Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 129
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI LĂM
Bửu Thủ Bồ Tát nghe Hư Không Tạng Bồ Tát phân biệt những pháp môn như vậy rồi, vui mừng hớn hở Được chưa từng có, liền bạch Hư Không Tạng Bồ tát : ‘’Bạch Đại Sĩ ; Thật là hi hữu, Đại Sĩ có thể thành tựu biện tài nhanh lẹ như vậy và phân biệt biện thuyết rất giỏi. Các sự Được hỏi Đều hay giải bày Được hết.
Như nay tôi hiểu ý nghĩa và văn tự của Đại Sĩ nói, dùng phương tiện như vậy hoặc một kiếp hoặc giảm một kiếp nói chẳng hết Được và biện luận cũng chẳng dứt ‘’’.
Đức Phật bảo Bửu Thủ Bồ Tát : ‘’Đúng vậy Đúng vậy, nầy Bửu Thủ; Đúng như lời ông nói. Bồ Tát Hư Không Tạng ấy nếu diễn nói nghĩa một câu, hoặc một kiếp hay giảm một kiếp nói chẳng hết Được, biện cũng chẳng dứt. Hư Không Tạng Bồ Tát có vô lượng vô biên bất khả tư nghị biện tài như vậy “.
Bấy giờ Bửu Thủ Bồ Tát dùng bàn tay che trùm khắp nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường, trong bàn tay ấy xuất hiện vô lượng hoa hương anh lạc y phục những món trang sức và những tràng phan lọng Đẹp, tuôn ra những món cúng dường thượng diệu như vậy Để cúng dường Đức Như Lai và Hư Không Tạng Bồ Tát, trên không có
trăm ngàn âm nhạc chẳng trỗi mà tự kêu.
Trong tiếng âm nhạc ấy phát ra những bài kệ vi diệu ca ngợi Đức Như Lai :
Gìn Đức dạy Đức Đủ trăm phước
Tâm ý Điều phục niệm chẳng Động
Sa Môn Đại Sĩ xuống Trời Người
Mười phương Bồ Tát Đều hiện Đến
Danh xưng oai Đức Đấng tự tại
Điều phục chúng sanh trừ si tối
Hay Độ trời người Đang nổi trôi
Đóng cửa ác Đạo khiến thanh tịnh
Đại Thánh khéo nói âm vi diệu
Không sai không lầm âm thanh tịnh
Ba cõi không sánh không ba Độc
Thế Tôn nói pháp cho chúng vui
Ý niệm kiên cố ưa tịch tĩnh
Tối thắng thập lực ai cũng phục
Đã bỏ siểm khúc Được cam lộ
Không có trần lụy chúng quy ngưỡng
Thế Tôn ở chúng chẳng Động chuyển
Mà Độ vô lượng chúng mười phương
Tùy chúng sanh hành hay tùy thuận
Phật tử cũng thích tu hạnh ấy
Mặt nhựt không che hay chiếu khắp
Hay khiến các hoa Được Đua nở
Phật trí huệ quang soi tối tăm
Phật tử Được tỏ cũng như vậy
Như gió vô ngại núi chẳng Động
Sạch như hư không sáng như nhựt
Phật tử phóng quang mưa cam lộ
Vì vậy tôi lạy Phật Bồ Tát.
Đại Thiên nước biển còn lường Được
Mười phương hư không còn bước dược
Tâm các chúng sanh còn Đồng Được
Công Đức của Phật chẳng cùng tận.
Trên không âm nhạc vang ra mhững bài kệ vi diệu ấy rồi , ma vương Ba tuần nghiêm bị bốn binh chủng Đến chỗ Đức Phật, hóa thân trưởng giả lễ chưn Đức Phật Đứng ở một phía mà bạch Phật rằng :’’Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, các bực Đại Sĩ ấy có thể thành tựu các thứ thần biến bất khả tư nghị còn có thể thị hiện mhững sự trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Đời vị lai có bao nhiêu chúng sanh nghe thần biến bất khả tư nghị nầy mà Được khai ngộ quyết Định chẳng nghi ?
Đức Phật nói :’’Nầy Ba Tuần! Trong Đời vị lai ít có chúng sanh hoặc một người hoặc hai người nghe kinh Điển thần biến bất tư nghị nầy mà Được tin hiểu thì ít có lắm.
Nầy Ba Tuần! Như một sợi lông chia làm trăm phần, lấy một phần lông chấm lấy một giọt nước biền trong Đại hải. ý của ông nghĩ thế nào, giọt nước Được chấm lấy ấy so với nước cả Đại hải ít nhiều thế nào ?
Ba Tuần bạch rằng :’’ Bạch Đức Thế Tôn; Được lấy rất ít, số còn lại rất nhiều “.
Đức Phật nói :’’ Nầy Ba Tuần; Như nước Được lấy rất ít, chúng sanh nghe kinh Điển thần biến bất tư nghị nầy mà có thể tin hiểu Được thì rất ít cũng như vậy. Như trong Đại hải nước còn lại rất nhiều, chúng sanh chẳng tin hiểu Được kinh Đìển thần biến bất tư nghị nầy rất Đông nhiều cũng như vậy.
Nầy Ba Tuần; Nếu có một người trong thờì gian số kiếp bằng số cát sông Hằng , mỗi ngày Đem trân bửu Đầy cả Đại Thiên thế giới dùng Để bố thí, người nầy Được phước chẳng bằng thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe kinh Điển thần biến bất tư nghị nầy mà có thể tin hiểu Được phước nầy rất là mhiều. Tại sao, nếu là người tin hiểu kinh Điển nầy, thì biết người ấy thân từ Thích Ca Mâu Ni Phật nghe kinh Điển nầy tin hiểu không nghi. Tại sao, vì nếu là chúng sanh chưa vun trồng thiện căn nghe kinh Điển khó Được thế gian tin nầy mà có thể tin Được thì không có lẽ ấy.
Nầy Ba Tuần sau khi Phật bát Niết Bàn lúc pháp sắp diệt có Đông chúng sanh kiêu mạn . Những chúng sanh ấy chấp văn tự của Phật nói vì chẳng biết phương tiện nên họ riêng sanh tranh cạnh, bỏ pháp tư duy, bỏ chánh hạnh của mình, vì lợi dưỡng danh dự y phục uống ăn mà tự ràng buộc, thích luận bàn các sự việc thế tục và sách luận văn từ thế tục mà chẳng luận bàn Đệ nhứt nghĩa Đế, chẳng thích suy gẫm Phật vô thượng Đạo, họ lại còn hướng Đến người khác mà luận chê kinh Điển chơn thiệt thâm diệu nầy, Đây là phỉ báng chư Phật. Họ chứa họp khối vô lượng khổ não lớn. Các hạng ma thần ma thiên tá trợ người ấy, vì lợi dưỡng cung kính và
danh dự nên họ lại thêm phóng dật ngạo mạn. Do ngạo mạn mà các người ấy thấy có ai trì giới hiền thiện thọ trì Đọc tụng kinh Điển nầy, họ bèn khi dễ ghét ganh hủy báng. Các người ngu si nầy hiện Đời phá phạm cấm giới. Trong bọn ấy hoặc vì sợ khó sanh sống, hoặc vì hổ thẹn nơi người nên có kẻ giả mặc ca sa, hoặc xả giới hoàn tục. Những kẻ nầy thân hư mạng chết Đọa Địa ngục A Tỳ thọ khổ báo.
Nầy Ba Tuần; Trong Đời vị lai có chúng sanh cầu Bồ Tát thừa mới phát Đạo tâm căn lành cạn ít nắm lấy nhơn duyên chỉ chấp văn tự chẳng rõ Được nghĩa, thọ trì Đọc tụng kinh Điển thậm thâm như vầy và lúc vì người diễn nói, thì bị người khác khinh khi chê trách. Vì bị người khinh chê nên bèn
bỏ các kinh Điển thậm thâm như vầy mà Đọc tụng các kinh tương ưng với Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa. Vì bị ràng buộc bởi lợi dưỡng danh dự các vật cần dùng nên họ trở lại hủy báng các kinh Điển thậm thâm chơn thiệt như vầy. Họ cũng khinh miệt người thọ trì Đọc tụng các kinh Điển ấy, cho Đến chẳng muốn Đưa mắt nhìn ngó. Họ thường thích hạnh thấp kém mà thối thất pháp Đại thừa Bồ Tát. –Dó là thối thất tâm thuần chí và thâm tâm. Ma thần ma thiên Được những người nầy bèn cố gắng làm nhiều cách hoại loạn tâm họ cho Đến khiến chẳng nghe các kinh ấy, dầu cho có nghe thì
khiến sanh lòng hủy báng không tin. Các người nầy cũng còn chứa họp vô lượng tội thành tựu nghiệp phá pháp, lìa hẳn Tam Bửu chẳng Được thấy Phật nghe Pháp cúng dường tăng. Tạ sao, vì ở trong pháp luật Được Phật nói mà sanh nghi
do dự vậy ‘’.
Bấy giờ ma vương Ba Tuần tự thấy mình có lỗi nên lo rầu sợ sệt Đến lạy chưn Phật rồi Đứng qua một phía.
Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi : ‘’ Nầy Ba Tuần; Có chi mà ngươi lo rầu tiều tụy run sợ như người thất chí mà Đứng qua một phía vậy ? ‘’.
Ma vương Ba Tuần nói : ‘’Thưa Đại Sĩ; Tôi từ nơi Phật nghe nói những sự Đáng sợ như vậy nên tôi lo rầu sợ sẽ bị Đọa ác Đạo, ai sẽ cứu tôi. Ở trong pháp luật của Phật dạy tôi luôn luôn làm vô lượng sự trở ngại.Vì vậy mà tôi lo sợ lắm’’
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Nầy Ba Tuần; Trong Phật pháp có pháp xuất tội. Ông nên Đến chỗ Thế Tôn thành tâm sám hối các tội ác Đã làm chớ có làm lại nữa. Nếu ông có thể như vậy thì sẽ Được lợi ích tốt chẳng luống uổng ‘’.
Nghe lời khuyên ấy, Thiên ma Ba Tuần liền Đến chỗ Đức Phật năm vóc gieo xuống lạy chưn Đức Phật ngước nhìn Phật rơi nước mắt mà bạch rằng :’’Bạch Đức Thế Tôn; Nay tôi thành tâm sám hối từ xưa Đến nay ở trong pháp luật của Đức Phật dạy thường làm vô lượng sự trở ngại. Ngưỡng mong Đức Như Lai vì lòng từ bi thương xót thọ tôi sám hối ‘’.
Đức Phật nói : ‘’Lành thay, lành thay, nầy Ba Tuần; Ông có thể tự thấy các việc ác Đã làm, là thượng thiện thay người có thể ăn năn tội lỗi như vậy ở trong Phật pháp thì làm rộng lớn pháp tạng Như Lai. Chư Phật cũng thọ người ấy sám hối. Vì vậy nên từ nay ông chớ nên phạm nữa ‘’.
Đức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát : «Các Đại Sĩ; Nay các người Đều riêng nói pháp quá ma giới hành Để tỏ lòng thương Thiên ma Ba Tuần vậy ”
Trong Đại chúng có Bồ Tát tên Kim Sơn Vương bạch Đức Phật rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Nếu có người phòng hộ nội giới thì chưa quá ma giới. Nếu thấy tất cả các giới Đồng Phật giới, biết Phật giới ấy tức là phi giới, Bồ Tát nầy có thể quá ma giới».
Bửu Đức Bồ Tát bạch rằng :»Bạch Đức Thế Tôn; Còn có chỗ dựa cậy nương nhờ là chưa khỏi ma giới. Nếu chẳng dựa cậy nương nhờ biết tất cả pháp vô sở Đắc có thể vì chúng sanh nói pháp không sở y, Bồ Tát nầy có thể quá ma giới».
Bửu Thủ Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Nếu có thủ lấy ngã và ngã sở Đây là ma giới. Nếu không có thủ ngã và ngã sở thì không có tranh cạnh. Vì không có tranh cạnh thì không có tâm
hành. Tâm hành còn không có huống là có ma giới ư! Đây là Bồ Tát có thể quá các ma giới vậy.
Vô Tranh Dũng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Nếu có xúc có ly thì có tranh tụng, có tranh tụng thì ma Được tiện lợi. Nếu không xúc không ly thì tự mình không có
tranh tụng, cũng chẳng làm cho người tranh tụng, vì Được vô ngã vậy. Người không não hành có thể quá ma giới».
Bửu Tư Bồ Tát bạch rằng :»Bạch Đức Thế Tôn; Nếu có vọng tưởng phân biệt thì là phiền não và có phiền não xứ thì là ma giới. Nếu có Bồ Tát biết tất cả pháp không có tướng mạo, nơi các phiền não thì không vọng tưởng. Hoặc nội hoặc ngoại cũng chẳng biết khác. Vì bỏ lìa tất cả vọng tưởng phân biệt Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới».
Lạc Hành Bồ Tát bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn; Nếu có chỗ thích chỗ chẳng thích thì có yêu có ghét. Nếu có yêu có ghét thì có ma giới. Nếu có Bồ Tát bỏ lìa yêu ghét bình
Đẳng hành ở trong các pháp không có hai tưởng, Được nhập bất khả tư nghị giới». Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới.
Ly Tranh Bồ Tát bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn; Ma giới do ngã mà phát khởi. Nếu Bồ Tát có thể biết Được ngã Được vô ngã nhẫn thì biết ngã tịnh, vì biết ngã tịnh nên biết tất cả pháp tịnh, vì biết tất cả pháp tịnh nên biết tất cả pháp tánh tịnh như hư không. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới».
Pháp Tự Tại Bồ Tát bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn; Nếu thuận phiền não pháp thì bị ái sai sử mà ma Được tiện lợi. Nếu có Bồ Tát ở trong các pháp rất Được tự tại tự nhiên khai ngộ, vì Được chư Phật thọ ký, nơi Bồ Tát pháp trọn chẳng thối chuyển. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới».
Sơn Tướng Kích Vương Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Nếu tâm có khuyết lậu thì là ma giói. Nếu Bồ Tát giới không khuyết lậu tâm không khuyết lậu thành tựu tất cả pháp không hành, Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới».
Hỉ Kiến Bồ Tát bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn; Nếu người chẳng thấy Phật chẳng nghe pháp thì ma Được tiện lợi. Nếu Bồ Tát thường thấy chư Phật mà chẳng thủ trước sắc tượng, thường nghe pháp mà chẳng trụ trước văn tự do vì thấy pháp thì là thấy Phật . Vì không ngôn
thuyết nên có thể nghe pháp. –Dây là Bồ Tát có thể quá ma giới «.
Đế Võng Bồ Tát bạch rằng :»Bạch Đức Thế Tôn; Nếu có cậy có Động thì là ma giới. Nếu Bồ Tát khéo thuận tinh tiến biết tất cả pháp cứu cánh không có tướng thành tựu mà không cậy không Động. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới``.
Đức Minh Vương Bồ Tát bạch rằng :»Bạch Đức Thế Tôn; Nếu hành hai pháp thì ma Được tiện lợi. Nếu Bồ Tát biết tất cả các pháp Đồng với pháp tánh thì chẳng thấy ma giới cùng pháp tánh có
khác, biết pháp giới cùng ma giới bình Đẳngvì chẳng hai tướng vậy. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới «.
Hương Tượng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Nếu Bồ Tát khiếp nhược sợ pháp thậm thâm thì ma Được tiện lợi. Nếu dũng kiện Bồ Tát khéo có thể không Đạt ba môn giải thoát, ở trong các pháp thậm thâm chẳng kinh chẳng sợ, vì có thể hiện tiền chứng biết các pháp thiệt tánh. –Dây là Bồ Tát có thể quá ma giới».
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Như nước trong biển Đồng một vị mặn.
Trong biển Phật pháp cũng Đồng một pháp vị, Đó là giải thoát vị, ly dục vị. Nếu Bồ Tát khéo hiểu pháp một vị, Đây là Bồ Tát có thể quá ma nghiệp».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Như hư không cứu cánh vô cấu, cứu cánh sáng sạch, cứu cánh chẳng bị tất cả khói bụi mây mù làm rối nhiễu. Cũng vậy tâm bồ tát như hư không, biết rõ tất cả các pháp tánh thường thanh tịnh, cũng chẳng bị tất cả khách trần phiền não làm rối nhiễu Được Đến bỉ ngạn Bát Nhã Ba la mật lìa các tối tăm, nơi các pháp dược huệ quang minh. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới».
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn; Nếu có ngôn ngữ thì có trệ ngại, nếu có trệ ngại thì có ma giới. Nếu pháp chẳng bị tất cả ngôn thuyết biểu thị bèn không trệ ngại. Sao gọi là pháp chẳng ngôn thuyết Được ? Đó là Đệ nhứt nghĩa. Trong Đệ nhất nghĩa cũng không có văn tự và nghĩa. Nếu Bồ Tát có thể hành Đệ nhất nghĩa Đế, nơi tất cả pháp Đều không có sở hành. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới, vì không có sở quá vậy «.
Đức Phật nói với Ma vương rằng : « Nầy Ba Tuần; Ông có nghe nói pháp quá ma giới chăng ? «
Ma vương bạch rằng :`` Bạch Đức Thế Tôn; Tôi Đã có nghe «.
Đức Phật nói : « Nầy Ba Tuần; Nếu có người hành những pháp ấy thì tất cả các ma không làm gì Được. Nếu có ma muốn ở nơi hành nhơn ấy mà phát khởi các ma sự thì trọn chẳng thể làm Được mà còn gây nên vô lượng tội lỗi. Vì vậy nên , Ba Tuần nầy, ông phải phát tâm Vô thượng Bồ Đề, ở nơi pháp quá ma giới ấy phải kiên trì phụng hành. Nếu ông có thể hành như vậy thì có thể quá tất cả quốc giới ma.
Nầy Ba Tuần; Dụ như bợn dơ Đóng từ cả trăm năm, có thể trong một ngày giặt rửa sạch sẽ. Cũng vậy, trong trăm ngàn kiếp chứa họp các nghiệp bất thiện, vì Phật pháp mà khéo thuận tư duy trong một ngày một giờ Đều có thể tiêu diệt.
Nầy Ba Tuần; Như cỏ khô chứa họp Đống lớn như núi Tu Di, lấy chút lửa ném vào thì mau cháy hết. Cũng vậy dùng ít sức huệ có thể trừ diệt vô lượng khối tối tăm. Tại sao ?
Vì sáng trí huệ dũng mãnh mà vô minh thì kém yếu vậy «.
Lúc ấy ma vương Ba Tuần nghĩ rằng :
Đức Thế Tôn Đại từ vì thương xót tôi mà nói cho tôi về pháp Bồ Đề tâm. Nay tôi nên ở chỗ Đức Như Lai vun trồng chút ít căn
lành.
Nghĩ xong, ma vương Ba Tuần hóa ra tám vạn bốn ngàn lọng báu rất Đẹp lạ với vô lượng hoa hương anh lạc hương bột hương xoa, rồi bảo quyến thuộc mình rằng : ” Chư Phật Thế Tôn xuất thế rất khó, các người nên Đồng Đến chỗ Đức Thế Tôn Để cúng dường «. Trong Thiên ma quyến thuộc có tám vạn bốn ngàn chúng cùng ma vương Ba Tuần Đem Đồ cúng như lọng báu hoa hương dâng lên Đức Phật và Đồng phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
Ngoài ra cón có các Thiên ma quyến thuộc chẳng có tín tâm chẳng phát tâm Bồ Đề, họ hiện hình tướng cười chê luận bàn về ma vương Ba Tuần rằng :» Thật là hi hữu cho Ba Tuần có thể ở trước Sa Môn Cù Đàm trá hiện tướng Đốc tín như vậy, coi Cù Đàm như người chí thân. Hoặc là Ba Tuần muốn ở nơi Sa Môn Cù Đàm học chú thuật nên nay ở trước mặt Cù Đàm ca ngợi chăng ? «.
Trong chúng ấy có ma tử Xử Diện và các ma tử Đều không có tín tâm Đều nói rằng :`` Giả sử Sa Môn Cù Đàm dùng các phương thuật hồi chuyển ma vương, chúng ta sẽ lập các phương tiện làm cho kinh Điển như vậy chẳng lưu bố Được, dầu có lưu bố cũng làm cho ít người hộ trợ , cũng làm cho ít
người tín thọ phụng hành bị nhiều người khinh tiện, thường lạc ở Địa phương biên Địa chẳng cho tuyên truyền tại trung tâm các nước, chúng ta sẽ khiến các chúng sanh bần cùng không oai Đức Được nghe và thường bị người có oai Đức hào phú chẳng tin chê trách «.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Hư Không Tạng Bồ Tát : “Nầy Đại Sĩ! Ông có nghe các ma tử nói lời ác ấy chăng ?”.
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch Đức Thế Tôn! Tôi có nghe”
Đức Phật nói : “Nầy Hư KHông Tạng; Vì vậy mà ông nên hộ trợ an ủi kinh Đìển thậm thâm vi diệu như vậy vì Để hàng phục các ma thần”.
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn; Mười phưong chư Phật Đều Đã hộ trì kinh Điển như vậy. Chúng tôi cũng nên an ủi thọ trì”.
A bạt Đê, bạt Đê, tỳ bạt Đê, bà hê Đa nâu tán Đề, Đầu lâu Đà la ni, niết già Đa niết già Đa ni, xa mế bát già Đa ni, mê
la dục Đê, già lâu na niết nựu Đề, tát giá bạt Đê, phù Đa lặc sai, Đạt ma niết chiết Đê, Đạt ma lặc sai, úc cưu ly, thi cưu ly, hưu lâu hưu lâu hưu lâu Đức ca ly, Đa bà bà Đế Đê, thi la nâu bà
Đế Đê, a xoa dạ niết thế trì, chỉ xa bà ca lợi thí, phật Đà yết Đề mị Đê, Đạt ma huất kỳ la nê, tăng già nâu kìm mế, a nâu Đầu lệ.
Chẳng thể tế Độ Được
Quyến thuộc ma hư hoại
Nếu ai phạm kinh nầy
Không có các Đao trượng
Thuận chỗ lành mình làm
Là chỗ làm chư Thánh
Những câu lành và tốt
Thuận với dòng giải thoát
Phá các luận ngoại Đạo
Hàng phục các chúng ma
Tứ Thiên Vương thường hộ
Và cùng Thiên Đế Thích
Phạm Thiên Vương thế chủ
Hàng chư Thiên phụng Phật
Người hộ trì Bồ Đề
Chư Thiên thần như vậy
Thường phải nên ủng hộ
Hàng phục các chúng ma
Vì lợi ích chúng sanh
Mà thọ trì chánh pháp
Hộ trì thuyết pháp sư
Đều phải nên ủng hộ
Hư Không Tạng Bồ Tát nói chú ấy rồi, tức thì nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường và cả Đại Thiên thế giới chấn Động sáu cách.
Lúc các ma tử thấy trên không có năm trăm Mật Tích Lực Sĩ cầm chày kim cương chói sáng như lửa rất Đáng sợ.
Chư Mật Tích xướng lên rằng : « Nếu có ma tử và ma thần nào nghe chú ấy mà không phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, chúng ta sẽ Đập bể Đầu họ thành bảy phần.
Chư ma tử và các quyến thuộc kinh sợ run rẩy lông trên thân Đều dựng Đứng, liền chắp tay lễ Đức Phật mà bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi nay phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Lành thay Thế Tôn mong cứu chúng tôi khỏi sự kinh hoàng nầy Để Được an vui vô úy «.
Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan rằng :`` Trước Đây các ma tử nầy có nói rằng : Chúng ta ở Đời sau nơi kinh Điển nầy sẽ làm trở ngại. Ắt sẽ xứng với bổn thệ ấy mà làm trở ngại. Kinh Điển như Đây chỉ sẽ do Phật thần lực và chư Bồ Tát thọ trì mà sẽ Được lưu bố trong Đời, nhưng không có Được nhiều người thọ trì phân biệt giải thuyết.
Nầy A Nan! Ông có thấy các ma tử vì muốn thoát khỏi sự kinh sợ mà phát tâm Vô thượng Bồ Đề chăng ?».
Tôn Giả A Nan bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn; Tôi Đã thấy «.
Đức Phật nói : « Nầy A Nan ¡ Lời nói phát tâm ấy sẽ làm nhơn rời lìa ma sự cho các ma tử, vì họ chẳng thâm tâm phát tâm Vô thượng Bồ Đề vậy.
Nầy A Nan; Đời vị lai sẽ có Phật xuất thế hiệu là Vô Cấu Tướng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, ma vương Ba Tuần nầy ở chỗ Đức Phật ấy sẽ bất thối chuyển phát tâm Vô thượng Bồ Đề . Đức Phật Vô Cấu Tướng biết Ba Tuần thâm tâm thành tựu nên sẽ thọ ký Vô thượng Bồ Đề cho. Lúc vị lai ấy, vẫn làm ma vương thâm tâm kính tin nơi chánh pháp Như Lai.
Như lúc Phật Di Lặc xuất thế, có ma vương tên là Đạo Sư thâm tâm kính tin Phật, Pháp và Thánh chúng. Năm trăm ma tử nầy cũng sẽ ở lúc Đó sanh trong
hàng ma, họ sẽ ở chỗ Phật Di Lặc, vì Bồ Đề mà vun trồng các căn lành, cho Đến lúc Ba Tuần thành Phật sẽ thọ ký Vô thượng Bồ Đề cho họ.
Nầy A Nan; Ma vương Ba Tuần nay dầu phát tâm Vô thượng Bồ Đề mà vẫn do dự bất Định chút ít. Dầu vậy ông ấy sẽ lần lần thành tựu vô lượng công Đức làm bực Thế Tôn như Phật hiện nay «.
Lúc bấy giờ trong Đại chúng có vô lượng vô biên chư Thiên, thế nhơn Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế Thiên Vương nghe Đức Phật thọ ký cho ma vương Ba Tuần sẽ Được thành Vô Thượng Bồ Đề, tất cả Đều vui mừng hớn hở than chưa từng có Đồng chắp tay hướng lên Phật bạch rằng : « Thật là hi hửu, ai Được thấy Phật ắt Được thành tựu vô lượng khối pháp bửu công Đức. Tại sao, hoặc có chúng sanh chẳng tin muốn làm nhiễu loạn Như Lai mà Được thấy Phật, hoặc có chúng sanh gặp gở thấy Phật , thì làm nhơn lành cho kẻ ấy nhẫn Đến làm nhơn khiến họ Được Niết bàn.
Bạch Đức Thế Tôn; Trừ ngoài Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, còn có ai có thể phân biệt biết rõ căn chúng sanh như vậy ?».
Đức Phật bảo hàng chư Thiên và thế nhơn rằng : « Như lời các người Đã nói, có ai Được thấy Phật thì Đều nhờ lợi ích cả. Các người nên biết rằng hoặc có chúng sanh thiện căn Đều hết, trong vô lượng vô số na do tha kiếp không có phần Được thân ngưới, các chúng sanh nầy thấy Phật bèn làm nhơn lành nhẫn Đến khiến họ Được Niết bàn.
Đức Như Lai có thể làm phước Điền vô thượng vô lượng bất tư nghì như vậy .
Nầy chư Thiên nhơn; Tâm tánh thường thanh tịnh mà phàm phu chúng sanh chẳng thể như thiệt thấy. Vì chẳng thể như thiệt thấy biết Được nên nói là cấu. Còn người có thể chơn chánh thấy biết thì nói là tịnh. Nhưng trong Đệ nhứt thiệt nghĩa không có một pháp nào là khả tịnh khả ố cả. Các người nên biết các phiền não không có phương không có xứ chẳng nội chẳng ngoại, do vì chẳng thiện thuận tư duy nên sanh phiền não, còn thiện thuận tư duy thì không có
phiền não. Người tăng giảm chẳng bình Đẳng thì sanh phiền não, còn không tăng giảm thì không phiền não . Hư ngụy vọng tưởng thì sanh phiền não, không vọng tưởng thì không phiền não. Vì vậy mà Phật nói như thiệt biết tà kiến thì là chánh kiến, mà tà kiến cũng chẳng tức là chánh kiến. Người có thể như thiệt biết thì không hư vọng tăng giảm thủ trước,vì vậy nên gọi là chánh kiến.
Nầy chư Thiên nhơn! Như Đại Địa thủy giới phong giới y nơi hư không mà trụ. Hư không không có chỗ y trụ, như vậy thì Đại Địa cũng không chỗ y trụ mà giả có tên là y trụ. Các người nên biết như vậy. Khổ y nơi nghiệp nghiệp y nơi kiết sử, mà khổ nghiệp kiết sử Đều không có sở y, vì tâm tánh thường thanh tịnh vậy. Do Đó mà biết rằng tất cả các pháp không có
căn bổn Đều không có chỗ trụ, do giả ngôn thuyết mà nói là có, thiệt thì không có vậy. Do cớ nầy nên nói tất cả pháp bổn tánh thường tịnh cứu cánh vô sanh vô khởi.
Nầy chư Thiên Nhơn! Pháp môn ấy gọi là tánh thường tịnh pháp môn. Bồ Tát thông Đạt pháp môn nầy thì không bị các phiền não làm nhiễm ô, cũng chẳng cậy dựa pháp môn thanh tịnh ấy, vì Đã xả bỏ tất cả các cậy dựa Động lay vậy. Do Đây mà Được Đạo bình Đẳng quá ma giới nhập vào Phật giới, cũng có thể nhập vào Được chúng sanh giới mà chẳng Động pháp giới. Biết tất cả pháp không có giới không có phi giới , có thể mau Đến Nhứt thiết trí giới».
Lúc Đức Phật nói pháp ấy, có năm trăm Bồ Tát Được Vô sanh Pháp nhẫn.
Bấy giờ Trưởng giả Thân Việt ở trong chúng rời chỗ ngồi Đứng vậy Đến lễ chưn Phật mà bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật vì chúng tôi mà nói kinh Điển thậm thâm nầy.
Trước kia tôi vì xúc não Phật nên làm hầm lửa lớn và dâng cơm có Độc. Nhưng Đại thánh Như Lai là Đấng chẳng thể làm hại Được, do Đó nên tôi Đối với Phật sanh lòng kính trọng. Từ ngày ấy Đến nay, lòng nghi hối của tôi còn chưa có thể trừ dứt. Hôm nay từ nơi Đức Phật Được nghe kinh Điển thậm thâm vi diệu nầy lòng nghi hối liền trừ tâm không chướng ngại Được hạnh an lạc. Vì vậy mà nay tâm kính
tin của tôi càng thêm tăng trưởng. Nay trong nhà tôi có nhiều của cải châu báu sẽ mang cúng dường Phật Pháp và Tăng cùng
các Sa Môn, Bà La Môn kẻ nghèo cùng hạ tiện xin ăn.
Bạch Đức Thế Tôn! Có ai Được nghe kinh Điển dứt tất cả kiết phược thậm thâm nầy mà còn tham lấy các thứ của cải vật chất!».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, chư Phật Như Lai Vô Thượng Bồ Đề rất là thậm thâm khó lường biết Được. Nếu có Bồ Tát ở Đời vị lai xả thân mạng mình và lợi dưỡng danh dự mà có thể thọ trì Phật Bồ Đề rất là khó có».
Trong Đại chúng có sáu mươi tám ức Bồ Tát Đứng dậy chắp tay hướng lên Phật Đồng nói kệ rằng :
Thế Tôn diệt Độ rồi
Chúng tôi có thể nhẫn
Xả thân thọ mạng mình
Để hộ trì chánh pháp
Xả lợi dưỡng danh dự
Rời lìa các tham trước
Nguyện hộ trì chánh pháp
Vì Được Phật trí vậy
Bị mắng chửi quở trách
Và lời khinh chê chọc
Vì có hộ chánh pháp
Sẽ nhẫn nhịn nhận Đó
Bị khi dễ phá cợt
Xướng nói kêu ác danh
Sẽ dùng lòng từ nhẫn
Để hộ trì kinh nầy
Tỳ kheo Đời vị lai
Chấp trước ham các cõi
Cùng ma làm bè Đảng
Phỉ báng Phật chánh pháp
Phá cấm giới làm ác
Chuyên nghiệp thế tục lụy
Bị danh lợi che trùm
Nên chẳng thích chánh pháp
Cậy biết các tục Điển
Kiêu mạn và phóng dật
Cao khoe mình hay giỏi
Khinh miệt người chánh hạnh
Thường bỏ chỗ nhàn tĩnh
Thích ở chốn ồn ào
Học văn từ thế tục
Chấp chặt lấy ngô ngã
Chẳng biết giáo hóa người
Chẳng trao giồi trí huệ
Bỏ tọa thiền niệm Phật
Chẳng gần kề Tam Bửu
Người không có trí huệ
Kết bè Đảng cầu lợi
Siêng cùng chung kiết sử
Thích thọ người dâng cúng
Thấy người từ tâm thí
Tham tiếc như của mình
Thường qua Đến chỗ người
Luận nói những thế sự
Ruộng nhà và nghề nghiệp
Cùng những sự bán buôn
Siêng ham cầu lợi tức
Còn tự sưng Sa Môn
Ngạo mạn chấp lấy có
Dựa cậy nơi tà kiến
Nghe nói pháp tánh không
Sẽ kinh hoàng sợ hải
Họ lánh xa chánh pháp
Chỉ biết cầu hiện báo
Họ sẽ hư vọng nói
Phi pháp nói là pháp
Tai hoạn lớn như vậy
Các Tỳ Kheo tệ ác
Ma cùng với ma tử
Lại sẽ tá trợ nhau
Kinh văn thì là một
Nói nghĩa Đều riêng khác
Đều luận theo ý mình
Kẻ ngu sẽ như vậy
Các kinh Điển thâm diệu
Hay làm cho giải thoát
Họ sẽ ngăn trở Đó
Trái lại nói sự cạn
Ta thắng còn ngươi liệt
Do thắng nên Đắc quả
Ở trong các Phật pháp
Sẽ tranh cạnh như vậy
Lúc cạnh tranh như vậy
Chúng sanh bị phá hoại
Bị phi pháp tri thức
Làm cho phải não bức
Vị lai mạt thế ấy
Lòng rất Đáng lo sợ
Chúng tôi trì chánh pháp
Đấng cứu thế chỗ nói
Chúng tôi thường từ tâm
Chẳng rời bỏ pháp luật
Sanh khởi chánh Đại bi
Để thủ hộ cho Đời
Phá giới thích làm ác
Chẳng an trụ chánh pháp
Sa Đọa nơi Đạo nào
Chúng tôi thường lo thương
Thấy cố ý làm ác
Hủy báng nơi chánh pháp
Chúng tôi trọn chẳng cùng
Chung làm thân bạn Đảng
Thường dùng sức chúng tôi
Khéo thủ hộ lỗi miệng
Thấy những người vô dụng
Chẳng nói lỗi của họ
Chúng tôi trụ dồng thánh
Đầu Đà hộ tịnh giới
Ở chánh Định tu huệ
Thường siêng năng tu hành
Lìa ồn náo thế gian
Thích ở chỗ nhàn tĩnh
Không tham trước như nai
Khéo Điều phục tri túc
Nếu lúc Đến tụ lạc
Nhiếp các căn ít nói
Thấy người diễn thuyết pháp
Cùng nhau luận chánh pháp
Ái ngữ làm lợi ích
Để giáo hóa chúng sanh
Lại thuyết pháp cho họ
Khiến họ dứt ác hạnh
Chúng tôi vì chánh pháp
Kẻ ở xa tôi Đến
Vì họ mà thuyết pháp
Để lợi ích cho họ
Nếu thấy hàng phàm ngu
Có người kém mất ấy
Tôi chỉ nên tự hộ
Trụ chánh pháp hành nhẫn
Hủy nhục hay cung kính
Tôi sẽ vững như núi
Chẳng nhiễm pháp thế gian
Làm Đạo Sư cho Đời
Các Tỳ Kheo phạm giới
Nếu Đến quở trách họ
Bảo tự xét lỗi mình
Đó sẽ là nghiệp báo
Sẽ vì các hạng ấy
Những chúng sanh ganh ghét
Trước tỏ lời thân thiện
Hiện làm cách cung kính
Người ấy liền quan niệm
Ta cũng là Sa Môn
Thành tựu Đức hạnh ấy
Không bị tiếng xấu chăng
Các người phạm cấm giới
Như là người thất chí
Nghe kinh nầy lo sợ
Như sứt mũi soi gương
Những phương tiện phải làm
Họ chẳng muốn nghe theo
Lại còn bảo người khác
Rằng chẳng phải chánh pháp
Họ còn bảo quốc vương
Phá lòng tin thần dân
Phỉ báng pháp chơn chánh
Rằng chẳng phải Phật nói
Chúng tôi ở lúc nầy
Do thần lực của Phật
Vì hộ trì chánh pháp
Nên chẳng tiếc thân mạng
Thế Tôn biết chúng tôi
Lời nói không hề sai
Sẽ kiên trì thủ hộ
An trụ chánh pháp ấy
An trụ lời thành thiệt
Đúng như lời mà làm
Vui Đẹp chư Như Lai
Mới thành tựu Bồ Đề
Hư Không Tạng Bồ Tát khen chư Bồ Tát rằng : « Lành thay lành thay, nầy chư Đại Sĩ! Các Ngài có thể phát nguyện thành thiệt thọ trì Đại pháp vô thượng thậm thâm vi diệu của Như Lai, thật là rất tốt vậy».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Đức Phật :``Bạch Đức Thế Tôn! Có thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì Đọc tụng kinh Điển nầy thì Được bao nhiêu phước ?».
Đức Phật nói :`` Nầy Hư Không Tạng! Ví như cả mười phương mỗi phương Đều có mười Đại Thiên thế giới, Đem nghiền nhỏ tất cả Đại Thiên thế giới ấy thành vi trần họp chung thành một Đống. Giả sử có người thành tựu thần túc vô lượng oai Đức thọ mạng lâu dài, người nầy mang Đống vi trần ấy Đi phương Đông quá số thế giới bằng số Đống vi trần ấy mới bỏ rơi xuống một vi trần. Cứ như vậy Đi qua phương Đông mãi Đến bỏ rơi hết số vi trần ấy, nhưng các thế giới vẫn chẳng hết. Như Đi qua phương –Dông bỏ rơi vi trần, Đi qua chín phương kia bỏ rơi hết số vi trần cũng như vậy, nhưng các thế giới cũng chẳng hết.
Nầy Hư Không Tạng! Các thế giới như vậy chừng có nhiều chăng ?».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Số thế giới ấy rất nhiều rất nhiều vô lượng vô biên chẳng thể Đếm biết Được”.
Đức Phật nói : «Nầy Đại Sĩ! Các thế giới ấy hoặc có dính vi trần hay không dính vi trần Đều Đem họp cả lại làm một thành cao rộng bằng nhau, trong thành chứa Đầy hột Đình lịch. Số hột Đình lịch nầy có thể Đếm biết Được chăng ?».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng :`` Bạch Đức Thế Tôn! Giả sử dùng thí dụ còn chẳng rỏ Được huống là có thể Đếm biết, chỉ trừ Đức Như Lai, không ai có thể Đếm biết Được».
Đức Phật nói : «Nầy Đại Sĩ! Đúng như vậy, Đúng như vậy, như lời ông nói, chỉ có Như Lai biết Được số hột Đình lịch ấy. Nầy Đại Sĩ! Nếu như có người thành tựu thần túc vô lượng oai Đức có thể dùng miệng thổi những hột Đình lịch ấy rải tan mười phương, một hột Đình lịch rơi xuống một thế giới, trong chẳng quá một hột. Nầy Đại Sĩ ! Theo ý ông nghĩ thế nào ? Những thế giới Được hột Đình lịch rơi xuống ấy chừng có nhiều không ?».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Những thế giới ấy chẳng phải tâm lực có thể phân biệt Được. Giả sử có phân biệt khiến tâm người phải mê loạn».
Đức Phật nói : «Nầy Đại Sĩ! Nay Phật bảo với ông, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn hành Bồ Tát Đạo, ngày ngày Đem vô lượng trân bửu Đầy cả những thế giới ấy Để bố thí không hề thôi nghỉ cũng chẳng làm việc khác.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì Đọc tụng thơ tả kinh Điển thậm thâm nầy, chẳng cầu lợi dưỡng, vì Bồ Đề mà diễn nói cho người, nhẫn Đến chỉ làm cho một người sau khi nghe rồi khuyên ở nơi Vô thượng Bồ Đề nhẫn Đến phát một niệm lành, vì muốn khiến chánh pháp Được còn lâu ở thế gian vậy. Công Đức của người nầy hơn người bố thí kia cả trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn vạn lần, nhẫn Đến chẳng phải toán số thí dụ biết Được. Huống là có thể khiến người nghe pháp nầy an trụ nơi Vô thượng Bồ Đề. Tại sao, vì có thể diễn nói vô lượng thiện căn thành tựu chư Bồ Tát như vậy Để hộ trì chánh pháp.
Nầy Đại Sĩ! Phật chẳng thấy Bồ Tát còn có pháp nào khác có thể hơn chánh hạnh kiên cố nhiếp các thiện pháp giáo hóa chúng sanh nầy».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, Như Lai bất khả tư nghị, Đại pháp của Như Lai cũng bất khả tư nghị. Như Đại pháp của Như Lai bất khả tư nghị, người thọ trì kinh Điển nầy Được công Đức cũng bất khả tư nghị.
Ngưỡng mong Đức Như Lai hộ trì kinh nầy vì Đời dương lai khiến các thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì chánh pháp tay Được kinh nầy ôm ở trong lòng chẳng rời lìa. Nếu là người Đáng lìa khỏi sanh tử thì chẳng từ người khác nghe pháp mà tự nhiên Được khai ngộ Bồ Đề. Ngộ Bồ Đề rồi lại rộng vì người mà diễn nói».
Đức Phật nói :`` Nầy Đại Sĩ! Lắng nghe lắng nghe, khéo suy
nghĩ Đó, Phật sẽ vì hộ kinh Điển nầy mà nói chương cú triệu thỉnh Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương các vị Thần Thiên. Do vì Được chương cú nầy triệu thỉnh nên chư Thiên chư Thần ấy sẽ ủng hộ các thuyết Pháp sư thọ trì kinh nầy lúc diễn nói kinh Điển thậm thâm khó Được Đời tin ấy, làm cho không ai làm trở ngại Được. Đó là hoặc bị quốc vương Đại thần Đuổi ra khỏi nước, hoặc bị bịnh nặng, hoặc lúc Đấu tranh nổi lên, hoặc quốc Độ có tật dịch. Lúc các sự tai nạn ấy phát khởi do sức thần chú làm cho liền tiêu diệt chẳng trở ngại Được. Những gì là thần chú chương cú ? Liền nói chú rằng :
Đầu Đầu lệ, Đề Đề lệ , Đà dạ ki Đế, Đà dạ la già la, ni Đế Đề, tỳ bà tri, xa mế, xa di Đa tỳ, mục xí, chiên Đế Đê, ni kỳ noa nễ, a nâu Đa lệ, minh da la ni, bà ki tư, bát tha thâu Đà ni, bát Đà nâu chỉ, bát Đà tán Đề, bát nhã mâu lệ, a bà cứu lệ, phù Đà lặc sai, luật na tát chi, Đa bà
tát chi, Đa bà bát Đê .
Tùy Phật ý, thuận Pháp tánh, cung kính Tăng, thế chủ tín hộ thế Tứ Vương vì các Phật tử thọ trì chú nầy hộ trì người thuyết pháp» .
Lúc ấy Tứ Thiên Vương liền Đứng dậy chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Chúng tôi sẽ hộ trì các Phật tử thọ trì kinh nầy. Liền nói chú rằng : Thủ tì, thủ bà bát Đê, thủ Đề Đế, mục Đa ủng, Đà lê ủng, Đà la ni, phả Đam mế, a kỳ ủng khiếp ti, a mục xí, Đà la ni Đà ủng, tẩu thủ sái hê na, tì Đề tì Đà lại tán Đề, tam mế, bà dạ mế, ma lại di, ba phiến Đa Đề, hưu hưu, hê hê, khưu lâu khưu lâu lệ».
Lúc Tứ Đại Thiên Vương nói chú bất khả phạm ấy rồi, Thiên Đế Thích liền Đứng dậy tâm tịnh vui vẻ chắp tay hướng lên Phật mà nói kệ rằng :
Lúc Đời mạt Đói kém
Các Đại Sĩ lớn rộng
Thọ trì nói kinh nầy
Tôi sẽ hầu hạ họ.
Nói kệ xong, Thiên Đế Thích liền nói chú rằng :
Di Đê, thủ tì, ma ha di Đê, Đạt ma di Đê, thiên Đa già lệ, ma di Đê, tát giá
di Đê, na Đề mế, a nâu Đa lệ, a nâu Đầu ủng, a nâu lặc sai, tát bà tát Đỏa a nâu già hê, a na nâu Đa ti, tu ký Đê, a tỳ
lô Đề, a tỳ già hê, phù Đề bồ xá mế, nhị ly, yết tha ni Đê, nê Đề la ni, a na tha bà sai Đế, mế Đê, mế Đê xà gia tư, tu sa la.
Các Ngài khởi thiền lạc
Đến hộ người trì pháp
Các thế giới Thế Tôn
Thảy Đều Đồng thọ trì.
Phạm Tự Tại Thiên Vương Đứng dậy khen Thích Phạm Hộ Thế chư Thiên rằng : « Lành thay, lành thay; Các Ngài bèn có thể vì hộ chánh pháp, vì trì
pháp, vì người thuyết pháp mà phát Đại trang nghiêm. Các Ngài Đúng là phải nên như vậy rất Được tiện nghi tùy theo
pháp luật của Như Lai trụ thế lâu hay mau, trong thời gian ấy sẽ có người hiểu biết chánh hành pháp hành. Trong bao nhiêu thời gian ấy hàng chư Thiên và thế nhơn sẽ rất hưng thạnh cung Điện nhà cửa dẫy Đầy. Sau khi chánh
pháp nầy diệt, hàng chư Thiên và thế nhơn trở lại giảm ít, cung Điện nhà cửa trống hoang».
Đức Phật nói với Di Lặc Bồ Tát rằng : « Nầy Di Lặc! Ông thọ trì kinh Điển thậm thâm nầy Đọc tụng biên chép rộng vì người mà diễn nói.
Nầy Di Lặc! Nay Phật Đem kinh Điển thậm thâm như Đây phó thác ông Để Đại pháp nầy còn lâu ở thế gian, Để hàng phục các chúng ma, Để lợi ích tất cả chúng sanh, Để tất cả ngoại Đạo chẳng Được tiện lợi, Để dạy bảo chư Bồ Tát gần kề kinh nầy chẳng xa rời, vì muốn khiến Phật pháp Đại minh còn lâu ở thế gian mà chẳng suy diệt vậy, vì khiến giống Phật Pháp Tăng chẳng Đoạn tuyệt vậy».
Di Lặc Bồ Tát liền bạch Phật rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Lúc Đức Như Lai còn tại thế và sau khi diệt Độ, tôi sẽ thường thọ trì kinh Điển thậm thâm nầy rộng tuyên lưu bố. Tại sao, vì người thọ trì pháp nầy thì là thọ trì chánh pháp của tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, chớ chẳng phải chỉ thọ trì chánh pháp của một Đức Phật.
Bạch Đức Thế Tôn! Tôi cũng vì tự hộ pháp của mình vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thường cùng Đại chúng chư Thiên câu hội ở Đâu Suất Thiên cung thường vì họ mà rộng diễn nói kinh Điển thậm thâm nầy. Tôi còn sẽ làm cho người thọ trì Đọc tụng kinh nầy tay họ Được kinh nầy ôm giữ trong lòng chẳng rời quyển kinh.
Bạch Đức Thế Tôn! Đời mạt thế sau, nếu lúc pháp muốn diệt, có ai thọ trì kinh nầy rồi vì người mà diễn nói, nên biết Đó là do oai thần của Di Lặc kiến lập vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Trong lúc ấy dầu có nhiều ma sự nhiễu loạn hành nhơn, các người thuyết pháp vì dựa nơi phiền não ma nên bị ma nhiếp trì mà chẳng thích kinh nầy chẳng siêng tu tập tranh cạnh thị phi lẫn nhau, chúng tôi sẽ Đồng siêng làm phương tiện khiến người thuyết pháp ưa thích kinh nầy thường siêng tu tập Đọc tụng thông thuộc rộng vì người mà diễn nói».
Đức Phật nói : « Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Ông có thể vì hộ trì chánh pháp mà làm sư tử hống. Chẳng phải chỉ hôm nay ông ở trước ta làm sư tử hống, mà ông cũng ở trước vô lượng a tăng kỳ chư Phật quá khứ làm sư tử hống hộ trì chánh pháp».
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : « Nầy A Nan! Ông có thọ trì kinh nầy chăng?».
Tôn giả A Nan bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn! Do thần lực của Phật nên tôi Đã thọ trì».
Đức Phật nói : « Nầy A Nan! Ông thường nên vì hàng tứ chúng mà rộng phân biệt giải nói kinh nầy. Nếu có người trước Đã vun trồng thiện căn thích pháp thù thắng, những người như vậy Được nghe kinh nầy rồi có thể tin hiểu thọ trì Đọc tụng rộng diễn nói cho mọi người. Người ấy sẽ Được vô lượng vô biên bất khả tư nghị khối Đại công Đức».
Tôn giả A Nan bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn! Sẽ gọi tên kinh nầy là gì và phải phụng trì thế nào ?».
Đức Phật nói : «Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Khuyến Phát Chư Bồ Tát Trang Nghiêm Bồ Đề. Phải phụng trì như vậy».
Lúc ấy Công Đức Trang Nghiêm Bồ Tát ở trong Đại chúng Đứng dậy gối hữu chấm Đất chắp tay hướng lên Phật bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, Đức Như Lai vì ủng hộ chánh pháp và người thuyết pháp nên khéo có thể tán thán kinh nầy như vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Hàng tân học Bồ Tát vì Bồ dề nên vun trồng thiện căn, Đem các thứ hoa hương, anh lạc, hương bột, hương xoa siêng cúng dường Phật mà chẳng thọ trì kinh nầy, người ấy có thành tựu Đệ nhứt cúng dường mà cúng dường Như Lai chăng ?».
Đức Phật nói : « Nầy thiện nam tử! Chẳng thành Đệ nhứt cúng dường Như Lai, cũng chẳng thể dùng nhơn duyên ấy Để Được vô lượng công Đức. Chẳng bằng thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì kinh nầy công Đức rất nhiều».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai dùng Phật nhãn
Những Phật Độ Được thấy
Cùng khắp cả mười phương
Đều rộng lớn vô biên
Bao nhiêu thế giới ấy
Đựng Đầy những trân bửu
Bồ Tát Đem báu nầy
Thường dùng Để bố thí
Nếu có người ở nơi
Kinh vi diệu thậm thâm
Chánh pháp vô sở Đắc
Được chư Như Lai nói
Mà có thể thọ trì
Vì người rộng diễn thuyết
Công Đức của người nầy
Còn nhiều hơn người kia
Hoa hương và anh lạc
Hương xoa và hương bột
Lọng báu với tràng phan
Những y phục thượng diệu
Mang những món cúng nầy
Đầy khắp các thế giới
Cúng dường chư Như Lai
Hồi hướng về Phật Đạo
Nếu Đời mạt thế sau
Lúc chánh pháp sắp diệt
Nơi chánh pháp cứu thế
Siêng tu tập hộ trợ
Thọ trì nơi chánh pháp
Thường hành bất phóng dật
Khối công Đức người nầy
Còn nhiều hơn người kia
Mười phương các thế giới
Tất cả những Đại hải
Hương du tối thượng diệu
Đựng Đầy tất cả biển
Làm tim Đèn rất lớn
Dường như núi Tu Di
Thắp sáng Để cúng dường
Tất cả chư Như Lai
Đời mạt thế sau nầy
Lúc chánh pháp sắp diệt
Biết chúng sanh thế gian
Bị vô minh che trùm
Nếu người có thể thắp
Cây Đuốc chánh pháp lớn
Người nầy Được công Đức
Còn hơn người trước kia
Chỗ Được thấy của Phật
Vô lượng chư Như Lai
Dầu trong ức ngàn kiếp
Mang các thứ cúng dường
Các y phục cõi trời
Món vừa ý cúng dường
Mà chẳng hay thọ trì
Kinh Điển thâm diệu nầy
Nếu người ở chư Phật
Biết là có ơn nặng
Nên ủng hộ Tam bửu
Để báo Đáp ơn Phật
Vì muốn lợi chúng sanh
Nên thọ trì Đọc tụng
Rộng nói kinh Điển nầy
Phước nhiều hơn người kia
Ta dùng sức Phật nhãn
Những chúng sanh Được thấy
Nếu có thể dạy bảo
Đều thành trời Thích Phạm
Người nầy Được công Đức
Chẳng bằng người biên chép
Thọ trì kinh Điển nầy
Được công Đức rất nhiều
Toàn Đại Thiên thế giới
Có bao nhiêu chúng sanh
Nếu người hay giáo hóa
Đều thành thánh nhị thừa
Nếu có người hay phát
Tâm Bồ Đề vô thượng
Hộ trì kinh Điển nầy
Công Đức lại hơn kia
Công Đức thọ trì kinh
Nếu là có hình sắc
Sẽ Đầy khắp tất cả
Mười phương các thế giới
Chỉ trừ trí vô thượng
Của chư Phật Như Lai
Không còn ai biết Được
Công Đức người thọ trì
Như trí của Như Lai
Rộng khắp vô biên tế
Hư không và pháp giới
Cũng rộng vô biên tế
Có thể thọ trì Được
Kinh pháp nầy của Phật
Được công Đức vô biên
Cũng như hư không kia.
Nghe Phật nói kệ ấy xong, Công Đức Trang Nghiêm Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn ¡ Nay tôi tin hiểu nghĩa thú Được Như Lai nói, năm trăm năm sau lúc pháp sắp diệt, các chúng sanh
phát tâm Đại thừa mà có người chẳng thọ trì kinh pháp nầy, nên biết là bị ma nhiếp sa ra ngoài Phật pháp.
Bạch Đức Thế Tôn; Nay tôi có khả năng sau khi Đức Như Lai diệt Độ thọ trì kinh nầy Để Phật pháp còn lâu ở thế gian».
Lúc bấy giờ vì phó chúc kinh Điển thậm thâm nầy nên Đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương vô lượng a tăng kỳ chư Phật thế giới. Chư Như Lai ở các thế giới ấy cũng vì phó chúc
kinh pháp nầy nên Đồng phóng ánh sáng nơi lông trắng giữa chân mày chiếu khắp cả mười phương thế giới không Đâu là chẳng chiếu khắp.
Lúc nói kinh nầy rồi, Đức Như Lai dùng thần lực phóng ánh sáng lớn ấy, vô lượng a tăng kỳ chư Phật thế giới chấn Động sáu cách. Có vô lượng a tăng kỳ chúng
sanh phát tâm vô thượng Đạo. Có vô lượng a tăng kỳ Bồ Tát Được Vô Sanh Pháp nhẫn. Còn có vô lượng a tăng kỳ Bồ Tát Được thiện căn Nhứt sanh Bổ xứ. Lại còn có quá vô lượng a tăng kỳ chúng sanh Được Thanh văn thừa trụ bực học vô học.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Hư Không Tạng Bồ Tát, Tôn giả A Nan, Đại chúng chư Bồ Tát, chư Thanh Văn, chư Thiên thế nhơn nghe lời Phật nói Đều rất vui mừng.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment