốt thi không có phiền não, nếu không có phiền não thì không có đối trị, nghĩa là do đối trị mà phiền não đã đều dứt diệt, tại sao, vì không có đã thanh tịnh, không có sẽ thanh tịnh, bổn lai không rời lìa thanh tịnh. Nếu đã bổn lai thanh tịnh thì vô sanh, nếu vô sanh là vô động, nếu vô động thì dứt tất cả hỉ lạc, tất cả sở ái cũng đều dứt diệt, nếu ái dứt diệt thì nó là vô sanh, nếu pháp vô sanh thì chính là Bồ đề, nếu là Bồ đề thì là bình đẳng, nếu bình đẳng thì là chơn như, nếu chơn như thì tất cả pháp hữu vi tất cả pháp vô vi đều là vô trụ. Nếu trong chơn như không tất cả pháp hữu vì vô vi ấy thì là vô nhị. Nếu tất cả pháp hữu vi vô vi đều vô nhị thì chính là chơn như. Nếu là chơn như thì là chơn như không dị biệt. Nếu chơn như không dị biệt thì là chơn như không chủng loại. Nếu chơn như không chủng loại thì là chơn như không có đến. Nếu chơn như không có đến thì là chơn như không có đi. Nếu chơn như không có đến không có đi thì là chơn như đúng như đã được tuyên nói. Nếu chơn như đúng như đã được tuyên nói thì là chơn như vô sanh. Nếu chơn như vô sanh thì là không có ô nhiễm cũng không có
thanh tịnh. Nếu không nhiễm không tịnh thì là không có sanh không có diệt. Nếu không sanh không
diệt thì là Niết bàn bình đẳng. Nếu Niết bàn bình đẳng thì không có sanh tử cũng không có Niết bàn. Nếu không sanh tử không Niết bàn thì không có tam thế quá khứ vị lai hiện tại. Nếu không có quá khứ vị lai hiện tại thì không có pháp hạ trung thượng. Nếu không có pháp sai
biệt hạ trung thượng thì là chơn như bình đẳng. Danh từ chơn như do đây mà kiến lập vậy.
Đây nói là chơn như cũng gọi chơn thiệt tánh. Đây nói là
thiệt tánh cũng gọi tên như tánh. Đây nói là
như tánh cũng tức là chơn như. Chơn như với ta vốn không có hai cũng
không có chủng loại. Tánh nghĩa không hai tức là Bồ đề. Bồ đề có nghĩa là giác ngộ liễu biệt. Nghĩa ý được nói đây tức là trí chứng nhập ba môn giải thoát, là trí
tuyên nói tất cả pháp, ngộ nhập tất cả pháp tam thế bình đẳng, là nghĩa tất cả pháp không hư không hoại . Nghĩa được nói đây tức là không có nghĩa không có âm thanh không ghi nhớ không ngôn thuyết không có tỏ bày cũng không có
gì được tỏ bày. Đây gọi là trí, đó là
nghĩa tùy theo trí, thức tùy theo trí, thắng nghĩa tùy theo trí, như pháp tánh ấy tức như nghĩa ấy. Nếu là pháp tánh tức là pháp trụ tánh là pháp tịch tĩnh tánh, pháp tịch tĩnh đó tức là pháp không động chuyển, nếu pháp không động chuyển thì văn cùng nghĩa đều binh đẳng cả, nếu văn cùng nghĩa bình đẳng tức là nghĩa bình đẳng không hai, nếu nghĩa ấy bình đẳng thì nghĩa thức cũng bình đẳng, đây tức là trí chứng nhập môn bất nhị bình đẳng. Do đây nên thế tục cùng thắng nghĩa đều bình đẳng. Vì thế tục nghĩa bình đẳng nên là nghĩa bình đẳng không là bình đẳng tánh.Nếu tánh không bình đẳng thì tức là bổ đặc già la bình đẳng tánh bình đẳng, nếu bổ đặc già la bình đẳng thì tức là pháp bình đẳng tánh bình đẳng, nếu pháp bình đẳng thì là tín giải bình đẳng tánh bình đẳng, nếu tín giải bình đẳng vì giác ngộ đó nên tức là Bồ đề vậy
Nầy Diệu Cát Tường ! Nếu ở nơi sắc bình đẳng tánh mà có trụ trước có chướng ngại thì ở nơi nhãn có chướng ngại, vì sắc và nhãn tự tánh trí không có sở ngại vậy. Nếu ở nơi kiến văn mà có trụ trước có chướng ngại thì ở nơi thân có chướng ngại, vì ở trong thân các
loài tự tánh không trí không có sở ngại vậy. Nếu ở nơi tác ý chẳng sâu vững mà có trụ trước có chướng ngại thì ở nơi pháp quang minh có chướng ngại, vì tác ý sâu vững quan sát các pháp tự tánh không trí không có sở ngại vậy. Nếu ở nơi nghi lầm cấu nhiễm mà có trụ trước có chướng ngại thì ở nơi giải thoát có chướng ngại, vì trí tín giải giải thoát như thiệt không cò sở ngại vậy. Nếu ở nơi giải đãi cấu nhiễm mà có trụ trước có chướng ngại thì ở nơi hiện chứng kiên cố tinh tiến có chướng ngại, vì tính giác ngộ pháp được tuyên nói không có sở ngại vậy. Nếu ở nơi các pháp chướng có trụ trước có chướng ngại thì ở nơi pháp bảy giác chi có chướng ngại, vì trí giải thoát vô chướng không có sở ngại vậy. Nên biết rằng tất cả pháp tự tánh thanh tịnh, chỉ do nhơn duyên hòa hợp mà chuyển khởi, các vị Bồ Tát phải khéo biết rõ trong tất cả pháp hoặc là nhiễm nhơn hay tịnh nhơn, nhiễm cùng tịnh đều thanh tịnh vô sở đắc thì tức là vô sở trụ. Đây có nghĩa là khởi lên ngă khởi lên kiến đều là nhiễm nhơn, nếu chứng nhập vào trí nhẫn không có ngã
không có pháp là tịnh nhơn. Thấy có ngã cùng ngã sở là nhiễm nhơn, ở trong thì tịch tĩnh ở ngoài thì không duyên lấy là tịnh nhơn. Tham dục sân khuể thù hại là nhiễm nhơn, từ bi hỉ xả quán sát pháp nhẫn là tịnh nhơn. Bốn điên đảo là nhiễm nhơn, bốn niệm xứ là tịnh nhơn. Ngũ cái là nhiễm nhơn, ngũ căn ngũ lực là tịnh nhơn. Lục xứ là nhiễm nhơn, lục niệm là tịnh nhơn. Bảy pháp bát chánh là
nhiễm nhơn, bảy giác chi là tịnh nhơn. Tám pháp tà là nhiễm nhơn, tám pháp chánh là tịnh nhơn. Chín não địa là nhiễm nhơn, chín thứ đệ định là tịnh nhơn. Mười nghiệp đạo bất thiện là nhiễm nhơn, mườI nghiệp đạo thiện là tịnh nhơn. Tóm lại, tất cả tác ý bất thiện đều là nhiễm nhơn, tất cả tác ý thiện đều là tịnh nhơn. Hoặc nhiễm nhơn hay tịnh nhơn, tất cả pháp tự tánh vốn rỗng không, không có chúng sanh, không có thọ mạng, không có dưỡng dục, không có bổ đặc già la, không có chủ tể, không có nhiếp thọ, không có sở tác, như ảo huyễn không có tướng dạng nội tâm tịch tĩnh. Nếu nội tâm tịch tĩnh thì khắp tịch tĩnh. Nếu khắp tịch tĩnh thì là tự tánh, nếu pháp tự tánh thì vô sở đắc, nếu vô sở đắc thì không có y chỉ, nếu không có y chỉ thì như hư không. Nên biết tất cả pháp nhiễm tịnh cùng với hư không đồng không có sai
khác, nhưng hư không ấy cũng không hư hoại pháp tánh. Tại sao vậy? Nầy Diệu Cát Tường ! Trong đây không có được chút pháp nào hoặc là sanh hay là diệt.”
Diệu Cát Tường Bồ Tát bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì đức Như Lai chứng quả Bồ đề là nghĩa thế nào?”.
Đức Phật phán dạy : “Nầy Diệu Cát Tường ! Do vì không có
gốc không có trụ mà đức Như Lai được Bồ đề.
- Bạch đức Thế Tôn ! Gì gọi là gốc ? Gì gọi là trụ ?
- Nầy Diệu Cát Tường ! Có thân là gốc, y nơi hư vọng phân biệt mà trụ. Chư Phật Như Lai do Bồ đề bình đẳng nên là trí tất cả pháp bình đẳng, thế nên gọi là không có gốc không có trụ. Do đó nên đức Như Lai hiện thành bực Đẳng Chánh Giác.
Nầy Diệu Cát Tường ! Phải biết tất cả các pháp là tịch tĩnh là cận tịch. Sao gọi là tịch tĩnh, sao gọi là cận tịch ?
Nội tâm gọi là tịch tĩnh, ngoại cảnh gọi là cận tịch. Tại sao ? Vi nhãn không nên ngã và ngã sở tự tánh cũng không,
đây gọi là tịch tĩnh. Biết nhãn không rồi thì sắc không có sở thủ, đây gọi là cận tịch. Vì nhĩ không nên ngã và ngã sở tự tánh cũng không, đây gọi là tịch tĩnh. Biết nhĩ không rồi thì thanh không có sở thủ, đây gọi là cận tịch. Vì tỷ không nên ngã và ngã sở tự tánh cũng không, đây gọi là tịch tĩnh. Biết tỷ không rồi thì hương không có sở thủ, đây gọi là cận tịch. Vì thiệt không nên ngã và
ngã sở tự tánh cũng không, đây gọi là tịch tĩnh. Biết thiệt không rồi thì vị không có sở thủ, đây gọi là cận tịch. Vì thân không nên ngã và ngã sở cũng không, đây gọi là tịch tĩnh. Biết thân không rồi thì xúc không có
sở thủ, đây gọi là cận tịch. Vì ý không nên ngã và ngã sở cũng không, đây gọi là tịch tĩnh. Biết ý không rồi thì pháp không có sở thủ, đây gọi là cận tịch.
Nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề tự tánh sáng suốt, tâm tự tánh sáng suốt. Do cớ gì gọi tự tánh sáng suốt ? Vì tự tánh bổn lai không có nhiễm ô đồng với hư không, tự tánh hư không đều cùng khắp, như hư không, tự tánh rốt ráo bổn lai sáng suốt.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề không có xuất không có nhập. Sao gọi là không có xuất nhập ? Vì không có nhiếp thủ nên gọi là không có nhập, vì không có khí
xả nên gọi là không có xuất.
Chỗ chứng ngộ của đức Như Lai không có xuất nhập, như chỗ chứng ngộ ấy tức đồng chơn như không có đây không có kia, vì tất cả các pháp rời lìa đây kia vậy, do đây mà đức Như Lai hiện thành bực Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề không có tướng cũng không có sở duyên. Thế nào gọi là không có tướng và không có sở duyên ? Nghĩa là
nhãn thức vô sở đắc, đây gọi là không có tướng, sắc không có sở quán, đây gọi là không sở duyên. Nhĩ thức không sở đắc, đây gọi là không có tướng; thanh không sở văn, đây gọi là không sở duyên. Tỷ thức không sở đắc, đây gọi là không có tướng ; hương không sở khứu, đây gọi là không sở duyên. Thiệt thức không sở đắc, đây gọi là không có tướng ; vị không sở thường, đây gọi là không sở duyên.Thân thức không sở đắc, đây gọi là không có tướng ; xúc không sở giác, đây gọi là không sở duyên. Ý thức không sở đắc, đây gọi là không có tướng ; pháp không sở phân biệt, đây gọi là không sở duyên.
Nầy Diệu Cát Tường ! Không có tướng không có sở duyên đây là cảnh giới của bực Thánh. Tất cả cái có trong tam giới không phải là cảnh giới Thánh, do đây nên phải hiện hành cảnh giới Thánh.
Nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề chẳng phải quá khứ chẳng phải vị lai chẳng phải hiện tại, vì tam thế bình đẳng vậy. Vì tam luân dứt diệt vậy. Tam luân dứt có nghĩa là tâm
quá khứ không hiện khởi, thức vị lai không duyên lấy, ý hiện tại không động chuyển. Dầu cho tâm ý thức ấy mà có sở trụ cũng vẫn là vô phân biệt chẳng rời phân biệt, không có kế đạt chẳng rời kế đạt, không có quá khứ đã làm, không có vị lai lãnh nạp, không có hiện tại hí luận.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề chẳng phải thân thể được vì là không có làm ra vậy. Chẳng phải là thân thể được đó có nghĩa là
chính nhãn thức không chỗ tỏ biết, nhĩ thức không chỗ tỏ biết, tỷ thức không chỗ tỏ biết, thiệt thức không chỗ tỏ biết, thân thức không chỗ tỏ biết, ý thức không chỗ tỏ biết , do vì chẳng chỗ tỏ biết của tâm ý thức nên là vô vi vậy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đây gọi là vô vi tức là vô sanh vô trụ vô diệt tam luân thanh tịnh. Như vô vi đó, với các pháp hữu vi phải biết như vậy. Tại sao, vì tất cả pháp đều không có tự tánh. Vì pháp
không có tự tánh nên tất cả không hai không có sai khác.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề là câu vô sai biệt. Sao gọi là vô sai biệt, còn sao gọi là câu ? không có
suy tưởng là vô sai biệt, còn chơn như là câu. Vô trụ là vô sai biệt, còn pháp giới là câu. Không có
các chủng tánh là vô sai biệt, còn thiệt tế là câu. Không có sở duyên là vô sai biệt, còn vô động chuyển là câu. Rỗng không là vô sai biệt, còn vô tướng là câu. Không tầm từ giác quán là vô
sai biệt, còn vô tưởng là câu. Không cầu nguyện là vô sai biệt, còn không chúng
sanh là câu. Chúng sanh không có tự tánh là vô sai biệt, còn hư không là câu. Vô sở đắc là vô sai biệt, còn vô sanh là
câu. Vô diệt là vô sai biệt, còn vô vi là câu. Vô sở hành là vô sai biệt, còn Bồ đề là câu. Tịch chỉ là vô sai biệt, còn Niết bàn là câu. Vô sở thủ là vô sai biệt, còn vô sanh là câu.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề ấy chẳng phải thân thể chứng được, sao vậy, vì thân thể dầu có sanh mà không có suy tư không có chuyển động như cỏ cây như ngói sạn, còn tâm ý thì như ảo huyễn, nó rỗng không hư giả không có tạo tác.
Nầy Diệu Cát Tường ! Nếu ở nơi thân tâm mà giác ngộ đúng thật thì tức là Bồ đề. Bao nhiêu sở lành của thế tục đều chẳng phải là thắng nghĩa đế, tại sao, vì trong thắng nghĩa đế không có thân
không có tâm, không có pháp không có phi pháp, không có thiệt không chẳng thiệt, không chơn không vọng, không có ngữ ngôn không có chẳng ngữ ngôn, tất cả pháp là Bồ đề vậy.Tại sao, vì Bồ đề không có nơi không có chỗ, chẳng phải là chỗ tuyên bày biểu thị của ngữ ngôn. Như hư không vì không có
nơi chỗ nên cũng không có
tạo tác vô sanh vô diệt chẳng phải chỗ thuyên biểu của ngữ ngôn.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai vì Bồ đề không có xứ sở không có tạo tác vô sanh vô dìệt không có thuyên biểu nên lúc đúng thiệt đúng lý quan sát kỹ, tất cả các pháp kia đều không có ngôn thuyết, Bồ đề cũng không có ngôn thuyết như vậy. Tại sao, vì ngữ ngôn không có thiệt , vi ngữ ngôn không có sanh
diệt vậy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề không sở thủ không có chứa cất. Sao gọi là vô sở thủ và sao gọi là không có chứa cất ? Vì tỏ biết nhãn nên gọi là vô sở thủ, vì sắc vô sở đắc nên gọi là không có chứa cất.vì tỏ biết nhĩ nên gọi là vô sở thủ, vì thanh vô sở đắc nên gọi là không có chứa cất. Vì tỏ biết tỷ nên gọi là vô sở thủ, vì hương vô sở đắc nên gọi là không có chứa cất. Vì tỏ biết thiệt nên gọi là vô sở thủ, vì vị vô sở đắc nên gọi là không có chứa cất. Vì tỏ biết thân nên gọi là vô sở thủ, vì xúc vô sở đắc nên gọi là không có chứa cất. Vì tỏ biết ý nên gọi là vô sở thủ, vì pháp vô sở đắc nên gọi là không có chứa cất. Vì vô sở thủ không có chứa cất mà đức Như Lai hiện chứng Bồ đề rồi thì nhãn vô sở thủ sắc vô sở đắc nhãn thức vô trụ ; nhĩ vô sở thủ, thanh vô sở đắc nhĩ thức vô trụ ; tỷ vô sở thủ hương vô sở đắc tỷ thức vô trụ ; thiệt vô sở thủ vị vô sở đắc thiệt thức vô trụ ; thân vô sở thủ xúc vô sở đắc thân thức vô trụ ; ý vô sở thủ pháp vô sở đắc ý thức vô trụ.Vì thức vô trụ nên mới gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Phải biết rằng chúng sanh có bốn thứ pháp mà trụ nơi tâm. Những gì là bốn thứ ? Đó là sắc uẩn thọ uẩn tưởng uẩn và hành uẩn, là bốn thứ pháp mà chúng sanh
trụ tâm nó ở đó. Do vì chúng sanh ở trong bốn pháp ấy tâm chúng nó có an trụ nên đức Như Lai mới phán nói bất sanh bất diệt không có chỗ để tỏ biết kiến lập Bồ đề gọi đó là rỗng không. Vì Bồ đề rỗng không nên tất cả pháp rỗng không đức Như Lai cũng rỗng không. Do vì rỗng không mà hiện thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nầy Diệu Cát Tường ! Chẳng phải vì rỗng không mà chứng nhập Bồ đề cũng rỗng không, phải biết rằng trong pháp có một lý trí, đó là
tánh không, vì Bồ đề chẳng không nên Bồ đề không có hai, thế nên Bồ đề và rỗng không đều không có chủng loại sai khác, vì tất cả pháp kia vốn là không có hai vậy, nó không có trạng mạo, không có chủng loại, không có danh hiệu, không có tướng dạng rời lìa tâm ý thức, không có sanh
không có diệt, không có hiện hành không có chẳng hiện hành, cũng không có tích tập không có văn tự, không có quên mất. Do vì những cớ ấy mà nói các pháp rỗng không vô sở thủ. Những lời được nói trong đây chẳng phải là thắng nghĩa đế. Nghĩa là trong thắng nghĩa đế không có pháp gì
có được nên gọi là không.
Nầy Diệu Cát Tường ! ví như hư không, đây nói hư không là vì không có ngôn thuyết nên gọi là hư không.
Nầy Diệu Cát Tường ! không đây cũng
vậy, nói không là vì không có ngôn thuyết nên gọi là không. Nếu ngộ nhập như vậy thì tất cả pháp không có danh hiệu, vì không có danh hiệu nên tất cả pháp kia đều là giả danh thi thiết cả.
Nầy Diệu Cát Tường ! Danh hiệu ấy chẳng tại phương sở chẳng rời phương sở. Vì danh hiệu chẳng tại phương sở chẳng rời phương sở nên nơi pháp danh tự mới có chỗ diễn nói. Pháp được nói đó cũng chẳng tại phương chẳng rời phương, tất cả pháp kia cũng đều chẳng tại phương chẳng rời phương như vậy.
Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác tỏ biết tất cả pháp bổn lai như vậy, là bất sanh bất diệt không có khởi không có tướng rời tâm ý thức không có văn tự không có âm thanh,
như chỗ tỏ ngộ rõ biết cũng không có giải thoát. Nầy Diệu Cát Tường ! Phải biết tất cả pháp bổn lai không có hệ phược không có giải thoát
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề đồng như hư không. Nghĩa là hư không không có cao không có thấp do vì bình đẳng không cao hạ mà đức Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, dầu là thành Đẳng Chánh Giác nhưng cũng không có một chút pháp hoặc cao hoặc thấp có sự thi vi tạo tác. Các pháp như vậy, bình đẳng không sai biệt, nếu biết đúng như vậy đó là thiệt trí.
Nầy Diệu Cát Tường ! Do nghĩa gì mà
gọi là thiệt trí ? Đó là tất cả pháp rõ ràng không căn bổn không có sanh không có diệt, nó không có thiệt tánh thể cũng là vô sở đắc. Nếu là có thiệt tánh thể thì là pháp đoạn diệt. Các pháp dầu có sanh khởi mà vẫn là không có chủ tế lại không có nhiếp thọ.
Nầy Diệu Cát Tường ! Nếu là không có chủ tế không có nhiếp thọ thì là pháp đoạn diệt. Các pháp ấy, hoặc là sanh hoặc là diệt phải biết đó chỉ là nhơn duyên hòa hiệp hay ly tán mà chuyển khởi thôi, cũng vẫn ở trong đây không có chút pháp thiệt chuyển khởi, dầu vậy, như đức Phật Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chẳng ở nơi các pháp mà nói tướng đoạn diệt.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề ấy là câu nói đúng
thật. Do nghĩa gì mà gọi là câu nói đúng thật ? Câu nói đúng thật là Bồ đề. Như Bồ đề ấy, sắc uẩn thọ uẩn tưởng uẩn hành uẩn và thức uẩn cũng như vậy, mà vẫn chẳng rời chơn như. Như Bồ đề ấy, sáu căn nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý, sáu trần sắc thanh hương vị xúc và pháp, sáu
thức nhãn nhĩ tỳ thiệt thân và ý thức cũng đều như vậy, mà cũng vẫn chẳng rời chơn như. Như Bồ đề ấy, bốn đại chủng địa thủy hỏa và phong cũng như vậy, mà chẳng rời chơn như. Các pháp ấy thi thiết như vậy, chúng nó thi thiết như thế ấy gọi là uẩn xứ và giới. Do đây mà đức Như Lai thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
Chánh Đẳng Chánh Giác được thành rời lìa các pháp điên
đảo. Pháp trước như vậy pháp sau như vậy pháp giữa cũng như vậy, tiền tế chẳng sanh hậu tế chẳng diệt trung tế tánh ly. Các pháp như vậy thì gọi đó là câu nói
đúng thiệt. Như một pháp ấy nhiều pháp cũng vậy, như nhiều pháp một pháp cũng vậy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Các pháp hoặc một tánh hoặc nhiều tánh đều vô sở đắc, hoặc có tướng hoặc không có tướng đều vô nhập vô trụ.
Sao gọi là tưóng, sao gọi là không tướng ? Nói là tướng đó là sanh khởi tất cả pháp lành, còn nói
không có tướng là vì tất cả pháp đều vô sở đắc. Lại nói tướng là phần vị vô sở trụ của tâm, còn nói không có tướng đó là vô tướng tam muội giải thoát pháp môn. Lại nói tướng đó chính là tất cả pháp tư duy cân lường toán số thẩm sát, còn không có
tướng là vì quá ngoài
cân lường. Sao gọi là quá ngoài cân
lường ? Là vì vô phân
biệt vậy. Lại nói tướng đó là có thi vi
tạo tác có thẩm sát, còn không có tướng là vô vi vô thẩm sát.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề là vô lậu là vô thủ. Sao gọi là vô lậu, sao gọi là vô thủ ? Vô lậu là rời lìa bốn pháp hữu lậu, đó là dục lậu, là hữu lậu, là vô minh lậu và kiến lậu. Còn vô thủ là rời lìa bốn pháp thủ trước, đó là dục thủ, là kiến thủ, là giới cấm thủ và ngã ngữ thủ. Bốn thứ thủ nầy đều do vô minh tối che yêu thích tư nhuận mà dính lấy lẫn nhau.
Nầy Diệu Cát Tường ! Hoặc nếu có người sơ khởi ở nơi căn bổn của ngã ngữ thủ mà tỏ biết thì là không còn thấy có ngã là thanh tịnh. Ngã đã thanh tịnh rồi thì theo đó mà biếr rõ chúng sanh thanh tịnh, nghĩa là không thấy có chúng sanh. Do vì ngã đã thanh tịnh nên tất cả chúng sanh kia
thanh tịnh. Nếu tất cả chúng sanh thanh tịnh thì pháp không có hai, không có hai chủng loại. Nghĩa không có
hai đó chính là vô sanh vô diệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Nếu vô sanh vô diệt thì không có tâm
ý thức chuyển khởi. Nếu không có tâm ý thức chuyển khởi thì là vô phân biệt. Nếu vô phân biệt thì tương ưng kiên cố tác ý mà vô minh không thể phát khởi. Nếu vô minh ấy không có thể phát khởi thì cả mười hai chi nhơn duyên cũng chẳng sanh trưởng.
Nếu mười hai chi nầy không sanh trưởng thì tức là vô sanh. Nếu pháp vô sanh tức là pháp quyết định. Nếu pháp đã quyết định thì tức là nghĩa điều phục. Nếu là nghĩa điều phục thì là thắng nghĩa. Nếu là thắng nghĩa thì là nghĩa rời lìa bổ đặc già la. Nếu là nghĩa rời lìa bổ đặc già la thì là nghĩa bất khả thuyết. Nếu là nghĩa bất khả thuyết thì là nghĩa duyên sanh. Nếu là nghĩa duyên sanh thì tức là nghĩa pháp. Nếu là nghĩa pháp tức là nghĩa Như Lai. Như Lời đã nói, nếu thấy duyên sanh thì có thể thấy pháp. Nếu thấy được pháp thì thấy Như Lai. Bao nhiêu chỗ được thấy như trên nếu lúc thẩm sát đúng lý thì
trong ấy cũng không có chút pháp gì có thể thấy được.
Nầy Diệu Cát Tường ! Gì gọi là chút pháp ? Đó
là chỗ duyên lấy của tâm. Nếu không có tâm sở duyên thì không có sở kiến. Do pháp như vậy mà thành Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác, vì bình đẳng nên bình đẳng.
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Bồ đề ấy là nghĩa thanh tịnh là nghĩa vô cấu là nghĩa vô trước.
Sao gọi là thanh tịnh ? Vì không giải thoát môn vậy. Sao gọi là vô cấu ? Vì vô tướng giải thoát môn vậy. Sao gọi là vô trước ? Vì vô nguyện giải thoát môn vậy. Lại còn có những nghĩa, vô sanh là thanh tịnh, vô tác là vô cấu, vô khởi là vô trước, tự tánh là thanh tịnh, viên tịch là vô cấu, minh lượng là vô trước, vô hí luận là thanh tịnh, ly hí luận là vô cấu, hí luận là tịch chỉ là vô trước, chơn như là thanh tịnh, pháp giới là vô cấu, thiệt tế là vô trước, hư không là thanh tịnh, liêu quách là vô cấu, quảng đại là vô trước, biết rõ nội pháp là thanh tịnh, không duyên
theo ngoài là vô cấu, trong ngoài đều vô sở đắc là vô trước, biết rõ pháp ngũ uẩn là thanh tịnh, tự tánh thập bát giới là vô cấu, rời lìa thập nhị xứ là vô trước, trí biết quá khứ hết là thanh tịnh, trí biết vị lai vô sanh là vô cấu, trí biết pháp giới hiện tại vô trụ là vô trước.
Nầy Diệu Cát Tường ! Bao nhiêu
nghĩa thanh tịnh vô cấu và vô trước như vậy ở trong một câu đều khắp có thể nhiếp vào cả, đó là câu tịch tĩnh. Nếu là tịch tĩnh thì là khắp tịch tĩnh, nếu là khắp tịch thì là cận tịch, nếu cận tịch thì là tịch chỉ, nếu là tịch chỉ thì đây gọi là pháp Đại Mâu Ni vậy.
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Như hư không kia, Bồ đề cũng vậy, như Bồ đề kia các pháp cũng như vậy, như các pháp kia chúng sanh cũng vậy, như chúng sanh kia quốc độ cũng vậy, như quốc độ kia Niết bàn cũng vậy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Lời được nói đây là Niết bàn bình đẳng, vì tất cả pháp biên tế rốt ráo vẫn là thanh tịnh, là nhơn thanh tịnh, không có đối trị, rời lìa nhơn đối trị, bổn lai thanh tịnh, bổn lai vô cấu, bổn lai vô trước. Đức Như Lai biết rõ các pháp ấy tánh tướng như vậy nên hiện thành bực Chánh Đẳng Chánh Giác, sau đó Như Lai mới quan sát các
chúng sanh giới mà kiến lập pháp môn du hí thanh tịnh vô cấu vô trước, rồi dùng tâm đại từ bi đem danh tự ấy chuyển dạy cho các chúng
sanh.
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Thế nào là Bồ Tát thực hành công hạnh thù thắng của Bồ Tát, đó là Bồ Tát vô tận vô bất tận vô sanh vô bất sanh, nơi tướng rốt ráo tận không lãnh thọ, như cũng chẳng hư hoại rốt ráo vô sanh. Nầy Diệu Cát Tường ! Bồ Tát thật hành như vậy là thật hành công hạnh thù thắng của Bồ Tát vậy.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ Tát với quá khứ tâm không hiện hành vì quá khứ đã hết, với vị lai tâm không hiện hành vì vị lai chưa đến, với hiện tại tâm không hiện hành vì hiện tại không dừng. Với quá khứ vị lai và hiện tại tâm Bồ Tát đều không có trụ trước. Thật hành như đây là công hạnh thù thắng của Bồ Tát vậy.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Về pháp bố thí, chư Phật và chư Bồ Tát không khác
không có hai thứ. Nếu thật hành như đây là công hạnh thù thắng của Bồ Tát vậy.
Với trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ cũng vậy, chư Phật cùng chư Bồ Tát không khác không có hai thứ. Nếu thật hành như đây là công hạnh thù thắng của Bồ Tát vậy.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Bồ Tát chẳng duyên sắc không chẳng duyên sắc bất không, đây là
công hạnh thù thắng của Bồ Tát vậy. Tại sao, vì sắc tức là không sắc tự tánh vốn không. Như sắc thọ tưởng hành và thức cũng vậy, Bồ Tát chẳng duyên thức không chẳng duyên thức bất không, đây là công hạnh thù thắng của Bồ Tát vậy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Trong đây
không có chút pháp gì là có thể biết được, có thể dứt được, có thể tu được, có thể chứng được, tất cả đều là vô sở hữu. Vì như vậy nên nói là diệt tận, đây mới là tướng rốt ráo tận diệt, nếu là rốt ráo tận diệt thì là không có tận diệt. Không có tận cũng không có diệt. Tại sao, vì như đã nói tận diệt nên không có pháp
gì là có thể tận diệt cả. Nếu không có pháp có thể tận thì tức là vô vi, nếu là vô vi thì là vô sanh cũng là vô diệt. Hoặc có Phật xuất thế hay không có Phật xuất thế , pháp tánh vẫn là thường trụ. Vì pháp thường trụ nên là pháp giới. Vì pháp giới thường trụ nên trí không chuyển khởi chẳng phải không chuyển khởi. Vì trí không chuyển khởi chẳng phải không chuyển khởi nên người ngộ nhập pháp lý như vậy thì được vô lậu vô sanh vô diệt, đây gọi là bực lậu tận.
Nầy Diệu Cát Tường ! Vì thế nên biết rằng dầu âm thanh văn tự trong đời họp nhóm đặt để ra, nhưng trong ấy vẫn không có chút pháp gì là sanh là diệt cả ».
Bấy giờ Diệu Cát Tường đại Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ gối chắp tay hướng lên đức Phật nói kệ ca ngợi rằng :
Không hình sắc cũng không trạng mạo
Trong đây không diệt cũng không sanh
Không trụ cũng không có căn bổn
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Do vô trụ nên không xuất nhập
Cũng lại không có những phần vị
Đã có thể giải thoát sáu trần
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Trong tất cả pháp không sở trụ
Có tánh không tánh đều xa rời
Các hành bình đẳng được viên thành
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đã hay ra khỏi tam giới khổ
An trụ hư không tánh bình đẳng
Dục lạc thế gian chẳng nhiễm tâm
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Thường an trụ trong đại chánh định
Đi đứng ngồi nằm đều như vậy
Những sự oai nghi đều nghiêm túc
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đến bình đẳng đi cũng bình đẳng
Khéo an trụ trong tánh bình đẳng
Chẳng hư pháp môn tánh bình
đẳng
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh khéo nhập tánh bình đẳng
Các pháp an trụ tâm đẳng dẫn
Khéo nhập pháp môn vô tướng diệu
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh vô trụ vô sở duyên
Trong đại định chứa cao trí huệ
Khắp hết các pháp được viên thành
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Oai nghi các tướng của chúng sanh
Ngôn ngữ âm thanh cũng như vậy
Khoảng sát na khắp đều thị hiện
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh đã rời các danh sắc
Uẩn xứ giới pháp cũng đều dứt
Lại còn khéo nhập môn vô tướng
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh khéo rời các chấp tướng
Cảnh giới các tướng cũng xa rời
Đã khéo chứng nhập vô tướng môn
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Không có tư duy không phân biệt
Tịnh ý cũng lại vô sở trụ
Không có tác ý không niệm sanh
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Như hư không kia không chứa cất
Đã lìa hí luận không trụ trước
Tâm Phật bình đẳng như hư không
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Như hư không không bên không giữa
Chư Phật pháp tánh cũng như vậy
Đã hay siêu việt môn tam thế
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Chư Phật vô tướng như hư không
Không tướng đây cũng không
có tướng
Đã hay giải thoát quả và nhơn
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Trong tất cả pháp không y chỉ
Như trăng trong nước không thể lấy
Không tướng ngã cũng không
âm thanh
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh không y chỉ ngũ uẩn
Cũng không y chỉ xứ và giới
Đã hay giải thoát tâm điên đảo
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh đã lìa cả hai bên
Cũng đã dứt trừ hết ngã kiến
Pháp giới bình đẳng được viên thành
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Sắc tướng danh số đã giải thoát
Pháp bất chánh cũng đã xa lìa
Vô thủ vô xả tâm bình đẳng
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đã hay siêu việt các pháp ma
Trong tất cả pháp đều thông đạt
Pháp môn vô ngại đã chứng nhập
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Chánh trí chẳng nói có các pháp
Cũng lại chẳng nói không các pháp
Không đường ngữ ngôn không phát khởi
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Phật chẳng y chỉ nơi hai pháp
Đã xô dẹp hết tràng ngã mạn
Pháp môn vô nhị cũng giải thoát
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Bao nhiêu lỗi lầm thân ngữ ý
Từ lâu Đại Thánh đã dứt trừ
Không thí dụ được không suy được
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh không chuyển không phát ngộ
Tất cả lỗi lầm đều xa lìa
Chỗ làm khắp nơi trí dẫn trước
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Tịnh niệm vô lậu rất vi diệu
Pháp thiệt chẳng thiệt đều biết rõ
Cũng không trụ trước không tư duy
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh nơi tâm vô sở duyên
Mà hay biết rõ tất cả tâm
Cũng không sanh tưởng niệm tự tha
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Trong vô sở duyên có sở duyên
Nơi tất cả tâm không mê chấp
Pháp không chướng ngại đã viên minh
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh nơi tâm vô sở duyên
Tự tánh cũng tại vô sở hữu
Vô tâm bình đẳng được viên thành
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại thánh chẳng y nơi trí pháp
Mà hay xem các quốc độ
Xem khắp việc làm của chúng sanh
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh nơi tâm vô sở đắc
Trong đây rốt ráo cũng đều không
Là Chánh Biến Tri tất cả pháp
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Biết tất cả pháp đều như huyễn
Huyễn ảo nầy cũng vô sở hữu
Đã hay giải thoát huyễn pháp môn
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh xuất hiện tại thế gian
Mà vẫn không dựa nơi thế pháp
Cũng không phân biệt pháp thế gian
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh thường đi trong pháp
không
Do pháp không thành cảnh giới không
Không cùng phi không Phật thường tuyên
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Hiện tại thần thông biến hóa sự
Đều do như huyễn tam ma địa
Khắp vào pháp môn lìa chủng tánh
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Biết rõ chẳng một chẳng nhiều tánh
Hoặc gần hoặc xa đều chẳng chuyển
Tâm bình đẳng không thấp không cao
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Kim cương đại định đã hiện ra
Trong khoảng sát na thành Chánh Giác
Khắp nhập pháp môn vô đối ngại
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Dầu rõ Niết bàn không động lay
Cũng khéo điều phục cả tam thế
Đầy đủ tất cả môn phương tiện
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Nơi tất cả loài chúng sanh
kia
Khéo hiểu trí huệ và phương tiện
Nhưng vẫn chẳng động môn Niết bàn
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đại Thánh không tướng không phát ngộ
Đã rời hí luận không đối ngại
Vì vô ngã nên không ngại đối
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Đã rời nghi lầm không còn lỗi
Không ngã cũng lại không ngã sở
Là Chánh Biến Tri tất cả chỗ
Nay kính lạy đấng vô sở duyên
Cúi lạy Thập Lực dứt phiền não
Cúi lạy quảng đại ban vô úy
Khéo trụ trong pháp bất cộng
Cúi đấng tôn thắng thế gian
Cúi lạy đấng dứt các kiết phược
Cúi lạy đấng đã ở bờ kia
Cúi lạy đấng cứu khổ thế gian
Cúi lạy đấng chẳng còn sanh tử
Thông đạt tất cả chuyện chúng sanh
Tất cả mọi nơi lìa ý niệm
Như sen chẳng dính chẳng thấm nước
Trong sạch vắng bặt thường gần gũi
Phật tuyên những câu tối vô thượng
Cúi lạy đấng qua khỏi biển mê
Khéo xem khắp thấy môn vô tướng
Nơi các nguyện cầu vô sở hữu
Phật đại oai lực bất tư nghị
Dường hư không kia không dính mắc
Cúi lạy đấng rộng gìn thắng đức
Cúi lạy đấng cao như Tu Di.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn khen Diệu Cát Tường đại Bồ Tát rằng : “ Lành thay,
lành thay ! Nầy Diệu Cát Tường ! Đúng như vậy dúng như vậy, chớ có đối với chư Phật, mà khởi kiến chấp sắc tướng, cũng chớ có đối với chư Phật mà cho là không có tướng, chớ có cho rằng chư Phật riêng mình ở pháp giới, cũng chớ có cho rằng Phật ở trong đại chúng, phải biết chư Phật không có thấy không có nghe,
không có được cúng dường cũng không có người cúng dường, chư Phật Như Lai không có chút pháp gì là một tánh hoặc là nhiều tánh mà có thể thi vi tạo tác được, cũng chớ có cho rằng Phật được quả Bồ đề, cũng chớ cho rằng Phật có pháp hay thị hiện, phải biết chư Phật không thấy không nghe , không nhớ không biết, Phật cũng không có lời đã nói pháp sẽ nói pháp đang nói pháp, cũng chẳng phải chư Phật hiện thành Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng
không có pháp gì là có thể thành Chánh Giác được, cũng chẳng phải chư Phật, dứt nhiễm chứng tịnh, giả sử Phật có làm cũng vẫn là rời lìa thấy nghe hay biết, tại sao, nầy Diệu Cát Tường ! Phải biết rằng vì tất cả bổn lai thanh tịnh vậy.
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Các ông phải biết rằng kinh nầy công đức chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có Bồ Tát làm cho tất cả chúng sanh bằng số vi trần trong Đại Thiên thế giới đều chứng được quả Duyên Giác nhưng đối với chánh pháp nầy chẳng có lòng tin hiểu, nếu lại có Bồ Tát tin hiểu chánh pháp nầy thì phước đức rộng nhiều hơn Bồ Tát kia vô lượng, huống là tự mình chép biên hoặc bảo người chép biên thì được phước đức càng hơn gấp bội.
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Nếu có Bồ Tát làm cho tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới, những loài noãn sanh,
loài thai sanh, loài thấp sanh, loài hóa sanh, hoặc loài có sắc thân, loài không có sắc thân, hoặc loài có tưởng, loài không có tưởng, loài phi tưởng phi phi tưởng, loài hai chưn bốn chưn không chưn nhiều chưn, tất cả loài chúng ấy đều làm cho họ đều được thân người toàn vẹn, rồi làm cho tất cả đều phát tâm đại Bồ đề, họ phát tâm đại Bồ đề rồi mỗi mỗi vị tân phát Bồ Tát nầy đem món ăn uống y phục giường mền ghế nệm thuốc men đồ dùng thượng diệu cúng dường cung cấp cho chư Phật Bồ Tát cùng chúng Thanh Văn trong bất khả tư nghị hằng hà sa số quốc độ trải qua hằng hà sa số kiếp, sau khi chư Phật ấy nhập Niết bàn lại xây dựng tháp bảy báu rộng một do tuần cao trăm do tuần, giăng treo phan lọng châu báu anh lạc lưới báu chơn châu na ni mọi thứ trang nghiêm, nếu lại có người thâm tâm thanh tịnh đối với chánh pháp nhập Phật cảnh giới trí quang minh
trang nghiêm nầy nghe rồi tin hiểu hoặc được ngộ nhập dùng tâm thanh tịnh vì người diễn nói một ít hoặc chỉ một kệ bốn câu, người nầy được phước vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn sánh với phước bố thí cúng dường của Bồ Tát kia thì hơn cả trăm lần ngàn lần trăm ngàn lần ngàn câu chi lần trăm ngàn câu chi
lần, cho đến toán số thí dụ ưu ba ni sa đà lần cũng chẳng thể sánh được.
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Nếu có Bồ Tát khắp làm cho tất cả chúng sanh đều trụ bực bất thối chuyển, lại có Bồ Tát phát tâm thanh
tịnh ở nơi chánh pháp nầy tin hiểu rồi tự mình biên chép hoặc bảo người biên chép, hoặc vì người mà tuyên nói rộng rãi hay lược ít, cho đến làm cho một chúng sanh được nghe tin hiểu ngộ nhập chánh pháp tối thượng thậm thâm nầy thì được phước đức vô lượng vô số chẳng thể xưng kể nghĩ bàn được”.
Bấy giờ đức Thế Tôn khắp vì đại chúng mà nói kệ rằng :
Nếu có chư Bồ Tát
Cùng mươi câu chi Phật
Thọ trì chánh pháp môn
Tội hết thời gían tế
Còn với kinh thậm thâm
Yêu thích mà nghe nhận
Phước nầy rộng vô biên
Được quả báo tối thắng
Nếu có chư Bồ Tát
Thần lực qua mười phưong
Mười câu chi Phật độ
Thân cận để cúng dường
Lạy khắp đấng Thế Tôn
Các bực Vô Thượng Sĩ
Thương xót các chúng
sanh
Cung cấp nhiều lợi lạc
Nay kinh thậm thâm nầy
Chư Phật đồng tuyên thuyết
Nếu hay vì người khác
Giây lát giảng giải cho
Liền ở trong Phật giáo
Phát lòng tin thanh tịnh
Người nầy được quả phước
Rộng lớn còn hơn kia
Chư Phật lòng đại bi
Tuyên dạy chánh pháp nầy
Như vừng sáng lớn rộng
Soi khắp cõi Nhơn Thiên
Người có huệ mãnh lợi
Và đủ nguyện lực lớn
Hay phát lòng tin hiểu
Mau được thành quả Phật
Lời Phật dạy như đây
Nếu có người được nghe
Nghe rồi truyền dạy người
Xoay vần dạy bảo nhau
Như vi mười phương Phật
Các đấng Thiên Nhơn Sư
Nhập đại Vô dư y
Niết bàn thanh tịnh rồi
Xây dựng tháp bảy báu
Rộng cao và đẹp lạ
Trang nghiêm nhiều châu ngọc
Cao khỏi Trời Hữu Đảnh
Dựng phan lọng thù thắng
Linh báu vang tiếng hay
Suốt đến trời cứu cánh
Nghiêm tốt lại lớn rộng
Nếu lại có Bồ Tát
Yêu thích kinh điển nầy
Đúng như trong chánh pháp
Nghe rồi phát lòng tin
Ở chỗ thanh tịnh kia
Bố trí chánh pháp nầy
Được phước đức rộng lớn
Hơn phước cúng dường trên
Nếu có chư Bồ Tát
Thọ trì chánh pháp nầy
Rộng lưu thông cho người
Trừ sạch lòng tiếc pháp
Người nầy được công đức
Vô lượng và thù thắng
Phát tâm cầu Bồ đề
Tùy nguyện thanh tịnh được
Kinh điển thậm thâm nầy
Là pháp của Phật dạy
Các chúng đại Bồ Tát
Nhiều thọ trì tuyên nói
Mười phương tất cả Phật
Khắp cả cõi hư không
Hiện khắp thân Như Lai
Khiến tất cả chiêm ngưỡng
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Diệu Cát Tường đại Bồ Tát và vô số bất tư nghị bất khả thuyết chúng Bồ Tát cùng chư đại Thanh Văn, tất cả thế gian, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà v.v…nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment