Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 90
PHÁP HỘI ƯU ĐÀ DIÊN VƯƠNG
THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Câu Viêm Di tại vườn Cù Sư La cùng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.
Bấy giờ đệ nhất phu nhơn của vua Ưu Đà Diên tên Xá Ma đối với đức Như Lai và hàng Thánh chúng thân tín cung kính thân
cận cúng dường và thường ca ngợi công đức của Như Lai.
Đệ nhị phu nhơn tên Đế Nữ có lòng ganh siễm đến vua nói dối là đức Như Lai và hàng đệ tử có chỗ phi pháp đối với đại phu nhơn.
Nhà vua giận lắm lấy cung tên bắn phu nhơn Xá Ma. Vì thương xót vua, Phu nhơn Xá Ma nhập từ tam muội, mũi tên bắn ra liền quay trở lại dừng tại trên không ngay đỉnh đầu vua, mũi tên ấy cháy đỏ như khối lửa rất đáng sợ. Vua bắn ba phát tên cũng
đều như vậy
Vua Ưu Đà Diên thấy sự việc ấy toàn thân lông
tóc đều dựng lên kinh sợ hối hận nói với phu nhơn rằng: «Bà có phải là Thiên nữ hay Long nữ chăng? Hay bà là Dạ Xoa nữ, Càn Thát Bà nữ, Tì Xá Gía nữ, La Sát nữ chăng? ».
Phu nhơn Xá Na nói; «Tôi
chẳng phải Thiên nữ cũng chẳng phải La Sát nữ. Đại vương nên biết tôi nghe đức Phật thuyết pháp thọ trì ngũ giới làm Ưu Bà Di. Vì thương vua nên tôi nhập từ tam muội. Dầu vua đối với tôi sanh lòng bất thiện, nhưng do sức nguyện từ tâm nên tôi không bị thương tổn. Lành thay Đại Vương nên đối với đức Như Lai qui mạng đảnh lễ chắc sẽ được an vui ».
Vua nghĩ rằng phu nhơn nghe pháp làm Ưu Bà Di còn có sức oai thần dường ấy huống là đức Như Lai Đẳng Chánh Giác.
Vua Ưu Đà Diên liền đến chỗ Phật lễ chưn hữu nhiễu ba vòng trình bày sự việc trên rồi bạch rằng: Ngưỡng mong đức Như Lai và hàng Thánh chúng hoan hỉ cho tôi sám hối khiến tội lỗi ấy sớm siêu diệt ».
Đức Phật ấy nói: «Như lời vua tự thuật vì lầm cho Như Lai và hàng Thánh chúng như phàm nhơn ngu si có lỗi nên vua sanh lòng
giận oán. Nay vua nếu có thể y Phật pháp luật tự ăn năn tội lỗi chẳng có lòng che giấu cùng tận đời vị lai chẳng tái phạm thì ta sẽ nhiếp thọ cho vua tăng trưởng thiện pháp.
Vua bạch rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Vì tôi bị nữ nhơn mê hoặc cuồng loạn điên đảo không hiểu biết nên phát sanh giận dữ, tội nghiệp nầy sẽ đọa địa ngục. Ngưỡng mông đức Như Lai vì an lạc chúng sanh mà xót
thương khai thị lỗi họa siễm khúc hư dối của nữ nhơn, chớ để chúng tôi thân cận nữ nhơn hầu sẽ được mãi mãi thoát các
sự khổ lụy ».
Đức Phật nói: « Để sự ấy lại, sao vua cần hỏi sự ấy mà chẳng hỏi sự khác? ».
Vua bạch: »tôi không hỏi sự khác. Vì nữ nhơn khiến tôi tạo tội địa ngục, nay tôi chỉ muốn biết lỗi họa nữ nhơn siểm khúc hư cuống tà mỵ. Mông đức Thế Tôn khai thị cho ».
Vua Ưu Đà Diên ba lần thỉnh hỏi như vậy.
Đức Phật nói: « Đại Vương trước phải biết lỗi họa của trượng phu rồi sau sẽ quan sát lỗi họa của nữ nhơn ».
Vua bạch; «Vâng,bạch đức Thế Tôn! Xin thích muốn được nghe.
Đức Phật nói: «Tất cả trượng phu đều do bốn thứ lỗi lầm bất thiện nên bị nữ nhơn làm mê loạn.
Một là ở nơi dục nhiễm đam trước không chán ưa thích nữ nhơn mà túng dật, chẳng biết gần gũi Sa Môn và Bà La Môn đủ tịnh giới tu phước nghiệp. Vì chẳng thân cận những bực như vậy nên những tịch tín, thi la, đa văn bố thí, trí huệ đều thối thất. Do vì không có tín giới văn thí huệ nên người ấy chẳng phải thiện trượng phu làm nghiệp đạo ác, không có trí huệ say mê dục lạc, bị dục bắt, bị dục trói, lấy dục làm mạng sống, gần kẻ ngu xa người trí, làm bạn với kẻ ác tạo tội lỗi, tham ưa cảnh bất tịnh của nữ nhơn bèn bị nữ nhơn chế phục như tôi đòi, hệ thuộc sa ngã ở chỗ nữ nhơn, không biết hổ thẹn, gần kề đến ở cửa ghẻ máu mủ hôi tanh mũi dãi thường chảy như cảnh bất tịnh ở bãi tha ma. Đến đỗi trái bỏ cha mẹ chẳng biết ơn dưỡng. Bỏ lìa Sa Môn Bà La Môn, chẳng có lòng tôn trọng cung kính cúng dường. Với Phật pháp và Tăng chẳng tín kính sẽ mất hẳn Niết bàn giới. Hạng trượng phu nầy sẽ đọa vào địa ngục Chúng Hiệp và địa ngục A Tì, cũng sẽ phải đọa ngạ quỉ súc sanh không ai cứu được. Dầu nghe lời dạy của Phật, nhưng vẫn mãi nhớ tưởng nữ nhơn ca vũ đùa cười chẳng biết chán lìa. Người nầy quen thói ngu ác chẳng thích tu hành sự việc của thiện trượng phu. Đại Vương nên biết lúc trượng phu thân cận nữ nhơn chính là lúc thân cận nghiệp ác đạo. Đây là lỗi họa thứ nhứt của trượng phu vậy ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
« Cảnh dục đều khổ
Hạ liệt dơ xấu
Máu mủ tanh hôi
Rất đáng chán sợ
Là chỗ chứa họp
Nhiều thứ lỗi họa
Nào có người trí
Ưua thích cảnh nầy
Như trong hầm tiêu
Dơ uế đầy tràn
Cũng như chó sình
Như dã can chết
Như rừng thây ma
Dầy những uế dơ
Dục nhiễm dơ uế
Đáng chán cũng vậy
Những người ngu si
Ái luyến nữ nhơn
Như chó sanh con
Chưa từng bỏ lìa
Cũng như ruồi thấy
Đồ ăn ói mửa
Lại như bầy heo
Ham chỗ dơ dáy
Nữ nhơn hay phá
Giới cấm thanh tịnh
Cũng lại làm hư
Công đức danh văn
Làm nhơn địa ngục
Chướng sanh cõi trời
Nào có người trí
Lại thích cảnh dục
Lại như có người
Uống ăn thuốc độc
Thân tâm đao khổ
Chẳng vận động được
Do dục nhơn nầy
Hay làm gốc khổ
Như thân có đọc
Ngu chẳng hay biết
Cũng như chẳng rõ
Pháp thuật ảo hóa
Vọng theo tìm cầu
Luống tự khổ nhọc
Người ngu cũng vậy
Đối với dục nhiễm
Thường khổ tham cầu
Phải đọa địa ngục
Hoặc thiết tiệc tùng
Ca vũ kỹ nhạc
Cưới con gái người
Về làm vợ mình
Chứa họp nhiều thứ
Khổ chẳng lợi ích
Người ngu gây tạo
Nghiệp khổ vô lợi
Thêm lớn các tội
Lui mất căn lành
Trong việc vô lợi
Chẳng tiết thân mạng
Do đây sa đọa
Hố sâu ác đạo
Chiêu vời địa ngục
Hoàn sắt cháy đỏ
Núi dao lưỡi nhọn
Tên độc các khổ
Nữ nhơn hay họp
Nhiều sự việc khổ
G iả mượn hoa hương
Để chưng diện đẹp
Người ngu ở đây
Vong lầm tham cầu
Gần kề ngợi khen
Cảnh sắc hạ liệt
Thối thất trí huệ
Sa đọa tam đồ
Đây do ngu si
Nên bị mê hoặc
Như chim biển mệt
Mê mất hướng bờ
Lại như người ngu
Lấy dây sắt nóng
Đeo vào cổ mình
Như trâu mang ách
Cảnh dục như rượu
Làm say cuồng người
Tại sao người ngu
Chẳng biết ngốc khổ
Hoặc với cha mẹ
Chẳng biết ơn thương
Điều do nhục nhiễm
Sanh họa lỗi nầy
Thường với tà dục
Các pháp như vậy
Ca ngợi tập làm
Chẳng biết hổ thẹn
Họ do ngu si
Nên bị mê loạn
Tạo tội ấy rồi
Sẽ đến tam đồ
Người tối cuồng say
Đam mê cảnh dục
Dầu ơn cha mẹ
Họ cũng bỏ được
Nếu người tham nhiễm
Gần kề cảnh dục
Thì là chống trái
Vô thượng phước điền
Vô lượng câu chi
Vọng tưởng phiền nhiễu
Xoay vần bức não
Từ đây mà sanh
Hoặc lại mong cầu
Danh lợi thế gian
Đem phi pháp ấy
Khuyên dụ lẫn nhau
Do đây hiện tại
Chiêu vời sự khổ
Chết chắc phải đọa
Địa ngục an tỳ
Hiện thấy những khổ
Đều họp trên thân
Bạn lành lìa xa
Cung trời mất hẳn
Nào có người trí
Ưu thích nơi đây
Thà vào địa ngục
Chạy trên núi đao
Nằm trên lò lửa
Chẳng gần nữ sắc
Nếu người thường nhiễm
Ham mê tà dục
Hư mất rất nhiều
Những sự lợi lạc
Người nữ hay làm
Nhơn các sự khổ
Tham dục hay hoại
Tất cả an lạc
Ác pháp chứa họp
Thiện hữu xa lìa
Đều do gốc nơi
Tham cầu người nữ
Nếu người được nghe
Lời Phật răng dạy
Đối với nữ nhơn
Hay sanh chán lìa
Thì là trang nghiêm
Báo trời thanh tịnh
Cũng sẽ mau chứng
Vô thượng Bố đề.
Lại nửa, nầy Đại Vương! Luận về cha mẹ đều muốn cho con mình được lợi lạc nên hay làm việc khó làm hay nhẫn sự khó nhẫn, dầu tất cả thứ bất tịnh dơ uế đều chịu được cả, lại muốn thân thể sắc lực của mình mau tăng trưởng nên khiến nó thấy những sự thắng diệu trong Diêm Phù bú
mớm nuôi nấng không có lòng mỏi nhàm, lại vì muốn cho con mình được vui sướng nên kinh doanh cầu tìm tài vật để cung cấp đầy đủ cho con và đến nhà người cầu hôn cưới con gái cho con. Hôn thú xong đứa con ái luyến vợ quên mất cha mẹ. Hoặc nó thấy cha mẹ lần suy già nên khinh khi trái nghịch lãng phí tài vật, hoặc dời cha mẹ cho ở chổ khác. Đây đều do tham dục làm mê hoặc đên đảo, nên với cha mẹ thì vất bỏ không kính thương nuôi dưỡng, với con gái nhà người thì trân trọng cung kính cung cấp không biết mỏi nhàm, đây là
thành tựu gốc địa ngục, cũng là lỗi họa thứ hai của trượng phu vậy ».
Đức Thế Tôn kệ rằng:
«Các ông nên biết
Đối với cha mẹ
Tôn trọng cúng duờng
Người nầy thường được
Thích Phạm Hộ Thế
Vệ hộ phò trì
Hay khiến ở nhà
An ổn khoái lạc
Hoặc nhơn buôn bán
Đi biển phương xa
Qua lại an ổn
Được những tài lợi
Chính đây gọi là
Đại bửu vô gía
Hay cho hiệu qủa
Tên tối thượng điền
Như vậy hiện đời
Qủa báo trân bửu
Đều do cúng dường
Cha mẹ mà được
Còn ở đời sau
Sẽ được xa rời
Thân hình lừa ngựa
Mang nặng sai khiến
Cũng chẳng sa đọa
Ngục phẩn sông tro
Núi dao mũi nhọn
Đồng sôi sắc đỏ
Lại ở đời kế
Sanh trong loài người
Giàu có của báu
Thóc lụa dư thừa
Vợ con quyến thuộc
Thảy đều hòa mục
Hoặc đến tương lai
Được sanh trên trời
Cung điện vườn tược
Âm nhạc tự nhiên
Tha hồ vui chơi
Hưởng thọ diệu lạc
Đâu có người trí
Nghe pháp âm nầy
Với ruộng cha mẹ
Chẳng siêng cúng dường.
Lại nầy Đại vương! Nếu là trượng phu do nơi tà kiến chẳng biết tự thân mau diệt hoại nên gây tạo nghiệp ác mà tự khi dối. Người ngu si nầy luống bỏ qua thời giờ, Như gổ đá chạm trổ làm thành, dầu hình giống người mà không hiểu biết quen làm tham dục, thế là thành tựu nghiệp nhơn ác đạo. Đây là lỗi thứ ba của trượng phu».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Trượng phu thì dục
Làm cho mê loạn
Nên thường gây tạo
Các thứ tội ác
Điên đão tối tăm
Che chướng tâm họ
Nhơn đó sẽ sanh
Ngục tù ác đạo
Những kẻ tà hạnh
Sẽ còn xa lìa
Tất cả thánh hiền
Cũng chẳng cung kính
Các hàng Sa Môn
Do điên đảo kiến
Nhẫn đến qui mạng
Núi sông tà mị
Do vì tham dục
Hoặc lại giết hại
Các loài cầm thú
Thờ tế thần kỳ
Nhơn vì đảo kiến
Phi pháp cầu phước
Do đây lìa hẳn
Tất cả an lạc
Nếu ở trong hàng
Người tạo ác nầy
Chẳng biết tịnh tín
Hung hiểm không thẹn
Những người như vậy
Lìa hẳng Hiền Thánh
Họ chắc sẻ đọa
Địa ngục kêu la
Hoặc vì tham dục
Bức khổ người khác
Sẽ đọa địa ngục
Đốt cháy tột đốt cháy
Lại vì đảo kiến
Với Phật pháp tăng
Chẳng thể thân cận
Cung kính cúng dường
Pháp bửu chánh giáo
Mà chẳng lắng nghe
Xa lìa thánh hiền
Sa đọa ác thú
Ví thế người trí
Đã được thân người
Chớ nên lầm lẫn
Điên đảo vọng kiến
Nên tu bố thí
Và giữ tịnh giới
Sẽ được sanh thiên
Chứng đạo Bồ đề
Lại nầy Đại Vuơng! Hoặc có trượng phu vì thân mạng mình mà quá lao nhọc chứa họp tài vật, rồi bị nữ nhơn ràng buộc phải cung phụng như tôi đòi nên lại càng tham cầu của báo chẳng bố thí cho Sa Môn và Bà La Môn, họ cũng cam chịu luật vua trị phạt. Thấy nữ nhơn buồn rầu họ liền tự nghĩ nay tôi phải làm sao cho nàng
vui vẻ? Những trượng phu nầy là tôi tớ của tham dục, với cảnh hạ liệt bất tịnh ấy lại tưởng là tịnh mà lại sanh lòng ái nhiễm. Lúc gần kề nữ nhơn như vậy chính là tạo thành nghiệp ác đạo. Đây là lỗi thứ tư của trượng phu vậy ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
«Người tham dục sai mê
Họ thiệt không an lạc
Vì gần kề ác pháp
Chẳng gọi thiện trượng phu
Nếu người tự phóng vật
Không biết gìn cấm giới
Tùy tâm ý mà làm
Hư mất những phước lợi
Người không trí huệ kia
Hành các pháp súc sanh
Chạy đuổi theo ngũ sắc
Như theo thích phẩn dơ
Người ngu chẳng biết xem
Lỗi họa của nhục nhiễm
Vọng tưởng là ân trọng
Như người mù lòa kia
Bị sắc dục trói buộc
Thêm lớn lòng ái dục
Dường như loài dã can
Chẳng rời khỏi tha ma
Nơi thanh hương vị xúc
Mà sanh lòng ái nhiễm
Luân chuyển trong sanh tử
Như con khỉ cột
Vì vô minh bao che
Bị nữ nhơn mê loạn
Như kẻ chợ cầu lợi
Dối phỉnh đến thân cận
Người ngu thân cận dục
Là vào cảnh giới ma
Dường như Ế Đồ Ca
Thèm ưa mùi phẩn dơ
Cũng như trận mưa đá
Hay tổn hại lúa mạ
Thợ gốm thường gần lửa
Phần nhiều bị phỏng nóng
Những người chưa kiến đế
Bị dục mất pháp lành
Như gió thổi cám nhuyễn
Nghiã ấy cũng như vậy
Giả như thiện trượng phu
Bị kẻ nhơn bắt
Thà chiu khổ nạn nầy
chẳng nên gần nữ nhơn
Nếu ham thích nữ sắc
Lòng tham cầu càng nhiều
Người phàm ngu thủ tướng
Thêm lớn lòng ái dục
Như trong mùa hạ nóng
Đi lâu trong đồng hoang
Khát quá uống nước mặn
Uống xong khát càng tăng
Người chưa thấy chơn thiệt
Ngu si luống sanh sống
Thân cận cùng nữ nhơn
Tham dục ái vững chắc
Nếu người chạm rắn độc
Thì bị rắn làm hại
Người phàm phu phạm dục
Bị dục hại cũng vậy
Ví như bình màu đẹp
Trong đựng toàn thuốc độc
Trong bình thiệt đáng sợ
Mặt ngoài hiện đoan nghiêm
Trang sức cho nữ nhơn
Bảo họ là sinh đẹp
Thân họ rất dơ dáy
Như túi da đầy phẩn
Lại như lấy lụa màu
Quấn lấy lưỡi dao bén
Trang sức cho nữ nhơn
Nghiã ấy cũng như vậy
Như lửa đầy hố sâu
Không khói hay đốt cháy
Nữ nhơn cũng như vậy
Bạo ác không xót thương
Như thây chó thây rắn
Xấu dơ mà rã thúi
Cũng như đốt phẩn dơ
Mọi người đều gốm nhờm
Thây chó rắn cùng phẩn
Dầu rất đáng gớm nhờm
Nhưng các nữ nhơn kia
Đáng gớm lại càng hơn
Ví như thuở kiếp hoại
Đại địa đều nổi lửa
Rừng rậm những cỏ cây
Tất cả đều bị cháy
Loài vật to ở biển
Nước cạn không lần hết
Tu Di các bửu sơn
Thế giới bị cháy khắp
Thưở kiếp thiêu như vậy
Đốt cháy cả núi biển
Không có chúng sanh nào
Mà có người cứu được
Nhơn ái dục nữ nhơn
Đốt hại các ngu phu
Dường như kiếp hỏa tai
Tất cả bị cháy hết
Thân bất tịnh thường chảy
Mũi dãi đàm máu mủ
Sao kẻ ngu mê kia
Lại ái luyến thân ấy
Gân xương kết chỏi nhau
Gói ghém nhờ da thịt
Hôi dơ rất đáng gớm
Như đồ ăn thiêu bỏ
Cũng như của kho vựa
Trấu rơm thường bừa bãi
Thân nầy nhiều dơ xấu
Sung mãn cũng như vậy
Gan mật cật tì vị
Tim phổi ruột phẩn dơ
Cùng óc tủy mủ máu
Tám vạn hộ trùng nhỏ
Ở đó thường ăn nút
Các người ngu tối tăm
Lưới si thường quấn trùm
Không hiểu rõ điều ấy
Ăn uống cặn bã thừa
Chín lỗ thường chảy luôn
Thân tội lỗi như vậy
Do nghiệp dơ đời trước
Người ngu ham nữ nhơn
Ái luyến nơi thanh sắc
Do đây sanh nhiễm trước
Chẳng từng biết như thiệt
Như ruồi thấy ói mửa
Liền sanh lòng ưa thích
Người ngu ưa nữ nhơn
Cảnh giới cũng như vậy
Nghiêng ngả nơi nữ sắc
Thường ố quế thân mình
Tại sao người ngu kia
Thích gần kề nơi ấy
Như chim chóc kiếm ăn
Chẳng biết tránh lưới bẫy
Tham ái nơi nữ nhơn
Bị hại cũng như vậy
Ví như cá trong nước
Lội bơi trước người chài
Liền bị họ bắt được
Há chẳng là tự hại
Nữ nhơn như người chài
Siểm cuống khác vì lưới
Nam tử đồng với cá
Bị bắt cũng như vậy
Dao bén của sát nhơn
Dầu cũng là đáng sợ
Dao bén nữ nhơn kia
Tổn hại lại còn hơn
Như bướm đáp lửa đèn
Và lúc nhà bị cháy
Côn trùng bị thiêu đốt
Không ai cứu vớt nó
Mê say nơi nữ nhơn
Bị lữa dục đốt cháy
Do đây đọa ác thú
Không được cứu cũng vậy
Những người ngu tà hạnh
Ái luyến thê thiếp người
Vọng sanh tưởng ưa thích
Dường như gà trống nhà
Cũng như chim trĩ rừng
Lầm vào chỗ giết hại
Nhơn đó tự tổn thương
Mà không ai cứu giúp
Bỏ rời Phật chánh pháp
Gần kề nữ nhơn kia
Do nghiệp nhơn duyên nầy
Sa đọa ba ác đạo
Lại như bầy khỉ kia
Chuyền nhảy trong gộp cây
Tất sẽ bị tổn thương
Há chẳng vì tham ngu
Cũng vậy người tham dục
Với các nữ nhơn kia
Bị lưới si chụp bắt
Luôn bị khổ sanh tử
Như người tội thế gian
Bị xử giáo nhọn đâm
Kẻ mê say dâm dục
Thường luyến rừng gươm nhọn
Như dùng ngọn lửa mạnh
Đốt nấu vạc nước sôi
Đem bắp mè ném vào
Theo nước sôi trôi chìm
Cũng vậy người tham dục
Chẳng hiểu biết thiện ác
Chết sẽ đọa ác đạo
Bị nấu trong vạc sôi
Số lớn của vạc sôi
Sáu mươi bốn câu chi
Những kẽ gây nghiệp ác
Lấy đó làm chỗ ở
Mỗi mỗi vạc như vậy
Rộng lớn một do tuần
Lửa mạnh đốt khắp bề
Đáy và bốn bên vạc
Có kẻ mãn trăm năm
Hoặc hai ba bốn trăm
Chịu khổ nung nấu nóng
Đều do nghiệp mình tạo
Ngục tốt cầm móc bén
Thỉnh thoảng lại móc ra
Da thịch đều nhừ rã
Chỉ còn lại xương trắng
Bấy giờ các ngục tốt
Lại đem đến chuồng sắt
Lấy chài đâm giã nát
Không ai cứu giúp được
Bấy giờ các xương tủy
Đều nát nhỏ như bụi
Do gió nghiệp thổi đến
Chết rồi mà sông lại
Nếu có kẻ xâm bức
Vợ con của kẻ khác
Sẽ phải leo gai sắt
Và bị nạn búa chày
Thiết xoa ba chia nhọn
Hoặc có bốn năm chia
Xâm bức vợ con người
Sẽ bị hình phạt ấy
Lại có quạ mỏ sắt
Mổ moi lấy tủy óc
Các bầy sói dã can
Tranh đến táp liếm ăn
Người tà dục như vậy
Sẽ đọa địa ngục phẩn
Hoặc chạy trên mũi dao
Cũng phải trèo núi dao
Người tà dục như vậy
Sẽ đọa ngục nóng đốt
Đã bị khổ cháy thiêu
Rồi đài qua ngục băng
Người tà dục như vậy
Cũng đọa ngục cực nhiệt
Hiều kiếu và đại kiếu
Cùng qua ngục hắc thằng
Người tà dục như vậy
Sẽ chìm sông hèm nóng
Lại trãi qua ngục tro
Chưa tới đáy đã chết
Có ngục tật lê sắc
Năm gốc gai nhọn bén
Bị chó sắt rượt cắn
Sợ chạy vào rừng gai
Ái luyến nơi nữ nhơn
Đọa vào chỗ đại bố
Hoặc phải nuốt hoàn sắt
Hoặc phải uống nước đồng
Có hai núi sắc nóng
Kia đây ép vào nhau
Người tham dục ngày xưa
Nay bị khổ trong ấy
Lúc khổ như vậy
Đều không ai cứu giúp
Bị tội báo khổ ấy
Đều do nghiệp mình gây
Người đồng vui ngày trước
Nay nào thấy họ đâu
Chỉ riêng mình chiệu khổ
Họ chẳng đến cứu nhau
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến cha mẹ
Cũng chẳng cứu nhau được
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến con cái
Cũng chẳng cứu nhau được
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến anh em
Cũng chẳng cứu nhau được
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến chị em
Cũng chẳng cứu nhau được
Do vì ở đời trước
Tự gây tạo tội nghiệp
Dầu cho đến bằng hữu
Cũng chẳng cứu nhau được
Kẻ ngu vì tà dục
Tham tìm cầu nữ nhơn
Nơi địa ngục vô gián
Bị những khổ như vậy
Nói nữ nhơn bất tịnh
Dơ xấu nhiều như vậy
Chỗ kẻ ngu đến gần
Người trí đều lìa xa
Thân cận nữ nhơn kia
Rất là tột hạ liệt
Là ác trong những ác
Nào có đáng vui ưa
Các phàm phu tham dục
Thường ôm ấp túi phẩn
Do nghiệp nhơn duyên nầy
Sẽ nhận vô lượng khổ
Người ngu vì nữ nhơn
Cam chịu những hình phạt
Tù trói và đáng đập
Vẫn không lòng chán lìa
Người ngu vì nữ nhơn
Bị các thứ thiêu hại
Hay nhịn chịu khổ đau
Vẫn không lòng chán lìa
Hoặc đặt trên cây nhọn
Hoặc giết hoặc nhận nước
Hoặc ném vào hố to
Chịu đủ mọi khổ độc
Dầu thấy khổ như vậy
Còn ở trong dâm dục
Khen gợi các nữ nhơn
Chưa hề biết chán lìa
Hoặc có người trí ít
Biết là gốc sự khổ
Biết mà vẫn thân cận
Như keo sơn gập lửa
Nghe lời Phật răng dạy
Dầu có lòng tin nhận
Vẫn nuôi chứa nữ nhơn
Đông nhiều như bầy dê
Hoặc nghe lời Phật dạy
Vừa khởi lòng hối nhàm
Gây lát hại sanh tham
Như bịnh độc lại phát
Dường như heo bị bố
Tạm dừng trong gây lát
Nếu thấy vũng phẩn dơ
Lòng tham ái lại sanh
Người ngu nghe pháp rồi
Tạm thời lòng kinh sợ
Lúc sau thấy sắc dục
Lòng tham ái lại sanh
Dường như có trượng phu
Từ trên thân đầu mình
Lột bỏ vòng hoa vàng
Lại đội nón sắt nóng
Người ngu vì tham dục
Ném bỏ lời Phật dạy
Tham cầu pháp hạ liệt
Gây tạo các tội nghiệp
Người say mê sắc dục
Đọa trong cõi Diêm La
Thường nuốt hoàn sắt nóng
Lại uống nước đồng sôi
Người sai mê sắt dục
Bỏ lành mà làm quấy
Bỏ rời chỗ thanh lương
Đến hẳng cõi Diêm La
Nếu người có trí huệ
Nghe Phật nói pháp nầy
Phải bỏ tất cả dục
Mau cầu đạo xuất ly ».
Đức Thế Tôn nói kệ rồi, vua Ưu Đà Diên bạch rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Những lời vừa được nghe đây thật là hi hữu hi hữu. Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác khéo
nói lỗi họa của sắc dục. Nay tôi quy y Phật Pháp Tăng tam bửu. Từ đây đến trọn đời tôi quy y Phật Pháp Tăng làm Ưu Bà Tắc, ngưỡng mong đức Thế Tôn nhiếp thọ tôi ».
Đức Phật nói kinh nầy rồi, vua Ưu Đà Diên và các đại chúng Trời Người thế gian Thiên Long Bát Bộ nghe lời đức Phật dạy tất cả đều hoan hỉ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment