Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 128
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI LĂM
Lúc bấy giờ Hư Không Tạng Đại Bồ Tát bạch Đức Phật : «Bạch Đức Thế Tôn ! Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, những pháp nên làm của chư Bồ Tát cũng vô lượng. Vì vậy nên pháp hành ấy chẳng thể dùng ít thệ trang nghiêm Được, chẳng thể dùng ít ngôn thuyết Để nói Được, chẳng thể dùng Tiểu thừa Đạo mà thành tựu Được.
Lành thay Đức Thế Tôn ! Ngưỡng mong Như Lai nói Bồ Tát Đại thệ trang nghiêm và Đạo trang nghiêm. Bồ Tát do Đại thệ trang nghiêm và Đạo trang nghiêm mà có thể thừa Đại thừa hành chơn thiệt tối thượng xuất thế Đạo. Vì sẽ Được xuất thế Đại thừa vô thượng thành tựu nhứt thiết tự nhiên Đại trí, dầu chưa thành Nhứt thiết trí mà có thể làm Phật sự lợi ích chúng sanh
".
Đức Phật nói : «Lành thay, lành thay ! Nầy Hư Không Tạng ! Lắng nghe lắng nghe khéo suy
nghĩ Đó, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói chư Bồ Tát Đại thệ trang nghiêm thừa trang nghiêm và Đạo trang nghiêm.
Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát có hai mươi pháp trang nghiêm Để tự trang nghiêm, Bồ Tát trang nghiêm rồi có thể thừa Đại thừa.
Những gì là hai mươi pháp ?
Nếu có Bồ Tát cứu cánh phát tâm Vô thượng Bồ Đề với tất cả chúng sanh phát tối thắng Đại bi, sanh lòng lợi ích chúng sanh.
Sanh lòng lợi ích chúng sanh rồi thì có thể trang nghiêm vô thượng Đại thệ.
Sao gọi là Đại thệ trang nghiêm ?
Vì Độ người chưa Được Độ mà Đại thệ trang nghiêm ngồi ghe thuyền lớn vậy.
Vì giải rõ cho người chưa Được rõ mà Đại thệ trang nghiêm thoát
hư vọng Điên Đảo vậy.
Vì an ổn người chưa an mà Đại thệ trang nghiêm an ở vô úy Đạo vậy.
Vì người chưa Được Niết bàn khiến họ Được Niết bàn mà Đại thệ trang nghiêm xả bỏ ngũ ấm gánh nặng vậy.
Vì siêng thường cung cấp Đủ cho chúng sanh mà
Đại thệ trang nghiêm tinh tiến chẳng giải Đãi vậy.
Vì chẳng bỏ vô lượng sanh tử mà Đại thệ trang nghiêm chẳng mỏi nhàm vậy.
Vì vui Đẹp tất cả chư Phật mà Đại thệ trang nghiêm hiện tiền cúng dường cung kính vậy.
Vì thọ trì tất cả Phật pháp mà Đại thệ trang nghiêm chẳng dứt giống Tam bửu vậy.
Vì thọ trì chẳng quên pháp Được nghe mà Đại thệ trang nghiêm Được Đà la ni tổng trì vậy.
Vì khéo thuyết pháp vui Đẹp tất cả chúng sanh mà Đại thệ trang nghiêm Được biện tài vô ngại vậy.
Vì tập họp vô lượng công Đức tư lương mà Đại thệ trang nghiêm thành
tựu tướng hảo vậy.
Vì vui Đẹp tất cả thiện tri thức mà Đại thệ trang nghiêm kiên cố sở hành vậy.
Vì ngăn tâm tán Động mà Đại thệ trang nghiêm sanh các thiền giải thoát tam muội vậy.
Vì ở chỗ a lan nhã xả ly thân mạng mà Đại thệ trang nghiêm Được lục thần thông vậy.
Vì muốn Đại sư tử hống không có kinh sợ mà Đại thệ trang nghiêm hiện tiền Được vô ngã pháp vậy.
Vì muốn Đến tất cả thế giới mà Đại thệ trang nghiêm muốn biết tất cả pháp như ảo huyễn như chiêm bao như bóng tượng vậy.
Vì chiếu khắp nghiêm sức tất cả thế giới mà Đại thệ trang nghiêm thanh tịnh cấm giới thọ trì thành tựu lực dụng vậy.
Vì thành tựu Như Lai thập lực mà Đại thệ trang nghiêm Đầy Đủ các Ba la mật vậy.
Vì thành tựu tứ vô sở úy mà Đại thệ trang nghiêm như sở thuyết hành vậy.
Vì Được trọn Đủ mười tám pháp bất cộng mà Đại thệ trang nghiêm như pháp Bồ Tát Địa Được nghe chẳng hí luận vậy.
Đây là hai mươi pháp Bồ Tát Đại thệ trang nghiêm. Do sức trang nghiêm ấy nên có thể thừa Đại thừa. Bồ Tát dùng sức tự trang nghiêm ấy dứt nhơn duyên ác Đạo, Đây gọi là trang nghiêm. Đầy Đủ thiện pháp Được chư Phật hộ trì, Đây gọi là trang nghiêm. Tùy chỗ nào muốn Đến liền Được vãng sanh, Đây gọi là trang nghiêm.
Xả bỏ tất cả bào thai hay hóa sanh trước chư Phật, Đây gọi là trang nghiêm. Hay Được thân khẩu ý ba nghiệp vô tranh, Đây gọi là trang nghiêm.
Trụ hạnh bất phóng dật Được chư Thiên và thế nhơn cung kính, Đây gọi là trang nghiêm.
Khéo thông Đạt ba môn giải thoát mà chẳng dứt thiệt tế, Đây gọi là trang nghiêm. Tất cả vô ngã pháp Đều Được hiện tiền mà vẫn chẳng bỏ Đại thệ trang nghiêm, Đây
gọi là trang nghiêm. Đây là Bồ Tát Đầy Đủ Đại thệ trang nghiêm.
Thế nào gọi là trang nghiêm Bồ Tát thừa ?
Nầy Hư Không Tạng ! Thừa là nói vô lượng vậy, là vô biên vậy, là khắp cùng tất cả như hư không rộng lớn dung thọ tất cả chúng sanh vậy. Chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật nên gọi là Đại thừa.
Còn nữa, thừa ấy dùng chánh an trụ tứ nhiếp pháp làm vành, dùng chơn tịnh thập thiện nghiệp làm căm, dùng tịnh công Đức tư lương làm cốt, dùng kiên cố thuần chí cứu cánh làm chốt ốc, dùng thiện thành tựu các thiền giải thoát tam muội làm trục càng thùng xe,
dùng tứ vô lượng tâm làm khéo Đẩy xe, dùng thiện tri thức làm người ngự xe, dùng biết thời biết phi thời làm phát Động, dùng tiếng vô thường khổ không vô ngã là
sách tiến, dùng dây báu thất giác làm cương, dùng tịnh ngũ căn làm dây
chằng cột, dùng Đại bi ngay thẳng làm tràng, dùng Tứ chánh cần làm trục, dùng Tứ niệm xứ làm an lành, dùng Tứ thần túc làm tiến mau, dùng thắng Ngũ lực làm giám trận, dùng Bát chánh Đạo làm tiến thẳng, với tất cả chúng sanh vô ngại huệ minh làm hiên mui, dùng vô trụ lục Ba la mật hồi hướng Nhứt thiết trí, dùng vô ngại tứ Đế vượt Đến bờ kia, Đây là Đại thừa vậy. Thừa này là sở thọ của chư Phật, là sở quán của Thanh Văn và Bích
Chi Phật, là sở thừa của tất cả Bồ Tát, là chỗ Đáng Được kính lễ của Thiên Đế Thích, Phạm Thiên và Hộ Thế Tứ Thiên Vương, là chỗ Đáng cúng dường của tất cả chúng sanh, là chỗ Đáng ngợi khen của tất cả người trí, là chỗ Đáng hướng về của tất cả thế gian, tất cả kẻ oán ghét chẳng thể khinh chê Được, tất cả các ma chẳng thể phá hoại Được, tất cả ngoại Đạo chẳng thể trắc lượng Được, tất cả thế trí chẳng thể tranh Được, thừa này thù thắng không có gì hơn Được, Được các hiền thánh thủ hộ, thừa này tùy nguyện có thể Đến tất cả Phật giới, vì vậy mà thừa này chiếu sáng khắp nơi vì có thể phóng màn lưới quang minh, thừa này có tiếng lớn vì hay xuất sanh các pháp
môn, thừa này chí ý mạnh cứng vì chẳng thối hườn, thừa này bền vững vì chẳng biếng trễ, thừa này Đứng thẳng vì chẳng khuynh Động, thừa này các sự việc Đều Đủ vì hay thỏa mãn tất cả nguyện lành, Đây gọi là Đại thừa các Đại thệ trang nghiêm vậy.
Bồ Tát thừa Đại thừa này rồi thì có thể từ một bực Địa Đến một bực Địa, Đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể xả bỏ lỗi hoạn của các Địa, Đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể xả bỏ các ma nghiệp, Đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể hóa Độ các chúng sanh, Đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể tịnh Phật thế giới, Đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể hiện Bồ Tát thần biến, Đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể Độ sanh tử khát lớn, Đây là sự trang nghiêm của thừa này. Có thể nhập vào cảnh giới Như Lai, Đây là sự trang nghiêm của thừa này.
Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm Đạo ?
Bồ Tát Đại thệ trang nghiêm và thừa Đại thừa rồi xả bỏ tất cả tà Đạo. Xả bỏ tà Đạo rồi hướng Đến chánh Đạo chơn thiệt Đến Nhứt thiết trí.
Sao gọi là chánh Đạo ? Đó là chẳng bỏ thiện pháp vậy, là hành Đại nguyện chẳng thối chuyển Bồ Đề Đạo vậy, là siêng tu tinh tiến căn lành chẳng mất vậy, là hành bất phóng dật bất Động thuần chí, chẳng chìm nơi sở tác quyết có thể cứu cánh ngưỡng nắm lấy pháp trên, cầu công Đức tư lương chẳng hề cho là Đầy Đủ, cầu trí huệ tư lương trọn chẳng phế bỏ, Đây là Bồ Tát chánh Đạo vậy.
Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát Đạo ấy là Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ không Định, Ngũ thần thông, Tam phước nghiệp, Tam học, Lục ưng kính, Lục niệm, Tứ nhiếp pháp, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh Đạo phần, Tam giải thoát môn, biết Ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết Nhập phương tiện, biết Tứ Đế phương tiện, biết Nhơn duyên phương tiện, Đây gọi là Đạo.
Bồ Tát thành tựu Đạo phương tiện nầy Đều có thể tùy thuận nhập vào Lục Ba la mật Đạo. Tại sao, vì Bồ Tát Lục Ba la mật Đạo chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích
Chi Phật. Đạo nầy là chỗ Được khen ngợi của tất cả chư Phật, từ miệng Như Lai phát ra thành
tựu phương tiện.
Bồ Tát biết Được thiệt tánh tất cả pháp thì có thể trụ xuất thế gian Lục Ba la mật thánh Đạo.
Thế nào là trụ ?
Nếu có Bồ Tát thành tựu tự nhiên huệ phương tiện mà cầu Bồ Đề, ở trong thân ngũ thọ ấm nầy vì như thiệt giác tri mà cầu Bồ Đề, Bồ Tát này biết sắc vô thường mà hành bố thí, biết sắc khổ, biết sắc vô ngã, biết Độn, biết sắc vô trí, biết sắc như huyễn ảo, biết sắc như thủy nguyệt, biết sắc như mộng, biết sắc như bóng, biết sắc như vang, biết sắc như vòng lửa quay, biết sắc không có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng, biết sắc không có chủ không có dưỡng dục, biết sắc là rỗng không, là vô tướng, là vô nguyện, biết sắc là vô tác, là vô sanh, là vô khởi, là vô xuất, biết sắc là vô hình, là tịch tĩnh, là ly, là vô chung, là không có thành tựu Đồng với hư không, biết sắc như tánh Niết bàn, Bồ Tát biết sắc uẩn như vậy mà hành bố thí.
Lúc hành bố thí như vậy, vì thí ly nên Bồ Tát biết sắc cũng ly, vì sắc ly nên bố thí cũng ly. Vì sắc và thí Đều ly nên biết nguyện cũng ly, vì nguyện ly nên biết sắc và thí cũng ly.
Vì sắc thí và nguyện ly nên biết Bồ Đề cũng ly, vì Bồ Đề ly nên biết sắc thí và nguyện cũng ly, do Đó mà biết tất cả pháp Đồng tánh Bồ Đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Đàn Ba la mật vậy.
Như với sắc uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.
Bồ Tát biết thức vô thường nên hành bố thí, biết thức khổ, vô ngã, là Độn, là vô trí, như huyễn ảo, như dã mã, như thủy nguyệt, như mộng, như bóng, như vang, như vòng lửa quay, không có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, không có chủ, không có dưỡng dục, biết thức rỗng không, không có
tướng, không có nguyện, là vô tác, vô
sanh, vô khởi, vô xuất, biết thức không có hình, là tịch tĩnh, là ly, biết thức không có chung, không có thành tựu cùng hư không bình Đẳng, biết thức Đồng tánh Niết bàn, Bồ Tát biết thức uẩn như vậy mà hành bố thí.
Bồ Tát lúc hành bố thí như vậy, vì thí ly nên biết thức cũng ly, vì thức ly nên biết thí cũng ly, vì
thức và thí ly nên biết nguyện cũng ly, vì nguyện ly nên biết thức và thí cũng ly, vì thức thí nguyện ly nên biết Bồ Đề cũng ly, vì Bồ Đề ly nên biết thức thí và nguyện cũng ly, mà biết tất cả pháp Đồng tánh Bồ Đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Đàn Ba la mật vậy.
Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát biết sắc vô thường mà hộ nơi cấm giới, nhẫn Đến biết sắc như tánh Niết bàn mà hộ nơi cấm giới.
Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.
Bồ Tát biết thức vô thường mà hộ cấm giới, nhẫn Đến biết thức uẩn như Niết bàn tánh mà hộ nơi cấm giới.
Vì giới ly nên Bồ Tát biết thức cũng ly, vì thức ly nên biết giới cũng ly, nhẫn Đến biết tất cả pháp Đồng Bồ Đề tánh. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Thi Ba la mật vậy.
Như Đàn và Thi Ba la mật, Sằn Đề, Tỳ lê gia, Thiền Ba la mật cũng vậy.
Bồ Tát biết sắc vô thường mà hành Bát Nhã,
nhẫn Đến biết sắc uẩn như Niết bàn tánh mà hành
Bát Nhã.
Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.
Bồ Tát biết thức vô thường mà hành Bát Nhã,
nhẫn Đến biết thức uẩn như Niết bàn tánh mà hành
Bát Nhã.
Vì Bát Nhã bình Đẳng nên Bồ Tát biết thức bình Đẳng, vì thức bình Đẳng nên biết Bát Nhã bình Đẳng, vì Bát Nhã và thức bình Đẳng nên biết nguyện bình Đẳng, vì nguyện bình Đẳng nên biết Bát Nhã và thức bình Đẳng, vì biết Bát Nhã thức và nguyện bình Đẳng nên biết Bồ Đề bình Đẳng. Vì biết Bồ Đề bình Đẳng nên biết Bát Nhã thức và nguyện cũng bình Đẳng. Do Đây mà biết tất cả pháp Đồng tánh Bồ Đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Bát Nhã Ba la mật vậy.
Bồ Tát xuất thế gian Ba la mật Đạo nầy Đều có thể nhiếp thủ tất cả các Đạo, nên phải biết rằng tất cả các Đạo Đều nhiếp vào trong ấy cả.
Tại sao gọi Đó là xuất thế gian ư ?
Nầy Hư Không Tạng ! Ngũ thọ ấm gọi là thế gian. Bồ Tát khéo phân biệt ngũ ấm, quán nó vô thường nhẫn Đến như tánh Niết bàn rồi, biết trong Đạo ấy không có thế gian và pháp thế gian, biết Đạo ấy là vô lậu là xuất thế gian không có buộc dính, Đây gọi là xuất thế gian. Đây gọi là Bồ Tát Đạo vậy.
Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Đạo ấy, Đó là như thiệt cầu tất cả các pháp phân biệt lựa chọn chẳng thấy tất cả các pháp nối nhau chứa nhóm, không có hai không có khác, nên gọi là Đạo. Mà Đạo ấy thì không có ghét
thương, vì không có
ghét thương nên gọi là bình Đẳng, vì tư duy quan sát các thừa khác nên gọi là rộng lớn, vì bỏ lìa siểm khúc nên gọi là ngay thẳng, vì bỏ lìa tâm vạy vò nên gọi là không có gian,
vì dứt trừ các cái chướng nên gọi là không có buộc trói trệ ngại, vì bỏ lìa quan niệm dục tham sân hại nên gọi là không có bụi dơ, vì chẳng thọ nhận sắc, thanh, hương, vị, xúc nên gọi là an vui, vì bỏ lìa phiền não chúng giặc nên gọi là vô úy, vì có
thể Đến Niết bàn nên gọi là xuất yếu, vì thành tựu Định tịch tĩnh nên gọi là thanh tịnh thủy huệ, vì khéo hiểu biết nên gọi là thường sáng, vì khéo tu
tâm từ nên gọi là vui mát, vì chẳng bỏ Đại bi nên gọi là tiến không nhàm, vì thường hành hỉ nên gọi là vui vẻ, vì thành tựu tâm xả nên gọi là không có lầm lỗi, vì thuận pháp tứ nhiếp nên gọi là giàu lớn, vì thành tựu sức thí món ăn Ba la
mật nên Được Nhứt thiết trí biện tài, vì Được chư Phật khéo hộ trì nên gọi là qua khỏi pháp hành tứ ma, vì chẳng bỏ bổn nguyện nên gọi là tiến không trệ ngại, vì vượt qua dòng các phiền não nên gọi là vô thượng, vì tất cả thế gian không có gì
có khả năng hàng phục Được nên gọi là không có Đáp Đối.
Đạo ấy thành tựu các công Đức như vậy và vô lượng công Đức khác. Tất cả Bồ Tát Đại Sĩ do thừa Đạo ấy nên có thể qua lại giáo hóa vô lượng chúng sanh, Đây
là trang nghiêm. Không có phiền não mà hiện vào phiền não, Đây là trang nghiêm. Quán vô sanh mà chẳng chứng thiệt tế, Đến môn không vô tướng vô tác mà hay giáo hóa những chúng sanh hành các kiến, các tướng, các nguyện, Đây là trang
nghiêm. Hiện nhập Thanh Văn, Duyên Giác Niết bàn mà chẳng bỏ sanh tử, Đây là trang nghiêm. Hiện thọ sanh các loài mà chẳng Động pháp tánh, hiện nói tất cả ngôn giáo mà chẳng Động vô ngôn, Đây là trang nghiêm. Hay hiện tất cả Phật sự mà chẳng bỏ Bồ Tát hạnh, Đây là trang
nghiêm.
Đây là Bồ Tát Đại thệ trang nghiêm, Đại thừa trang nghiêm và Đạo trang nghiêm vậy.
Bồ Tát dùng Đại thệ trang nghiêm Để tự trang nghiêm nên có thể thừa Đại thừa thuận xuất thế gian thánh Đạo, dầu chưa Được Nhứt thiết trí mà vì chúng sanh có thể hiện làm Phật sự".
Lúc ấy trong Đại chúng có một Bồ Tát tên là Bửu Đức hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát : «Bạch Đại Sĩ ! Ngài Đã tu
xuất thế gian thành Đạo này rồi chăng ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Đã tu,
thưa Đại Sĩ".
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Ngài tu thế nào ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Như Được thanh tịnh Đạo, tôi tu như vậy".
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Thế nào là thanh tịnh Đạo ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Thưa Đại Sĩ ! Vì ngã tịnh nên Đạo tịnh".
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Thế nào là ngã tịnh ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Như tam thế tịnh".
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Thế nào là tam thế tịnh ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Sắc thuở quá khứ tịnh vì sắc bổn tế không có Đến vậy. Sắc thuở vị lai cũng tịnh vì sắc vị lai không có Đi vậy. Sắc thuở hiện tại cũng tịnh vì sắc hiện tại không trụ vậy. Đây là tam thế tịnh.
Thọ tưởng hành nhẫn Đến thức cũng như vậy.
Nầy Đại Sĩ ! Vì thế trong tam thế tịnh nên ngã tịnh. Vì ngã tịnh nên gọi là Đạo tịnh".
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Thưa Đại Sĩ ! Đạo tịnh như vậy hay làm Được gì ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Hay làm
Đại trí huệ quang minh. Do sức trí huệ minh ấy nên có thể biết tất cả pháp quá khứ và vị lai tế".
Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi : «Sao gọi là pháp quá khứ vị lai tế ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Tất cả pháp quá khứ tế vô sanh, nơi vị lai tế vô diệt, Đây gọi là biết pháp quá khứ vị lai tế".
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Nếu thấy pháp quá khứ vị lai tế là thấy những gì ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Thấy hai Đều ly".
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Sao gọi là hai Đều ly ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói :"Là
ly Đoạn và ly thường. Nầy Đại Sĩ ! Nếu có thấy pháp sanh và trụ trước nơi pháp thì là Đoạn kiến và thường kiến. Vì có sanh thì có diệt. Có sanh có diệt thì là kiến chấp Đoạn thường.
Nếu chẳng thấy có pháp từ tự tánh tha tánh sanh thì thấy nhơn duyên. Nếu thấy nhơn duyên thì thấy pháp. Nếu thấy pháp thì thấy Như Lai. Nếu thấy Như Lai thì thấy Như. Nếu thấy như thì chẳng trệ nói Đoạn cũng chẳng chấp thường. Nếu chẳng thường chẳng Đoạn thì không có sanh không có diệt".
Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi : «Bạch Đại Sĩ ! Nếu vô sanh vô diệt thì sao lại có danh số ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Vì giả ngôn thuyết mà gọi Đó là pháp vậy. Như do có không rỗng nên có tên sắc sai biệt, Đó là những màu sắc xanh vàng Đỏ trắng, màu tím, màu pha lê, màu lưu ly, màu thô, màu
tế và những hình sắc dài vắn vuông tròn. Hư không chẳng bị những sắc hình ấy làm nhiễm, mà tất cả sắc hình ấy tự tánh cũng rỗng không. Tất cả các pháp cũng như vậy Đồng tánh hư không, chỉ giả ngôn thuyết mà có danh số thôi. Những là thiện pháp, bất thiện pháp, thế gian pháp, xuất thế pháp, pháp nên
làm, pháp chẳng nên làm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi. Nhưng Bồ Tát chẳng làm những việc phi phước. Việc phước Được làm Đều là hư dối chẳng phải chơn thiệt chẳng phải kiên cố.
Bồ Tát ấy biết tất cả hạnh và phi hạnh bình Đẳng, bỏ lìa tất cả tướng. Vì thành tựu sức Bát Nhã Ba la mật nên hồi hướng Bồ Đề, mà cũng chẳng thấy Bồ Đề có tăng có giảm. Bồ Tát ấy chẳng ở trong sắc cầu Bồ Đề, cũng chẳng ở trong thọ, tưởng, hành, thức cầu Bồ Đề. Bồ Tát vì không cầu nên trụ trong khối thanh tịnh giới, tu vô nguyện giải thoát môn Đầy Đủ tất cả nguyện, biết tánh sanh tử Đồng tánh Niết bàn. Bồ Tát ấy dầu nhập cứu cánh Niết bàn mà vì Đoạn trừ chúng sanh hư vọng Điên Đảo nên hành Bồ Tát hạnh nhưng cũng không có
hành pháp Được hành. Bồ Tát như vậy nhập vào nơi Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh.
Nầy Đại Sĩ ! Phàm có sở tác Đều là sanh tử, không có sở tác Đây gọi là Niết bàn. Bồ Tát sở hành là không có sở tác. Vì vậy mà Bồ Tát gọi là nhập vào Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh.
Nầy Đại Sĩ ! Phàm có nhiễm trước y dựa vọng tưởng hí luận lấy tướng Đây gọi là sanh tử. Không có nhiễm trước không y dựa không vọng tưởng không hí luận không lấy tướng, Đây gọi là Niết bàn. Bồ Tát do tu không nhiễm trước y dựa vọng tưởng hí luận thủ tướng hành Bồ Tát hạnh Đây gọi là Bồ Tát nhập Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh".
Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có năm trăm Bồ Tát Được Vô sanh Pháp nhẫn.
Đức Phật khen rằng : «Lành thay lành thay Hư Không Tạng Bồ Tát khéo nói pháp
tánh xứng với Bồ Tát hạnh chơn thiệt không có
khác".
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn ! Đây là sự khéo lành của Đức Thế Tôn, tại sao, vì do Phật huệ chiếu sáng nên chúng
tôi Được có phần luận biện này.
Dụ như ánh sáng mặt nhựt chiếu Diêm Phù Đề, do sức sáng mặt nhựt mà người có mắt Được thấy các sắc tượng làm những sự nghiệp.
Do sức Đại trí của Phật chiếu tất cả chúng sanh và các thế giới khác cũng như vậy. Chư pháp thiệt tánh chẳng thể ngôn thuyết, các ngôn thuyết Đồng với hư không. Vì vậy nên các pháp chẳng thể Được danh số. Phàm pháp có danh số thì có hạn lượng. Phàm có hạn lượng thì là hữu vi. Phàm là hữu vi thì biết Được dứt Được tu Được. Phàm là biết Được dứt Được tu Được thì có Đắc có chứng. Nếu ở nơi pháp có danh số mà tư duy tính lường phân biệt chẳng thấy có pháp Được biết, Được dứt, Được tu, Được Đắc, Được chứng thì không có Đắc, tại sao, vì tất cả pháp không có sanh vậy. Có thể chơn chánh thấy các pháp như vậy thì ở trong các pháp chẳng sanh ái nhiễm. Vì không có ái nhiễm thì không có trụ trước. Vì không trụ trước thì không kề cận. Vì không kề cận thì không thọ nhận không nắm lấy. Sao gọi là không thọ không lấy ? Đó là sắc hoặc thường hoặc vô thường Đều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc thường hoặc vô thường Đều không thọ không lấy.
Sắc hoặc khổ hoặc lạc, hoặc có ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh Đều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc khổ lạc, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh bất tịnh Đều không thọ không lấy.
Sắc hoặc không phi không Đều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc không phi không Đều không thọ, không lấy.
Sắc hoặc ly phi ly Đều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành thức hoặc ly phi ly Đều không thọ không lấy.
Bồ Tát do không thọ không lấy nên Được vô thọ tam muội. Bồ Tát trụ trong tam muội vô thọ này rồi, chư Phật Thế Tôn dùng tâm thông vô thượng thọ ký cho Bồ Tát ấy. Bồ Tát ấy dầu nhập Niết bàn thấy tất cả chúng sanh cứu cánh Đồng tánh Niết bàn, vì giáo hóa
chúng sanh nên chẳng bỏ Đại thệ trang nghiêm và Bồ Tát Đại bi. Bồ Tát dùng chánh trí huệ thấy tất cả các hành ly tướng. Vì Bồ Tát dùng pháp nhãn
thấy rõ ràng ly tướng nên có thể nói Như Lai trí minh".
Bấy giờ Bửu Đức Bồ Tát hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát : «Bạch Đại Sĩ ! Sao Ngài cớ gì tự ẩn trí của mình mà nói là do
trí lực của Như Lai ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Nầy Đại Sĩ ! Đức Như Lai Đâu chẳng dạy rằng nên ẩn lành tốt mà hiển bày dở xấu ư !
Nầy Đại Sĩ ! Tôi lại hỏi Ngài tùy ý Ngài Đáp.
Nầy Đại Sĩ ! Nếu lúc không có Long Vương A Na Bà Đạt Đa thì ao A Nậy Đạt có thể chảy ra thành bốn con sông Để chúng sanh thọ dụng chăng ?".
Bửu Đức Bồ Tát nói : «Không có, thưa Đại Sĩ ".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Nầy Đại Sĩ ! Nếu không có Đức Như Lai thì không có pháp luật, Bồ Tát không do Đâu Để thành biển Đại trí, cũng chẳng thể lợi ích tất cả chúng sanh. Do Đức Như Lai xuất thế mới có pháp luật mà chư Bồ Tát Được thành biển Đại trí, cũng có thể hóa Độ tất cả chúng sanh. Vì thế nên biết rằng tất cả Bồ Tát Được biện thuyết có thể dùng Đó Để lợi ích chúng sanh Đều là thần lực của Như Lai ".
Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi : «Bạch Đại Sĩ ! Như Lai biện có thể chuyển Đến tâm Bồ Tát chăng ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát Đáp : «Không
có".
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : ‘’ Như vậy thì thế nào vì do thần lực Như Lai mà Bồ Tát Đưọc biện thuyết ư ?’’
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’ Nầy Đại Sĩ! Ví dụ như khéo trồng cây ăn trái, nhơn duyên hòa hiệp bèn có trái có hột, nhưng cây chẳng phải là trái, mà trái thì chẳng rời cây.
Đức Như Lai thuyết pháp, Bồ Tát ở trong pháp ấy vì khéo thuận hành bèn sanh Đại trí minh biện. Nhơn nơi Đức Phật thuyết pháp mà Được, cũng không có chuyển ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát nói : ‘’ Thật là hi hữu, thưa Đại Sĩ! Nhơn duyên sanh pháp thậm thâm khó suy lường như vậy ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói: ‘’Nầy Đại Sĩ! Tất cả các pháp cứu cánh vô sanh ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát nói : ‘’Nhưng các pháp nói là
từ nhơn duyên sanh’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi : ‘’ Nầy Đại sĩ! Các pháp sanh
rồi là sanh hay chưa sanh là sanh ?
‘’.
Bửu Đức Bồ Tát nói : ‘’ Sanh rồi thì chẳng sanh, chưa sanh cũng chẳng sanh ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Vì vậy nên lìa vô sanh
‘’.
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : ‘’ Trong duyên có nhơn chăng ? ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’ Không
có ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát hỏi :»Trong nhơn có duyên chăng
?».
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ”Không
có «.
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : ‘’ ý Đại Sĩ thế nào, hoặc nhơn hoặc duyên tự nó thiệt có tánh chăng
?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Không
có ‘’.
Bửu Đức Bồ tác hỏi : ‘’ ý Đại sĩ thế nào, các pháp không có nhơn duyên sanh ư ?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Chẳng phải vậy. Nầy Đại Sĩ! Vì thế nên tất cả pháp không có tự tánh không sanh
không khởi không xuất. Do vì duyên chẳng sanh nhơn, nhơn chẳng sanh duyên, tự tánh chẳng sanh tự tánh, tha tánh cũng chẳng sanh tha tánh, tự tánh chẳng sanh tha tánh, tha tánh chẳng sanh tự tánh. Vì vậy nên nói tất cả pháp tự tánh vô sanh. Vì như vô sanh vô diệt nên pháp tánh thiệt tế cũng vô sanh vô diệt. Như như pháp tánh thiệt tế là sở giác của Như Lai. Tất cả các pháp cũng như vậy, vô sanh vô diệt ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát hỏi: ‘’ Thưa Đại Sĩ! Như Lai cũng chẳng xuất thế ư ? ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’ Việc ấy không nên nói. Tại sao, vì Đức Như Lai nơi tất cả pháp Đều chẳng thể nói Được, chẳng nói xuất cũng chẳng Được nói chẳng xuất.
Nếu có ai hỏi rằng Đức Như Lai xuất thế ư hay chẳng xuất thế ư ? Người trí vì chẳng hủy báng Như Lai nên thôi chẳng trả lời ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi : ‘’Nên thôi như thế nào ? “.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’ Như pháp tánh trụ, nên thôi như vậy ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : ‘’ Thế nào là pháp tánh trụ ? ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’ Như hư không tánh trụ, trụ không có sở trụ, pháp tánh cũng trụ như vậy. Như pháp tánh chúng
sanh tánh cũng vậy. Như chúng sanh tánh tất cả các pháp cũng vậy. Như tất cả pháp, Như Lai cũng trụ như vậy, trụ không có sở trụ. Vì không có trụ xứ nên không có trụ không có chẳng trụ. vì vậy nên chẳng Được nói là sanh chẳng Được nói là diệt ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát nói : ‘’ Thưa Đại Sĩ! Sự xuất thế của Như Lai thiệt là thậm thâm thậm thâm vậy ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Nầy Đại Sĩ! Nếu có thể như thiệt biết rõ duyên sanh pháp thì gọi là Phật xuất thế ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát hỏi : ‘’Thưa Đại Sĩ! Ai sẽ hiểu thuyết nầy ?’’.
Hư không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Nầy Đại Sĩ! Nếu là người ở trong tất cả các pháp không Được có tăng giảm ‘’.
Bửu Đức Bồ Tát hỏi :’’Thưa Đại Sĩ! Sao gọi là tăng ?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Nầy Đại Sĩ! Tăng ấy Đó là tăng thượng cú, nghĩa là ở trong không có mà vọng sanh tăng thượng vậy.
Vô tăng thượng cú là bình Đẳng cú, là vô Đẳng cú, là vô văn tự cú,là vô cú, là vô
giáo cú.
Trong vô giáo ấy không có cú không có tăng thượng cững không có tâm ý
thức, vì vậy nên là chẳng phải cú.
Dụ như dấu chim bay trong hư không, cứu cánh Đã không có, sẽ không có, mà nói là dấu chim bay. Cũng vậy, ở trong tất cả các pháp không có tự cú. Không có cú mà giả gọi là cú, như không có dấu chim mà giả gọi là dấu chim.
Cũng vậy, Như Lai xuất thế cũng không có xuất mà giả gọi là xuất. Vì vậy mà người trí chẳng nên thủ trước. Vì không thủ trước nên giả gọi là xuất mà thường y chỉ nơi vô xuất. Tại sao, vì vô sanh là thiệt tánh của tất cả pháp vậy. Vô sanh thì vô sở hữu, vì vậy mà gọi tất cả các pháp vô sở hữu là tánh. Vô sở hữu tánh không có trụ xứ. vì vô trụ xứ nên là vô trụ tế. Tất cả các pháp vô trụ tế tức là thiệt tế. Thiệt tế tức là nhứt thiết pháp tế. Vì vậy nên nói tất cả các pháp với thiệt tế bình Đẳng.
Nói thiệt tế ấy là ba trường phần Đoạn tế, là bất khả hoại tế, là bất Đoạn bất thường tế, là như thiệt tế, là tam thế Đẳng tế vậy.
Dùng những tế như vậy Đều dồng nhứt thiết pháp tế. Tại sao, vì thiệt tế với ngã tế không hai không
khác.Vì thiệt tế với nhơn tế, chúng sanh tế, thọ mạng tế, dưỡng dục tế không hai không khác. Thiệt tế với ngã kiến tế không hai không khác. Ở trong ngã kiến không có thiệt tế. Nếu có thể thiệt biết như vậy thì không có hai
mươi thứ ngã kiến. Tại sao, vì trong thiệt tế không có một, không có nhiều vậy.
Thiệt tế Đồng với bình Đẳng, không lai không khứ, không tận không diệt, vì thiệt tế cứu cánh rỗng không vậy. Vì vậy mà nói tất cả các pháp là vô tận môn, là vô tận tế.
Niết bàn ấy vô tận, nghĩa là rỗng không vậy, là vô tánh vậy. Như Niết bàn vô tận vô bất tận, tất cả các pháp cũng như vậy. Vì vậy nên nói tất cả pháp Đồng với Niết bàn.
Các Pháp vô Đẳng vô bất Đẳng vì không không có sánh Đôi vậy. Dụ như hư không không có sánh Đôi, các pháp cũng như vậy.
Nếu người thấy có sánh Đôi nói
có Niết bàn, Đã nói có Niết bàn bèn cầu Niết bàn thì trái nghịch với bực hiền thánh.
Vì Đã nói có Niết bàn bèn nói : nầy nên biết, nầy nên dứt, nầy nên chứng, nầy nên tu, nầy nên sanh, nầy nên diệt. Người hành chẳng tròn Đủ như vậy thì chẳng thể như thiệt biết, chẳng thể như thiệt thấy, thì chẳng biết chẳng hiểu chẳng thấy. Vì chẳng biết chẳng hiểu tất cả các pháp nên thủ trước nơi văn tự, ở trong các pháp vọng sanh tranh cạnh. Người sanh sự tranh cạnh thì ở trong Phật pháp là kẻ Đáng thương vậy.
Tại sao, vì như Đức Thế Tôn dạy rằng : pháp Sa Môn chẳng nên tranh cạnh “.
Bấy giờ Tôn giả A Nan bạch Đức Phật rằng : ‘’ Bạch Đức Thế Tôn thật là hi hữu. Đại Sĩ nầy biện tài có thể rất sâu rành rẽ khó hiểu khó lường như vậy. Nơi tất cả pháp chẳng trừ người thọ, như thân tự chứng có thể nói như vậy ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Tôn giả A Nan : ‘’Thưa Đại Đức! Tôi Đã tự thân chứng biết, vì vậy nên như chỗ Được chứng biết có thể nói như vậy.Tại sao, vì thân tôi
tức là hư không. Do hư không mà chứng biết tất cả các pháp Được ấn hư không ấn.
Thưa Đại Đức A Nan! Phàm chư Bồ Tát tu thân khéo hiểu Được thân thì có thể dùng thân ấy làm các Phật sự hiện các loại hình tượng mà cũng chẳng thối nơi chơn pháp thân, lại cũng chẳng rời thân do kiết sử nghiệp nhơn sanh, và lại chẳng quá nơi bình Đẳng pháp tánh biến hiện hoá thân Đều Được tự tại, ở tất cả Phật quốc Độ khắp có thể thị hiện, trọn rồi chẳng ẩn thân ứng hóa. Tất cả việc làm ấy Đều có thể gọi Đó là thân chứng hành ‘’.
Tôn giả A Nan hỏi: Bạch Đại Sĩ! ở nơi pháp phải chăng Ngài có chứng ư ?‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Thưa Đại Đức A Nan! Tôi chẳng thấy pháp rời nơi thân, thân rời nơi pháp “.
Tôn giả A Nan hỏi:‘’Nếu Đại Sĩ thân chứng,Đại Sĩ Được quả A La Hán ư?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Thưa Đại Đức! Không có Được chẳng Được, vì vô sở Đắc vậy. Nơi tất cả các pháp không có phiền não hành vì ly tham dục sân hận ngu si vậy. Đây gọi là A La Hán ‘’.
Tôn giả A Nan hỏi : ‘’Thưa Đại Sĩ ¡ Lúc nào Đại Sĩ sẽ bát Niết bàn ?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’ Thưa Đại Đức ¡ Bực A La Hán không có bát Niết bàn, vì biết tất cả các pháp cứu cánh là Niết bàn, cũng không có quan niệm Niết bàn.
Hàng phàm ngu có phân biệt hí luận nói rằng Đây là sanh tử Đây là Niết bàn. Bực A La Hán không có hí luận như vậy.
Tôn Giả A Nan nói : ‘’ Thưa Đại Sĩ ¡ Như tôi hiểu nghĩa Đại Sĩ nói thì luận về Bồ Tát chẳng nên nói là phàm
phu, cũng chẳng nên nói là hữu học, chẳng nên nói là vô học. Tại sao, vì bỏ lìa hai tướng vậy ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Lành
thay lành thay, thưa Đại Đức A Nan ¡ Do vì chẳng phải phàm phu, chẳng phải hữu học, chẳng phải vô học, nên các nơi các chỗ Đều có thể thị hiện, nơi tất cả chổ ấy cũng chẳng thủ trước ‘’.
Lúc ấy có năm trăm vị Đại Thanh Văn Đồng Đem y Uất Đa la tăng của mình mặc dâng lên Hư Không Tạng Bồ Tát. Dâng y rồi Đồng thanh nói rằng :’’ Có chúng
sanh nào thâm tâm phát Vô thượng Bồ Đề mau Được lợi lành chẳng rơi ra ngoài pháp tạng Đại trí như vậy ‘’.
Những y Uất Đa la tăng Được dâng cúng ấy liền chẳng còn hiện. Chư Đại Thanh Văn hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát : ’’ Bạch Đại Sĩ ¡ Những y ấy Đến ở Đâu vậy ?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’ Vào
trong tạng của tôi. Đức Như Lai biết Đó sao các Ngài
chẳng hỏi ‘’.
Chư Đại Thanh Văn bạch Đức Phật : ‘’ Bạch Đức Thế Tôn ¡ Những y ấy Đến ở chỗ nào vậy ?.
Đức Phật nói : ‘’Nầy chư Tỳ Kheo; Phương Đông quá vô lượng a tăng kỳ chư Phật quốc Độ có thế giới tên là Ca Sa Tràng, Phật hiệu Sơn Vương Như Lai. Hư Không Tạng Bồ Tát Đã khiến những y ấy Đến thế giới Đó ‘’.
Chư Đại Thanh Văn lại nói : ‘’ Bạch Đức Thế Tôn; Do nhơn duyên gì mà Hư Không Tạng Bồ Tát khiến y Đến thế giới Đó ?’’.
Đức Phật nói : ‘’Muốn dùng những y ấy ở thế giới kia làm Phật sự. Ở nơi Đây Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp môn như hư không Đẳng tam muội. Tam muội nầy ở trong những y ấy sẽ diễn pháp âm Đó : Trong thế giới Ca Sa Tràng có vô lượng a tăng kỳ chúng
Bồ Tát do nghe pháp âm Đó nên Được vô sanh pháp nhẩn.
Chư Tỳ Kheo nên biết Bồ Tát làm các thứ phương tiện như vậy lợi ích chúng sanh
‘’.
Lúc nói pháp nầy ở trên hư không mưa vô lượng hoa màu hoàng
kim, trùm khắp nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường. Trong các kim sắc hoa ấy phát xuất pháp âm như vầy :
Có chúng sanh nào tin pháp Được Hư Không Tạng Bồ Tát nói, khéo thuận tư duy phân biệt nghĩa ý thì sẽ Được ấn bất thối chuyển ấn, quyết Định Được Đến Đạo tràng Bồ Đề Vô Thượng ‘’.
Tôn giả A Nan bạch Đúc Phật : ‘’Bạch Đức Thế Tôn; Đây là thoại ứng gì, mưa kim sắc hoa ấy phát ra diệu âm như vậy vui Đẹp chúng sanh ?’’.
Đức Phật nói :’’ Nầy A Nan; Có Phạm Thiên tên Quang Minh Trang Nghiêm từ cung trời Phạm Thiên cùng với sáu mươi tám trăm ngàn Phạm chúng Đều muốn Đến nơi nầy ‘’.
Đức Phật nó xong, chúng Phạm Thiên bỗng Đến tại Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường Đảnh lễ chân Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi Đứng một phía chắp tay hướng lên Đức Phật bạch rằng : ‘’Bạch Đức Thế Tôn; Thật là hi hữu, Hư Không Tạng Bồ Tát bất khả tư nghị thanh tịnh giới tụ tịnh tu các thiền Định, thiện phân biệt Đại trí huệ hay du hí các Đại thần thông, khéo hay Đầy Đủ Đại hoằng thệ nguyện, khéo hay thành tựu Đại quyền phương tiện, khéo hay trang
nghiêm thân khẩu ý, khéo ở trong các pháp thành tựu sức Đại tự tại. Thân khẩu và ý của Hư Không Tạng Bồ Tát Đây Đều không có làm
không có phân biệt ức tưởng mà hay hiện thần biến trang nghiêm bất khả tư nghị , lại hay hiển hiện vô lượng trăm ngàn pháp
môn, cũng hay xuất nhập trăm ngàn các môn tam muội, từ xưa Đến nay thường thích tu tập thành tựu các thiện pháp.
Bạch Đức Thế Tôn ¡ Chư Bồ Tát chẳng nên ở nơi quá khứ xưa tu thiện căn mà chẳng biết nhơn của nó, tập họp các thiện căn cũng nên không nhàm.Tại sao, vì do thuở trước vun trồng thiện căn quả báo nên hay hiện thần biến bất khả tư nghị như vậy «.
Đức Phật nói với Phạm Thiên : ‘’Đúng vậy Đúng vậy, như lời Phạm Thiên nói. Chư Bồ Tát Đã thành tựu thiện căn tư lương và xuất yếu trí phương tiện nên có thể hiện những sự công Đức trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy, không có ức tưởng phân biệt cũng không chẳng phân biệt ‘’.
Phạm Thiên bạch Đức Phật : ‘’Bạch Đức Thế Tôn; Thế nào là Bồ Tát tập họp thiện căn tư lương và xuất yếu trí phương tiện ?’’.
Đức Phật bảo Quang Minh Trang Nghiêm Phạm Thiên :‘’Nầy Phạm Thiên; Thiện căn có ba thứ : Đó là vô tham thiện căn, vô sân thiện căn và vô si thiện căn. Đây gọi là thiện căn.
Tư lương là bỏ tất cả sở hữu tu tâm từ quán các pháp. Đây gọi là tư lương.
Phương tiện là bỏ lìa phàm phu Địa, chẳng mong muốn Thanh Văn Địa và Bích Chi Phật Địa mà tiến vào chư Bồ Tát Địa. –Dây gọi là phương tiện.
Trí là trí biết bỏ pháp bất thiện, trí biết tập họp thiện pháp, trí biết hồi hướng Bồ Đề. –Dây gọi là trí.
Bồ Tát hay an trụ những chánh hạnh như vậy, Đây gọi là xuất yếu.
Còn nữa, thiện căn là hay phát tâm Vô thượng Bồ Đề. Tư lương là cầu tất cả thiện pháp. Phương tiện là thiện căn Đã làm hay chưa làm trọn chẳng bỏ quên. Trí là biết tâm như ảo huyễn biến hóa. Hiện tiền biết rõ các pháp như vậy, Đây gọi là xuất yếu.
Còn nữa, thiện căn là thuần chí. Tư lương là phát Động. Phương tiện là thâm tâm. Trí
là không trì, không Động, không năng. Thực hành các pháp như vậy gọi là xuất yếu.
Còn nữa, thiện căn là dục thiện pháp. Tư lương là thắng tiến. Phương tiện là an trụ bất phóng dật, trí là xả bỏ tất cả sở y. Nếu hay hành các hạnh như vậy thì gọi là xuất yếu.
Còn nữa, thiện căn là chánh tính. Tư lương là chẳng bỏ bổn nguyện. Phương tiện là chẳng bỏ niệm và Định. Trí là huệ. Hay chánh trụ các hạnh như vậy thì gọi là thành tựu thiện căn tư lương trí phương tiện xuất yếu.
Còn nữa, thiện căn là làm vui Đẹp tất cả thiện tri thức. Tư lương là cung cấp vật cần dùng cung kính cúng dường tôn trọng lợi ích. Phương tiện là nơi các thiện tri thức tưởng như Phật. Trí là biết thời và phi thời mà hỏi pháp. Hay chánh
trụ các hạnh như vậy thì gọi là xuất yếu.
Còn nữa, thiện căn là thiện thuận nghe pháp. Tư lương là thọ trì chẳng bỏ quên. Phương tiện là theo pháp Được nghe có thể khéo quán. Trí là theo pháp Được nghe mà làm. Hay
chánh trụ các hạnh như vậy thì gọi là xuất yếu.
Còn nữa, thiện căn là gặp Phật vui mừng. Tư lương là hộ trì tất cả Ba la mật các nhiếp pháp và các pháp trợ Đạo. Phưong tiện là hay từ một Địa Đến một Địa. Trí là Được vô sanh pháp nhẫn. Bồ Tát hay chánh trụ các hạnh như vậy thì gọi là xuất yếu ‘’.
Quang Minh Trang Nghiêm Phạm Thiên bạch rằng : ‘’ Bạch Đức Thế Tôn Dức Như Lai có thể dùng nghĩa bốn câu mà tổng nói tất cả Bồ Tát hạnh. Bạch Đức Thế Tôn; Tất cả Phật pháp phải nên ở trong Đó mà cầu ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Phạm Thiên : ”Nầy Phạm Thiên; Một câu cũng có thể nhiếp hết tất cả Phật pháp, Đó là câu
ly dục, tại sao, vì tất cả Phật pháp Đồng với ly dục. Như Phật pháp tất cả pháp cũng vậy.
Còn nữa, một câu rỗng không tổng nhiếp tất cả Phật pháp. Tại sao, vì tất cả Phật pháp Đồng với rỗng không vậy. Như Phật pháp, tất cả pháp cũng vậy.
Còn có các một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp, Đó là câu vô tướng, là câu vô nguyện, là câu vô tác,
là câu vô sanh, là câu vô khởi, là câu như, là câu pháp tánh,
là câu chơn tế, là câu ly, là câu
diệt, là câu tận, là câu Niết bàn tổng nhiếp tất cả Phật pháp, tại sao, vì tất cả Phật pháp Đồng với Niết bàn vậy. Như Phật pháp tất cả các pháp cũng vậy.
Nầy Phạm Thiên; Đó là một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp, tại sao, vì những câu như vậy Đều chẳng phải câu, tất cả Phật pháp chẳng phải câu mà giả danh là câu.
Còn nữa, nầy Phạm Thiên; Dục là ly dục cú, tại sao, vì tánh ly dục là dục vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Sân là ly sân cú, tại sao, vì tánh ly sân là sân vậy. Si là ly si cú, tại sao, vì tánh ly si là si vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Thân kiến là thiệt tế cú. Tại sao, vì tánh thiệt tế tức là thân kiến. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Vô minh là minh cú, tại sao, vì tánh minh là vô minh vậy. Tất cả Phật pháp cũng dồng tánh ấy.
Nhẫn Đến khổ não là ly khổ não cú, tại sao, vì tánh ly khổ não là khổ não vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Sắc uẩn là hư không cú, tại sao, vì tánh hư không tức là sắc vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là hư không cú, tại sao, vì tánh hư không tức là thọ, tưởng, hành, thức vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Sắc Đến thức là vô tác cú, tại sao, vì tánh vô tác tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Địa Đại là hư không cú, tại sao, vì tánh hư không tức là Địa Đại vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Thủy Đại, hỏa Đại, phong Đại là pháp giới cú, tại sao, vì tánh pháp giới tức là Địa, thủy, hỏa, phong Đại vậy. Tất cả Phật pháp cũng dồng tánh ấy.
Nhãn là Niết bàn cú, tại sao, vì tánh Niết Bàn tức là nhãn vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Niết bàn cú, tại sao, vì tánh Niết bàn tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý vậy. Tất cả Phật pháp cũng Đồng tánh ấy.
Nấy Phạm Thiên; Đó là một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp. Bồ Tát nhập vào những môn nhứt nhứt trí như vậy Đều thấy tất cả Phật pháp nhập vào một câu.
Nầy Phạm Thiên; Ví dụ như Đại hải có thể nuốt hết tất cả các dòng nước. Trong mỗi mỗi câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp cũng như vậy...
Ví như hư không Đều có thể bao dung tất cả sắc tướng. Trong mỗi mỗi câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp cũng như vậy.
Tất cả Phật pháp như vậy hoặc nhiếp hoặc chẳng nhiếp, hoặc nói hoặc chẳng nói Đều bất tăng bất giảm, vì cứu cánh ly tướng vậy.
Nầy Phạm Thiên; Ví dụ như toán sư luôn luôn lấy thẻ toán bày bố trên bàn toán, nhưng trong bàn không
có thẻ, trong thẻ không có bàn, tại sao, vì cứu cánh chẳng tương ưng vậy, vì cứu cánh ly vậy.
Ở trong mỗi mỗi câu trên như vậy, vì giả danh số mà nói tất cả Phật pháp Đều nhiếp vào một câu, mà các Phật pháp chẳng thể danh số toán Đếm Được, tại sao, vì cứu cánh chẳng tương ưng vậy, vì cứu cánh ly vậy.
Nầy Phạm Thiên; Như Phật pháp danh số tức là tất cả pháp danh số, tại sao, vì tất cả các pháp tức là Phật pháp, tại sao, vì những pháp phi pháp và
phi phi pháp ấy tự tánh rỗng không vậy, tự tánh ly vậy, tự tánh cứu cánh vô tánh vậy. Vô tánh tức là hư không, tánh hư không Đồng tánh tất cả pháp. Pháp tánh ấy chẳng phải tướng sanh, chẳng phải tướng diệt, chẳng phải tướng hữu xứ, chẳng phải tướng vô xứ. Vì vậy nên tất cả pháp gọi là không có tướng không chẳng tướng ‘’.
Lúc Hư Không Tạng Đại Bồ Tát nói pháp ấy, trong hàng Phạm chúng có một vạn hai ngàn Phạm Thiên Đều phát tâm Vô thượng Bồ Đề. Còn có năm trăm Phạm Thiên từ xưa Đã trồng gốc lành, Được vô sanh pháp nhẫn.
Lúc bấy giờ trong Đại chúng có một Bồ Tát tên là Bửu Thủ hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát rằng : ‘’Bạch Đại Sĩ; Thật là hi hửu, tất cả các pháp và Phật pháp thậm thâm khó lường chẳng thể nghĩ bàn.
Thưa Đại Sĩ; Sao gọi là Đặt căn bổn tất cả Phật pháp ? ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Nầy Bửu Thủ; Bồ Đề tâm là Đặt căn bổn tất cả Phật pháp. Tất cả pháp do an trụ tâm Bồ Đề thì Được tăng trưởng ‘’.
Bửu Thủ Bồ Tát hỏi :’’Thưa Đại Sĩ; Tâm Bồ Đề ấy Được pháp nào nhiếp chẳng quên mất có thể mau Đến bực bất thối chuyển ?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’ Nầy Bửu Thủ; Tâm Bồ Đề ấy Được hai pháp nhiếp thủ Được chẳng quên mất mau Đến bực bất thối chyển. Đó là thuần chí và cứu cánh vậy’’.
Bửu Thủ Bồ Tát hỏi : ‘’ Thưa Đại Sĩ ; Hai pháp ấy Được bao nhiêu pháp nhiếp ?’’.
Hư không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Hai
pháp ấy Được bốn pháp nhiếp lấy. –Dó là thuần chí thì Được chẳng hư trá và chẳng siểm khúc nhiếp. Cứu cánh thì Được vô ngã và thượng tiến nhiếp. –Dây gọi là hai pháp Được nhiếp bởi bốn pháp vậy ‘’.
Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi : ‘’ Thưa Đại Sĩ; Bốn pháp ấy Được mấy pháp nhiếp ? ‘’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ’’Bốn pháp ấy Được tám pháp nhiếp lấy; Đó là chẳng hư trá thì Được chẳng do dự và thể chơn tịnh nhiếp. Chẳng siểm khúc thì Được chánh trực và chánh trụ nhiếp. Vô ngã thì Được chẳng lui mất và tinh tiến nhiếp. Thượng tiến thì Được công Đức tư lương và trí tư lương nhiếp. –Dây là bốn pháp Được nhiếp bởi tám pháp vậy ‘’.
Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi : ‘’ Thưa Đại Sĩ; Tám pháp ấy Được nhiếp bởi mấy pháp ?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : “ Tám
pháp ấy Được mười sáu pháp nhiếp lấy. Đó là chẳng do dự thì Được Đại từ và Đại bi nhiếp. Thể chơn tịnh thì Được thân Điều và tâm Điều nhiếp. Chánh trực thì Được nhẫn nhục và nhu hòa nhiếp. Chánh trụ thì Được chẳng kiêu mạn và không trệ ngại nhiếp. Chẳng lui mất thì Được kiên cố và sức lực nhiếp. Thượng tiến thì Được như sở tác và chánh hạnh nhiếp. Công Đức tư lương thì Được thỉ phát và cứu cánh chẳng bỏ nhiếp. Trí tư lương thì Được cầu Đa văn và tư duy pháp Được nghe nhiếp. Đây là tám pháp Được mười sáu pháp nhiếp ‘’.
Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi : ‘’ Thưa Đại Sĩ; Mười sáu pháp ấy lại Được mấy pháp nhiếp ?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Mười sáu pháp ấy Được nhiếp bởi ba mươi hai pháp. Đó là Đại từ thì Được vô ngại tâm và tâm bình Đẳng nơi tất cả chúng sanh nhiếp. Đại bi thì Được không nhàm mỏi và siêng cung cấp Đầy Đủ tất cả chúng sanh nhiếp. Thân Điều thì Được không xúc nhiễu và không gia hại nhiếp.
Tâm Điều thì Được chánh Định và tịch tĩnh nhiếp. Nhẫn nhục thì Được chánh thọ giáo và thuận hành nhiếp. Nhu hòa thì Được tàm và quí nhiếp. Không kiêu mạn thì Được khiêm ti và kính lễ nhiếp. Không trệ ngại thì Được không nhơ uế và chẳng hung dữ nhiếp. Kiên cố thì Được chẳng sai phạm sở hành và thành tựu bổn nguyện nhiếp. Lực thì Được trụ chánh ý và chẳng Điệu Động nhiếp. Như sở tác thì Được như thuyết và năng hành nhiếp. Chánh hạnh thì Được chánh pháp và chánh tiến nhiếp. Thỉ pháp thì Được tất thắng và bất thối nhiếp. Bất xả bỏ thì Được thích hơn và thượng cầu nhiếp. Cầu Đa văn thì Được thân cận thiện tri thức và vui Đẹp thiện tri thức nhiếp. Tư duy pháp Được nghe thì Được trí huệ và khéo quán nhiếp. –Dây là mười sáu pháp Được nhiếp bởi ba mươi hai pháp ‘’.
Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi : ‘’ Thưa Đại Sĩ; Ba mươi hai pháp ấy lại Được bao nhiêu pháp
nhiếp ?’’.
Hư Không Tạng Bồ Tát nói :’’ Ba mươi hai pháp ấy Được nhiếp bởi sáu mươi bốn pháp. Đó là vô ngại tâm thì Được hộ ngã và hộ bỉ nhiếp. Tâm bình Đẳng nơi tất cả chúng sanh thì Được vô biệt dị và nhứt vị nhiếp. Không mỏi mệt thì Được quán như mộng và biết sanh tử như ảo huyễn nhiếp. Siêng cung cấp Đầy Đủ tất cả chúng sanh thì Được thần thông và phương tiện nhiếp. Chẳng xúc nhiễu thì Được hổ thẹn và tin có nghiệp báo nhiếp. Chẳng gia hại thì Đưọc thiểu dục và tri túc nhiếp. Chánh Định thì Được không phát não
nhiệt và không tán thất nhiếp. Tịch tỉnh thì Được xả bỏ ngô ngã và lìa ngã
sở nhiếp. Thọ chánh giáo thì Được cầu pháp và thích muốn pháp nhiếp. Thuận hành thì Được kính trọng và bình Đẳng không mõi mệt nhiếp. Tàm thì Được nội tâm dứt trừ và ngoài chẳng hành nhiếp. Quí thì Được tin ưa Phật trí và ở chổ khuất chẳng làm ác nhiếp. Khiêm ti thì Được chẳng ngạo mạn và biết tự hạ mình nhiếp. Lễ kính thì Được thân Đoan và tâm
trực nhiếp. Không nhơ uế thì Được Đủ có Định tĩnh và tu tập huệ nhiếp. Chẳng hung dữ thì Được chẳng thô bạo và chẳng lưỡng thiệt nhiếp. Chẳng sai phạm sở hành thì Được chẳng xả bỏ Bồ Đề tâm và niệm Đạo tràng nhiếp. Thành tựu bổn nguyện thì Được xả bỏ ma nghiệp và Phật lực hộ trì nhiếp. Chánh trụ ý thì Được chẳng khinh tháo và chẳng Điệu loạn nhiếp. Chẳng diệu Động thì Được như thạch sơn và chẳng di chuyển Được nhiếp. Như thuyết thì Được sở tác thiện nghiệp và không nhiệt não nhiếp. Năng hành thì Được không hư dối và chẳng bỏ chỗ hướng về nhiếp. Chánh phát thì Được lìa biên kiến và thuận quán thậm thâm nhơn duyên nhiếp.
Chánh tiến thì Được thiện xảo và phương tiện nhiếp. Tất thắng thì Được chẳng giải Đãi và dũng mãnh
nhiếp. Bất thối thì Được Đại dục và tăng tiến nhiếp. Thích hơn thì Được thấy Phật và nghe pháp nhiếp.Thượng cầu thì Được bỏ lỗi hoạn của các bực Địa và Được công Đức của các Địa nhiếp. Thân cận thiện tri thức thì Được không ghét ganh
và tin ưa nhiếp. Vui Đẹp thiện tri thức thì Được kính thuận và chẳng trái nghịch lời dạy bảo nhiếp. Trí huệ thì Được vô thường quán và vô ngã quán nhiếp. Thiện quán thì Được tu vô tướng và chẳng dựa Niết bàn nhiếp. Đây là ba mươi hai pháp Được nhiếp bởi sáu mươi bốn pháp’’.
Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi : ‘’Thưa Đại Sĩ; Sáu mươi bốn pháp ấy còn Được mấy pháp nhiếp ?’’.
Hư không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Sáu mươi bốn pháp ấy Được một trăm hai mươi tám pháp nhiếp.
Hộ ngã thì Được dứt tất cả ác và thành tựu tất cả thiện căn nhiếp. Hộ bỉ thì Được nhẫn nhục và nhu hòa nhiếp. Vô biệt dị thì Được tâm như nước và tâm như gió nhiếp. Nhứt vị thì Được pháp giới quán và như như quán nhiếp. Như mộng quán thì Được vô di chuyển quán và vô chơn thiệt quán nhiếp. Như ảo huyễn thì Được vừa theo tánh và vô tự tánh quán nhiếp. Các thần thông thì Được liễu nghĩa và liễu trí nhiếp. Phương tiện thì Được Đại bi và Bát Nhã Ba
la mật nhiếp. Hổ thẹn thì Được chẳng che giấu lỗi phạm và hối quá nhiếp. Tin có nghiệp báo thì Được bất phóng dật và sợ ác Đạo nhiếp. Thiểu dục thì Được ở trong sách có chừng hạn và lìa ô uế trước nhiếp. Tri túc thì Được dễ vừa và dễ nuôi nhiếp. Không phát não thì Được cứu cánh và cứu cánh biên tế nhiếp. Không tán thất thì Được Đắc nhẫn và bất thối chuyển Địa nhiếp. Xả ngô ngã thì Được chẳng chấp ngã thân và chẳng chấp thọ mạng nhiếp. Lìa ngã sở thì Được vô tham và vô si nhiếp. Cầu pháp thì Được trí và Đoạn nhiếp. Thích muốn pháp thì Được chẳng ham ngũ dục và lìa phiền não nhiếp. Kính trọng thì Được sanh ý tưởng là Phật và tưởng cứu lành nhiếp. Không mỏi mệt thì Được thân nhẹ và siêng năng ít
ngủ nhiếp. Nội tâm Đoạn trừ thì Được thân niệm xứ và thọ niệm xứ nhiếp. Ngoài chẳng hành thì Được tâm niệm xứ và pháp niệm xứ nhiếp. Tin ưa Phật trí thì Được thâm kính trọng và tịnh tín nhiếp. Ở chỗ khuất chẳng làm ác thì Được tự chứng biết và chư Thiên thần chứng biết nhiếp. Chẳng ngạo mạn thì Được chẳng tự khen và chẳng chê người nhiếp. Biết tự hạ mình thì Được chẳng hư xưng và chẳng hiển bày Đức tốt của mình nhiếp. Thân Đoan thì Được chẳng hành ba nghiệp bất thiện và chẳng phạm cấm giới nhiếp. Tâm trực thì Được thường xét lỗi mình và chẳng nói chỗ dở của gnười nhiếp. Đủ có Định tĩnh thì Được tâm tịch tĩnh và dứt phiền não nhiếp. Tu trí huệ thì Được tuyển chọn các pháp và biết vô ngã nhiếp. Chẳng thô bạo thì Được thường làm việc lợi ích và thuận nhẫn nhiếp. Chẳng lưỡng thiệt thì Được tự Đủ quyến thuộc và hòa hiệp biệt ly nhiếp. Chẳng bỏ tâm Bồ Đề thì Được chúng sanh và Phật trí nhiếp. Niệm Đạo tràng thì Được muốn phá ma chúng và
thành chánh giác nhiếp. Bỏ ma sự thì Được chánh giác và chẳng bỏ chí Bồ Đề nhiếp. Phật thần lực gia trì thì Được kiên cố hành và thiện thuần chí nhiếp. Chẳng khinh tháo thì Được giữ vững các căn và chẳng bỏ cảnh giới nhiếp. Chẳng Điệu loạn thì Được quán khổ và quán không nhiếp. Như thạch sơn thì Được chẳng cao và chẳng hạ nhiếp. Chẳng di chuyển Được thì Được dứt ái và trừ sân nhiếp. Sở tác thiện nghiệp thì Được trí sở tác nghiệp và bỏ ma sự nhiếp. Không nhiệt não thì Được tịnh giới và tịnh Định nhiếp. Không hư cuống thì Được thành thiệt ngữ và chẳng mong quả báo nhiếp. Chẳng bỏ chỗ hướng về thì Được thành tựu nghiệp bực hiền và chẳng hành khiếp nhược nhiếp. Lìa biên kiến thì Được quán vô sanh và
quán chẳng bại hoại nhiếp. Thuận quán thậm thâm nhơn duyên thì Được quán nhơn và quán duyên nhiếp. Thiện xảo thì Được Đệ nhứt không tranh cạnh và chẳng ngạo mạn nhiếp. Phương tiện thì Được ly phương tiện và vô sanh phương tiện nhiếp. Chẳng giải Đãi thì Được thân lực và tâm lực nhiếp. Dũng mãnh thì Được tâm thắng tiến và hại oán Địch nhiếp. Đại dục thì Được chẳng cầu lợi dưỡng và chẳng tiếc thân mạng nhiếp. Tăng tiến thì Được không ngu tối và chẳng thối hườn nhiếp. Thấy Phật thì Được tu niệm Phật và tịnh tiến nhiếp. Nghe pháp thì Được thích Đến chỗ giảng dạy và thích thưa hỏi nhiếp. Bỏ lỗi hoạn các Địa thì Được chẳng tán loạn hành và bỏ lìa ác tri thức nhiếp. Được công Đức của các Địa thì Được phương tiện hồi hướng và chẳng bỏ bổn hành nhiếp. Không ghét ganh
thì Được có thể thí cho tất cả và vật vừa ý mà xả bỏ nhiếp. Tin ưa thì Được vô cấu hành và tâm chẳng trược nhiếp. Kính thuận thì Được biết thời biết chỗ hạp nên của thế gian và tùy thuận hành nhiếp. Chẳng trái nghịch lời dạy bảo thì Được bỏ trừ bất tịnh và tịnh chánh hạnh nhiếp. Vô thường quán thì Được quán Động chuyển và quán bại hoại nhiếp. Vô ngã quán thì Được chẳng có tác giả và chẳng có thọ giả nhiếp. Tu vô tướng thì Được chẳng duyên cảnh giới và trừ giác quán nhiếp. Chẳng dựa Niết bàn thì Được trừ bỏ vô minh và dứt ái trước nhiếp. Đây là sáu mươi bốn pháp Được một trăm hai mươi tám pháp nhiếp «.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment