Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 18
PHÁP HỘI
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI
THỨ NĂM
Còn Đế
Vương
tôn quý trong loài người là do đời
trước làm phước đức mà được: thương
người bố
thí, nhơn
ái giúp đỡ, chánh tín làm lành
không gây tội làm hại. Vì thế
nên sau khi chết do phước đức
mà họ được sanh lên trời hưởng nhiều vui sướng. Nay họ sanh làm người ở
ngôi vua chúa tôn quý, nghi dung đoan chánh được mọi người kính trọng, mặc
đẹp ăn ngon, tùy ý hưởng thọ.
Vì phước đức
mà được như vậy.
-
Nầy A Nan! Ông nói rất phải.
Đế Vương
ấy dầu tôn quý xinh đẹp nhưng sánh với
Chuyển Luân Thánh Vương
thì lại xấu xí không khác gì người ăn mày kia ở cạnh
Đế Vương.
Chuyển
Luân Thánh Vương
nghi dung rất đẹp đệ
nhứt ở nhơn gian đem sánh với Đao Lợi
Thiên Vương
thì lại kém hơn
trăm ngàn vạn ức lần.
Đem thân Thiên Đế sánh với
thân Đệ Lục Thiên Vương cũng lại
thua cả vạn ức
lần.
Đem thân Đệ
Lục Thiên Vương
sánh với thân hình xinh đẹp của
người nước An Lạc của
đức Vô Lượng Thọ
Phật cũng lại không bằng,
trăm ngàn muôn ức chẳng thể
tính kể được.
Nầy A Nan! Ở
nước An Lạc,
trời người có những
y phục, uống ăn, hoa hương,
chuỗi ngọc, phan, lọng,
âm thanh vi diệu, cung điện, nhà cửa,
lâu đài đều cân xứng theo thân hình cao thấp lớn
nhỏ của họ.
Hoặc một báu, hai báu, nhẫn đến
vô lượng thứ
báu tùy theo ý họ muốn mà hiện
đến.
Nước ấy
lại có gấm lụa
vi diệu trải trên đất
báu, trời người nước ấy đi trên đó.
Nước An Lạc
ấy được giăng che với vô lượng màng lưới báu bằng
chỉ vàng xỏ chơn châu và trăm ngàn thứ châu báu trân diệu đẹp
lạ xen lẫn trang nghiêm. Bốn phía thòng rũ những cái linh báu. Màu sắc, ánh sáng rất mực
nghiêm lệ.
Gió công đức
tự nhiên thổi động
nhẹ.. Gió đó điều hòa, chẳng
lạnh chẳng nóng, ấm
mát dịu dàng thổi đến
màng lưới báu và những cây báu phát ra vô lượng pháp âm vi diệu, thoảng
phất muôn thứ hương thơm công đức
ấm áp. Ai được nghe thì phiền não trần
lao tự nhiên chẳng phát khởi.
Gió chạm đến thân thì đều được khoái lạc như Tỳ Kheo nhập diệt
tận định.
Lại gió thổi
hoa rơi
khắp mọi nơi trong nước ấy, theo màu hoa có thứ lớp
chẳng tạp loạn.
Những hoa ấy mềm
dịu chói sáng hơi
thơm
ngào ngạt. Chân đi giẫm lên hoa lún xuống bốn
tấc, vừa dở
chân hoa trở lại như cũ. Việc
dùng của hoa đã xong, đất tự
nứt ra, hoa theo đó ẩn mất
sạch hết không còn sót. Tùy theo thời tiết,
gió thổi rải hoa rơi trải
mặt đất báu ngày đêm sáu lần như vậy.
Lại có những
hoa sen báu khắp cả nước ấy. Mỗi
đóa hoa sen báu có trăm ngàn ức cánh, vô lượng màu sắc
chói sáng. Hoa sắc xanh ánh sáng xanh, hoa
sắc trắng ánh sáng trắng, vành đỏ
tím huyền, màu nào sáng ấy rực
rỡ hơn
cả mặt trời,
mặt trăng. Trong mỗi đóa hoa sen phát ra ba mươi
sáu trăm ngàn ức tia sáng, trong mỗi tia sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật
thân màu vàng tử kim đủ những
tướng tốt.
Mỗi đức Phật
lại phóng trăm ngàn ánh
sáng khắp vì mười phương mà nói pháp vi diệu. Chư Phật
ấy đều gầy
dựng vô lượng chúng sanh ở nơi chánh đạo.
Nầy
A Nan! Có chúng sanh nào, sanh về cõi nước An Lạc
ấy thì đều ở
bực chánh định tụ
cả.
Tại
sao vậy?
Vì nước ấy không có hạng tà tụ
và bất định tụ.
Hằng
sa chư
Phật Như
Lai mười phương đồng
khen ngợi oai thần công đức
bất khả tư nghị
của đức Vô Lượng Thọ Phật.
Có những
chúng sanh nghe danh hiệu đức Phật
ấy, lòng tin vui mừng nhẫn
đến phát một niệm
chí tâm hồi hướng nguyện
cầu sanh về nước ấy, thì liền
được vãng sanh ở bực
bất thối chuyển,
chỉ trừ kẻ
phạm tội ngũ nghịch
và phỉ báng chánh pháp.
Nầy
A Nan! Chúng sanh ở mười phương, những
người và chư Thiên nguyện cầu
sanh về nước an lạc
của đức Vô Lượng Thọ Phật
có ba hạng:
Hạng
thượng phẩm
là những người bỏ
nhà lìa ái dục mà làm Sa Môn, phát tâm
Bồ đề, chuyên một
mật niệm Vô Lượng Thọ Phật,
tu các công đức, nguyện sanh về
nước ấy.
Lúc chúng sanh nầy lâm chung, đức Vô Lượng Thọ Phật
cùng hàng Thánh chúng hiện ra trước người ấy, liền
theo đức Phật sanh về
nước An Lạc,
tự nhiên hóa sanh từ trong hoa sen thất bảo,
ở bực bất
thối chuyển, trí huệ
dũng mãnh, thần thông tự tại.
Vì thế
nên, nầy A Nan! Có ai muốn hiện
đời được thấy
đức Vô Lượng Thọ
Phật thì phải phát tâm Vô thượng Bồ
đề tu những công đức
nguyện sanh về nước An Lạc.
Nầy
A Nan! Hạng trung phẩm là những
người và chư Thiên ở
các thế giới mười phương,
có ai chí tâm nguyện sanh về nước ấy, nhưng phải
phát tâm Vô thượng Bồ
đề chuyên một mặt
niệm Vô Lượng Thọ
Phật, làm lành hoặc ít hoặc
nhiều, giữ gìn giới
Bát quan trai, xây dựng tháp tượng, trai tăng, treo phan, thắp đèn, rải
hoa, đốt hương,
dùng đây để hồi hướng nguyện sanh về
nước An Lạc.
Lúc người nầy
lâm chung, đức Vô Lượng Thọ
Phật hóa hiện thân ra đủ tướng tốt và quang minh như
chơn
Phật cùng với Thánh chúng đến trước người ấy,
liền theo đức Hóa Phật
sanh về nước An Lạc
ở bực bất
thối chuyển. Công đức
trí huệ kế bực
thượng phẩm.
Nầy
A Nan! Hạng hạ phẩm
là có những người và chư Thiên ở
các thế giới mười phương
chí tâm muốn sanh về nước An Lạc, giả
sử chẳng làm được các công đức, họ
phải phát tâm Vô thượng Bồ
đề, một mặt
chuyên tâm niệm Vô Lượng Thọ
Phật cho đến mười niệm nguyện
sanh nước An Lạc,
hoặc nghe pháp Đại thừa
vui mừng tin ưa
chẳng sanh nghi hoặc niệm
Vô Lượng Thọ
Phật cho đến một
niệm, dùng tâm chí thành
nguyện sanh nước An Lạc.
Người ấy
lúc lâm chung chiêm bao thấy đức Vô Lượng Thọ Phật
cũng được vãng sanh, công đức trí huệ
kế bực trung phẩm.
Nầy
A Nan! Đức Vô Lượng Thọ
Phật oai thần vô cực.
Vô lượng vô biên bất khả
tư
nghị chư
Phật Như
Lai ở các thế giới
mười phương, không đức Phật
nào chẳng khen ngợi Vô Lượng Thọ Phật.
Hằng
hà sa Phật quốc ở
phương
Đông kia có vô lượng vô biên chúng Bồ Tát thảy
đều đến chỗ
đức Vô Lượng Thọ
Phật để cung kính cúng dường đức
Phật ấy và chúng Bồ Tát, Thanh Văn, rồi nghe thọ
kinh pháp tuyên bá giáo hóa. Chín phương khác cũng như
vậy”.
Lúc bấy
giờ đức Thế
Tôn nói kệ tụng rằng:
“Phương Đông các Phật quốc
Số
nhiều như
hằng sa
Chúng Bồ
Tát nước ấy
Đến
lạy Vô Lượng Phật
Ba phương và bốn
hướng
Thượng hạ cũng như vậy
Chúng Bồ
Tát nước ấy
Đến
lạy Vô Lượng Phật
Tất
cả chúng Bồ Tát
Đều
mang hoa trời đẹp
Hương trời,
y vô giá
Cúng dường Vô Lượng Phật
Đều
cùng tấu nhạc trời
Phát ra tiếng
hòa nhã
Ca ngợi
đấng Tối Thắng
Cúng dường Vô Lượng Phật.
Thấu
suốt thần thông huệ
Chứng
nhập thâm pháp môn
Đầy
đủ tạng công đức
Diệu
trí chẳng ai bằng
Huệ
nhựt soi thế gian
Tiêu trừ
mây sanh tử
Cung kính nhiễu ba vòng
Cúi lạy
đấng vô thượng
Thấy
nước ấy
nghiêm tịnh
Vi diệu
khó nghĩ bàn
Nên phát tâm vô lượng
Nguyện
nước tôi cũng vậy
Liền
đó vô lượng Phật
Hoan hỷ
miệng mỉm cười
Miệng
phóng vô số quang
Chiếu
khắp mười phương cõi
Quay về
vòng quanh thân
Ba vòng vào đảnh Phật
Tất
cả chúng trời, người
Đều
vui mừng hớn hở.
Quan Thế
AÂm Bồ Tát
Chỉnh
y cúi đầu hỏi
Cớ
sao đức Phật cười
Ngưỡng mong Phật nói ý?
Tiếng
Phật như
sấm động
Bát âm vang tiếng diệu
Sẽ
thọ ký Bồ Tát
Ông lắng
nghe ta nói
Bồ
Tát mười phương đến
Ta đều
biết họ muốn
Nguyện
cầu nước nghiêm tịnh
Thọ
ký sẽ thành Phật
Giác ngộ
tất cả pháp
Đường như
mộng, ảo, vang
Đầy
đủ những diệu
nguyện
Tất
thànb nước như vậy
Biết
pháp như
điện, ảnh
Trọn
vẹn đạo Bồ
Tát
Đủ
các cội công đức
Thọ
ký sẽ thành Phật
Thông đạt
các pháp tánh
Tất
cả không, vô ngã
Chuyên cầu
nước Phật
tịnh
Tất
thành nước như vậy
Chư Phật
bảo Bồ Tát
Phải
đến Phật Vô Lượng
Nghep pháp thích vâng làm
Mau được chỗ thanh tịnh
Đến
nước nghiêm tịnh
ấy
Thì mau được thần thông
Ở chỗ Phật
Vô Lượng
Thọ
ký thành chánh giác
Phật
ấy có bổn nguyện
Nghe danh muốn vãng sanh
Đều
được sanh nước ấy
Ở bực bất
thối chuyển
Bồ
Tát phát chí nguyện
Muốn
nước tôi không khác
Nhớ
độ khắp tất
cả
Danh vang khắp mười phương
Phụng
sự ức Như Lai.
Biến
hóa đến các nước
Cung kính cúng dường Phật
Trở
về nước An Dưỡng.
Người nào không tâm lành
Chẳng
được nghe kinh nầy
Người có giới thanh tịnh
Mới
được nghe chánh pháp
Đã từng
thấy chư
Phật
Thì tin được việc nầy
Cung kính nghe phụng hành
Hớn
hở rất vui mừng.
Kiêu mạn,
ngu, giải đãi
Khí tin được pháp nầy
Đời
trước thấy
chư
Phật
Thích nghe giáo pháp này.
Thanh Văn hoặc Bồ
Tát
Chẳng
biết được tâm Phật
Ví như người sanh manh
Muốn
dẫn đường người khác
Biển
trí huệ của Phật
Sâu rộng
không bờ đáy
Nhị
thừa chẳng lường được
Chỉ
riêng Phật sáng tỏ
Giả
sử tất cả
người
Đều
đắc đạo cả
thảy
Huệ
nhãn biết bổn không
Ức kiếp suy Phật
trí
Tận
lực cố giảng
nói
Vẫn
chẳng biết được rõ
Trí Phật
không ngằn mé
Tột
thanh tịnh như
vậy
Thọ
mạng rất khó được
Đời
Phật cũng khó gặp
Có tín huệ
cũng khó
Nếu
nghe siêng năng cầu
Nghe pháp được chẳng
quên
Cung kính rất vui mừng
Là bạn
lành của ta
Vì vậy
phải phát tâm
Giàu lửa
khắp thế giới
Quyết
vượt qua nghe pháp
Để
được thành Phật
đạo
Rộng
độ dòng sanh tử.
Đức
Phật bảo Ngài A Nan: “Bồ Tát ở
nước An Lạc
rốt ráo đều sẽ
đến bậc nhất
sanh bổ xứ. Trừ
những vị cố
bổn nguyện vì chúng sanh mà lập nguyện
công đức lớn để
tự trang nghiêm, muốn độ
thoát khắp cả chúng sanh.
Nầy
A Nan! Hàng Thanh Văn ở nước An Lạc
thân chiếu ánh sáng một tầm,
thân Bồ Tát chiếu ánh sáng trăm do tuần.
Có hai Bồ
Tát tối tôn đệ nhứt
oai thần quang minh chiếu khắp
cõi Đại Thiện.
- Bạch
đức Thế Tôn Hai Bồ
Tát ấy danh hiệu là gì?
- Nầy
A Nan! Bồ Tát thứ nhứt
hiệu là Quán Thế AÂm, Bồ
Tát thứ hai hiệu là Đại
Thế Chí.
Hai Bồ
Tát ấy ở cõi nước Ta Bà nầy tu Bồ
Tát hạnh, lúc mạng chung chuyển sanh về
nước An Lạc.
Nầy
A Nan! Có chúng sanh nào sanh về nước An Lạc,
thân của họ đều
đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, thành mãn trí huệ thâm nhập
diệu pháp, thần thông vô ngại, các căn sáng suốt mau lẹ.
Người căn trí chậm lụt
nhứt thì thành tựu hai pháp nhẫn. Người căn trí lanh lợi thì được vô lượng vô sanh pháp nhẫn.
Lại
chư
Bồ Tát ở nước ấy mãi đến
thành Phật chẳng sanh vào ác đạo, thần
thông tự tại thường biết túc mạng.
Trừ người sanh về
đời ác ngũ trược ở
phương
khác như
quốc độ Ta Bà của
ta đây.
Nầy
A Nan! Bồ Tát nước An Lạc
thừa oai thần của
đức Vô Lượng Thọ
Phật, khoảng thời
gian một bữa ăn, đi đến
vô lượng thế
giới mười phương cung kính cúng dường chư Phật
Thế Tôn, theo ý nghĩ của họ,
những món cúng dường như hoa, hương, kỹ
nhạc, y phục, phan lọng,
vô số vô lượng thứ
tự nhiên hóa hiện ra, tất
cả đều trân quý vi diệu thế
gian chẳng có được. Chư Bồ
Tát ấy liền đem rải
lên cúng dường chư Phật
và chư
Bồ Tát Thanh Văn. Những thứ
ấy ở trên không hóa thành lọng hoa xinh đẹp sáng chói tỏa hương thơm khắp
nơi.
Lọng hoa ấy chu vi bốn
trăm dặn, rồi lần
lần lớn gấp
bội cho đến trùm khắp
cõi Đại Thiên, sau đó tuần tự
ẩn mất.
31Chư Bồ
Tát đều vui mừng thăng lên hư
không đồng tấu thiên nhạc,
dùng âm thanh vi diệu ca ngợi công đức
của chư
Phật, lắng nghe kinh pháp vui mừng vô lượng. Cúng dường chư Phật
xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về bổn
quốc An Lạc vẫn
còn trước giờ
ăn.
Nầy
A Nan! Lúc đức Vô Lượng Thọ
Phật ban pháp ngữ cho hàng Trời, Người, Thanh Văn, Bồ Tát thì đều
vân tập tại thất
bửu giảng đường. Thính chúng được nghe diệu
pháp không ai là chẳng khai ngộ vui mừng.
Liền đó bốn phương tự
nhiên gió nhẹ thổi động
những cây thất bửu
phát ra ngũ âm. Vô lượng hoa đẹp
theo gió bay tứ tán để cúng dường bất tuyệt.
Tất
cả hàng chư
Thiên đều mang trăm ngàn thứ hoa hương cõi trời
và muôn thứ kỹ nhạc
trời cúng dường đức
Phật ấy cùng Bồ
Tát, Thanh Văn. Rải hoa hương
khắp nơi,
hòa tấu âm nhạc, chư Thiên hàng hàng lớp lớp
trước sau qua lại, vẹt
tránh lẫn nhau. Trong lúc ấy, tất
cả đều sung sướng khoái lạc chẳng
thể nói được.
Nầy
A Nan! Chư
Bồ Tát sanh về nước An Lạc có giảng
thuyết được thì thường tuyên chánh pháp thuận theo trí huệ chẳng
hề sai thất.
Trong nước An Lạc, chư Bồ
Tát đối với vạn
vật không có tâm ngã sở, không có tâm nhiễm trước, qua lại đi đứng
tâm không hệ lụy tùy ý tự
tại, không khen lấy hay chê bỏ, không quan niệm bỉ
ngã, không ý nghĩ tranh giành. Đối với mọi
người có tâm đại
từ đại bi, chỉ
nghĩ đến việc làm lợi
ích, lòng luôn nhu thuận điều phục
không hề giận hờn,
không lười biếng
chán nản, lìa cái triền được thanh tịnh, có những
tâm bình đẳng, tâm thù thắng, thâm tâm, định tâm, tâm yêu pháp, thích pháp và mừng được pháp, diệt trừ
phiền não, rời tâm ác đạo,
trọn vẹn công hạn
của Bồ Tát, thành tựu đầy
đủ vô lượng cô đức,
được thâm thiền
định, thần thông và trí huệ, chỉ
ở bảy phần
Bồ đề, tu tâm Phật thừa,
nhục nhãn trong sáng không
gì chẳng thấy biết
rõ, thiên nhãn thông đạt vô hạn vô lượng, huệ nhãn thấy
chơn
đế đến được bờ kia, pháp nhãn quan sát rốt ráo các đạo, Phật
nhãn đầy đủ chiếu
rõ pháp tánh, dùng trí vô ngại giảng thuyết
cho người, xem khắp
ba cõi trống rỗng không chỗ có, chí cầu
Phật thừa đủ
các biện tài, trừ diệt
khổ họa phiền
não của chúng sanh, từ Như Lai sanh ra hiểu pháp như như, biết
rành tập diệt âm thanh phương
tiện, chẳng thích thế tục
ngữ ngôn, ưa
mến đàm luận chánh pháp, tu tập những
gốc lành chí tôn sùng Phật đạo,
biết tất cả
pháp thảy đều tịch
diệt, hai thứ còn thừa
là sanh thân và phiền não đều hết,
nghe nói pháp thậm thâm lòng chẳng nghi chẳng
sợ, thường hay tu hành đức tánh đại
bi sâu xa vi diệu chở che cho tất
cả, rốt ráo nhứt
thừa đến bờ
kia, quyết đoán lưới nghi trí tuệ từ
tâm phát ra, gồm bao Phật pháp không để sót, trí huệ rộng
sâu như
đại hải, tam muội
vững chắc như sơn vương, trí huệ
chiếu sáng trong sạch hơn hẳn
mặt nhựt, mặt
nguyệt, pháp thanh bạch đều
đã đầy đủ, soi các công đức đồng
một trong sạch như núi Tuyết,
tâm không phân biệt như
mặt đất không nghĩ sạch dơ tốt
xấu sai khác, rửa sạch
những cấu nhiễm
trần lao như
tịnh thủy, cháy hết
tất cả củi
phiền não như
lửa hồng, đi qua các thế giới
không chướng ngại
như
gió lớn, với tất
cả không dính mắc như hư không, nơi tất
cả thế gian không bị nhiễm
ô như
hoa sen, chuyên chở chúng sanh ra khỏi sanh tử
như
cỗ xe lớn, chấn
đại pháp lôi cảnh giác kẻ
chưa
thức tỉnh như mây dày mưa pháp cam lộ nhuần
ướt chúng sanh như
mưa
lớn, loài ma ngoại đạo
chẳng động đến
được như núi Kim Cương, nói các pháp lành và là bực tối
thượng thủ
như
Phạm Thiên Vương,
che mát tất cả những
cây ni câu luật, rất là ít có, khó gặp như hoa ưu đàm bát, oai phục ngoại
đạo như
kim sí điểu, không có chứa để
như
loài du cầm, không ai thắng được như
Ngưu
Vương,
khéo điều phục thuần
thục như
Tượng Vương, được vô sở úy như Sư Tử
Vương,
đại từ bình đẳng
như
hư
không rỗng rang, dứt lòng ganh ghét vì chẳng đố
kỵ người hơn mình, chuyên ưa
cầu pháp lòng chẳng chán đủ,
thường muốn
giảng dạy chí nguyện
chẳng mỏi mệt,
đánh pháp cổ, dựng pháp tràng, chiếu huệ
nhựt, trừ si ám, tu lục hòa kính, thường hành pháp thí, chí dũng mãnh tinh tiến, lòng không khiếp nhược thối chuyển,
là đèn sáng cho đời, là ruộng phước thù thắng, thường làm thầy dìu dắt
bình đẳng không thương
ghét, chỉ thích chánh đạo không ưa muốn
gì khác, nhổ gai ái dục để
an ổn quần sanh, công đức trí huệ
đều thù thắng không ai là chẳng tôn kính, diệt ba chướng du hý thần thông, đầy
đủ tất cả
những lực như: nhơn lực,
duyên lực, ý lực, nguyện
lực, phương
tiện lực, thường lực, thiện
lực, định lực,
huệ lực, đa văn lực, thí lực,
giới lực, nhẫn
lực, tinh tiến lực,
thiền định lực,
trí huệ lực, chánh niệm lực,
chỉ quán lực, thần
thông lực, và năng lực điều
phục các chúng sanh đúng
pháp, sắc thân tướng hảo
công đức biện tài đều
đầy đủ trang nghiêm không ai bằng, cung kính cúng dường vô lượng chư
Phật, thường được chư
Phật đồng khen ngợi,
đã rốt ráo các môn Ba la mật của
Bồ Tát, tu các môn không vô
tướng vô nguyện
tam muội và các môn tam muội bất
sanh bất diệt, rời
xa địa vị Thanh Văn và Duyên Giác.
Nầy
A Nan! Chư
Bồ Tát nước An Lạc
thành tựu vô lượng công đức
như
vậy. Ta chỉ nói lược cho ông đó thôi. Nếu nói rộng
thời nói suốt trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng
hết được”.
Đức
Phật gọi Ngài Di Lặc Bồ
Tát mà bảo rằng: “Nầy
A Dật Đa! Công đức và trí huệ của
hàng Thanh Văn và Bồ Tát nước An Lạc
của đức Vô Lượng Thọ Phật
chẳng thể kể
nói được.
Lại
quốc độ ấy
vi diệu an lạc thanh tịnh
dường ấy,
sao chư
Thiên và mọi người chẳng
gắng sức làm lành, phải đều
siêng năng tinh tiến nỗ lực
tự cầu tất
được siêu tuyệt
vãng sanh nước An Lạc,
dứt ngang năm ác đạo, ác đạo
tự nhiên đóng bít, con đường đạo
tiến lên không cùng tột dễ
đến mà không có người, nước ấy chẳng
trái bỏ một ai lại
có sức kéo dắt tự
nhiên.
Sao mọi
người chẳng
vứt bỏ việc
đời để chuyên cần
tu hành cầu nên đạo đức
để được tột
sự trường sanh hưởng vui không cùng cực.
Nhưng người đời phần
đông phước mỏng,
cùng tranh nhau những sự chẳng
cần kíp, ở tại
trong chỗ kịch ác tột
khổ mà nhọc nhằn
kinh doanh chật vật để
tự cung cấp. Không luận là người tôn kẻ ti, người nghèo, kẻ giàu, trẻ
già nam nữ đều lo nghĩ về tiền
tài, vất vả sầu
khổ mãi nghĩ mãi lo không
lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, có trâu ngựa lục
súc nô tỳ tiền của y thực
trăm ngàn thứ lại lo trăm ngàn thứ. Toan tính cầu lợi
lo nghĩ buồn sợ bỗng
chốc bị trộm
cướp, nước cuốn, lửa
cháy, sung công, tài sản tiêu tan thân mang tai
họa, lại sầu
khổ phẫn uất.
Nếu tài sản không bị
tiêu tan, thân không bị tai họa, nhưng cuối
cùng vô thường bỗng
đến, thân chết mạng
chung, tay không mà đi không mang món gì theo được”.
Đức
Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ
Tát và hàng chư
Thiên nhơn
chúng rằng: “Nay ta nói với các người, thế nhơn do những
sự việc ấy
nên chẳng đắc đạo.
Phải
suy nghĩ chín chắn, nên xa lìa những điều
ác, chọn những điều
lành rồi siêng năng thực hành.
Ái dục
vinh hoa là những thứ chẳng
thể bảo tồn
mãi mãi, rồi đều sẽ
ly tan không có gì đáng vui đáng thích.
May mắn
gặp đức Phật
tại thế phải
kíp chuyên cần tu tập, người nào có chí nguyện sanh về
nước An Lạc
thì được trí huệ
sáng suốt, công đức thù thắng.
Chẳng nên buông lung theo
lòng dục vọng mà phụ
rẫy lời dạy
trong kinh pháp giới luật để
rồi phải rơi ở
sau người.
Nếu
có ai còn mắc hay chẳng hiểu
kinh pháp nên đem hỏi Phật. Ta sẽ
giải thuyết cho”.
Bấy
giờ Ngài Di Lặc Bồ
Tát tiến ra quỳ dài bạch đức
Phật: “Đức Thế
Tôn oai thần tôn trọng giảng
nói rất hay. Tôi lắng nghe kinh ngữ mà đức
Phật vừa nói, suy gẫm kỹ
lại thì người đời
thiệt đúng như
lời đức Phật
đã phán dạy.
Nay đức
Phật thương
xót hiển thị đại
đạo, tất cả
đều sáng mắt ra được lợi ích lành rất lớn,
không ai là chẳng vui mừng. Chư Thiên, nhơn dân cho đến các loài nhuyến động
đều nhờ từ
ân của đức Phật
mà thoát khỏi ưu
khổ.
Đức
Phật dạy bảo
rất sâu rất lành. Phật
trí thấy suốt mười phương
ba đời, chẳng sự
gì là chẳng rành rẽ.
Ngày nay chúng tôi được giải
thoát đây, đều là nhờ đời
trước đức
Phật đã từng khổ
nhọc cầu đạo
vậy.
AÂn đức
của Phật trùm khắp,
phước lớn
vòi vọi quang minh chiếu suốt,
đạt thấu pháp không, khai nhập tịch
diệt, cảm động
mười phương vô cùng vô cực.
Đức
Phật là đấng Pháp Vương, là thầy
của tất cả
trời người, tùy theo sở nguyện
của họ đều
làm cho họ đắc đạo.
Nay được gặp
đức Phật lại
được nghe về
đức Vô Lượng Thọ
Phật không ai là chẳng vui mừng
tâm được khai ngộ”.
Đức
Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ
Tát: “Ông nói rất phải. Nếu
ai mến kính đức Phật
thì thiệt là sự đại
thiện.
Trong thiên hạ lâu lâu mới
có Phật ra đời.
Nay ta ở
đời nầy làm Phật
diễn nói kinh pháp tuyên bố đạo
dứt các lưới nghi, nhổ
gốc ái dục, ngăn nguồn xấu
ác, đi khắp ba cõi không bị chướng ngại, khai thị
ngũ đạo độ kẻ
chưa
được độ,
quyết chánh con đường sanh tử
và Niết bàn.
Nầy
A Dật Đa! Từ vô số
kiếp đến nay, ông tu Bồ Tát hạnh
để độ chúng sanh. Những người nhờ ông mà được đắc đạo
cho đến chứng Niết
bàn chẳng thể đếm
nói.
Chư Thiên và nhân dân tứ chúng từ
nhiều kiếp đến
nay xoay lăn trong ngũ đạo lo sợ khốn
khổ chẳng nói hết
được. Mãi đến
đời nay vẫn chưa dứt
sanh tử. Gặp được đức Phật
nghe thọ kinh pháp và được nghe về
đức Vô Lượng Thọ
Phật, thiệt là được lợi lành rất
lớn. Ta mừng cho đó.
Các người ngày nay cũng nên tự nhàm chán sanh lão bệnh tử
thống khổ, thân ngũ ấm hôi nhơ vô thường không có gì đáng vui
thích. Phải tự quyết
đoán đoan thân chánh hạnh làm nhiều việc
lành, trừ sạch tâm nhơ bẩn,
ngôn hạnh trung tín trong ngoài tương
ưng,
tự độ mình mà cũng cứu giúp người khác, thành tâm cầu nguyện
chứa nhóm đức lành.
Dầu
phải cần khổ
tu hành nhưng
chỉ là một đời
ngắn ngủi, về
sau được sanh về
nước An Lạc
của đức Vô Lượng Thọ Phật
hưởng sự
khoái lạc vô cực, mãi mãi hiệp với
đạo, khỏi hẳn
sanh tử, không còn họa hoạn
tham sân ngu si, muốn thọ một
kiếp hay trăm ngàn muôn ức kiếp
đều tùy ý tự tại,
tất cả đều
vô vi tự nhiên kế đạo
tịch diệt.
Các người phải đều
tinh tiến phát nguyện tu hành, không được nghi ngờ
chần chờ tự
gây lấy tội vạ
mà phải sanh về cung điện
bảy báu ở biên địa
của nước ấy,
chịu lấy tai ách trong năm trăm năm”.
Ngài Di Lặc
Bồ Tát bạch đức
Phật: “Chúng tôi nhận lãnh lời
răn dạy của đức
Phật, chuyên cần tu học
y giáo phụng hành, chẳng dám có lòng nghi ngờ”.
Đức
Phật lại bảo
Ngài Di Lặc Bồ Tát rằng:
“Các người có thể
ở đời nầy
đoan tâm chánh ý chẳng làm những điều
ác đó là chí đức, mười phương thế
giới không đâu sánh bằng. Tại
sao vậy?
Ở quốc độ
của chư
Phật, hàng chư
thiên và nhơn
dân tự nhiên làm điều lành, chẳng
phạm nhiều điều
ác, họ rất dễ
khai hóa.
Hiện
nay ta làm Phật ở thế
gian nầy, ở trong ngũ ác ngũ thống ngũ thiêu, chỗ quá khổ
lụy, giáo hóa chúng sanh
khiến họ trừ
ngũ ác, bỏ ngũ thống, rời
ngũ thiêu, điều phục ý họ
khiến họ trì ngũ thiện, cho họ
được phước đức thoát khỏi
thế gian chứng nhập
đạo Niết bàn trường thọ.
Nầy
A Dật Đa! Những gì là ngũ ác, ngũ thống và ngũ thiêu? Thế nào là tiêu hóa ngũ ác, khiến trì ngũ thiện được phước đức
thoát khỏi thế gian chứng
nhập đạo Niết
bàn trường thọ?
Điếu
ác thứ nhất: - Chư Thiên và nhơn
dân cho đến loài nhuyến động,
phần đông muốn làm các điều ác đều
như
thế nầy: Kẻ
mạnh hiếp kẻ
yếu, giành giựt tàn hại
sát lục cho đến ăn thịt
lẫn nhau. Họ chẳng
biết làm lành, ác nghịch vô đạo.
Cô nghiệp nhơn
tất chịu quả
báo, nên có những sự nghèo cùng hạ tiện
cô độc, đui điếc câm ngọng
tệ ác ngu si, thậm chí có hạng
cuồng điên chẳng nên hình.
Còn những
người tôn quý hào phú cao tài minh đạt, đó là do đời trước họ nhơn từ
hiếu để tích đức
làm lành.
Thông thường thế gian có phép nước ngucï tù. Kẻ chẳng
kiêng sợ giữ gìn làm ác bị tội
phải xử phạt
cầu thoát khó được. Thế
gian có những sự hiện
tiền trước mắt
như
vậy.
Khi chết
đời sau càng sâu càng khổ vào chỗ
u minh thọ lấy thân hình, nên có tự nhiên tam đồ vô lượng khổ não, chuyển
đổi thân hình, thọ mạng
hoặc dài hay ngắn, thần
thức tự nhiên đến
đó theo nhau cùng sanh, báo đền lẫn nhau không có lúc nào thôi dứt, tội
ác chưa
hết thì chẳng thể
thoát lìa, đau khổ chẳng nói được. Con đường thiện
ác nhơn
quả đương
nhiên như
vậy.
Đây là một
đại ác một thống
một thiêu, như
lửa lớn đốt
cháy thân người.
Có ai ở
trong ấy nhứt tâm nhiếp
ý đoan thân chánh hạnh chuyên làm điều lành chẳng
phạm tội ác thì được độ thoát, có phước đức
lớn, sanh lên cõi trời, hoặc
chứng nhập Niết
bàn. Đây là một đại thiện
vậy.
Điều
ác thứ hai: - Người thế
gian, cha con anh em chồng vợ vô nghĩa vô đạo, chẳng
thuận pháp độ, xa xí hoang dâm kiêu mạn phóng túng, đều riêng muốn
khoái ý nên buông lung theo lòng họ,
khi dối lẫn nhau, tâm khẩu mâu thuẫn,
lời cùng ý không thành thiệt, siểm
nịnh chẳng trung, xảo ngôn dua mị, ghét người hiền, chê người lành. Làm vua bất minh, làm quan lộng quyền,
tại vì chẳng chánh khi dối lẫn
nhau, hãm hại trung cang, dung dưỡng gian nịnh.
Tôi khi chúa, con khi cha, anh em chồng
vợ bè bạn lường gạt lẫn
nhau. Ai ai cũng cưu
lòng tham dục, sân hận, ngu si, muốn mình được nhiều mặc
người tổn
hại. Chẳng nghĩ nhà phá thân vong, chẳng quản
tội trước họa
sau, cho đến thân thuộc nội
ngoại liên lụy diệt
tộc.
Có khi gia đình bè bạn xóm làng chợ búa, dân ngu tranh giành lợi hại,
do giận hờn mà kết
oán thù. Kẻ giàu dư
dả lại bỏn
sẻn chẳng chịu
thí cho, tham ái quá nặng tâm nhọc thân khổ.
Cuối cùng rồi không chỗ
cậy nhờ đến
đi một mình không ai theo
giúp.
Thiện
và ác, họa và phước theo người mà sanh, hoặc ở
chỗ vào chốn khổ,
sau đó mới hối hận
thì đâu còn kịp.
Người đời vì tâm khờ ít trí, thấy người làm lành thì chê ghét
chẳng chịu ngưỡng mộ để
được bằng.
Chỉ muốn làm ác, làm điều phi pháp. Thường có tâm trộm cắp
trông đoạt được của
người. Phá của
tiêu tan rồi đi tìm cầu. Tâm tà chẳng chánh, sợ người hơn
mình. Chẳng lo tính trước việc
đến mới ăn năn.
Hiện
đời bị phép nước tù phạt trị
tội. Sau khi chết đọa
vào ác đạo, nên có tự nhiên tam đồ chịu
khổ vô lượng. Xoay vần
trong đó nhiều đời nhiều
kiếp không có lúc ra khỏi, khó được giải thoát, đau khổ chẳng
nói được.
Đây là hai đại ác, hai thống, hai thiêu, như
lửa lớn đốt
cháy thân người.
Có người nào ở trong ấy
mà nhứt tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh chuyên làm điều lành, chẳng
phạm điều ác thì được độ thoát có nhiều phước đức, hoặc
sanh lên cõi trời, hoặc chứng
nhập Niết bàn. Đây là hai đại thiện
vậy.
Điều
ác thứ ba: - Người đời
nương
nhờ nhau mà sống còn ở
trong trời đất, tuổi
thọ không được bao nhiêu. Trên có các nhà hiền minh trưởng giả tôn quý hào phú, dưới có những
kẻ nghèo cùng ti tiện yếu
kém ngu phu. Trong đó có những người bất
thiện thường cưu lòng tà ác, chỉ nghĩ nhớ
dâm dật ái dục, phiền
não đầy bụng, ngồi
đứng chẳng an, tham lam muốn lấy
không của người, chán ghét vợ nhà lén lút ra vào, hao tổn gia tài làm điều phi pháp. Tụ hội
bè đảng, đem quân xâm lăng,
đánh cướp giết
hại, cưỡng đoạt
vô đạo; ra ngoài làm ác chẳng tự
làm ăn, trộm cắp bức
hiếp buông lung hưởng lạc,
hoặc với người trong thân thuộc cũng chẳng
kể tôn ty. Gia tộc nội
ngoại đều lo lắng
khổ sở vì họ.
Cho đến cũng chẳng kiêng sợ
phép nước. Ác nghiệp
chiêu báo, sau khi chết đọa vào tam đồ chịu
vô lượng khổ
não, xoay vần trong đó nhiều đời
nhiều kiếp không có thời gian ra khỏi, khó được giải thoát, đau đớn chẳng
thể nói được. Đây là ba đại ác, ba thống, ba thiêu, như
lửa lớn đốt
cháy thân người.
Có ai ở
trong ấy như
tâm chế ý đoan thân chánh hạnh chuyên lam điều lành chẳng
phạm điều ác, thì được độ
thoát, có nhiều phước đức,
hoặc sanh lên trời hay chứng
nhập Niết bàn. Đây là đại thiện
vậy.
Điều
ác thứ bốn: - Người đời chẳng
nghĩ làm lành để dạy bảo
lẫn nhau, lại cùng làm những điều
ác, những là lưỡng thiệt,
ác khẩu, vọng ngôn, ỷ
ngữ. Cãi vã chê bai, ganh
ghét người lành, hãm hại người hiền rồi
đứng bên vui thích. Bất hiếu
với cha mẹ, khinh mạn
Sư
trưởng. Vô tín với bằng
hữu, tự tôn tự
đại, cho mình là hay là phải, cậy
quyền ỷ thế
áp bức người, làm ác không biết hổ
thẹn, chẳng tự
biết mình. Tự cho mình là khỏe muốn
mọi người kính nể.
Chẳng sợ trời
đất thần minh nhựt
nguyệt, chẳng chịu
làm lành, khó giáo hóa. Không kiêng sợ
ai luôn luôn kiêu mạn. Cậy có chút ít phước đức
do đời trước làm được điều lành nhỏ,
đời nay làm ác, phước đức
tiêu diệt, sau khi chết, tội
báo tự nhiên chẳng hề
rời lìa, đọa vào tam đồ chịu
vô lượng thống
khổ, đến lúc này ăn năn đâu còn kịp. Xoay vần
trong ấy nhiều đời
nhiều kiếp không có thời kỳ ra khỏi,
khó được giải
thoát, đau khổ chẳng nói được. Đậy là bốn
đại ác, bốn thống,
bốn thiêu, như
lửa lớn đốt
cháy thân người.
Có ai ở
trong ấy nhứt tâm chế
ý đoan thân chánh hạnh chuyên làm những điều
lành chẳng phạm điều
ác, thì được độ
thoát có nhiều phước đức,
hoặc sanh lên cõi trời, hay chứng
nhập Niết bàn. Đây là bốn đại
thiện vậy.
Điều
ác thứ năm. – Người đời
ỷ lại lười biếng chẳng
chịu làm điều lành sửa
mình tu nghiệp. Gia đình quyến thuộc
đói rét khốn khổ. Cha mẹ
có dạy răn thì giận dỗi
chống trái, bất hiếu
bất mục, phụ
ân vô nghĩa, không có lòng báo đáp. Nghèo cùng khốn thiếu,
sang đoạt phóng đãng, lấy ngang của
người để
tự cung cấp. Thích ngon ưa
rượu, ăn uống
vô độ, gây gổ xung đột
chẳng biết nhơn tình. Thấy
người hay tốt
thì ganh ghét. Vô nghĩa vô lễ không hề kiêng kỵ.
Phóng túng chơi
bời không ai khuyên can được. Với
lục thân quyến thuộc,
thiếu đủ không hề
đoái hoài. Chẳng nghĩ ơn
cha mẹ, chẳng biết
nghĩa thầy bạn. Tâm thừing
nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác, không có được chút lành. Chẳng tin kinh pháp của chư Phật
hiền thánh. Chẳng tin hành đạo sẽ
được giải
thoát. Chẳng tin sau khi chết thần
thức đầu thai trở
lại. Chẳng tin làm lành được lành, làm dữ được dữ. Muốn
giết người chơn tu, phá rối chúng Tăng. Muốn hại
cha mẹ anh em quyến thuộc.
Tông tộc đều chán ghét muốn nó chết
đi. Người như vậy,
tâm ý họ cháy phừng ngu si mê muội mà họ
tự cho là sáng suốt. Chẳng
biết sanh từ đâu đến,
chết sẽ về
đâu. Bất nhơn
bất thuận ác nghịch
trời đất, mà lại
muốn cầu may được trường thọ.
Có ai thương
dạy bảo điều
lành lẽ phải, khai thị
con đường sanh tử
thiện ác, họ vẫn
chẳng tin, khổ tâm cạn
lời cũng thành vô ích. Lòng
họ bít lấp, ý họ
chẳng tỏ ngộ.
Lúc sắp chết mới
biết lo sợ ăn năn thì đâu còn kịp nữa.
Trong trời đất năm loài phân minh, rộng rãi mịt
mờ mênh mênh mông mông. Báo
ứng lành dữ, họa
phước kéo dắt
tự mình lãnh chịu, không ai thay thế được. Người lành làm lành thì từ vui vào vui, từ sáng vào sáng. Người dữ
làm dữ thì từ khổ
vào khổ, từ tối
vào tối. Ai biết được đó? Chỉ một
mình đức Phật biết
rõ dạy bảo khai thị.
Người tin làm theo rất ít. Vì thế nên sanh tử chẳng
thôi, ác đạo chẳng tuyệt.
Người đời
tạo ác như
vậy nên có tự nhiên tam đồ khổ
sở vô lượng. Xoay vần
trong ấy nhiều đời
nhiều kiếp không có thời kỳ ra khỏi,
khó được giải
thoát đau đớn chẳng nói được. Đây là năm đại ác, năm thống, năm thiêu, như
lửa lớn đốt
cháy thân người.
Nếu
có ai trong ấy nhứt tâm chế
ý đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương ưng, việc
làm chí thành, chuyên làm điều lành chẳng phạm
điều ác thì được độ
thoát, có nhiều phước đức
được sanh lên cõi trời hay chứng
nhập Niết bàn. Đây là năm đại thiện
vậy.
32Nầy
A Dật Đa! Đó là nảm điều
ác trong đời khổ não như vậy.
Năm thống, năm thiêu xoay vần sanh lẫn
nhau. Chẳng tu đức lành mà chỉ làm những
điều ác thì đều tự
nhiên đọa vào ác đạo. Hoặc
có kẻ hiện đời
nay, trước hết
bị bệnh hoạn
cầu chết chẳng
được, cầu
sống chẳng được, cho mọi người thấy sự
chiêu cảm của tội
ác. Khi thân chết, thần thức
theo ác nghiệp mà đi vào ba ác đạo chịu
vô lượng thống
khổ.
Tội
ác từ mảy nhỏ
lần thành to lớn, đều
do tham làm tài sắc chẳng chịu
ban bố. Chạy theo dục
vọng si cuồng, phiền
não buộc trói không tháo mở được. Tranh lợi về
mình chẳng biết tự
xét. Phú quí vinh hoa đương
thời đắc ý, chẳng
hay nhẫn nhục, chẳng
biết làm lành. Không bao lâu
oai thế tiêu diệt, thân bị
khổ nhọc càng ngày càng nặng, nhơn xấu
quả khổ, nhơn quả
tự nhiên không hề sai sót, xưa
nay đều như
vậy thiệt rất
đáng thương.
Nầy
A Dật Đa! Nay ông và chư
Thiên cùng nhơn
dân với người đời
sau được kinh giáo của đức
Phật phải suy ngẫm
chín chắn, có thể y theo trong ấy mà đoan thân chánh hạnh, người trên làm lành rồi đem cảm
hóa người dưới, luân chuyển dạy
bảo nhau đều giữ
gìn thật hành, tôn bực Thánh, kính người lành, nhơn từ
bác ái, chẳng dám trái lời Phật
dạy. Phải cầu
xuất thế nhổ
đứt gốc sanh tử
tội ác, rời hẳn
con đường tam đồ
vô lượng lo sợ
khổ đau. Các người ở
cõi nầy vun trồng cội
công đức lớn rộng,
ban ơn
bố thí, chớ phạm
cấm giới, nhẫn
nhục, tinh tiến, nhứt
tâm và trí huệ. Giáo hóa lẫn nhau, tu đức lập
thiện, chánh tâm chánh ý,
trai giới thanh tịnh một
ngày một đêm còn hơn
ở nước An Lạc
làm lành cả trăm năm.
Tại
sao vậy?
Quốc
độ An Lạc của
đức Vô Lượng Thọ
Phật vô vi tự nhiên đều
chứa những điều
lành, không có tơ
hào việc ác.
Ở cõi nầy làm lành mười ngày mười đêm hơn
ở cõi khác làm lành ngàn
năm.
Tại
sao vậy?
Những
cõi khác, người làm lành nhiều, người làm ác ít, phước đức
tự nhiên không có chỗ để
tạo ác.
Chỉ
ở thế gian nầy
không có phước đức
tự nhiên, nhiều người làm ác, cần khổ
theo dục vọng, khi dối
lẫn nhau, lao tâm khổ thân, uống
đắng ăn độc, sự
ác triền miên không bao giờ ngừng
nghỉ.
Ta vì thương mọi
người mà hết
lời khuyên dạy hành đạo
làm lành tùy nghi dìu dắt truyền kinh pháp của Phật,
tất được thọ
dụng, theo ý nguyện cầu
đều làm cho đắc đạo
cả.
Chỗ
nào đức Phật đi đến,
hoặc quốc ấp,
hoặc xóm làng, không đâu là
chẳng nhờ giáo hóa. Thiên hạ hòa thuận,
nhựt nguyệt trong sáng, gió mưa
phải thời, tai dịch
chẳng khởi, nước thạnh dân an, binh đao vô dụng, sùng đức
trọng nhơn
chuyên làm lễ nghĩa.
Ta thương mọi
người còn hơn cha mẹ
thương
con. Nay ta õ đời nầy làm Phật
cảm hóa năm ác, tiêu trừ năm thống,
tuyệt diệt năm thiêu. Đem điều lành công phá tội ác, dứt
khổ sanh tử, khiến
được năm đức
đến chỗ an ổn
vô vi.
Sau khi ta nhập diệt
rời bỏ thế
gian nầy, kinh đạo diệt
lần, nhơn
dân siểm ngụy trở
lại làm ác, nâm thống năm thiêu hoàn lại như trước, về sau càng nặng chẳng
nói hết được. Ta chỉ
nói lược đó thôi.”
Đức
Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ
Tát: “Các người phải
khéo suy gẫm dạy bảo
lẫn nhau đúng như
kinh pháp của Đức Phật,
không được phạm
ác”.
Ngài Di Lặc
Bồ Tát chắp tay bạch
rằng: “Bạch đức
Thế Tôn! Lời đức
Phật dạy rất
hay. Người đời
quả thật có như vậy.
Đức Như
Lai từ mẫn làm cho họ được độ thoát. Chúng tôi xin lãnh lời Phật
cặn kẽ dạy
bảo, chẳng dám sai thất”.
Đức
Phật bảo Ngài A Nan: “Nầy A Nan! Ông đứng dậy
chỉnh y phục chắp
tay cung kính đảnh lễ đức
Vô Lượng Thọ
Phật. Chư
Phật Như
Lai ở nhũng quốc độ
mười phương thường ca ngợi đức
Vô Lượng Thọ
Phật chẳng chướng ngại chẳng
nhiễm trước”.
Ngài A Nan đứng dậy
chỉnh y phục, chánh thân hướng về
phươngTây
chắp tay cung kính năm vóc
gieo xuống đất đảnh
lễ đức Vô Lượng Thọ Phật
mà bạch rằng: “Bạch
đức Thế Tôn! Chúng tôi mong được thấy
quốc độ An Lạc,
đức Phật và chư Bồ
Tát cùng Thanh Văn đại chúng”.
Liền
đó đức Vô Lượng Thọ
Phật phóng đại quang minh chiếu khắp
tất cả thế
giới của chư Phật
mười phương. Những
núi Kim Cang, núi Thiết Vi, núi Tu Di, các núi
lớn nhỏ và tất
cả vạn vật
đều đồng một
màu sắc. Như
thời kỳ đại thủy
tai, nước ngập
tràn đầy tất cả,
vạn vật đều
chìm ngập chẳng còn, chỉ
thấy mặt nước mênh mông.
Quang minh của đức
Vô Lượng Thọ
Phật chiếu khắp
cũng như
vậy. Quang minh của tất
cả Bồ Tát, Thanh Văn đều bị
che ẩn, chỉ thấy
Phật quang sáng rỡ.
Ngài A Nan thấy đức
Vô Lượng Thọ
Phật oai đức nguy nguy, tướng hảo
đầy đủ quang minh rực rỡ
như
núi Tu Di cao vượt trên tất
cả thế giới.
Tất
cả hàng tứ chúng nơi đây cũng đồng thấy
như
vậy.
Đại
chúng ở nước An Lạc
cũng nhìn thấy bên cõi Ta Bà nầy.
Đức
Phật bảo Ngài A Nan và Ngài Di Lặc Bồ
Tát rằng: “Các ông có thấy ở
nước An Lạc
ấy, từ mặt
đất báu lên đến không gian, tất cả
vạn vật đều
vi diệu thanh tịnh tự
nhiên chăng?”.
- Bạch
đức Thế Tôn! Chúng tôi đều thấy.
- Các ông có nghe âm thanh to lớn của
đức vô Lượng Thọ
Phật tuyên bố khắp
tất cả thế
giới giáo hóa chúng sanh
chăng?
- Bạch
đức Thế Tôn! Chúng tôi có nghe.
- Các ông có thấy người nước An Lạc
ngồi cung điện thất
bửu rộng lớn
trăm ngàn do tuần đến khắp
những quốc độ
mười phương cúng dường chư
Phật không bị chướng ngại chăng?
-
Bạch đức Thế
Tôn! Chúng tôi đều thấy.
-
Các ông có thấy trong nước An Lạc,
những cây thất bửu,
những ao thất bửu,
những hoa trời đẹp
thơm
luôn luôn mưa
rải khắp mặt
đất thất bửu
để làm trang nghiêm chăng?
- Bạch
đức Thế Tôn! Chúng tôi đều thấy.
-
Các ông có thấy trong nước an Lạc,
các loài chim đẹp lạ bay liệng
trên không kêu hót hòa nhã không khác âm thanh của
Phật, tiếng chim vang khắp thế
giới. Các lời chim ấy
đều do đức Phật
Vô Lượng Thọ
biến hóa ra, chẳng phải
là thiệt súc sanh chăng?
- Bạch
đức Thế Tôn! Chúng tôi đều nghe thấy.
- Các ông có thấy chúng sanh ở nước An Lạc ngày đêm sáu thời tự
nhiên niệm Phật tương tục
chăng?
- Bạch
đức Thế Tôn! Chúng tôi đều nghe thấy.
- Các ông thấy ở
nước An Lạc,
chư
Thiên và nhơn
dân thọ dụng những
thứ cần dùng có khác nhau chăng?
- Bạch
đức Thế Tôn! Chúng tôi thấy trời
và người ở
nước An Lạc
thọ dụng đồng
nhau không có một chút sai khác.
- Các ông có thấy tại
nước An Lạc,
có người ở
trong thai chăng?
-
Bạch đức Thế
Tôn! Chúng tôi thấy tại nước An Lạc, người ở trong thai cung điện bảy
báu, như
Trời Đao Lợi ở
trong cung điện thất bửu
hoặc rộng lớn
một trăm do tuần, hoặc
năm trăm do tuần sung sướng, vui vẻ.
Chúng tôi cũng thấy tại nước An Lạc, có người từ hoa sen thất bửu
tự nhiên hóa sanh”.
Lúc ấy
Di Lạc Bồ Tát bạch
đức Phật: “Bạch
đức Thế Tôn! Duyên cớ gì mà người nước An Lạc
có thai sanh và hóa sanh?”.
Đức
Phật dạy: “Nầy
A Dật Đa! Nếu có chúng sanh chẳng hiểu
rõ Phật trí, bất tư nghị
trí, bất khả xưng trí, đại
thừa quảng trí, vô đẳng luân tối
thượng thắng
trí. Với những trí ấy
nghi hoặc chẳng tin, nhưng lại
tin nhơn
quả tội phước tu tập hạnh
lành cầu nguyện sanh về
nước An Lạc
của đức Vô Lượng Thọ Phật.
Chúng sanh ấy sanh về nước An Lạc ở
trong cung điện thất bửu
năm trăm năm, chẳng thấy Phật,
chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy
Bồ Tát và chúng Thanh Văn.
Vì thế nên ở nước ấy gọi
là thai sanh.
Nếu chúng sanh biết và tin Phật trí, cho đến biết
và tin vô đẳng luân tối thượng thắng trí, tu các công đức kính tin hồi hướng nguyện cầu
sanh về nước An Lạc
của đức Vô Lượng Thọ Phật.
Các chúng sanh ấy sanh về nước An Lạc ở
trong hoa sen thất bửu tự
nhiên hóa sanh ngồi kiết già, khoảnh
khắc những thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức
đều thành tựu đầy
đủ như
chư
Bồ Tát.
Lại
nầy A Dật Đa! Chư đại
Bồ Tát ở cõi nước phương
khác phát tâm muốn thấy đức
Vô Lượng Thọ
Phật để cung kính cúng dường và muốn
thấy chúng Bồ Tát Thanh Văn nước ấy.
Chư
đại Bồ Tát ấy
lúc mạng chung được sanh về
nước An Lạc
ở trong hoa sen thất bửu
tự nhiên hóa sanh.
Nầy
A Dật Đa! Tại nước An Lạc, những
người hóa sanh vì có trí huệ thù thắng.
Người thai sanh không có trí huệ, trong năm trăm năm thường chẳng
thấy Phật, chẳng
nghe kinh pháp, chẳng thấy Thánh chúng Bồ Tát vàThanh Vãn. Không do đâu để được cúng dường đức
Phật, chẳng biết
phép tắc của Bồ
Tát, chẳng tu tập được các công đức. Phải
biết những người nầy lúc ở
đời trước vì không có trí huệ, chẳng
diệt nghi hoặc mà ra.
Nầy
A Dật Đa! Thí như
vua Chuyển Luân Thánh Vương
có nhà ngục bảy báu trang nghiêm, trần thiết
giường màn, treo phan kết tụi.
Nếu có hàng Tiểu Vương Tử
mắc tội, bèn đem giam vào trong nhà ngục ấy
trói bằng dây xích vàng, cấp dưỡng đầy đĩ đồ
uống ăn mền nệm
hoa hương
kỹ nhạc, đồng
như
Chuyển Luân Thánh Vương
không để thiếu thốn.
Ý ông nghĩ sao, A Dật Đa! Các Tiểu Vương Tử
ấy có vui thích chăng?”
- Bạch
đức Thế Tôn! Không vui thích được. Họ
chỉ mong có phương
cách gì để ra khỏi ngục.
- Nầy
A Dật Đa! Cũng vậy. Các chúng sanh ấy vì nghi hoặc Phật
trí mà sanh trong cung điện thất bửu
không có hình phạt, cũng không có một niệm
ác sự. Chỉ trong vòng năm trăm năm, chẳng thấy
Tam bửu. Chẳng được cúng dường, chẳng
được tu các đức
lành mà lấy đó làm khổ, dầu
có những sự vui, nhưng vẫn
chẳng thích chỗ ấy.
Nếu các chúng sanh ấy biết
tội đời trước rất ăn năn tự
trách cầu rời chỗ
ấy liền được toại ý qua đến
chỗ Vô Lượng Thọ
Phật cung kính cúng dường, cũng được đến khắp
vô lượng vô số
chỗ chư
Phật mười phương tu các công đức.
Nầy
A Dật Đa! Có Bồ Tát nào sanh lòng nghi hoặc đối
với Phật trí thì mất lợi
lớn. Vì thế nên phải
biết và tin trí huệ vô thượng của Phật”.
Ngài Di Lặc
Bồ Tát thưa:
“Bạch đức Thế
Tôn! Ở cõi Ta Bà nầy có bao nhiêu Bồ Tát bất
thối sanh về nước An Lạc ấy?”.
- Nầy
A Dật Đa! Cõi Ta Bà nầy có sáu mươi bảy
ức Bồ Tát bất
thối sanh về nước An Lạc ấy.
Mỗi Bồ Tát nầy
đã từng cúng dường vô số
chư
Phật gần như Di Lặc
vậy. Còn hàng tiểu Bồ
Tát và người tu tập
công đức ít thì số đông chẳng
thể kể nói, sẽ
được sanh về
nước ấy.
Nầy
A Dật Đa! Chẳng phải
chỉ có các Bồ Tát ở
cõi nầy vãng sanh nước ấy
mà quốc độ phương khác cũng như
vậy.
Trong nước của đức
Phật thứ nhứt
là đức Phật Viễn
Chiếu có một trăm tám mươi
ức Bồ Tát, sẽ
đều vãng sanh về nước An Lạc của
đức Vô Lượng Thọ
Phật.
Đức
Phật thứ hai là Đức
Bửu Tạng Phật,
có chín mươi
ức Bồ Tát đều
sẽ vãng sanh.
Đức
Phật thứ ba là đức
Phật Vô Lượng AÂm có hai trăm hai mươi
ức Bồ tát sẽ
đều vãng sanh.
Đức
Phật thứ bốn
là đức Phật Cam Lộ
Vị có hai trăm năm mươi
ức Bồ Tát sẽ
đều vãng sanh.
Đức
Phật thứ năm là đức
Phật Long Thắng có mười bốn ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức
Phật thứ sáu là đức
Phật Thắng Lực
có một vạn bốn
ngàn Bồ tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức
Phật thứ bảy
là đức Phật Sư Tử
có năm trăm ức Bồ Tát sẽ
đều vãng sanh.
Đức
Phật thứ tám là đức
Phật Ly Cấu Quang có tám mươi
ức Bồ Tát sẽ
đều vãng sanh.
Đức
Phật thứ chín là đức
Phật Đức Thủ
có sáu mươi
ức Bồ Tát đều
sẽ vãng sanh.
Đức
Phật thứ mười là đức Phật
Diệu Đức Sơn có sáu mươi ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức
Phật thứ mười một là đức
Phật Nhơn
Vương
có mười ức
Bồ Tát sẽ đều
vãng sanh.
Đức
Phật thứ mười hai là đức Phật
Vô Thượng Hoa có vô số bất
khả xưng
kể Bồ Tát sẽ
đều vãng sanh.
Đức
Phật thứ mười ba là đức Phật
Vô Úy có bảy trăm chín mươi
ức đại Bồ
tát, chư
Bồ Tát nhỏ và chúng Tỳ Kheo chẳng tính kể
được, đều
sẽ vãng sanh về nước An Lạc của
đức Vô Lượng Thọ
Phật.
Nầy
A Dật Đa! Chẳng phải
chỉ có chúng sanh trong mười bốn
cõi nước trên đây sẽ vãng sanh về nước An Lạc, mà trong thế giới
mười phương có vô lượng cõi nước, chúng sanh vãng sanh cũng như
vậy, rất đông rất
nhiều, dầu ta có kể
nói luôn ngày đêm suốt một kiếp
cũng chẳng hết được. Nay ta chỉ nói lược đó thôi.
Nầy
A Dật Đa! Có ai được nghe danh hiệu đức
Vô Thượng Thọ
Phật mà hớn hở
vui mừng cho đến chừng
một niệm, phải
biết người ấy
đã được lơi ích rất
lớn, là đã đầy đủ
công đức vô thượng.
Vì thế
nên giả sử có lửa
lớn đầy khắp
cả Đại Thiên thế
giới vẫn cần
phải lướt qua để
nghe kinh pháp nầy rồi vui mừng
tin ưa
thọ trì đọc tụng
tu hành đúng theo.
Tại
sao vậy? Có rất nhiều
Bồ tát muốn được nghe kinh nầy mà chẳng
được. Nếu
chúng sanh vào nghe kinh nầy thì không con thối chuyển
đạo Vô thượng Chánh giác. Vì lẽ ấy
nên cần phải chuyên tâm tin ưa
thọ trì đọc tụng
giảng thuyết thực
hành.
Nay ta vì chúng sanh mà nói kinh pháp nầy, làm cho họ được thấy đức
Vô Lượng Thọ
Phật, tất cả
vạn vật ở
nước An Lạc
và Thánh chúng Bồ Tát, Thanh Văn ở nước ấy.
Chớ
nên sau khi ta diệt độ mà sanh lòng nghi hoặc.
Đời
tương
lai, lúc kinh pháp diệt tận, ta dùng oai lực từ
bi đặc biệt lưu kinh nầy
lại một trăm năm, có chúng sanh nào gặp kinh nầy
thì tùy ý họ nguyện cầu
đều được độ
thoát.
Nầy
A Dật Đa! Đức Như Lai ra đời
khó gặp khó thấy, kinh pháp của Phật
khó được khó nghe. Các môn Ba la mật, các pháp thù thắng của
Bồ Tát được nghe cũng khó. Gặp thiện
tri thức nghe pháp mà làm được cũng là khó.
Nếu
nghe kinh nầy mà tin ưa
thọ trì thì là khó trong
khó, không gì khó hơn.
Vì thế
nên pháp của ta, làm như
vậy, nói như
vậy, dạy như vậy,
phải nên tin thuận y theo tu hành”.
Lúc đức
Thế Tôn nói kinh nầy, có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô
thượng Bồ
đề. Một muôn hai ngàn na do tha người được pháp nhãn thanh tịnh. Hai mươi hai ức
chư
Thiên và nhơn
dân được quả
A Na Hàm. Tám mươi
vạn Tỳ Kheo lậu tận
ý giải thành A La Hán. Bốn mươi ức
Bồ Tát được chẳng
thối chuyển, dùng công đức hoằng
thệ tự trang nghiêm, ở đời
tương
lai sẽ thành Chánh Giác.
Bấy
giời Đại Thiên thế
giới chấn động
sáu cách. Quang minh lớn chiếu khắp
cõi nước mười phương.
Trăm ngàn âm nhạc tự nhiên hòa tấu. Vô lượng hoa đẹp thơm tho rưới xuống.
Đức
Phật nói kinh nầy xong, Di Lặc Bồ
Tát và chúng Bồ Tát từ mười phương
đến, Trưởng Lão A Nan và chư
đại Thanh Văn, tất cả
đại chúng nghe lời đức
Phật dạy đều
rất vui mừng tín thọ
phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment