Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 47
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
PHẨM TỲ LÊ GIA BA LA MẬT
Trụ Luật Nghi đồng tử nói kệ xong, liền tại chỗ của Phật Thắng Hiện Vương xây dựng đạo tràng bằng xích chiên đàn cao đẹp bốn do tuần ngang rộng trang nghiêm đủ kiểu chạm đẹp. Đã lập đạo tràng trang nghiêm xong, đồng tử Trụ Luật Nghi đem dâng Phật Thế Tôn ấy mà nói kệ rằng:
Đức Phật an trụ bốn thứ trụ
Đấng Tối Thắng xưa thường khen ngợi
Nay tôi mừng cầu trụ như vậy
Xin đấng Thiện Thệ từ mẫn hứa
Nếu có an trụ chỗ trụ ấy
Tâm thường biết rõ vô lượng chúng
Và biết đời quá khứ vị lai
Nay tôi mừng cầu trụ như vậy
Nếu ở chỗ ấy đến cứu cánh
Bốn thứ chánh cần bốn thần túc
Và bốn tối thắng vô ngại biện
Nay tôi mừng cầu trụ như vậy.
Lúc ấy vì thương đong tử ấy nên Phật Thắng Hiện Vương nhận tòa đạo tràng thắng thượng được hiến dâng.Phật cùng Tỳ Kheo tăng vào ở trong ấy.
Thấy Phật và Tỳ Kheo tăng đã nhận và vào ở tòa đạo tràng của bình dân, đồng tử Trụ Luật Nghi rất vui mừng lại đem các thứ cúng dường Thượng Diệu dâng hiến cung kính tôn trọng khen ngợi gấp bội trọn nửa tháng không ngớt nghỉ. Sau đó, ở trước Phật, đồng tử ấy cạo bỏ râu tóc mặc áo ca sa do lòng tin
thanh tịnh mà xuất gia chuyên chí tinh tấn cầu các pháp lành.
Nầy Xá Lợi Phất !Lúc ấy, hai đồng tử cầu pháp lành rồi tâm trí chơn chánh với Vô thượng Bồ đề đều phát hoằng thệ.
Luật Nghi đồng tử phát thệ rằng nguyện tôi thành Phật trước. Phật ấy hiệu Thế Gian Y Hộ phóng đại quang minh .
Trụ Luật Nghi đồng tử phát thệ nguyện rằng nguyện tôi thành Phật trước. Phật ấy hiệu Đại Đạo Thương Chủ cứu độ trời người.
Luật Nghi đồng tử ở trước đức Phật Thắng Hiện Vương đứng chấp tay đại thệ trang nghiêm nói kệ rằng :
Tôi sẽ chẳng còn ngồi yên nữa
Và cũng chẳng dựa thân nằm ngủ
Chuyên ròng cần cầu đạo Bồ đề
Để lợi ích các chúng sanh vậy
Tôi sẽ chẳng kể thân mạng sống
Thường bỏ giải đãi siêng tinh tấn
Chí cầu Vô thượng Bồ đề đạo
Để làm lợi ích các chúng sanh
Giả sử máu thịt đều cạn khô
Da xương gân mạch đều teo gầy
Phải bỏ giải đãi và thân mạng
Siêng cầu đến Bồ đề Vô thượng
Trụ Luật Nghi đồng tử nghe lời anh phát thệ vui mừng hớn hở liền ở trước anh nói kệ rằng:
Nay phải cùng hiệp đồng hòa hảo
Tu hành Bồ đề Vô thượng hạnh
Phát khởi tinh tấn siêng tối thắng
Để lợi ích tất cả quần sanh
Nay tôi giảm lo cho thân mạng
Mặc cho máu thịt lần khô cạn
Phát khởi tinh tấn học theo anh
Để cầu Vô thượng Bồ đề đạo
Tôi sẻ ở riêng rảnh vắng vẻ
Núi rừng hoang vắng siêng tinh tấn
Thường cầu trí tối thắng Vô thượng
Ở ngôi trang nghiêm đại Pháp Vương
Nầy Xá Lợi Phất !Thuở quá khứ ấy hai đồng tử Luật Nghi đại Bồ Tát và Trụ Luật Nghi đại Bồ Tát ở trong pháp hội của Thắng Hiện Vương Như Lai phát hoằng thệ lớn, vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên siêng năng tu hành
chánh đạo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc hai Bồ Tát ấy thực hành tinh tấn, trong thời gian một ngàn năm chưa hề bị sự ngủ nghỉ xen đoạt chừng khoảng đàn chỉ, trong ngàn năm chưa hề có ý muốn nằm nghỉ, trong ngàn năm chưa hề có ý thích ngồi, trong ngàn năm chưa hề có một lần khom lưng ngồi xổm chỉ trừ lúc tiêu tiểu, nếu lúc muốn ăn thì đứng thẳng. Trong ngàn năm chưa hề ăn hai lần, một ngày chỉ ăn một lần, mỗi lần chỉ ăn một vắt và uống một chén nước. Trong ngàn năm chưa hề có ý thích ăn uống như có ý nghĩ rằng nay tôi đói khát cần phải uống ăn thứ ấy. Trong ngàn năm chưa từng có một lần ăn uống quá lượng. Trong ngàn năm chưa hề có quan niệm ăn uống vừa ý : Thứ nầy mặn, nầy lạt, nầy ngọt, nầy đắng, nầy cay, nầy chua, nầy ngon, nầy đở. Trong ngàn năm mỗi khi đi khất thực thì nhứt tâm chánh niệm, chưa hề nhìn ngó mặt người cúng thí, chưa hề có ý nghĩ ai cho ta, là
đàn ông hay đàn bà, nhẫn đến đồng nam đồng nữ cũng chẳng nhìn ngó. Trong ngàn năm ở dưới cội cây mà chưa hề ngước mặt ngó hình cây. Trong ngàn
năm chưa hề thay đổi y phục để mặcTrong ngàn năm chưa hề có ý tham ý giận ý hại. Trong ngàn năm chưa hề có ý tưởng nhớ thân quyến, hoặc cha hoặc mẹ hoặc anh chị em và các quyến thuộc khác. Trong ngàn năm chưa hề nhớ nghĩ nhà cũ. Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ ngước xem màu sắc như nguyệt tinh tú mây ráng hư không.
Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ đem thân dựa nơi cây nơi vách.Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ dùng tô dầu thoa tay chân. trong ngàn năm chưa hề có quan niệm kinh sợ. Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ thân tâm mỏi mệt. Trong ngàn năm chưa hề có nghĩ lười biếng phóng dật mà chỉ có ý nghĩ nay ta tu hành lúc nào sẽ chứng Vô thượng Bồ đề. Trong ngàn năm chưa hề có một lần thân tâm đau khổ. Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ tôi muốn cạo tóc, chỉ trừ Tứ Thiên Vương đế dung thần lực lấy tay xoa
tóc mang về cung trời xây tháp báu cúng dường. Trong ngàn năm dầu có chư Thiên Vương hoặc đến hoặc đi mà hai đồng tử Bồ Tát không hề có ý tưởng đến đi. Trong ngàn năm chẳng hề có quan niệm từ trong bóng râm tối đi đến chỗ ánh sáng, từ chỗ nóng nực đến chỗ mát mẻ. Trong ngàn năm dầu là mùa rét lạnh cũng chưa hề có ý tưởng mặc áo dầy ấm. Trong ngàn năm chưa hề có quan niệm luận bàn việc thế gian vô ích.
Nầy Xá Lợi Phất ! Trong ngàn năm hai đồng tử Bồ Tát ấy thực hành tinh tấn kiên cố như vậy. Bấy giờ có ác ma tên Ngu Si Niệm, như ngày nay ta xuất thế có ác ma Ba Tuần vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc ấy ác ma vì muốn làm nhiễu loạn nên ở khắp đường kinh hành của Luật Nghi Bồ Tát, ác ma bố trí đầy dao đưa lưỡi nhọn bén lên. Luật Nghi Bồ Tát thấy đường đầy dao hơi quên chánh niệm, có ý tưởng dao nhọn bén. Vì có ý tưởng ấy liền tự giác ăn năn phát âm thanh
lớn hai lần xướng rằng : Quái lạ thay tại sao nay tôi lại phóng dật ! Âm thanh ấy vang khắp Tam thiên Đại Thiên thế giới. Trên hư không có sẵn trăm ngàn câu chi đồ đảng. Thiên ma nghe tiếng xướng lên của Bồ Tát liền đồng thanh bảo Bồ Tát rằng : Lời phổ cáo của Ngài rất hay rất hay.
Nầy Xá Lợi Phất ! Những âm thanh ấy chỉ riêng Luật Nghi nghe, còn trụ Luật Nghi chẳng nghe, đó là do ma lực vậy.
Nầy Xá Lợi Phất !Nghe lời nói của Thiên ma Luật Nghi Bồ Tát phấn phát đại tinh tấn kiên cố đi kinh hành trên đường ấy nhiếp tâm lại chẳng còn nghĩ tưởng đến dao nhọn, hàng phục ma oán ấy xong. Luật Nghi Bồ Tát an trụ oai nghi như vậy, thật hành diệu hạnh như vậy, tu đạo tích như vậy, khởi đại bi như vậy, phát khởi tinh tấn dũng mãnh như vậy chưa hề thôi nghỉ.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Hai bồ Tát ấy ở trong pháp hội Phật Thắng Hiện Vương vì thực hành Tỳ lê gia Ba la mật nên đều thành tựu đại bi dũng mãnh. Lại trong ngàn năm ở rừng vắng rảnh tu tập Phật tùy niệm. Sau thời gian ấy Phật Thắng Hiện Vương nhập Niết-bàn. Chư Thiên đến báo tin ấy với hai Bồ Tát. Hai Bồ Tát ấy liền đến chỗ đức Phật nhập diệt đứng chấp tay chiêm ngưỡng đức Như Lai chẳng rời mặt, lòng rất mến luyến kính trọng và nghĩ rằng : Đức Như Lai xuất thế đại từ bi che chở chúng sanh đồng như nhà ở, sao Phật sớm nhập Niết-bàn khiến chúng tôi không chỗ nương không chỗ nhờ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Hai Bồ Tát ấy đứng trước đức Phật luyến mến kính ngưỡng trọn bảy ngày bảy dêm chưn chẳng dợi động chẳng xiết cảm thương, liền mạng chung sanh lên cõi Phạm Thiên. Đã được thân Phạm Thiên có sức trí biết đời trước, liền dùng thần thông đến hội Niết-bàn, hai vị ấy vì Xá lợi,của Phật Thắng Hiện Vương mà xây tháp báu cao lớn cực trang nghiêm mãn bốn mươi ngàn năm mới hoàn thành, trên tháp
treo nhiều lọng tròn.
Xây tháp xong, hai Bồ Tát ấy rất vui mừng đứng chấp tay chiêm ngưỡng mến kính mãi đến bảy mươi ngàn năm mới cúi đầu đảnh lễ. Do đó hai Bồ Tát mạng chung đều sanh về nhà Chuyển LuânVương ở Thiện Bộ Châu. Lúc sơ sanh hai Bồ Tát nhớ những sự việc quá khứ liền nói rằng :Nay tôi phải an trụ nơi pháp bất phóng dật tối thượng đệ nhứt. Hai bồ Tát ấy lại nói kệ tự răn mình rằng:
Nay tôi sanh nhà vua Chuyển Luân
Của cải rộng lớn đều như ý
Phải nên xả bỏ những phóng dật
Cần cầu Vô thượng Bồ đề đạo
Của báu sắc dục và ngôi vua
Vô thường mau chóng trong giây lát
Người trí chẳng ham thích thứ ấy
Siêng tu Vô thượng Phật Bồ đề
Với của báu nếu chẳng ham ưa
Vì lợi chúng sanh cầu Phật quả
Phải mau rời nhà cầu xuất gia
Tu hành thắng diệu hạnh thanh tịnh
Thuở quá khứ xưa vô lượng kiếp
Đam mê ngũ dục làm phước đức
Hoặc sanh lên trời hoặc nhơn gian
Chưa hề có lòng chán ngũ dục
Phải bỏ ngũ dục và ngôi vua
Cha mẹ quyến thuộc và của báu.
Bỏ cả quốc thành và quan quân
Xuất gia cần cầu chứng Phật quả.
Nầy Xá Lợi Phất ! Hai Bồ Tát sơ sanh ấy thân hình đoan chánh bằng đồng tử mười sáu tuổi, liền cạo tóc đắp y ca sa do lòng tin thanh tịnh mà xuất gia, trọn hai mươi ngàn năm siêng tu phạm hạnh. Sau đó mạng chung lại sanh trời Phạm Thiên. Mãn báo trời lại sanh nhân gian. Thuở ấy ở Thiện Bộ Châu có Phật xuất thế hiệu Diệu Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Được gặp Phật, hai bồ Tát liền theo Phật xuất gia mãn câu chi năm tu
hành phạm hạnh.
Thứ đệ như vậy có mười ngàn đức Phật xuất thế, Luật nghi Bồ Tát đều được gặp Phật.và đều theo Phật xuất gia tu phạm hạnh trồng các cội lành luôn siêng tinh tấn.
Trụ Luật nghi Bồ Tát đời đời sanh đồng chỗ với anh và đều tu thánh đạo, chỉ trừ chẳng tu phạm hạnh nơi một đức Phật. Do đó Luật Nghi Bồ Tát thành Phật trước xuất hiện ra đời hiệu Xí Nhiên Tinh Tấn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thọ chin mươi câu chi tuổi, đệ tử Thanh Văn có chín mươi na do tha câu hội.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thuở Xí Nhiên Tinh Tấn Như Lai xuất thế thì Trụ Luật Nghi Bồ Tát làm Chuyển Luân Vương oai thế khắp bốn phương đủ phước đức lớn. Vương rất tin kính đức Phật, sắm những y phục đồ ăn uống thuốc men và nhiều thứ cần dùng trọn ba tháng cúng dường tôn trọng tán thán đức Phật và Tỳ Kheo Tăng . Đức Xí Nhiên Tinh Tấn Như Lai thọ sự cúng dường ấy và vì muốn giác ngộ Chuyển Luân Vương nên nói kệ rằng:
Nếu muốn chứng được các Phật pháp
Tinh tấn dũng mãnh là trên hết
Các loài hàm sanh tham ngũ
dục
Có mong cầu chi khó quả toại
Nếu cầu nghĩa lợi nơi ngũ dục
Người trí nên biết không nghiã lợi
Vua nay ở tại không nghĩ lợi
Cầu thắng nghĩa lợi chẳng thể được
Xưa Phật cùng vua là anh em
Đều phát hoằng thệ cầu Bồ đề
Thuở ấy tranh đua cùng ước hẹn
Ai sẽ mau được thành Phật trước
Nay vua thấy Phật chứng Bồ đề
Chuyển thắng pháp luân cho đại chúng
Vua còn ngập chìm nhà ngũ dục
Hoang dâm nữ sắc luôn thủ hộ
Chư Phật quá khứ thường tuyên nói
Người trí chớ nên ham ngũ dục
Nên ta luôn luôn siêng xa rời
Chưa hề theo cầu làm phóng dật
Vua thấy biết sai làm vô nghiã
Nên thường ở lại nghiệp vô nghĩa
Tham dục gây khổ vua mãi mê
Ly dục thanh tịnh được thánh ngợi
Nghe đức Xí Nhiên Tinh Tấn nói kệ xong, Chuyển Luân Vương ấy liền giác ngộ thấy rõ lỗi tham dục cầu mong xuất gia, trọn chẳng giả từ vợ con quyến thuộc đại thần các tiểu vương, cũng chẳng đoái nghĩ quốc gia nhân dân kho tàng
châu báu, vua đứng lên đến trước đức Phật nhứt tâm chắp tay nói kệ rằng :
Tôi sẽ bỏ hết nhà lẫn nước
Cần đến chỗ vắng đến ngày chết
Thà để da thịt đến khô khan
Để làm nhơn duyên Bồ đề Phật
Lại phải tinh tấn đại dũng mãnh
Lợi ích vô lượng các quần sanh
Vứt bỏ tại gia đến phi gia
Sẽ ở vô vi chỗ trống vắng
Chẳng thích đeo theo các ngũ dục
Tệ ác dối gạt kẻ ngu phu
Vì ta sa chìm trong bùn dục
Nên nay bịt mặt mà theo sau
ngũ dục kho báu và ngôi vua
Tất cả đồng thời đều vứt bỏ
Tức thời ở trong thành giáo Phật
Chuyên lo tinh tu đạo Vô thượng
Ai người có trí lại gần dục
Ai học chánh pháp làm hữu vi
Khiến tôi tu hành tinh tấn rồi
Chẳng mau thành Phật tham ngũ dục
Vì thế tôi bỏ các dục lạc
Ngôi vua của báu đều trừ dứt
Cần theo Phật giáo đến phi gia
Làm nhơn duyên Phật Bồ đề vậy
Nói kệ xong, Chuyển Luân Vương ấy ở chỗ đức Phật Xí Nhiên Tinh Tấn cạo bỏ râu tóc mặc ca sa do lòng tin thanh tịnh mà xuất gia rồi đến chỗ vắng vẻ siêng tu phạm hạnh. Lại có sáu mươi câu chi trăm ngàn chúng
sanh nghe Chuyển Luân Vương xuất gia học đạo,họ cũng khởi lòng tin thanh tịnh theo vua xuất gia siêng tu phạm hạnh.
Nầy Xá Lợi Phất ! đức Xí Nhiên Tinh Tấn Như Lai ở đời giáo hóa lâu sau thì nhập Niết-bàn. Chuyển Luân Vương Tỳ kheo thấy Phật diệt độ thương cảm mến tiếc xây bửu tháp cúng dường Xá lợi, ít lâu sau mạng chung sanh cung trời Đâu Suất rồi lại sanh nhân gian thành Vô thượng Chánh giác hiệu Diệu Hạnh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, thọ một câu chi tuổi, đệ tử Thanh
Văn có câu chi na do tha hội đều là đại A La Hán, trăm ngàn chúng
đại Bồ Tát đều chẳng thối chuyểnVô thượng Bồ đề, giáo hóa vô lượng vô số chúng sanh, việc đáng làm đã làm xong, Đức Diệu Hạnh Như Lai nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế hơn một kiếp, Xá lợi lưu bố lợi ích chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát thực hành Tỳ lê gia Ba la Mật an trụ chánh cần hành Bồ Tát đạo, phải nên y theo sự tu học tinh tấn dũng mãnh không mỏi của Luật Nghi đại Bồ Tát, chớ có làm theo chúng sanh tham lam bỏn xẻn mê gặm xương khô kia.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có Bồ Tát thích cầu Bồ đề, với nhà thí chủ chớ nên tham lẫn. nếu lúc mất chánh niệm mang lòng tham lẫn phải liền quan sát ba điều đáng sợ . Những gì là ba điều đáng sợ ?
Nơi nhà thí chủ thường lai vãng, hoặc nhơn khất thực, hoặc lại đàm thoại triền miên chẳng thôi bèn thành thân hảo. khi thấy Tỳ kheo hiền thiện khác đến, vì tham lẫn nên ganh ghét, hoặc có lúc hay giận hờn. Do cớ ấy phải biết là nhiếp thọ nghiệp đạo khổ ở địa ngục, phải biết là gieo giống sanh manh tại tâm điền , phải biết là nghiệp sanh biên địa.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nay Phật lại vì ông mà nói tướng dạng ấy.
Bồ Tát tham lẫn ấy thấy Tỳ kheo hiền thiện đến nhà thí chủ mình liền sanh lòng ganh ghét giận hờn. Trong lòng dầu giận mà ngoài mặt giả vui đàm luận, lòng thì bỏn xèn mà thân luôn kề cận hầu tiếp, nhưng lại đứng lỗ khuất lỏ mắt nhìn, hoặc đem sự chẳng thiệt vu cáo hủy báng. Những hành động như vậy phải biết là nghiệp đạo địa ngục, là gieo giống sanh manh vào nội tâm, là nghiệp sanh biên địa chịu khổ sở, bị báo sanh manh hủy nhục ngày đêm cực khổ bị người sai khiến.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát ở nơi nhà thí chủ nếu khởi lòng tham lẫn ganh tị, thì phải suy nghĩ ba diều đáng sợ ấy”.
Trưởng lão Xá Lợi Phất bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Lạ thay thật chưa từng có. Chư đại Bồ Tát rất là hi hữu mới được gặp đức Như Lai nói phát pháp xuất yếu nơi nhà thí chủ sanh tham lẫn ấy. Lành thay đức Thế Tôn, xin vì hàng Thanh Văn
chúng tôi mà nói chánh pháp rời lìa tướng tham lẫn nơi nhà thí chủ. Tại sao ? Vì Thanh Văn chúng
tôi cũng muốn thoát khỏi báo khổ địa ngục sanh manh và biên địa mà được sanh vào trung quốc loài người. Chúng tôi đều muốn nghe chánh pháp xuất ly tham lẫn nơi nhà thí chủ. Xin đức thế Tôn chẳng bỏ rơi chúng tôi mà tuyên dạy cho”.
Đức Phật phán :” lành thay lành
thay, nầy Xá Lợi Phất! rất là hi hữu, nay các ông có thể an trụ nơi không a dua mà thỉnh hỏi đức Như Lai về nghiã như vậy. Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói cho.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có chúng sanh muốn theo Phật học Phật pháp đức Phật liền vì họ mà tuyên dạy. Tại sao ? Vì những chúng sanh có thể theo Phật tu học, đức Phật chẳng trái ý họ, quyết hiện ra trước họ để thuyết pháp.
Lại nầy Xá Lợi Phất !Nếu có chúng sanh chẳng muốn theo Phật học chánh pháp, nếu đức Phật thuyết pháp cho họ nghe, họ sẽ chẳng chịu tin mà còn gây nên căn bổn tranh đấu.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát thành tựu lòng tin thanh tịnh thật hành Tỳ lê gia Ba la mật, ở nơi Phật pháp có lòng tin thanh tịnh lâu ngày thường thích quán sát, vì muốn cứu tế chúng sanh nên đến chỗ Phật ân cần trịnh trọng hỏi nghĩa giải nghi. Đức Phật có nói pháp chỉ đều ưa thích lắng nghe, nghe pháp xong lại phát khởi lòng tin sâu rộng thanh tịnh vui mừng hớn ở càng thêm tinh tấn thọ trì chánh pháp tu hành
đúng pháp.
Nầy Xá Lợi Phất đời sau, các đệ tử của ta ít có Tỳ Kheo nào thâm
tâm mong cầu pháp Niết-bàn tịch tịnh, phần đông y theo ba sự nghiệp. Một là thường thích theo cầu danh lợi thế gian. Hai là tham ưa bè đảng theo cầu thí chủ qua lại chẳng ngớt. Ba là ưa thích theo cầu nhà cao cửa đẹp chứa cất của tiền vàng bạc châu báu và các thứ đồ dùng. Đây là y chỉ theo cầu ba sự.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các Tỳ Kheo ấy vì y chỉ ba sự như vậy nên chẳng thoát khỏi ba ác đạo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các Tỳ Kheo ấy chẳng muốn thoát khỏi địa ngục, bàng sanh ngạ quỷ, mà họ trở lại thích siêng tu pháp dứt đường sanh cõi trời, họ lại siêng làm những sự tranh luận ly gián chê mắng lần nhau, họ lại ưa gần các ác hữu lòng tin chẳng thanh tịnh bỏ chỗ thanh vắng mà ở nơi náo nhiệt, cùng người tục kết bè đảng. Các nhà tục bảo : Nầy trưởng lão nên thường đến nhà, tôi sẽ cung cấp tứ sự cúng dường. Còn các trưởng giả ở nơi thanh vắng ấy chẳng chịu giao tế với người thế tục, chúng tôi làm sao thăm hỏi được.
Vì thế nên các Tỳ Kheo ấy càng thân cận tại gia, cùng nhau chuyện trò toàn những sự phiền tạp thế tục.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các ác Tỳ kheo ấy thích ở chung và giao thiệp với hạng người bất lương, tham trước chỗ ở chẳng hề di chuyển. Họ tìm nhiều bè đảng và luôn thăm viếng nhà thí chủ, đích thân đi mừng đi điếu, do đó mà thầm kín thân ái nhau. Khi có khách Tỳ Kheo đến thì không cung cấp lại buông lời chê trách phi pháp. Mà
khách Tỳ kheo thiệt là bực Hiền Thánh. Ác Tỳ Kheo ấy cũng chẳng xưng hô ngài là người đa văn giới đức thanh tịnh, cũng chẳng xưng hô ngài là bực Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La
Hán.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các ác Tỳ Kheo ấy ở trong pháp của
Phật mà chẳng tu pháp của Phật. Không có việc gì khác, mà chỉ ưa chê bai mắng nhiếc chẳng thôi. Các người tại gia bè đảng của ác Tỳ Kheo ấy lại nói rằng : Những khách Tỳ Kheo chưa hề ở chung và đến lui thân thiện với chúng tôi cùng kinh lý sự việc với nhau, vì lẽ ấy nên chúng tôi chỉ nên cùng các Tỳ Kheo cựu trụ bao bọc nhau và mượn oai thế nhau.
Nầy Xá Lợi Phất ! Vì những lý do ấy nên các ác Tỳ Kheo đối với kinh điển nầy, hoặc hiểu hoặc chẳng hiểu, họ đều luôn luôn hủy báng chẳng tin.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có người lắng nghe kinh điển được Như Lai diễn nói những pháp môn văn cú sai biệt như vậy, nghe rồi vui thích tin hiểu không nghi lầm thì quyết có thể rời bỏ những kẻ ác như trên và cũng rời bỏ những nghiệp phải đọa ác đạo.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành tinh tấn dũng mãnh không mỏi lắng nghe đức Phật nói những tướng tham rít nghiệp đọa vào ác đạo ấy rồi bèn chẳng tự hành động những sự tham lẫn nơi nhà thí chủ, huống là bảo người khác làm.
Đây gọi là đại Bồ Tát chuyên cần chẳng mỏi tu hành Tỳ lê gia Ba la mật, phải nên học như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát chuyên cần không mỏi, lúc tu tập Tỳ lê gia Ba la mật, với các chúng sanh tưởng là người bệnh vì họ thường bị ba thứ nhiệt não làm khổ luôn.
Những gì là ba thứ nhiệt não? Đó là tham dục nhiệt não, sân khuể nhiệt não và ngu si nhiệt não .
Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay tôi phải dùng chánh pháp vô thượng thuốc cao vô não nầy thoa cho các chúng sanh
nhiệt não. Nhờ chánh pháp Vô thượng, thuốc cao mát mẻ vi diệu nầy, thoa vào thì các chúng sanh ấy sẽ dứt trừ những tham sân si nhiệt não.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát tu hành Tỳ lê gia Ba
la Mật có vô lượng tướng dạng, nay Phật sẽ lược nói.
Đại Bồ Tát thường nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh đều là những người bệnh, vì thường bị nhiệt não bởi ba độc tham sân si vậy. Những chúng sanh sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là bị tham sân si ấy làm nhiệt não. Những chúng sanh sanh lên trời hay nhơn gian cũng đều bị ba độc ấy đốt khổ. Nếu có chúng sanh thành tựu nghi kiến thì cũng thường bị ba độc đốt khổ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các chúng sanh bị bệnh phiền não, chẳng phải các lương y khác và diệu dược thù thắng khác có thể trị lành, có thể làm lửa nóng tham sân si lặng tắt được
Chỉ có đức Như Lai đại y vương Vô thượng thắng diệu và đại Bồ Tát chứng pháp thân dùng sức đại nguyện tự nghiêm trì thân mình làm lương dược rồi mới trừ được bệnh nhiệt não tham sân si cho tất cả chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Theo ý của ông thì chúng sanh giới nhiều hay là địa giới v.v.. . nhiều ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Theo tôi hiểu diệu nghĩa của đức Phật nói, chúng sanh giới nhiều, chẳng phải địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới có thể so sánh bằng được.
- Nầy Xá Lợi Phất ! Đúng như lời ông nói : chúng sanh giới nhiều, chẳng phải địa giới v. v… nhiều. Nay ta lại nói tướng dạng ấy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Có các chúng sanh thân
hình vi tế khó thấy được, mắt thần của các thần tiên cùng thiên nhãn của Thanh Văn, Độc Giác đều chẳng thể thấy, chỉ có thiên nhãn thanh tịnh của Như Lai là soi rõ được.Tịnh thiên nhãn của Như Lai thấy rõ những chúng sanh vi tế ấy chừng bằng dung lượng của một bánh xe, số ấy vô lượng nhiều hơn số trời và người trong toàn cõi Tam thiên
Đại Tthiên thế giới.
Này Xá Lợi Phất ! Chúng sanh giới vô lượng vô biên như vậy, nhẫn đến tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại Thiên thế giới, hoặc noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hoặc có sắc không sắc có tưởng không tưởng, hoặc phi hữu tưởng phi vô tưởng, hoặc khả kiến hoặc bất khả kiến, nhẫn đến bao nhiêu chúng sanh giới giả danh kiến lập, giả sử trong khoảng sát na, tất cả số lượng chúng sanh giới ấy, không trước không sau đồng thời đều được thân người và đều thành lương y cả và đều thọ một kiếp, tất cả đều thông suốt y đạo, giỏi luyện phương thuốc làm đại y sư giỏi trị lành các bệnh tật như thần y Kỳ Bà hiện nay. Các đại y sư ấy chung nhau nghị luận phương dược muốn chữa trị bệnh nhiệt não tham sân si của một chúng sanh. Giả sử mỗi mỗi đại y sư ấy đều mang diệu dược thanh lương lượng bằng núi chúa Tu-di chăm sóc chữa trị thoa đắp cho con bệnh tận y thuật của mình cho đến dùng hết số lượng diệu dược ấy, cũng chẳng chữa lành được bệnh nhiệt não tham sân si của một chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian thấy các chúng sanh bị bệnh phiền não, đức Như Lai chỉ nói một pháp môn bất tịnh quán, Chánh pháp Vô thượng, thuốc cao vô não để thoa đắp, có vô lượng chúng sanh trừ diệt được bệnh nhiệt não tham dục. Thoa đắp trị cho vô lượng trăm chúng sanh, vô lượng ngàn chúng sanh, vô lượng trăm ngàn chúng sanh, vô lượng câu chi chúng sanh, vô lượng trăm câu chi chúng sanh, vô lượng ngàn câu chi chúng sanh, vô lượng trăm ngàn câu chi chúng sanh, vô lượng câu chi na do tha chúng
sanh, vô lượng trăm câu chi na do tha chúng sanh, vô lượng trăm câu chi na do tha
chúng sanh, vô lượng ngàn câu chi na do tha chúng sanh, vô lượng trăm ngàn câu chi na do
tha chúng sanh, nhẫn đến vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh, nhờ pháp bất tịnh quán mà tham dục nhiệt não đồng thời trừ dứt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đức Như Lai chỉ nói một pháp môn từ bi quán, Vô thượng chánh pháp diệu dược thanh lương dùng để thoa đắp. Có vô lượng chúng sanh nhờ pháp dược ấy mà trừ được bệnh sân khuể nhiệt não. Nhẫn đến có vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh nhờ pháp từ bi quán mà sân khuể nhiệt não đồng thời trừ dứt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đức Như Lai chỉ nói một pháp môn nhơn duyên quán chánh pháp
Vô thượng diệu dược thanh lương dùng để thoa đắp, có vô lượng chúng sanh, nhẫn đến có vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh dứt trừ được bệnh nhiệt não ngu si.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Như vừa rồi đức Phật nói đại Bồ Tát chứng pháp thân dùng nguyện lực nghiêm trì thân mình mà làm lương dược dùng trừ dứt bệnh nhiệt não tham sân si cho vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh. Nay đức Phật lại nói tướng dạng ấy. Ông nên lắng nghe.
Nầy Xá Lợi Phất! Ta nhớ quá khứ trước vô số kiếp, có Phật xuất thế hiệu Nhiên Đăng Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thuở ấy đức Nhiên Đăng Như Lai thọ ký cho ta đời sau quá vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni đủ mười hiệu. Được Phật Nhiên Đăng thọ ký xong, ta chứng pháp thân thành tựu. Sau khi Phật Nhiên Đăng diệt độ, ta làm Đế Thích tên Vi Diệu Nhãn được oai thế tự tại ở trời Đao Lợi, Có thần thông lớn oai đức lớn chư thiên quyến thụôc đông nhiều.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thuở ấy ở Thiệm Bộ Châu có tám muôn bốn ngàn đại thành và vô lượng thôn ấp thị trấn và vô lượng trăm ngàn câu chi na do
tha chúng sanh, nhân vật đông đúc rất hưng thạnh. Bấy giờ có bệnh dịch lớn xuất hiện, nhiều chúng sanh mắc phải bệnh dịch nặng. Có vô lượng y sư dược sư tận lực cứu chữa, nhưng bệnh vẫn không dứt. Các chúng sanh mang bệnh ấy chẳng gặp lương y bị bệnh hành đau khổ, không ai cứu hộ, không chỗ về nương, họ đồng kêu la lên khóc rằng : Nay tôi mắc lấy bệnh khổ nầy, xứ nào có Trời Rồng Dạ Xoa Quỉ Thần lại từ bi trừ bệnh cho tôi. Nếu trừ được bệnh tôi sẽ chẳng tiếc tất cả của cải châu báu, sẽ hậu tạ lương y và thuận theo sự dạy bảo. Lúc ấy ta ở trời Đao Lợi do tịnh thiên nhãn thấy vô lượng chúng sanh bị nhiều bệnh dịch quá đau khổ, và do tịch thiên nhĩ nghe suốt lời khóc than kêu cầu của họ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thuở ấy, khi ta thấy và nghe sự việc ở nhân gian như vậy, với các chúng sanh ấy, ta phát khởi đại bi mà nghĩ rằng : Sao mà quá khổ, vô lượng vô biên chúng sanh như vậy mắc phải bệnh nặng không nơi nương cậy, không người cứu hộ, không chỗ nương về, không ai chữa lành. Nay ta quyết định làm nơi nương cậy, làm người cứu hộ, làm chỗ nương về và làm y sư chữa lành bệnh cho họ. Ta liền ẩn thân hình Đế Thích cao lớn mà hóa sanh làm thân chúng sanh to lớn tên Tô Ma nơi Thiệm Bộ Châu cách đại thành Câu Lô chẳng xa. Thọ sanh xong, ta ở hư không nói kệ phổ cáo tất cả chúng sanh ở Thiệm Bộ Châu rằng :
Cách thành Câu Lô chẳng mấy xa
Có thân to lớn tên Tô Ma
Nếu ai ăn được thịt thân ta
Tất cả bịnh khổ đều trừ dứt
Nó không giận hờn không làm hại
Vì làm lương y mà thọ sanh
Mọi người nên mừng chớ kinh nghi
Tùy ý xẻo thịt ăn trừ bịnh
Lúc ấy vô lượng chúng sanh trong tám vạn bốn nghìn đại thành các thôn ấp thị tứ, những kẻ đang mắc bịnh khổ nghe tiếng phổ cáo ấy đồng kéo nhau đến bên thân Tô Ma Bồ Tát đua nhau dùng dao bén
cắt xẻo thịt. Đương lúc bị xẻo cắt, nơi thân thịt Tô Ma Bồ Tát phát âm thanh lớn nói kệ rằng
Nếu do đây sẽ chứng Bồ đề
Tạng trí sẽ thành vô tận tạng
Tùy tôi phát nguyện lời chí thành
Cũng nguyện thân thịt thường vô tận.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc ấy tất cả chúng sanh ở Thiệm Bộ Châu vì bị bịnh bức khổ nên họ tranh nhau hoặc xẻo hoặc chặt từng khúc thịt nơi thân Tô Ma Bồ Tát rồi hoặc ăn hoặc gánh đem đi. Dầu bị chặt xẻo nên vì nguyện lực nên cắt xẻo bao nhiêu thì thịt sanh ra bấy nhiêu không hề khuyết giảm.
Nầy Xá Lợi Phất! Các chúng sanh ấy được ăn thịt Tô Ma Bồ Tát rồi tất cả đều lành bịnh, tâm an vui thân thể không biến đổi. Bấy giờ tất cả nhơn dân ở Thiệm Bộ Châu hoặc nam hoặc nữ đã được ăn thịt của Tô Ma Bồ Tát mà lành bịnh đều tự nghĩ rằng Tô Ma nầy có ơn rất lớn đối với chúng ta, trừ bịnh khổ cho ta , ban ta sự an vui, ta phải sắp đặt cúng dường thế nào để đáp ơn ấy.. Họ cùng nhau tụ tập bên thân Tô Ma Bồ Tát ở thành Câu Lô mà nói kệ rằng:
Ngài là nương cậy là cứu hộ
Ngài là lương y là diệu dược
Xin thương mà dạy bảo chúng tôi
Cúng dường thế nào đáp ơn nặng.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc ấy ta thấy chúng sanh được lành bệnh an vui mà mang ơn nặng qui y với ta. Ta liền diệt thân Tô Ma trở lại thân Đế Thích đứng trước họ oai quang sáng rỡ bảo họ rằng : Nếu do thịt nơi thân của ta mà đượchết bịnh khổ, mọi người mang ơn mà muốn báo đền. Ta chẳng phải vì quốc độ ngôi vua thành ấp nhà cửa mà cứu mọi người đem thịt nơi thân mình bố thí, cũng chẳng vì vàng bạc châu báu mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì voi ngựa bò dê các súc vật mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì nam nữ đồng bộc nô tỳ mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì món ăn uống y phục giường nệm thuốc men mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì vườn rừng đất đai ao hồ nhà cửa cùng các đồ cần dùng mà bố thí thịt thân mình. Ta sở dĩ thương mọi người mắc bịnh khổ mà bố thí thịt thân mình để chữa lành đó là vì muốn chúng sanh rời nghiệp bất thiện. Mọi người nếu có thể vì ta mà rời hẳn rời hẳn các nghiệp sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham gian, sân hận và tà kiến thì tức là lợi ích cho ta cũng tức là báo ơn ta vậy.
Đế Thích lại đối đại chúng mà nói kệ rằng :
Ta vốn chẳng vì khối trân bửu
Chẳng vì thành ấp cùng quốc độ
Cũng chẳng phải vì thiên ngọc nữ
Chẳng vì áo cơm giường nệm nằm
Muốn báo Tô Ma Bồ Tát ơn
Chỉ nên tôn trọng đồng hòa hiệp
Đều có từ tâm kính mến nhau
Chuyên tu mười nghiệp lành tịnh diệu
Mọi người phải trì mười nghiệp lành
Luôn luôn hoà hiệp phòng giữ chặt
Đây gọi là pháp cúng dường lớn
Vì Bồ Tát chẳng cầu của cải
Ta chẳng dùng của báu thế gian
Chẳng dùng ăn ngon và mặc đẹp
Chẳng dùng voi ngựa và xe cộ
Chẳng dùng giường nệm đồ trang sức
Mọi người cùng nhau đồng hòa hiệp
Giữ gìn thanh tịnh mười nghiệp lành
Cùng nhau phát khởi đại từ tâm
Mình người đồng tu lòng lợi ích
Nầy Xá Lợi Phất ! Nghe ta nói kệ xong, mọi người ở Thiệm Bộ Châu thuở ấy vì cảm ơn đức, nên họ đảnh lễ nơi chưn ta mà cùng thọ trì mười nghiệp đạo lành thanh tịnh vi diệu.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ta nhớ rõ tất cả những người ở Thiệm Bộ Châu thuở ấy được ăn thịt Tô Ma Bồ Tát, từ đó đến nay chưa hề có một người bị đọa ác đạo, họ đều sanh lên trời Đao Lợi và vì nghiệp duyên trước nên luôn cùng ta chung sanh. Thuở ấy ta lại vì thiên chúng ấy mà diễn dạy chánh pháp làm cho họ đều được an trụ nơi ba thừa thánh đạo : hoặc Thanh Văn thừa, hoặc Độc Giác thừa, hoặc có người an trụ nhứt thừa Vô thượng Bồ đề. Các chúng ấy hoặc đã nhập Niết-bàn, hoặc sẽ nhập Niết-bàn, hoặc hiện nhập Niết-bàn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ta quan sát đại Bồ Tát an trụ pháp thân vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên thành tựu đại thần thông như vậy, thành tựu đại oai đức như vậy, thành tựu đại thế lực như vậy, mới có thể chỉ xả thí một thân thịt mà thành thục được vô biên chúng sanh đều an trụ nơi ba thừa thánh đạo được chẳng thối chuyển>>.
Trưỡng Lão Xá Lợi Phất bạch rằng : « « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là tướng dạng của đại Bồ Tát thật hành Tỳ Lê Gia Ba la mật chuyên cần tu tập được pháp thân ? Mong đức Thế Tôn dạy cho.
- Này Xá Lợi Phất ! Tướng pháp thân của Đại Bồ Tát không sanh không tử kiên cố không hư hoại như chất kim cương chẳng thể nghĩ bàn được . Nhưng vì hóa độ những chúng sanh thân hư hoại mà chư pháp thân đại Bồ Tát hiện thân hư hoại, còn muốn hóa độ hàng thân chẳng hư hoại thì lại hiện thân bất hoại. Nhưng pháp thân ấy viên thành đầy đủ, lửa chẳng cháy được, dao chẳng đứt được, như chất kim cương kiên cố.
Này Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát an trụ pháp thân vì thật hành Tỳ lê gia ba la mật nên tinh tấn không mỏi, chẳng phải là có công dụng chỉ dùng thân mình thì có thể thành thục vô lượng chúng sanh chẳng cần phải vọng tâm suy nghĩ phân biệt. Chính Bồ Tát này thân tự có thể hay biết , trọn các thân tướng tùy nhập tự thân chơn như pháp tánh, tự thân chơn như tùy nhập chư Pháp chơn như, chư Pháp chơn như tùy nhập tự thân chơn như, tự thân chơn như tùy nhập chư Phật chơn như, chư Phật chơn như tùy nhập tự thân chơn như, tự thân chơn như tùy nhập khứ lai hiện tại chơn như, khứ lai hiện tại chơn như tùy nhập tự thân chơn như. Lại quá khứ chơn như chẳng trái vị lai chơn như, vị lai chơn như cũng chẳng trái quá khứ chơn như , quá khứ chơn như chẳng trái hiện tại chơn như, hiện tạI chơn như cũng chẳng trái quá khứ chơn như. Vị lai chơn như chẳng trái quá khứ chơn như, quá khứ chơn như cũng chẳng trái vị lai chơn như, vị lai chơn như chẳng trái hiện tại chơn như, hiện tại chơn như cũng chẳng trái vị lai chơn như. Hiện tạI chơn như chẳng trái quá khứ chơn như, quá khứ chơn như cũng chẳng trái hiện tại chơn như, hiện tại chơn như chẳng trái vị lai chơn như, vị lai chơn như cũng chẳng trái hiện tại chơn như. Lại khứ lai hiện tại chơn như tức là uẩn xứ giới chơn như. Uẩn xứ giới chơn như tức nhiễm ô thanh tịnh chơn như. Lưu chuyển tịch diệt chơn như tức gia hạnh chơn như. Gia hạnh chơn như tức nhứt thiết hạnh chơn như. Nhứt thiết hạnh tức là chơn như, chơn như tức là nhứt thiết hạnh.
Này Xá Lợi Phất ! Chơn như tức là thiệt tánh, là như tánh, là phi bất như tánh, là bất viễn ly tánh, là vô pháp động Tánh, là vô nhiễm loạn tánh, là bất tương vi tánh, là vô vi tránh tánh.
Này Xá lợi Phất ! Chơn như là không chỗ vi tránh. Do vì không vi
tránh mà gọi là chơn như vậy, nhưng chư Như Lai nói là vi tránh.
Này Xá Lợi Phất ! Chơn như gọi là tùy thuận nhiếp thọ, tại sao Như Lai lại nói là vi tránh? Vì Như Lai trái với tất cả tránh vậy. Do đó mà Bồ Tát thường hiện tất cả vi tránh. Chư Như Lai vốn không vi tránh cũng chưa hề phát khởi. Tại sao ? Vì không vi không tránh nên gọi là Như Lai vậy, nhưng lại thường hiện các sắc tượng vi tránh, chẳng phải Như Lai có động loạn.
Chư đại Bồ Tát dùng trí như thiệt quán thân Như Lai bình đẳng pháp tánh tức tự thân bình đẳng pháp tánh. Lại ở nơi tự thân bình đẳng pháp tánh quán Như Lai bình đẳng pháp tánh. Lại ở nơi tự thân bình đẳng pháp tánh quán các thân
và phi thân, ở nơi tất cả các thân và phi thân quán
thân bất tư nghì kia. Đại Bồ tát ở nơi pháp duyên sanh rõ thấu tất cả thân, đã rõ thấu rồi dẫn nhiếp pháp thân.
Đương lúc đại Bồ Tát dẫn nhiếp pháp thân ấy, đức Phật gọi họ chứng được pháp thân. Đã chứng pháp thân thì có thể thị hiện thân uẩn xứ giới. Phải biết thân uẩn xứ giới ấy là do pháp thân hiển hiện vậy?
Vì thế nên, này Xá Lợi Phất ! Tất cả chúng sanh nếu có ai được gặp thân ấy, hoặc thấy hoặc nghe đều liền điều phục, lúc chạm xúc thân ấy, có thể khiến chúng sanh làm những pháp lành nghĩa lợi.
Lại này Xá Lợi Phất ! Như hiện nay thần y kỳ Bà họp các vị thuốc hòa lại làm hình tượng nữ nhơn đẹp xinh ai thấy cũng thích. Do thần y khéo nắn khéo trang sức nên tượng nữ nhơn ấy dầu không tư lự không phân biệt mà có tác động qua lại đi đứng ngồi nằm. Các nhà hào quí vua quan
trưởng giả có bịnh tật đến nhà thần y. Thần y khám bịnh xong, đem tượng nữ nhơn ban cho người bịnh. Người bịnh tạm thời ôm ấp tượng nữ nhơn ấy thì tất cả bịnh tật đều tiêu trừ, thân tâm an lạc. Thần y kỳ Bà có diệu trí trị bịnh thế gian, các y sư trong đời không ai bằng được.
Này Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát do pháp thân hiển hiện cũng như vậy. Tất cả chúng sanh hoặc nam hoặc nữ có bịnh nhiệt não, tham sân si đến chỗ Bồ Tát ấy tạm thời chạm xúc thân Bồ Tát ấy thì tất cả bịnh khổ đều được tiêu trừ , cảm thấy thân tâm mình rời khỏi các nhiệt não. tại sao? Do vì chư Đại Bồ Tát trước kia phát nguyện lớn khéo thanh tịnh vậy.
Lại này Xá Lợi Phất ! Pháp thân đại Bồ Tát chẳng do ăn uống đoàn thực mà được sống còn, dầu biết rõ tất cả thức uống ăn đều vốn không chỗ có, nhưng vì thương chúng sanh mà hiện ăn uống. Dầu hiện ăn uống mà không tham trước, với thân thể mình chưa hề đoái luyến. Tại sao? Vì thế lực của pháp thân chẳng thối chẳng giảm, thân thể ấy chẳng do ăn uống mà tồn tại.
Nầy Xá Lợi Phất ! Pháp thân Bồ Tát đối với sanh tử khó biết rõ được mà lại thị hiện thân có sanh có tử. Tại sao ? Vì muốn thành thục các chúng sanh nên thị hiện có sống chết vậy. Dầu thị hiện chết mất mà đại Bồ Tát ấy biết rõ tất cả pháp không dứt mất, dầu thị hiện co sanh mà thị hiện tất cả pháp không khởi tác, dầu thị hiện sanh khởI mà biết rõ tất cả pháp cứu cánh vô sanh. Lại pháp thân ấy dùng pháp làm món ăn, do
pháp lực giữ gìn, y chỉ nơi pháp, do vì bổn nguyện nên dầu không công dụng tư lự phân biệt mà thành thực chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Pháp thân Bồ Tát có những tướng dạng như vậy là do tinh tấn không mỏi tu hành Tỳ lê gia Ba la mật mà được chứng nhập.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
« Thân như kim cương chẳng tổn hoại
Biết thời giáo hóa nên hiện sanh
Độc ác dao lửa chẳng hại được
Chúng được giáo hóa thấy thiêu hại
Có bịnh thì thấy là lương dược
Người đói khát thấy là thực phẩm
Bởi tánh các pháp vô phân biệt
Chứng pháp thân không thân nhứt lý
Biết rõ các pháp từ duyên sanh
Không ngã nhơn nam nữ ý sanh
Vì có các duyên nên khổ mãi
Vì không các duyên nên khổ dứt
Biết sắc chẳng bền như đống bọt
Suy gẫm các thọ đồng bóng nước
Tưởng ấm như nóng ánh nắng gợn
Quan sát hành ấm dường bẹ chuối
Như nhà ảo thuật giỏi làm trò
Phút chốc liền hiện các sắc tượng
Biết công dụng thức cũng như vậy
Người trí không cầu nơi ngũ ấm
Biết của đời như tên rời dây
Lại giống chớp nhoáng nước thác đổ
Tạm tụ lại tan tợ mây nổi
Người trí chẳng cầu của trong đời
Các cõi không có một người nào
Chưa từng chẳng hưởng cảnh trời vui
Lại đọa ác đạo bị nghèo khổ
Phật tử biết vậy chẳng cầu trời
Tâm ấy vô y dường hư không
Phi hữu phi vô rời y chỉ
Dầu sanh các cõi không sanh tử
Vì chứng pháp thân không lão tử.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi lúc tu hành Tỳ lê gia Ba
la mật phải chánh tâm tu học như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế gian dầu có y sư đầy cả thế giới cũng chẳng biết được ba thứ bịnh hoạn lớn. Tại sao ? Vì họ chẳng giỏi lại vô trí nên họ chẳng biết được ba thứ bịnh hoạn lớn tham sân si. Chẳng những họ chẳng biết ba thứ bịnh hoạn lớn ấy mà họ cũng chẳng biết được ba thứ lương dược đối trị ba thứ bịnh hoạn lớn ấy. Đó là họ chẳng biết bịnh hoạn lớn tham dục và lương dược đối trị là bất tịnh quán, bịnh hoạn lớn sân khuể và lương dược đối trị là từ bi quán, bịnh hoạn lớn ngu si và lương dược đối trị là duyên khởi quán.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các y sư thế gian ấy chỉ trị được một hai bịnh khác mà không trị được tất cả bịnh của chúng sanh, họ chỉ trị bịnh hết tạm thời mà không thể trị dứt vĩnh viễn.
Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay ta thật hành Tỳ lê gia Ba la mật tu Bồ Tát đạo, há lại học theo các y sư ấy, ta phải nương theo chư Phật Thế Tôn là đại y vương khéo thấu rõ các pháp trị dứt cứu cánh tất cả bịnh. Ta theo học với đại y vương Vô thượng ấy, tu học xong, ta sẽ trị khắp tất cả bịnh khổ há lại trị một hai thứ bịnh riêng rẽ, ta sẽ trị dứt cứu cánh gốc các bịnh há lại trị lành tạm thời.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng : Ta phải chứa họp chánh pháp Vô thượng thuốc cao cam lộ khiến tất cả chúng sanh nghe tên thuốc thì những bịnh rất nặng tham sân si tự nhiên tiêu diệt.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Trong núi Tuyết có vị thuốc tên Tỳ Già Ma, ai nghe
tên thuốc ấy thì các độc nhiệt mãnh liệt ở thế gian đều tiêu diệt. Chỗ thuốc Tỳ Già Ma ấy trong vòng trăm do tuần, vì oai thế thạnh của nó nên làm cho các ác độc đều vô hiệu. Nếu đem thuốc Tỳ Già Ma ấy xoa vào trống lớn loa lớn rồi hoặc đánh trống hoặc thổi loa, các chúng sanh nghe tiếng trống tiếng loa ấy, hoặc kẽ uống độc dược, hoặc bị độc vật cắn đốt, gai độc đâm, vương chất độc, tất cả độc ấy đều tiêu diệt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ngoài thần y Kỳ Bà, tất cả y sư thế gian đều không biết thuốc Tỳ Già Ma. Chỉ có thần y Kỳ Bà là biết sắc tánh của thuốc thần ấy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Cũng như vậy, đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi thật hành Tỳ lê gia Ba la mật chứa họp chánh pháp Vô thượng thuốc cao cam lộ xoa đắp cho tất cả chúng sanh có bịnh, chẳng cùng chung với pháp Thanh Văn, Độc Giác, chỉ trừ đức Như Lai đại y vương Vô thượng khéo thấu tất cả pháp, dùng chánh pháp Vô thượng thuốc cao cam lộ xoa khắp ống loa đại pháp. Xoa xong liền thổi loa tiếng vang khắp Tam thiên Đại Thiên thế giới, nhiều chúng sanh nghe tiếng pháp loa ấy tất cả bịnh nặng tham sân si đều trừ diệt, nhẫn đến có bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh đều được trừ diệt bịnh nặng tham sân si.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chánh pháp Vô thượng thuốc cao cam lộ ấy từ nơi nào mà đến họp tại đây ? Phải biết là từ pháp khí đại Bồ đề mà đến. Pháp khí đại Bồ đề ấy từ chỗ nào đến ? Phải biết là từ trong trắp báu Bồ Tát pháp mà đến. Trắp báu Bồ Tát ấy từ đâu đến ? Phải biết từ pháp môn đại Bồ Tát tạng mà đến chớ chẳng đâu khác.
Nầy Xá Lợi Phất ! Vì thế nên đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi vì muốn tu hành Tỳ lê gia Ba la mật nên chí thành cần cầu kinh điển pháp môn đại Bồ Tát tạng, lắng nghe thọ trì, hoặc đọc tụng nghiên cứu nghĩa lý rồi rộng giảng dạy cho các chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ông lại nên biết thêm tướng dạng ấy, nay Phật sẽ nói để hiển bày thêm những nghĩa ấy. Các đại Bồ Tát nghe ta nói rồi rất chí thành cần cầu kinh điển ấy để nghiên cứu tu học và dạy lại mọi người.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đời quá khứ vô lượng vô số bất tư nghị kiếp, ở thế giới nầy có Phật xuất thế hiệu Xích Liên Hoa Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Có tám mươi câu chi Thanh Văn đệ tử đều là đại A La Hán. Đức Phật Xích Liên Hoa Thắng thọ tám mươi tuổi thì nhập Niết bàn, chánh pháp trụ thế năm trăm năm, tượng pháp trụ thế cũng năm trăm năm, Xá lợi lưu bố cúng dường như sau khi ta diệt độ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Sau khi Phật Xích Liên Hoa Thắng nhập Niết bàn sắp mãn một trăm năm, bấy giờ có một Bồ Tát từ thế giới khác chết đến sanh thế giới nầy nơi nhà đại vương. Vừa sanh ra liền xướng lên rằng : “Lạ thay, nay sanh xứ phi pháp”.Xướng rồi lại nói : “ Nay tôi sẽ thật hành pháp hạnh. Nay tôi sẽ thật hành pháp hạnh “ . Mọi người nghi quái đồng gọi trẻ sơ sanh ấy là “Pháp Hạnh “ . Đến tuổi hai mươi, Vương tử Pháp Hạnh do lòng tin thanh tịnh xuất gia quy hướng đạo Vô thượng. Xuất gia xong, “Pháp Hạnh” Tỳ Kheo ở riêng nơi rừng vắng trong một tịnh thất.
Lúc ấy trên không có đại Thiên Thần đến bảo rằng : Nầy Tỳ Kheo ! Nếu nay ông cầu pháp Vô thượng của Như Lai thì nên cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nếu chưa được thì chớ bỏ tinh tấn, chuyên chí tìm cầu chớ để chẳng được.
Nghe Thiên Thần mách xong, Tỳ Kheo Pháp Hạnh rất vui mừng thân tâm thơ thới liền đi hỏi tìm pháp Bồ Tát tạng. Tự thân đến các thành ấp thôn xóm và các đình quán để tìm cầu, tìm mải không được. Tỳ Kheo ấy lại đến các tăng phường, hoặc thấy Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni liền thưa rằng : Lành thay thưa Ngài nơi nào có pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, Bồ Tát y theo đó tu học xuất sanh vô lượng diệu pháp của chư Phật. Các người ấy đáp rằng : Nầy Tỳ Kheo tôi chưa hề được nghe những gì gọi là pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nay nhơn vì ông nói tôi mới được nghe danh tự pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng.
Tỳ Kheo Pháp Hạnh lại tự suy nghĩ : Diệu pháp của chư Phật chẳng lẽ Thiên Thần vọng nói. Nay tôi phảI chẳng bỏ rời dũng mãnh tinh tấn nếu chưa được nghe pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng thì quyết không bỏ giữa chừng.
Suy nghĩ xong lại hỏi các Tỳ Kheo : Đức Xích Liên Hoa Thắng Như Lai nhập Niết bàn trà tỳ tại chỗ nào ? Biết được rồi, Tỳ Kheo Pháp Hạnh liền đến chổ Phật trà tỳ cúi đầu đảnh lễ đi nhiễu vô số vòng rồi ngồi kiết già một phía, nhứt tâm chánh niệm tưởng đối mặt Phật mà phát thệ rằng : Nay tôi ngồi kiết già tại đây nếu chẳng được từ đức Phật Xích Liên Hoa Thắng hiện tiền được nghe pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng thì quyết chẳng xả chưn quyết chẳng rời khỏi chỗ ngồi nầy.
Phát thệ xong, Pháp Hạnh Tỳ Kheo tinh tấn kiên cố ngồi kiết già nhứt tâm chánh niệm quá bảy ngày. Bấy giờ thế giới phương Đông có Phật hiệu Bửu Tạng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vì Pháp Hạnh nên đến hiện thân trước mặt Ngài mà bảo rằng : Nay ông nên theo tám
môn cú pháp trong pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng để tinh tấn tu hành thì các Phật pháp sẽ chẳng khó được. Bảo xong đức Phật Bửu Tạng giảng nói tám môn cú pháp cho Pháp Hạnh Tỳ Kheo.
Được nghe Phật dạy, Pháp Hạnh Tỳ Kheo tinh tấn tu tập tám môn pháp cú, sau đó
chẳng lâu được thành tựu đa văn Vô thượng bất tư nghị, liền xả chưn rời chỗ ngồi, vì muốn rộng thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên dũng mãnh tinh tấn đến các thành thị thôn ấp, các đình quán, lần lượt tuyên nói hiển thông pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ấy khắp mọi nơi mãn sáu mươi năm. Lúc đó Bồ Tát Pháp Hạnh giáo hóa chúng trời người mãn số một câu chi đều được an trụ trong ba thừa. Lúc lâm chung Pháp Hạnh Bồ tát phát thệ rằng : Tôi nguyện sannh trở lại trong loài người ở thế giới nầy và sẽ tu pháp hạnh. Do nguyện lực ấy nên sau khi mạng chung sanh trở lại nhà cư sĩ. Vừa sanh ra liền xướng lên rằng : Tôi sẽ tu pháp hạnh, tôi sẽ tu pháp hạnh. Do đó mọi người lại đặt tên cho trẻ ấy là Pháp Hạnh. Lúc sơ sanh mà Pháp hạnh đồng tử thân hình như tám tuổi, dùng lòng tin thanh tịnh xuất gia hướng về đạo Vô thượng. Xuất gia chẳng lâu, do túc tập nên diệu nghĩa của pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra. Tỳ Kheo Pháp Hạnh an trụ trong đại Bồ Tát tạng ấy đủ sáu mươi năm rồi đi khắp nơi giáo hóa pháp ấy trong sáu mươi năm. NgườI được giáo hóa đủ một câu chi đều an trụ trong ba thừa. Lúc lâm chung, Pháp Hạnh Bồ Tát phát nguyện sanh làm người trở lại tại thế giới nầy và cũng tu pháp hạnh. Do nguyện lực ấy nên sau khi mạng chung sanh trong cung vua. Ngày ấy trên hư không Thiên Thần xướng rằng: “ Pháp Thắng Bồ Tát xuất thế, Pháp Thắng Bồ Tát xuất thể”.
Do lời Thiên Thần xướng nên Vương tử sơ sanh ấy được đặt tên là Pháp Thắng. Đến năm hai mươi tuổi Vương tử ấy lòng tin thanh tịnh xuất gia, được mọi người gọi là Pháp Thắng Tỳ Kheo. Do sức đại niệm huệ sẵn có nên Pháp Thắng Tỳ Kheo được pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra rồi tinh tấn tu tập có thể khéo dứt hẳn nghi lầm cho tất cả chúng sanh, sau sáu mươi năm tự thân đi khắp mọi nơi giáo hóa mãn sáu mươi năm được đủ số một câu chi chúng Trời, Người đều an trụ tâm Vô thượng Bồ đề.
Lúc lâm chung, Pháp Thắng Bồ Tát phát nguyện sanh trong nhơn đạo xuất gia tu pháp hạnh. Sau khi mạng chung, do nguyện lực ấy nên sanh nhà trưởng giả giàu lớn. Ngày ầy trên không Thiên Thần xướng rằng:” Nay Đắc Niệm Bồ Tát xuất thế, nay Đắc Niệm Bồ tát xuất thế “. Do đó mọi người đặt tên cho trẻ ấy là Đắc Niệm. Tuổi đủ hai mươi đồng tử xuất gia làm Tỳ Kheo. Vì sức túc tập nên tự nhiên được Đà La Ni bất vong tối thắng Vô thượng bất tư nghị, đầy đủ đa văn, an trụ như vậy sáu mươi năm rồi tự thân đi khắp nơi giáo hóa trọn sáu mươi năm được một câu chi chúng an trụ trong ba thừa. Lúc lâm chung, Đắc Niệm Bồ Tát phát nguyện trở lại nhơn gian xuất gia tu pháp hạnh. Do đó lại sanh vào vương cung. Có Thiên Thần xướng rằng: “Nay Y Pháp Bồ Tát xuất thế, nay Y Pháp Bồ Tát xuất thế “. Mọi người theo lời xướng ấy đặt tên cho trẻ là Y Pháp. Đến tuổi hai mươi, Y Pháp vương tử lòng tin thanh tịnh xuất gia làm Tỳ Kheo, vì sức túc tập nên tự nhiên được niệm lực vô gián và pháp môn Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra. Trong năm mươi năm, Y Pháp Bồ Tát du hành giáo hóa khắp nơi, độ đước bốn câu chi chúng thiên nhơn an trụ trong ba thừa. Sau khi mạng chung, Y Pháp Bồ Tát sanh về thế giới của Phật Bửu Tạng ở Đông phương. Lúc sơ sanh liền thành tựu đa văn Vô thượng bất tư nghị giáo hóa sáu mươi tám câu chi chúng trời người đều an trụ trong ba thừa.
Nầy Xá Lợi Phất ! Y Pháp Bồ Tát ở thế giới Đông phương của Phật Bửu Tạng giáo hóa đại chúng xong, mạng chung sanh trở lại trong vương cung tại Thiệm Bộ Châu trong thế giới của Phật Xích Liên Hoa Thắng . Sáu mươi tám câu chi Trời Người được giáo hóa ở phương Đông cũng mạng chung theo Bồ Tát ấy sanh tại quốc độ nầy cùng Bồ Tát ấy làm quyến thuộc.
Bấy giờ ở cõi nầy có Phật xuất thế hiệu Tối Cao Hạnh Như Lai, Ứng Cúng , Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn , thọ mãn tám mươi câu chi tuổi. Người thuở ấy cũng thọ bằng Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! Đức Tối Cao Hạnh Phật thuyết pháp mỗi năm có một đại hội, mỗi đại hội đều có tám mươi câu chi chúng Thanh Văn. Có tất cả tám mươi câu chi đại hội chúng Thanh Văn, đều là đại A La Hán.
Bấy giờ Bồ Tát ấy làm Vương tử tên Dũng Thí, thành tựu đa văn trí huệ sáng suốt cùng quyến thuộc sáu mươi tám câu chi người đến chỗ Phật đảnh lễ đi nhiễu rồi ngồi một phía.
Đức Tối Cao Hạnh Như Lai biết lòng tin và ý muốn tăng thượng của Dũng Thí Vương tử liền khai thị diệu pháp thù thắng hiệp với bổn hạnh. Được Phật khai thị, Vương tử tỏ ngộ được tâm tin thanh tịnh cùng quyến thuộc đồng xuất gia trọn đời tu phạm hạnh, tinh tấn tu hành Bồ Tát đạo sẽ được chứng Vô thượng Bồ đề.
Đức Tối Cao Hạnh Như Lai ở giữa đại chúng thọ ký cho Dũng Thí Tỳ Kheo đại Bồ Tát kế sau khi Phật diệt độ sẽ thành Vô thượng Bồ đề xuất hiện thế gian hiệu Đại Tinh Tấn Như Lai, Ư¨ng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Thọ ký xong, Phật Tối Cao Hạnh liền nhập Niết bàn. Dũng Thí Bồ Tát thấy Phật nhập diệt càng thêm luyến mộ, xây dựng tháp miếu khắp nơi cung kính cúng dường xá lợi của Phật cho chúng sanh được lợi ích. Bồ Tát ấy trụ trì chánh pháp khai hóa vô lượng, ít lâu sau thành Phật hiệu Đại Tinh Tấn Như Lai, thọ nửa kiếp, thuyết pháp có vô lượng đại hội. Mỗi đại hội có mười hai na do tha đệ tử Thanh Văn đều là đạI A La Hán.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi như vậy vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên trịnh trọng ân cần tìm cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, nghe rồi thọ trì đọc tụng tư duy nghiên cứu phân tích nghĩa lý rộng giảng dạy cho các chúng sanh, mãi vậy chẳng thôi nên được thành Phật hiệu Đại Tinh Tấn Như Lai đủ cả mười hiệu như trên đã thuật.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ an trụ nơi chánh hạnh vi diệu Đại thừa muốn mau chứng được Vô thượng Bồ đề thì phải phát khởi tinh tấn dũng mãnh trịnh trọng ân cần tìm cầu pháp môn Bồ Tát tạng. Khi được gặp rồi cung kính lắng nghe thọ trì đọc tụng suy tư nghiên cứu nhẫn đến vì mọi người mà rộng giảng dạy. Tại sao? Vì đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn tất do tìm cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng mới được thành tựu viên mãn Tỳ lê gia Ba la
mật vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn chuyên tu Tỳ lê gia Ba la
mật vì chúng sanh mà thật hành Bồ Tát hạnh.
Nếu các đại Bồ Tát tinh tấn tu hành Bồ Tát hạnh ấy thì tất cả thiên ma chẳng nhiễu loạn được, lại chẳng bị chiết phục bởi các dị đạo và thế luận”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment