Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 92
PHÁP HỘI VÔ ÚY ĐỨC BỒ TÁT
THỨ BA MƯƠI HAI
Như vậy tôi nghe một lúc đức Bà Già Bà ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng năm trăm Tý
Kheo câu hội chư đại Bồ Tát vô lượng vô biên có tám đại Bồ Tát làm thượng thủ, đều được tam muội và đà la ni, khéo nhập ba môn giải thoát không vô tướng vô nguyện, thiện xảo các thần thông, được vô sanh pháp nhẫn, danh hiệu các ngài là : Di Lâu Bồ Tát, Đại Di Lâu Bồ Tát, Thường Nhập Định Bồ Tát, Thường Tinh Tiến Bồ Tát, Bửu Thủ Bồ Tát, Thường Hỉ Căn Bồ Tát, Bạt Đà Bà La Bồ Tát, Bửu Tướng Bồ Tát, La Hầu Bồ Tát, Thích Thiên Bồ Tát, Thủy Thiên Bồ Tát, Thượng Ý Bồ Tát, Thắng Ý Bố Tát, Tăng Thượng Ý Bồ Tát, có tám ngàn đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ.
Đức Thế Tôn ở Vương xá thành được nhà Vua các Vương Tử, Bà La Môn, Trưởng giả, Cư sĩ tôn trọng tán thán cúng dường. Đức Thế
Tôn có đủ vô lượng trăm ngàn vạn chúng cung kính vây quanh mà vì họ thuyết pháp.
Bấy giờ chư Tôn giả Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na Di Đa
La Ni Tử, Ly Bà Đa, A Thấp Bà, Ưu Ba Ly, La Hầu La, A Nan, vô lượng chư đại Thanh Văn như vậy buổi sáng chỉnh y cầm bát vào thành Vương Xá đến từng nhà đúng như pháp mà khất thực không có duyên gì khác, lần lần đi đến trước cung điện cuả vau A Xà Thế, đồng đứng yên lặng chẳng nói khất thực hay chẳng khất thực.
Vua A Xà Thế có người con gái tên Vô Úy
Đức đoan chánh xinh đẹp vô song thành tựu công đức tối thắng thù diệu mới mười hai tuổi mang guốc vàng bửu đang ngồi trên cung lầu thấy chư Thanh Văn mà chẳng đứng dậy vẩn yên lặng ngồi tại chỗ. Vua A Xà Thế thấy vậy mới bảo rằng : «Con chẳng thấy chư vị ấy là đệ tử thượng túc của đức Thích Ca Như Lai đã thành tựu đại pháp làm phước điền cho thế gian vì thương chúng sanh mà
các Ngài đi khất thực. Nay con được thấy các Ngài sao con
chẳng dậy chẳng nghinh chẳng lễ chẳng hỏi han lại chẳng nhường chỗ ngồi. Con thấy sự gì mà chẳng đứng dậy tiếp nghinh? ».
Vô Úy Đức tâu Phụ Vương : «Chẳng hay phụ vương có thấy có nghe Chuyển Luân Thánh Vương thấy các Tiểu Vương mà đứng dậy tiếp nghinh chăng? ».
A Xà Thế Vương nói : «Không dậy tiếp nghinh».
Vô Úy Đức lại tâu : Phụ Vương có thấy có nghe lúc sư tử chúa muông thú thấy các dã can liền đứng dậy tiếp nghinh chăng? ».
A Xà Thế Vương nói: «Không có sự ấy ».
Vô Úy Đức lại tâu «Phụ Vương có thấy có nghe Đế Thích Thiên Vương tiếp nghinh Chư Thiên Tử, đại Phạm Thiên Vương lễ kính Thiên chúng chăng? ».
A Xà Thế Vương nói : «Không có
sự ấy ».
Vô Úy Đức lại tâu : « Phụ Vương có thấy có nghe thần biển lớn lễ kính các thần sông thần ao chăng? ».
A Xà Thế Vương nói : «Không có
sự ấy ».
Vô Úy Đức lại tâu : «Phụ Vương có thấy có nghe Tu Di Sơn Vương lễ kính các Sơn Vương khác chăng? ».
A Xa Thế Vương nói : «Không có
sự ấy».
Vô Úy Đức lại tâu : «Phụ Vương có thấy có nghe thần nhựt nguyệt lễ kính trùng đom đóm
chăng? ».
A Xà Thế Vương nói : «Không có
sự ấy ».
Vô Úy Đức tâu : «Phụ Vương nên biết Bồ Tát phát tâm xu hướng Vô thượng Bồ đề dùng đại từ bi sao lại lễ kính hàng Thanh
Văn rời lìa tâm đại bi ! Đâu có sư tử vương Bồ Tát cầu đạo Vô thượng, Chánh chơn Chánh giác lại lễ các dã can Tiểu thừa ! Đâu có Bồ Tát đã cầu đạo đại phạm thanh tịnh tiến lên Vô thượng Bồ đề lại nên thân cận hàng Thanh Văn
thiện căn kém ít ! Đâu có người muốn đến biển lớn đại trí muốn cầu khéo biết khối đại pháp mà lại còn cầu dấu chưn trâu, vì hàng Thanh Văn nghe âm thanh từ nơi người khác vậy. Đâu có người muốn đến núi Phật Tu Di để cầu sắc thân vô biên của Như Lai mà lại cầu sức không tam muội trong hột cải của hàng Thanh Văn mà
đi lễ họ. Đâu có người đã được nghe công đức trí huệ của chư Phật như nhựt nguyệt quang lại lễ kính hàng Thanh Văn để cầu lửa sáng đom đóm, vì hàng Thanh Văn chỉ có thể tự lợi tự soi từ người khác nghe âm thanh mà được hiểu vậy.
Tâu Phụ Vương ! Sau khi các đức Phật nhập Niết Bàn còn chẳng kễ kính hàng Thanh
Văn huống là nay đức Thế Tôn còn tại thế gian. Tại sao ? Vì nếu người nào thân cận hàng Thanh Văn tất phát tâm Thanh
Văn, người nào thân cận hàng Duyên Giác tất phát tâm Duyên
Giác, có ai gần gũi đấng Chánh chơn Chánh giác tất phát tâm Vô thượng Bồ Đề ».
Nói xong, Vô Úy Đức liền dùng kệ báo cáo Phụ Vương A Xà Thế:
« Ví như người đến biển
Mà lấy một văn tiền
Tôi thấy chư Thanh Văn
Tu hành cũng như vậy
Đến biển đại pháp rồi
Bỏ khối báu Đại thừa
Mà khởi tâm hẹp kém
Tu hành đạo Tiểu thừa
Như người thân cận vua
Xuất nhập không chướng ngaị
Theo vua xin một tiền
Người nầy uổng gần vua
Cung kính gần Luân Vương
Xin của vật trăm ngàn
Giúp vô lượng kẻ nghèo
Đây là khéo gần vua
Như người xin một tiền
Thanh Văn cũng như vậy
Chẳng cầu chơn giäi thoát
Mà lấy tiểu Niết bàn
Nếu khởi tâm hẹp kém
Tự lợi chẳng tự tha
Dường như tiểu y sư
ChÌ hay trị thân mình
Ví như đại y vương
Trị bịnh rất nhiều người
Khéo sanh lòng từ bi
Được cung kính danh tiếng
Y sư được thế lợi
Vì được biết y phương
Tự độ chẳng độ tha
Người trí chẳng cung kính
Như y vương thiện xäo
Thông đạt các y phương
Cứu vô lượng ngàn ức
Các chúng sanh bịnh khổ
Y vương được thế gian
Cung kính và danh tiếng
Người phát tâm Bồ đề
Khắp trị bịnh phiền não
Như rừng tì ma kia
Hoa hương bóng chẳng tốt
Thanh Văn như tì ma
Chẳng phát tâm cứu thế
Như chỗ thọ vương lớn
Nhiều người được lợi ích
Chư Bồ Tát cũng vậy
Hay lợi ích mọi người
Chẳng dùng nắng mùa thu
Hay cạn dòng nước nhỏ
Đến cạn biển cả rồi
Hay chứa vô lượng chúng
Đạo Thanh Văn kém hẹp
Dường như dấu chưn trâu
Chẳng dứt được tất cả
Phiền não của chúng sanh
Chẳng phải lên núi nhỏ
Mà hiện kim sắc thân
Chỉ lên núi Tu Di
Đều thấy thân kim sắc
Nên biết chư Bồ Tát
Cũng như núi Tu Di
Do Bồ Tát trụ thế
Thế gian được giải thoát
Đều là một sắc thân
Đầy đủ Nhứt thiết trí
Trí Thanh Văn chẳng vậy
Dường như sương buổi sáng
Chẳng lợi được cho đời
Vì họ chẳng chứng pháp
Như mưa lớn tăng trưởng
Lợi ích vô lượng loài
Thanh Văn như sương mai
Bồ Tát như mưa lớn
Thân cận được đại pháp
Như sức biển nhận nhiều
Như hoa héo ném bỏ
Không còn hương thơm đẹp
Mọi người chẳng thích nó
Chỉ ưa hoa chiêm bặc
Như cầu thanh liên hoa
Đẹp thơm rất kỳ diệu
Hoa bỏ như Thanh Văn
Trì hẹp chẳng lợi người
Như hoa chiêm bặc kia
Bồ Tát cũng như vậy
Vì thương mến chúng sanh
Hay hóa độ chúng sanh
Phụ Vương có từng biết
Gì là đại kỳ đặc
Một người tại đồng hoang
Lợi ích nhiều người vậy
Nếu muốn an ổn tốt
Độ vô lượng chúng sanh
Phải phát tâm Bồ đề
Chó theo đạo Tiểu thừa
Trong thế gian đồng hoang
Hay cứu chúng lạc đường
Như nhà hướng đạo kia
Bồ Tát cũng như vậy
Phụ Vương có từng thấy
Bè nhỏ qua biển lớn
Chỉ ngồi thuyền tơ kia
Hay đưa vô lượng chúng
Thanh Văn là bè nhỏ
Bồ Tát như thuyền to
Tu pháp đạo xong rồi
Khiến vượt biển đói khát
Phụ Vương có từng thấy
Cỡi lừa hay nhập trận
Chỉ thầy ngồi voi ngựa
Chiến đấu mà đắc thắng
Thanh Văn như xe lừa
Bồ Tát như long tượng
Hàng ma ngồi đạo thọ
Độ vô lượng chúng sanh
Như hư không giữa đêm
Chẳng thấy tinh tú hiện
Ví trăng tròn sáng rỡ
Chiếu khắp châu Diêm Phù
Thanh Văn như tinh tú
Bồ Tát như trăng tròn
Vì thương mến chúng sanh
Thị hiện đạo Niết bàn
Lửa sáng đom đóm kia
Không thể dùng làm việc
Nhựt nguyệt chiếu Diêm Phù
Làm được mọi sự việc
Thanh Văn như lửa đóm
Chẳng được lợi ích nhiều
Phật có sáng giải thoát
Thương xót các chúng
sanh
Tiếng dã can kêu la
Chẳng làm muông thú sợ
Chỉ có sư tử chúa
Gầm lên chim bay rớt
Nên biết hàng Thanh Văn
Chẳng phát tâm Bồ đề
Chẳng vì lợi ích chúng sanh
Trừ tất cả phiền não
Vì thấy biết như vậy
Chẳng phát tâm Thanh Văn
Đã đại phát tâm rồi
Sao lại còn phát tiểu
Đã được thân người tốt
Nên phát tâm vô thượng
Cứu độ tất cả chúng
Vứt bỏ đạo Tiểu thừa
Được thân thế gian tốt
Lại được lợi thế gian
Khéo đến tại thế gian
Mà phát tâm vô thượng
Mong cầu đạo vô thượng
Cứu độ các chúng sanh
Hay tự lợi lợi tha
Người nầy đang được khen
Cũng được đời tôn trọng
Và được đạo cứu cánh
Vì thế hôm nay tôi
Chẳng lễ kính Thanh Văn ».
Vua A Xà Thế bảo Vô Ý Đức : « Con đại ngã mạn, sao thấy chư đại Thanh Văn lại chẳng phụng nghinh ? »
Vô Úy Dức tâu : Phụ Vương chớ bảo như vậy. Phụ Vương cũng ngã mạn, sao Phụ Vương chẳng phụng nghinh những người nghèo cùng trong
thành Vương Xá nầy ? »
Vua nói : « Họ chẳng đồng hàng với ta, sao ta lại phụng nghinh ? ».
Vô Úy Đức tâu : « Sơ tâm Bồ Tát cũng như vậy, tất cả Thanh Văn và Duyên Giác chẳng đồng hàng ».
Vua nói : « Con há chẳng thấy chư Bồ Tát lễ kính tất cả chúng sanh ư ? ».
Vô Úy Đức nói : « Bồ Tát vì độ các chúng sanh kiêu mạn sân não khiến họ phát khởi tâm hồi hướng đại đạo nên lễ kính tất cả chúng sanh, vì
tăng trưởng gốc thiện căn cho các chúng
sanh mà Bồ Tát lễ kính. Nhưng nay chư Thanh Văn không tâm sân hận lại cũng chẳng tăng trưởng thiện căn được. Dầu trăm ngàn chư Phật vì họ mà nói diệu pháp nhưng nơi giới định huệ họ đã được vẫn không tăng thêm.
Thanh Văn như khối lưu ly, Bồ Tát như chiếc bình báu lớn. Bình nếu đã đầy lúc trời mưa không chứa thêm được một giọt. Cũng vậy, dầu trăm ngàn chư Phật vì hàng Thanh Văn nói diệu pháp họ cũng chẳng được lợi ích chẳng tăng thêm giói định huệ, họ chẳng thể làm cho chúng sanh
phát tâm đến Nhứt thiết trí. Ví như đại hải có thể nhận nước của tất cả sông và mưa mây, tại sao, vì đại hải là cái bình vô lượng vậy. Chư Bồ Tát lúc diễn thuyết pháp tùy chỗ người được nghe được phước lợi lớn tăng trưởng tất cả gốc các thiện căn, tại sao, vì chư Bồ Tát là chiếc bình ngôn thuyết vô biên vậy ».
Vua A Xà Thế nghe Vô Úy Đức nói những lời trên thì nín lặng ngồi yên.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất tự nghĩ rằng : Vô Úy Đức nầy được đại biện tài có thể ngôn thuyết vô tận như vậy, nay ta đến hỏi nàng ít lời xem nàng có đắc nhẫn chăng. Tôn giả lièn đến hỏi Vô Úy Đức rằng : « Nay cô an trụ Thanh Văn thừa ư ? ».
Đáp : « không ạ ».
Hỏi : « Nay cô an trụ Duyên Giác thừa ư ? ».
Đáp : « Không ạ ».
Hỏi : « Nếu như vậy thì cô an trụ thừa nào mà có thể sư tử hống như vậy ? ».
Đáp : « Giả sử nay tôi có thể an trụ thì tất chẳng thể làm sư tử hống, do tôi không chỗ trụ nên tôi có thể làm sư tử hống. Nhưng Xá Lợi Phất nói an trụ thừa nào, như pháp được Ngài chứng đắc, pháp ấy há lại có thừa sai khác ư, là Thanh Văn thừa, là Duyên Giác thừa, là Đại thừa ư ».
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Cô nghe tôi nói, pháp tôi được chứng không có tướng thừa chẳng phải thừa sai khác, vì là
nhứt tướng, nghĩa là vô tướng vậy ».
Vô Úy Đức nói : « Nếu pháp vô tướng thì thế nào cầu được ? ».
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Pháp chư Phật cùng pháp phàm
phu có tướng thắng phụ sai biệt gì ? ».
Vô Úy Đức nói : « Không và tịch tĩnh có sai biệt gì ? ».
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Không có sai biệt ».
Vô Úy Đức nói : « Như không và tịch tĩnh không có tướng sai biệt, pháp chư Phật cùng pháp phàm
phu không có tướng thắng phụ sai biệt. Lại như hư không hay thọ các sắc mà không có sai
biệt, pháp chư Phật cùng pháp phàm
phu không có tướng sai biệt cũng không có dị tướng ».
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói với Vô Úy Đức rằng : « Cô thấy Phật pháp cùng Thanh Văn pháp có sai khác gì mà nay cô thấy hàng đại Thanh Văn cô chẳng dậy tiếp đón chẳng nhường giường ghế ? ».
Vô Úy Đức nói : « Giả sử tinh tú đầy trời cũng chẳng chiếu sáng thế gian. Hàng Thanh Văn cũng vậy , vì lúc nhập định mới có trí thấy biết, lúc chẳng nhập định thì không hay biết ».
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : « Nếu chẳng nhập định thì chẳng biết được tâm chúng sanh ».
Vô Úy Đức nói : « Đức Phật chẳng nhập định mà có thể ở trong hằng hà sa thế giới tùy chỗ nên mà thuyết pháp độ các chúng sanh,vì khéo biết tâm họ vậy. Đây là thắng sự của chư Phật Như Lai. Hàng Thanh Văn như tinh tú ánh sáng kém yếu làm sao so sánh được.
Lại nầy Đại Mục Kiền Liên Tất cả Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu thế giới thành bao nhiêu
thế giới họa chăng ? ».
Đáp : « Chẳng biết được ».
Hỏi : « Hàng Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chư Phật đã nhập Niết bàn, bao nhiêu chư Phật vị lai sẽ nhập và bao nhiêu chư Phật hiện tại nay nhập Niết bàn chăng ? ».
Đáp : « Chẳng biết dược ».
Hỏi : « Hàng Thanh Văn có ai biết được có bao nhiêu
chúng sanh nhiều tham dục, bao nhiêu chúng sanh nhiều sân hận, bao nhiêu chúng sanh nhiều ngu si và bao nhiêu chúng sanh nhiều đẳng phần chăng ? ».
Đáp : « Chẳng biết được ».
Hỏi : « Hàng Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chúng
sanh thọ Thanh Văn thừa, bao nhiêu chúng sanh thọ Duyên Giác thừa và bao nhiêu chúng sanh thọ Phật thừa chăng ? ».
Đáp : « Chẳng biết được ».
Hỏi : « Hàng Thanh Văn thừa có ai biết được bao nhiêu chúng
sanh Thanh Văn độ, bao nhiêu chúng sanh Duyên Giác độ và bao nhiêu chúng
sanh chư Phật độ được chăng ? ».
Đáp : « Chẳng biết được ».
Hỏi : « Hàng thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chúng
sanh tại chánh định tụ chánh kiến và bao nhiêu chúng sanh tại tà định tụ chăng ? ».
Đáp : « Chẳng biết được ».
Vô Úy Đức nói : « Nầy Đại Mục kiền Liên ! Duy có đức Như Lai Chánh Chơn Chánh Giác khéo biết như thiệt chúng sanh giới mà vì họ thuyết pháp. Sự việc như vậy chẳng phải cảnh giới Thanh Văn Duyên
Giác huống là các chúng sanh khác. Nên biết đây là sự việc thù thắng của đức Như Lai, vì đức Như Lai có đủ Nhứt thiết trí vậy. Tất cả Thanh Văn và Duyên Giác không có được.
Thưa Đại Mục Kiền Liên ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là thần thông đệ nhứt, thần thông của Ngài có thể đến thế giới Hương Tượng biết trong thế giới ấy tất cả các cây đều sản xuất hương chiên đàn thượng diệu chăng ? ».
Tôn giả đáp : « Nay tôi mới nghe tên thế giới ấy thì làm sao có thể đến đó được. Đức Phật tại đó hiệu là gì ? ».
Vô Úy Đức nói : « Đức Phật hiệu Phóng Hương Quang Minh Như Lai Ứng Cúng đẳng Chánh Giác trụ tại thế giới ấy thuyết pháp ».
Tôn giả hỏi : « Làm thế nào được thấy đức Phật ấy ? ».
Vô Úy Đức chẳng rời chỗ ngồi chẳng động oai nghi mà thệ nguyện rằng : « Nếu Bồ Tát lúc sơ phát tâm có thể hơn hàng Thanh Văn và Duyên Giác, nguyện đức Phóng Hương Quang Minh Như Lai hiện thân nơi đây, cũng khiến hàng Thanh Văn Duyên Giác thấy thế giới Hương Tượng và ngửi mùi cây hương chiên đàn thượng diệu ».
Vô Úy Đức phát thệ nguyện xong, đức Phóng Hương Quang Minh Như Lai từ nơi thân phóng quang.
Do đức Phật ấy phóng quang nên chư Thanh Văn đây đều được thấy thế giới Hương Tượng và đức Phật có chúng Bồ Tát vây quanh, lưới báu che giăng, đức Phật ấy vì chúng mà thuyết pháp. Tại đây đại chúng đều được nghe tiếng thuyết pháp. Do thần lực của đức Phật ấy nên đại chúng đây còn được ngửi hơi hương chiên đàn thượng diệu của cây thế giới ấy.
Bấy giờ đức Phật Phóng Hương Quang Minh nói rằng : « Đúng như vậy, như lời nói của Vô Úy Đức : Bồ Tát lúc sơ phát tâm đã hơn hàng Thanh Văn và
Duyên Giác cảnh giớỉ ».
Lúc ấy tại núi Kỳ Xà Quật, Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Hơi thơm vi diệu nầy từ đâu đến ? ».
Đức Phật nói : « Nầy Di Lặc !Vô Úy Đức cùng chư Thanh Văn luận nghị như pháp và phát thệ nguyện. Đức Phóng Hương Quang Minh dùng
thần lực hiện thân và thế giới Hương Tượng cùng hơi hương cây chiên đàn, nên hơi hương thượng diệu ấy khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên nầy ».
Vô Úy Đức bảo Tôn giả Đại Mục Kiền Liên : « Nếu đã thấy các công đức thù thắng bất tư nghị như vậy mà còn có thể phát tâm Thanh Văn Tiểu thừa hẹp kém chỉ tự độ, thì nên biết là thiện căn rất nhỏ ít. Ai là người đã thấy sự việc Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức mà chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Ngài có biết thế giới Hương Tượng ấy cách đây bao
nhiêu chăng ? ».
Tôn giả đáp : « Chẳng biết ».
Vô Úy Đức nói : « Ngài thừa thần thông trải qua trăm ngàn kiếp cũng không thể biết không thể thấy thế giới ấy. Như tất cả tre lau lùm rừng cõi nầy làm con số không thể tính đếm, qua khỏi các Phật thế giới như số trên đây mới có thế giới Hương Tượng ấy ».
Bấy giờ đức Phật ấy thâu nhiếp quang minh, thế giới Hương Tượng cùng đức Phật ấy và chúng Bồ Tát bỗng chẳng còn hiện.
Tôn giả Đại Ca Diếp nói với Vô Úy Đức rằng : « Cô đã từng thấy thế giới Hương Tượng và dức Phóng Hương Quang Minh Như Lai rồi phải chăng ? ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Ca Diếp ! Như Lai có thể thấy được chăng ? Như lời Phật dạy : Nếu dùng sắc thấy ta và dùng âm thanh cầu ta, người ấy đều hành đạo tà chẳng thấy được Như Lai. Vì thân chư Như Lai là pháp thân,
pháp chẳng thấy nghe thì làm sao thấy nghe được. Tùy phương tiện nào mà chúng sanh hạp thích thì Phật vì họ mà thị hiện, thân Phật không chướng ngại vì an trụ phương tiện vậy. Nhưng Ngài Đại Ca Diếp hỏi tôi có thấy đức Phật và thế giới ấy chăng ?
Thưa Ngài Đại Ca Diếp Tôi thấy đức Phật ấy chẳng phải là nhục nhãn thấy vì chẳng phải là sắc được thấy bởi nhục nhãn ; chẳng phải thiên nhãn thấy vì không có thọ, chẳng pải huệ nhãn thấy vì rời lìa tưởng tướng, chẳng phải pháp nhãn thấy vì rời lìa các hành, chẳng phải Phật nhãn thấy vì rời lìa thức thấy vậy.
Tôi thấy Như Lai cũng như chỗ thấy của Đại Ca Diếp vì đã diệt trừ tâm vô minh ái kiến vậy.
Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Tôi thấy đức Phật ấy cũng như chỗ thấy của Đại Ca Diếp Tôn giả. Lại cũng còn thấy ngã ngã sở v.v… ».
Tôn giả hỏi : « Nếu pháp không hẳn tại sao phát khởi vô minh ái và tướng ngã ngã sở, vì rất cả chúng sanh chẳng thấy được vậy ? ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Đại Ca Diếp, tất cả pháp không có hẳn thì nó thế nào được thấy ? ».
Tôn giả nói : « Nếu tất cả Phật pháp cứu cánh là không có thì thế nào thấy được ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Ngài có thấy Phật pháp tăng trưởng nghĩa chăng ? ».
Tôn giả nói : « Tôi còn chẳng biết phàm phu pháp hà huống Phật pháp ».
Vô Úy Đức nói : « Vì thế nên, thưa Ngài Đại Ca Diếp, pháp ấy chẳng thành tựu thì thế nào có đứt nối mà người chẳng chứng kia thấy. Thưa Ngài Đại Ca Diếp !
Các pháp không có hẳn chẳng hiện bày được, vì thế nên tất cả pháp đều không. Nếu bổn pháp không có thì
thế nào thấy được pháp giới thanh tịnh ấy. Thưa Ngài Đại Ca Diếp, nếu ai muốn thấy tịnh Như Lai thì thiện nam thiện nữ ấy phải tịnh tự tâm ».
Tôn giả hỏi Vô Úy Đức : « Thế nào khéo tịnh tự tâm ? ».
Vô Úy Đức nói : « Như tự thân chơn như và tất cả pháp chơn như, nếu tin nơi ấy chẳng tạo tác chẳng vong thất, thấy như vậy thì tự tâm thanh tịnh ».
Tôn giả hỏi : « Tự tâm lấy gì làm thể ? ».
Vô Úy Đức nói : « Lấy không làm thể. Nếu chứng không ấy thì tin tự thân không, vì tin tự thân không nên tin chơn như không, vì tất cả các pháp tịch tĩnh vậy ».
Tôn giả nói : « Cô theo đức Phật nào nghe pháp như vậy mà được chánh kiến. Như Phật từng dạy : người phát chánh kiến có hai nhơn duyên, một là nghe pháp nơi người, hai là tự nội tư duy.
Vô Úy Đức nói : « Nhờ âm thanh ngoài mà có nghe, vì nghe âm thanh ngoài nên sau đó nội tư duy. Thưa Ngài Đại Ca Diếp Bồ Tát Đại Sĩ chẳng nhờ người nói chẳng mượn âm thanh sao lại bảo là an trụ nội tư duy ».
Tôn giả nói : « Vì cô theo pháp được nghe mà quan sát
nên gọi là quán hạnh ».
Tôn giả lại hỏi Vô Úy Đức : « Thế nào là Bồ Tát nội tự tư duy ? ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Nếu cùng chư Bồ Tát thuyết pháp đồng sự mà chẳng phát khởi tướng chúng sanh. Bồ Tát nội quán như vậy thì gọi là thành tựu nội quán. Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Tất cả các pháp đầy đủ bổn tế trung tế và hậu tế, vì tất cả pháp lấy chơn như làm thể vậy. Vì tất cả pháp hiện tại chơn như thế vậy. Nếu quán như vậy, Bồ Tát nầy gọi là thành tựu nội quán.
Tôn giả nói : « Cô an trụ pháp ấy thế nào ? ».
Vô Úy Đức nói : « Phải làm như vầy : như chơn như ấy thấy không phược không giải ».
Tôn giả hỏi : « Thấy thế nào thì gọi là chánh kiến ? ».
Vô Úy Đức nói : « Nếu rời lìa sự thấy hai bên, chẳng làm chẳng phải chẳng làm, thấy mà chẳng thấy như vậy thì gọi là chánh kiến. Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Pháp ấy chỉ có danh tự, mà vì ly danh tự, vì vĩnh viễn chẳng chứng vậy ».
Tôn giả lại hỏi : « Thế nào được tự thấy ? ».
Vô Úy Đức nói : « Như chỗ thấy của Đại Ca Diếp ».
Tôn giả nói : « Tôi chẳng thấy tự thân và ngã sở ? ».
Vô Úy Đức nói : « Phải nên thấy tất cả pháp như vậy, vì không có ngã
và ngã sở vậy ».
Lúc Vô Úy Đức nói pháp ấy, Tôn giả Tu Bồ Đề lòng rất vui mừng mà nói với Vô Úy
Đức rằng : « Cô khéo được lợi lành mà hay thành
tựu biện tài ấy ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Pháp có được có chẳng được mà có thể cầu ư, sao Ngài bảo tôi khéo được biện tài. Tôi có biện thuyết nầy : Nếu tôi nói không có
chỗ giác tri hoặc nội hoặc ngoại thì là có biện tài ».
Tôn giả hỏi : « Cô chứng được gì đắc pháp gì mà có diệu biện như vậy ? ».
Vô Úy Đức nói : « Vì chẳng tự biết vì chẳng từ người mà biết, chẳng thấy có tướng pháp thiện pháp bất thiện sai biệt, biết pháp như vầy : chẳng thấy nhiễm tịnh hữu lậu vô lậu hữu vi vô vi thế gian xuất thế gian và pháp phàm
phu, vì pháp thể ấy chẳng thể thấy vậy, là chư Phật pháp, mà đắc Phật pháp chẳng thấy Phật pháp. Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Nếu không chỗ biết thấy như vậy thì có biện tài nầy ».
Tôn giả hỏi : « Thế nào là biện tài ? ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Như chỗ sở đắc tịch diệt của Ngài vậy ».
Vô Úy Đức nói với Tôn giả Xá Lợi Phất : « Như pháp thể ấy không nghe không
được mà có chỗ nói ».
Vô Úy Đức hỏi Tôn giả Tu Bồ Đề : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Pháp thể trụ được chăng, lại có thể tăng giảm chăng mà có biện tài như vậy ? ».
Tôn giả nói : « Nếu chứng vô lậu và pháp không có sai biệt không có biện thuyết, vì pháp thể ấy chẳng thể nói được vậy ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Ở nơi tất cả pháp sao Ngài lại sanh niệm rằng được lợi lành được biện tài như vậy ? ».
Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Cô do được biện tài mà nói hay chẳng được biện tài mà nói ? ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Ngài có tin lời đức Phật dạy tất cả các pháp như hưởng chăng ? ».
Tôn giả nói : Tôi tin sự ấy.
Vô Úy Đức nói : « Hưởng ấy là có hay không
có biện tài ? ».
Tôn giả nói : « Do nơi nội thanh mà có ngoại hưởng ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Do vì có thanh
mà có hưởng ấy, hưởng ấy mà có thì là tánh tướng gì ? Nhưng hưởng ấy không có tánh tướng. Tại sao ?Vì nếu do duyên sanh thì hưởng ấy không có nghĩa
sanh ».
Tôn giả nói : « Tất cả pháp duyên sanh ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Tất cả pháp thể tánh chẳng sanh ».
Tôn giả nói : « Nếu tất cả pháp thể tánh cứu cánh không có như vậy, sao đức Như Lai dạy rằng hằng hà sa chư Phật sẽ thành Chánh Giác ?
».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Pháp giới là có thể sanh được chăng ? ».
Tôn giả nói : « Chẳng thể sanh được ».
Vô Úy Đức nói : « Tất cả chư Phật Như Lai đều là pháp giới tánh tướng ».
Tôn giả nói : « Chẳng thấy tất cả pháp giới vậy ».
Vô Úy Đức nói : « Bao nhiêu lời được nói, ngôn ngữ vô tánh, mà nói hằng hà sa chư Phật sẽ thành Chánh Giác, lời nói nầy có nghĩa gì. Tại sao ? Vì pháp giới bất sanh bất diệt nên tất cả thuyết chẳng phải thuyết vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Vì kia chẳng phải sự chẳng thể ngôn thuyết được, rời lìa nơi thiệt tể ».
Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Rất lạ, Vô Úy Đức là cô gái tại gia mà hay thiện xảo thuyết pháp như vậy, lại có biện tài vô tận như vậy ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Chư Bồ Tát không có giữ lấy hay chẳng giữ lấy, nghe hay chẳng nghe hoặc tại gia hoặc xuất gia mà có biện tài. Tại sao ? Vì tâm thanh tịnh vậy. Do tâm tịnh nên trí hiển, do trí hiển nên hiển biện tàỉ ».
Vô Úy Đức bảo Tôn giả Tu Bồ Đề rằng : « Nay nên khéo nói hạnh của Bồ Tát ».
Tôn giả nói : « Cô nói đi, tôi lắng nghe ».
Vô Úy Đức nói : « Bồ Tát thành tựu tám thứ pháp hạnh nên chẳng được nói là tại gia, xuất gia ; một là Bồ Tát được tâm thanh tịnh quyết định tin Bồ đề, hai là Bồ Tát thành tựu đại từ đại bi nên chẳng bỏ chúng sanh, ba là vì thành tựu đại từ bi nên thiện xảo tất cả sự thế gian, bốn là hay xả bỏ thân mạng chi phần và thành tựu phương tiện thiện xảo, năm là thiện xảo vô lượng phát nguyện, sáu là thành tựu Bát Nhã Ba la mật hạnh vì rời lìa tất cả chấp kiến, bảy là đại dũng mãnh tinh tiến vì tu các thiện nghiệp mà không chán đủ vậy, tám là được vô ngại trí vì được vô sanh pháp nhẫn vậy.
Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Chư Bồ Tát do thành tựu tám pháp như vậy nên chẳng được gọi là tại gia hay xuất gia, tùy theo oai nghi nào cũng an trụ trong Bồ đề không hề chướng ngạỉ ».
Bấy giờ Tôn giả La Hầu La bảo Vô Úy Đức rằng : « Lời nói ấy là ngôn thuyết bất tịnh. Cô mang guốc báu ngồi tòa cao mà luận nghị qua lại cùng chư đại Thanh Văn. Cô há
chẳng nghe đức Phật dạy rằng : là người bất tịnh thì chẳng được thuyết pháp và cũng chẳng được thuyết pháp cho người ngồi tòa cao ư ? ».
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài La Hầu La ! Ngài có thiệt biết tịnh và bất tịnh chăng ? Thưa Ngài La Hầu La ! Thế gian nầy là tịnh chăng ? ».
Tôn giả nói : « Không tịnh chẳng tịnh vậy ».
Vô Úy Đức nói : « Như Lai chế giới theo đó mà thọ hành rồi phạm giới đó là tịnh và bất tịnh. Nếu lại có người chẳng phạm giới đó là chẳng phải tịnh và bất tịnh.
Thưa Ngài La Hầu La ! Thôi đi chớ có nói như vậy. Nếu người y như thuyết pháp y như chế giới mà tu hành, thì
người ấy nói bất tịnh. Nhưng vì người ấy chứng được pháp vô lậu, thì người ấy không có phạm và chẳng phạm nên cũng không có
tịnh và bất tịnh. Tại sao ?Vì chư đại Thanh Văn đã quá
các thuyết pháp đã quá các chế giới. Đức Như Lai vì chư Thanh Văn hữu học đến trong tam giới nên vì họ thuyết pháp vì họ chế giới. Như chư đại Thanh Văn ấy đã quá tam giới. Do đây nên nói quá hay chẳng quá tam giới như vậy.
Do vì họ chẳng biết được giới nên nói tịnh và bất tịnh. Như hư không chỉ có ngôn thuyết duy trì lực thấy biết, thế nên được nói tịnh và bất tịnh vậy ».
Tôn giả La Hầu La hỏi: « Tịnh và bất tịnh có sai biệt gì ? ».
Vô Úy Đức nói : « Ví như chơn kim rời lìa hẳn cấu uế làm những đồ trang sức và chẳng làm, màu sắc chơn kim có sai biệt gì ? ».
Tôn giả nói : « Không có sai biệt ».
Vô Úy Đức nói : « Tịnh cùng bất tịnh chỉ có ngôn thuyết danh tự để làm sai biệt mà không có sai biệt gì khác. Tại sao ? Vì tất cả pháp tánh rời lìa tất cả cấu uế không nhiễm không trước vậy.
Thưa Ngài La Hầu La ! Người ngồi tòa cao rộng chẳng nên thuyết pháp. Bồ Tát ngồi tòa trải cỏ hơn người ngồi tòa cao hơn cả đại Thanh Văn ngồi tại Phạm Thiên ».
Tôn giả nói : « Cô nói vậy là có nghĩa gì ? »
.
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài La Vân !
Ngài có thấy Bồ Tát ngồi trên tòa gì mà thành Vô thượng Bồ đề chăng ? ».
Tôn giả nói : « Ngồi trên tòa cỏ ».
Vô Úy Đức nói : « Bồ Tát ngồi tòa cỏ mà trong Đại Thiên thế giới tất cả Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương cùng chư Thiên Tử cho đến trời Sắc Cứu Cánh đều đền lễ lạy chắp tay lạy chưn Bồ Tát ».
Tôn giả nói : « Đúng như vậy ».
Vô Úy Đức nói : « Do thành tựu pháp như vậy mà Bồ Tát ngồi tòa cỏ hơn người ngồi tòa cao rộng lớn, hơn đại Thanh Văn ở tại Phạm Thiên ».
Vua A Xà Thế bảo Vô Úy Đức rằng : « Con há chẳng biết Tôn giả La Hầu La đây là con trai của Thích Ca Như Lai ở trong hàng học giới là tối đệ nhứt ư ? ».
Vô Úy Đức nói : « Thôi đi Phụ Vương chớ nói như vậy. Phụ Vương có thấy nghe sư tử chúa sanh con dã can chăng ? ».
Vua nói : « Không hề thấy ».
Vô Úy Đức nói : « Phụ Vương có thấy có nghe Chuyển Luân Thánh Vương lễ kính chư Tiểu Vương chăng ? ».
Vua nói : « Không có ».
Vô Úy Đức nói : « Đúng vậy. Như Lai Sư Tử Vương chuyển đại pháp luân chư Thanh Văn cung kính vây quanh.
Nếu y chánh pháp thì ai là chơn tử của đức Như Lai. Thì nên đáp rằng chính là chư Bồ Tát vậy. Vì thế chẳng nên nói đức Như Lai có con hay đức Như Lai không con.
Nếu nói đức Như Lai có chơn tử thì nên nói ai phát tâm Vô thượng Bồ đề là chơn tử của đức Như Laỉ ».
Lúc nói pháp trên đây, trong cung vua A Xà Thế có hai vạn nữ nhơn phát tâm Bồ đề, hai vạn Thiên Tử đầy đủ pháp ấy nghe Vô Úy Đức sư tử hống rồi đều phát tâm Bồ đề.
Vua A Xà Thế lại nói : « Đây là con trai của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại lìa hẳn phiền não học giới Thanh Văn thế nào chẳng phải chơn tử ! ».
Chư Thiên vì cúng dường Vô Úy Đức nên rải hoa lên đức Phật khắp thành Vương Xá.
Bấy giờ Vô Úy Đức rời tòa ngồi đến lễ kính chư đại Thanh Văn rồi dưng cúng các thực phẩm đúng như pháp. Cúng dường xong, Vô Úy Đức bạch rằng : « Chẳng biết chư Tôn giả đại Thanh Văn có chi
sáng sớm rời xa đức Phật mà đến chốn nầy, phải nên nghe đức Phật thuyết pháp rồi sẽ đi khất thực. Chư Tôn giả về đi, trong giây lát
đây tôi sẽ đến chỗ đức Phật ».
Vô Úy Đức cùng Phụ Vương A Xà Thế và Vương Mẫu vô lượng nhơn chúng doanh vây xuất thành đến chỗ đức Phật đồng đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi một phía.
Chư Thanh Văn ấy cũng đến lễ chưn Phật rồi ngồi qua một bên. Tôn giả Xá Lợi Phất tác lễ bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Vô Úy Đức, cô gái nhỏ đây rất kỳ lạ, được phước lợi rất lớn ».
Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Vô Úy Đức đây đã ở nơi chín mươi ức Phật quá khứ phát tâm Bồ đề vun trồng căn lành để cầu Vô thượng Phật đạo ».
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Vô Úy Đức dây có thể chuyển thân nữ ấy chăng ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Ông thấy Vô Úy Đức là nữ nhơn ư ? Ông chớ có thấy như vậy. Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy phát nguyện lực mà thị hiện thân nữ nhơn để độ chúng sanh ».
Vô Úy Đức phát thệ rằng : « Nếu tất cả pháp chơn thiệt phi nam phi nữ thì khiến nay tôi hiện thân trượng phu cho tất cả đại chúng được thấy ».
Thệ xong liền diệt tướng nữ hiện thân trượng phu thăng lên hư không cao bằng bảy cây đa la rồi dừng ở tại đó không xuống.
Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Ông có thấy Bồ Tát Vô Úy Đức trụ tại hư không chẳng xuống ấy chăng ? ».
Tôn giả bạch : « Tôi đã thấy, bạch đức Thế Tôn ! ».
Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Vô Úy Đức Bồ Tát nầy lại quá bảy ngàn a tăng kỳ kiếp được thành Chánh giác
hiệu Ly Cấu Như
Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, thế giới tên Quang Minh, đức Phật ấy thọ trăm kiếp, chánh pháp trụ thế mười kiếp, thuần Bồ Tát Tăng ba vạn bất thối chuyển Bồ Tát, thế giới ấy đất bằng lưu ly thanh tịnh , đường sá tám hướng trang nghiêm phủ với hoa sen báu, không có tên các ác đạo, trời, người đông đầy thọ diệu lạc và thắng pháp vị như trời Đâu Suất » .
Mẹ của Vô Úy Đức là Nguyệt Quang phu nhơn cùng vua A Xà Thế đồng chắp tay hướng Phật bạch rằng : » Bạch đức Thế Tôn ! Tôi được đại lợi, chin tháng hoài
thai người con nầy, nay đại sư tử hống như vậy. Nay tôi đem căn
lành ấy hồi hướng Vô thượng Bồ đề, sau nầy tại thế giới Quang Minh của Phật Ly Cấu tôi sẽ thành đạo Vô thượng Chánh Chơn Chánh giác.
Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất : « Nầy Xá Lợi Phất !Nguyệt Quang phu nhơn đây sau khi xả thân người sẽ sanh làm thiên tử trời Đao Lợi hiệu là Quang Minh Tăng Thượng. Lúc Phật Di Lặc xuất thế sẽ là con trai lớn của Đại Vương thời ấy, cúng dường Phật Di Lặc rồi xuất gia, hay ghi nhớ thọ trì tất cả pháp của Phật Di Lặc tuyên thuyết. Từ đó thứ đệ gặp chư Phật Hiền kiếp và đều cúng dường. Đến thời kỳ Phật Ly Cấu xuất thế, sẽ hiện thân làm Đại Vương hiệu Trì Địa có đủ bảy báu cúng dường đức Ly Cấu Như Lai, sau đó thành Phật hiệu Biến Quang Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu thế giới trang nghiêm như thế giới Quang Minh của Phật Ly Cấu ».
Nghe đức Phật thọ ký, Nguyệt Quang phu nhơn vui mừng hớn hở liền cởi chuổi báu anh lạc giá trị trăm ngàn lượng vàng dâng lên cúng dường đức Phật, xin phép vua A
Xà Thế rồi xuất gia thọ đủ năm trăm chánh giới tu tập phạm hạnh.
Vô Úy Đức Bồ Tát ở trước đức Phật bạch rằng : « Do sức nhơn duyên thệ nguyện nầy khiến thuở vị lai lúc tôi thành Phật chúng Bồ Tát đều mặc pháp phục tất cả hóa sanh. Nếu thệ nguyện trên đây không hư thì khiến nay tôi sẽ hiện thân như niên thiếu Tỳ kheo tám lạp ».
Phát nguyện xong, Bồ Tát Vô Úy Đức liền hiện thân mặc pháp phục thành Tỳ Kheo đầy đủ oai nghi.
Vô Úy Đức Bồ Tát nói với Phụ Vương A Xà Thế rằng : « Tâu Phụ Vương ! Tất cả các pháp đều như vậy, tức thì bỗng hóa sanh tướng rời các tướng được phân biệt sanh khởi, không các điên đảo. Tâu Phụ Vương ! Lại liền bây giờ hiện trở lại thân nữ nhơn, Phụ Vương có thấy chăng ? ».
Vua nói : « Đã thấy. Nhưng ta chẳng phải do tướng sắc thân để thấy. Nay ta thấy hiện thân Tỳ Kheo rồi lại thấy thân nữ nhơn trở lạỉ ».
Đức Phật hỏi vua : « Nầy Đại Vương !Thân nào là thiệt ? Đại Vương phải nên học như vậy an trụ chánh kiến đối với tất cả pháp. Các chúng
sanh vì bị phiển não thiêu đốt nên chẳng đạt pháp lực. Vì chẳng đạt nên chẳng phải chỗ nghi mà sanh lòng nghi hối. Phải nên thường thường thân cận Như Lai và Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử Bồ Tát, vì do sức oai đức của Bồ Tát ấy mà khiến cho Đại Vương được thọ hối quá ».
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : « Nầy A Nan ! Ông thọ trì pháp môn Vô Úy Đức Bồ Tát thọ ký nầy đọc tụng chớ quên.
Nầy A Nan ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn đầy đủ thất bửu đem cúng thí chư Phật Như Lai chật khắp Đại Thiên thế giới được công đức không bằng có người hay thọ trì một câu một kệ pháp môn nầy, huống là người thọ trì đủ hoặc đọc hoặc tụng rộng vì người giảng nói và như pháp tu hành ».
Đức Phật Thế Tôn nói kinh nầy rồi. Nguyệt Quang phu nhơn mẹ của Vô Úy Đức tất cả đại chúng Thiên Long
Bát Bộ nghe đức Phật dạy xong đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment