Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 124
PHÁP HỘI HẢI HUỆ BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI BỐN
Nầy Hải Huệ ! Đại Bồ Tát tu hành các pháp như vậy chẳng bị phiền não làm nhiễm ô, chẳng dính mắc ba cõi.
Vì đại Bồ Tát hành thiện phương tiện công đức lực, nên mặc dầu đi trong tam giới mà thân tâm không
ô nhiễm.
Này Hải Huệ ! Ví như trưởng giả chỉ có một con trai lòng rất thương yêu. Đứa con trai ấy chơi giỡn lầm té vào hầm phẩn. Người mẹ thấy gớm ghét hôi dơ, sau đó người cha thấy quở trách bà mẹ rồi liền vào hầm phẩn kéo dắt đứa con trai ra rồi đem tắm rửa sạch sẽ. Do vì thương yêu nên người cha ấy quên cả hôi dơ.
Trưởng giả cha mẹ ấy dụ cho Thanh Văn,
Duyên Giác và Bồ Tát. Hầm phẩn dụ tam giới. Đứa con trai dụ chúng sanh. Bà mẹ chẳng vớt con được là dụ hàng Thanh Văn,
Duyên Giác. Ông cha hay cứu vớt đứa con được là dụ chư Bồ Tát. Lòng thương yêu con là dụ đại bi.
Đại Bồ Tát đủ thiện phương tiện vào tam giới mà chẳng bị tam giới nhiễm ô. Vì vậy mà đạo có hai thứ : một là Thanh Văn thừa, hai là Bồ Tát Đại thừa.
Thanh Văn thừa nhàm tam giới. Bồ Tát thừa chẳng nhàm tam giới.
Đại Bồ Tát tu tập không, vô tướng, vô nguyện, dầu đi trong các cõi
mà chẳng bị đọa trong các cõi. Đã chẳng đọa các cõi mà cũng chẳng thủ chứng. Đi trong các cõi gọi là thiện phương tiện, chẳng thủ chứng gọi là trí huệ.
Đại Bồ Tát quán sát tất cả pháp không có hai tướng. Quán tất cả pháp bình đẳng thì chúng sanh
cũng bình đẳng. Bình đẳng như vậy thì Niết bàn cũng bình đẳng, đây gọi là trí huệ. Nếu có thể quán chúng sanh
bình đẳng như vật mà chẳng chứng Niết bàn thì gọi là phương tiện.
Thanh tịnh bố thí gọi là huệ, phát nguyện hồi hướng Bồ đề thì gọi là phương tiện".
Hải Huệ đại Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là bố thí mà gọi là thanh tịnh trí huệ và thanh tịnh phương tiện ?".
Đức Phật nói : "Này Hải Huệ ! Bồ Tát nếu thấy không có ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu thì gọi là huệ. Nếu tu không vô tướng vô nguyện đem các thiện căn nguyện cùng chúng sanh hồi hướng Bồ đề thì gọi là phương tiện.
Còn nữa, nầy Hải Huệ ! Biết các chúng sanh căn hạ trung thượng thì gọi là huệ. Biết rồi tùy ý mà vì họ thuyết pháp thì gọi là phương tiện.
Vì thanh tịnh trí huệ nên dầu đi trong tam giới mà không bị nhiễm trước. Vì thanh tịnh phương tiện nên dầu tu Nhị thừa mà chẳng chứng quả Nhị thừa.
Này Hải Huệ ! Nếu Bồ Tát chẳng bị tất cả phiền não nhiễm ô thì gọi là huệ, có thể điều phục chúng sanh khiến họ hồi hướng Vô thượng Bồ đề thì gọi là phương tiện.
Bồ Tát phát nguyện đều làm cho chúng sanh được vô tận của cải vô tận phước đức tăng trưởng thiện căn, tất cả hàng hữu học vô học Thanh Văn, Duyên
Giác và tất cả Bồ Tát tùy ý đắc pháp, đây gọi là tịnh phương tiện.
Bồ Tát nếu có thể thọ trì tất cả Phật pháp rộng phân biệt diễn nói, vô cùng tận diễn nói, vô chướng ngại diễn nói, chẳng luống diễn nói, tùy thích diễn nói, đây gọi là tịnh huệ.
Đại Bồ Tát đời đời sanh chỗ nào trọn chẳng mất tâm Vô thượng Bồ đề, đây gọi là tịnh huệ. Đời đời ở chỗ nào tu tập pháp lành đều nguyện cùng chúng sanh
chung, đây gọi là tịnh phương tiện.
Do tịnh huệ biết tâm Bồ đề vô trụ vô căn. Do tịnh phương tiện giáo hóa chúng
sanh đến Bồ đề".
Hải Huệ đại Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Đại Bồ Tát có đủ hai thứ tịnh như vậy nên tất cả nghiệp hạnh được làm không gì chẳng phải là Bồ đề.
Tại sao vậy ? Vì trong tất cả pháp đều có ám chướng. Vì pháp ám chướng nên tức là Bồ đề. Vì vậy nên Bồ Tát thường chẳng xa lìa Bồ đề vậy.
Bồ Tát nếu nghĩ rằng tôi lìa Bồ đề, nên biết người nầy chẳng được Bồ đề. Bồ Tát nếu nghĩ rằng tôi có Bồ đề, người nầy ở nơi Bồ đề có tịnh có bất tịnh. Nếu có thể quán xét các pháp như vậy thì được Bồ đề, tức là tịnh trí phương tiện vậy".
Đức Phật nói : " Này Hải Huệ ! Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có Phật xuất thế hiệu Vô Biên Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, quốc độ ấy tên Bất Thuấn, kiếp ấy tên Quang Vị. Lúc đức Phật Vô Biên Quang mới đến ngồi đạo tràng Bồ đề chưa thành Phật, mười phương thế giới bực Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ, bực Bồ Tát bất thối chuyển đều đồng ngó thấy và đồng đến chỗ ấy đem các thứ hoa cúng dường, hoa ấy ở hư không cao bảy cây đa la.
Lúc thành Phật đạo rồi, Vô Biên Quang Như Lai phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương thế giới.
Mười phương chư Thiên phần đông thấy Phật Quang rồi đều nói rằng : Phật Vô Biên Quang chơn thiệt xuất thế. Quốc độ Bất Thuấn trang nghiêm lộng lẫy như cung Trời Tha Hóa Tự Tại. Kiếp ấy ban sơ quá mười ngàn năm có Phật xuất thế hiệu Quang Vị, do đây mà kiếp ấy có tên là Quang Vị.
Trong kiếp Quang Vị có mười bốn ức chư Phật Như Lai xuất thế. Quốc độ Bất Thuấn ấy có chín vạn sáu ngàn tiểu quốc, mỗi tiểu quốc ngang rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, có tám vạn bốn ngàn thành, thành
ấy ngang rộng một do tuần. Mỗi thành dân cư có tám vạn bốn ngàn người. Quốc độ Bất Thuấn ấy có đủ các sự như vậy. Cõi nước ấy thuần dùng bốn báu trang sức, đó là vàng, bạc, lưu ly và pha lê, có
nhiều món uống ăn không hề thiếu. Nhơn dân cõi ấy không có ngã ngã
sở như người Uất Đơn Việt ở phương Bắc.
Phật Vô Biên Quang thọ mạng đủ mười trung kiếp. Chúng Thanh Văn
có chín vạn sáu ngàn ức. Chúng Bồ Tát có một vạn hai ngàn ức. Trong quốc độ ấy có thành tên Lạc và thành tên Tịnh. Đức Phật Vô Biên Quang xuất thế tại thành Tịnh rồi qua ở tại thành Lạc. Quốc độ ấy có vua tên là Tịnh Thanh đủ bảy báu thống lãnh cả Đại Thiên thế giới. Hậu cung thể nữ có ba vạn sáu ngàn xinh đẹp như Thiên nữ. Có mười vạn Vương Tử hùng mãnh dũng kiện, mỗi Vương Tử đều có sức lực nửa na la diên, thân đủ hai mươi tám tướng tốt, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Có tám vạn Vương Nữ, cũng đều thanh tịnh xinh đẹp như Thiên nữ, cũng đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Trải qua hai đại kiếp, vua Tịnh Thanh cúng dường đức Vô Biên Quang Như Lai và chúng Thanh Văn, chúng Bồ Tát. Nhà vua vì đức Như Lai mà xây dựng bửu phường rộng lớn năm do tuần, trong bửu phường có mười vạn bửu lâu để cúng dường chư Tăng. Lúc ấy Thánh Vương cùng các quyến thuộc đều tu phạm hạnh thanh tịnh.
Thuở ấy đức Vô Biên Quang Như Lai giáo hóa vô lượng chúng sanh an trụ pháp Đại thừa, cũng có vô số chúng sanh nơi Thanh Văn thừa.
Thánh Vương Tịnh Thanh sau thời gian cúng dường Phật rồi cùng quyến thuộc đồng đến chỗ đức Phật Vô Biên Quang đầu mặt đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu cung kính quỳ dài
chắp tay bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát tu hành Đại thừa chẳng theo lời người ? Thế nào là Bồ Tát sanh được cứu cánh? Thế nào là Bồ Tát được vô sở trụ ? Thế nào là Bồ Tát được vô động huệ ? Thế nào là Bồ Tát được thanh tịnh huệ ? Thế nào là Bồ Tát thần lực hay thấy xa ? Thế nào là Bồ Tát các căn mãnh lợi ? Thế nào là Bồ Tát đầy đủ Phật độ ? Thế nào là Bồ Tát hành bất phóng dật ? Thế nào là Bồ Tát nghe pháp thậm thâm lòng chẳng kinh sợ ?
Thế nào là Bồ Tát được tên là Bồ Tát ?
Đức Vô Biên Quang Như Lai nói :
"Này Đại Vương ! Có bốn pháp tu hành Đại thừa chẳng theo lời người :
Một là có lòng tin Thánh ra khỏi thế giới.
Hai là có trí huệ quán sát pháp tánh.
Ba là có đại thần thông.
Bốn là tu tịnh tinh tiến để giáo hóa các chúng sanh.
Này Đại Vương ! Bồ Tát có đủ bốn pháp như vậy tu hành Đại thừa chẳng theo lời người.
Bồ Tát còn có bốn pháp sanh được cứu cánh :
Một là biết rõ thiện pháp để điều phục tâm.
Hai là chẳng tham trước sự vui của mình.
Ba là vì các chúng sanh mà tu tập từ bi.
Bốn là thường ưa thích pháp Đại thừa.
Này Đại Vương ! Bồ Tát có bốn pháp được vô sở trụ :
Một là tịnh tâm.
Hai là tịnh trang nghiêm.
Ba là lìa hư dối.
Bốn là tu kiên huệ để đủ phước đức.
Này Đại Vương ! Bồ Tát còn có bốn pháp được tịnh trí huệ :
Một là tịnh nhãn.
Hai là dùng tứ nhiếp pháp để nhiếp thủ các chúng sanh.
Ba là tịnh thân đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp.
Bốn là tịnh Phật độ quán tịnh pháp giới.
Này Đại Vương ! Bồ Tát còn có bốn pháp có thể được thấy xa, các căn mãnh lợi :
Một là niệm dưới cội Bồ đề chẳng bỏ tâm Bồ đề.
Hai là niệm Phật trí huệ, cũng chẳng trụ trước nơi trí.
Ba là niệm pháp thân tu tập không vô tướng vô nguyện.
Bốn là niệm Phật Niết bàn, ở trong sanh tử không có nhàm hối.
Này Đại Vương ! Còn có bốn pháp Bồ Tát có đủ Phật độ hành bất phóng dật :
Một là thọ thân Thiên Đế Thích để giáo hóa chư Thiên khiến họ chẳng phóng dật.
Hai là thọ thân Đại Phạm Thiên Vương để giáo hóa hàng Phạm Thiên khiến họ chẳng phóng dật.
Ba là thọ Chuyển Luân Thánh Vương thân để giáo hóa nhơn dân khiến họ chẳng phóng dật.
Bốn là thọ thân Đại thần, Trưởng giả để giáo hóa mọi người khiến họ chẳng phóng dật.
Này Đại Vương ! Còn có bốn pháp Bồ Tát nghe pháp thậm thâm không có
lòng kinh sợ :
Một là thường thân cận thiện tri thức.
Hai là thiện tri thức thường nói pháp thậm thâm cho.
Ba là khéo tư duy tốt các nghĩa pháp thậm thâm.
Bốn là như chánh pháp mà trụ.
Này Đại Vương ! Còn có bốn pháp được danh hiệu Bồ Tát :
Một là thường cầu Ba la mật.
Hai là vì các chúng sanh mà tu tập tâm đại bi.
Ba là luôn ưa thích cầu Phật pháp.
Bốn là lúc giáo hóa chúng sanh không có lòng nhàm hối.
Lúc Thánh Vương Tịnh Thanh nghe đức Vô Biên Quang nói
pháp rồi, vua cùng các quyến thuộc đều được Vô sanh Pháp nhẫn, liền xả bỏ quốc độ xuất gia trong Phật pháp siêng tu tập đạo hạnh.
Đức Vô Biên Quang Như Lai nói :
Này Đại Vương ! Nay nhà vua xuất gia tức là báo ơn Phật. Nếu ai sanh lòng tin xuất gia như vậy thì gọi là báo ơn Phật rất lớn, là công đức lớn có nhiều lợi ích. Nầy Đại Vương ! Bồ Tát xuất gia có hai mươi bốn sự lợi ích :
Một là lìa bỏ thế sự được đại tự tại.
Hai là bỏ lìa phiền não được giải thoát.
Ba là thân mặc y phục nhuộm màu được đạo không ô nhiễm.
Bốn là có đủ bốn sự được tứ thánh chủng.
Năm là thích hành đầu đà xa lìa tất cả đại dục ái dục.
Sáu là chẳng bỏ giới tụ được vui nhiều nhơn thiên.
Bảy là chẳng bỏ Bồ đề chứng được Phật pháp.
Tám là thường ưa thích tịch tĩnh lìa nói luận thế sự.
Chín là vì chẳng trụ trước nơi pháp nên được đại tịnh tâm.
Mười là có đủ thiền chỉ để được thiền định.
Mười một là ưa cầu đa văn vì được trí huệ vậy.
Mười hai là phá hoại kiêu mạn vì được trí huệ vậy.
Mười ba là phá trừ tà kiến vì được chánh kiến vậy.
Mười bốn là chẳng khởi giác quán vì chơn thiệt biết các pháp giới vậy.
Mười lăm là bình đẳng xem chúng sanh
vì được đại từ vậy.
Mười sáu là giáo hóa
các chúng sanh tâm không mỏi mệt vì được đại bi vậy.
Mười bảy là chẳng tiếc thân mạng vì hộ chánh pháp vậy.
Mười tám là tịch tĩnh tâm mình vì
được thần thông vậy.
Mười chín là thường niệm Phật vì thấy Phật vậy.
Hai mươi là tu thiện tư duy vì được mười hai duyên thâm trí huệ vậy.
Hai mươi mốt là được thuận nhẫn.
Hai mươi hai là được vô sanh pháp nhẫn.
Hai mươi ba là tin tất cả công đức.
Hai mươi bốn là được Phật trí huệ.
Thánh Vương Tịnh Thanh nghe thọ pháp ấy rồi chuyển đem dạy lại tất cả nam nữ quyến thuộc thần dân.
Lúc ấy trong quốc độ Bất Thuấn có chín vạn chín ngàn ức người đều xuất gia.
Tỳ Kheo Tịnh Thanh đã xuất gia rồi lại bạch Phật Vô Biên Quang rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi thế nào được gọi là xuất gia ?
Đức Vô Biên Quang nói :
Này Tỳ Kheo ! Ông tên là Tịnh Thanh, phải nên tịnh tự giới, tự giới đã tịnh rồi thì gọi là Tỳ Kheo, gọi là xuất gia.
Nghe Phật dạy rồi, Tỳ Kheo Tịnh Thanh lòng thích tịch tĩnh tư duy như vầy : giới ấy tức là nhãn, quán nhãn không tức là tịnh giới, tịnh giới ấy tức là Phật độ. Như nhãn quán nhĩ tỷ thiệt thân ý cũng vậy. Ý ấy tức là giới, quán ý không tức là tịnh giới, tịnh giới ấy tức là Phật độ, tức là nhứt giới, tức là không giới, tức là chúng sanh giới, tức là vô tướng giới, tức là vô nguyện giới, tức là vô tác giới, tức là vô vi giới.
Tịnh Thanh Tỳ Kheo quán sát như vậy rồi liền được thân khinh tâm khinh. Thân tâm đã khinh rồi được vô lượng thần thông, được thần thông rồi được lạc thuyết vô ngại đà la ni môn.
Này Hải Huệ ! Tỳ Kheo Tịnh Thanh thuở đức Vô Biên Quang Như Lai ấy là ai chăng ? Nay
chính là thân ông vậy, còn nam nữ quyến thuộc ấy, nay là đại chúng Bồ Tát được ông dắt đến nghe pháp tại đây vậy".
Lúc đức Thế Tôn nói pháp ấy, có vạn tám ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn chúng sanh được Vô sanh nhẫn.
Nầy Hải Huệ ! Nếu ai muốn được Vô thượng Bồ đề thì nên đúng như pháp mà nói và
đúng như nói mà trụ.
Thế nào gọi là đúng như pháp mà nói và
đúng như nói mà trụ ?
Này Hải Huệ ! Nếu có người nói tôi sẽ làm Phật, rồi mời các chúng sanh đến hứa cho pháp vị.
Mời hứa rồi, mà người ấy chẳng thể thọ trì đọc tụng phân biệt giải nói kinh điển vi diệu, chẳng thể hộ trì thanh tịnh cấm giới, chẳng siêng tu tinh tiến, chẳng tu tri túc, ở trong thiện pháp được phần ít đã biết đủ. Người như vậy gọi là kẻ khi dối chẳng đúng như pháp nói, chẳng đúng như pháp trụ.
Này Hải Huệ ! Nếu có người nói rằng tôi sẽ làm Phật, rồi mời các chúng sanh đến hứa cho pháp vi.
Mời hứa rồi, người ấy hay thọ trì đọc tụng phân biệt giải nói kinh điển vi diệu, hộ trì cấm giới thanh tịnh, siêng tu tinh
tiến, thiểu dục tri túc, được nhiều thiện pháp cũng chẳng sanh lòng thỏa đủ. Người này gọi là chẳng khi dối đúng như pháp nói đúng như pháp trụ.
Nầy Hải Huệ ! Ví như Quốc Vương có đông tân khách, mời rồi mà chẳng sắm sửa đồ dùng cúng dường, lúc tân khách đã đến nơi nói là chưa sắm sửa. Tân khách đều nói rằng : đã nhận lời mời của đức vua nên ở nhà chẳng sắm món ăn uống, nay theo lời đức vua mời mà đến lại không có chi ăn dùng, họ đồng quở trách giận hờn sầu não khóc lóc.
Này Hải Huệ ! Bồ Tát mời các chúng sanh hứa cho pháp thực rồi chẳng cầu đa văn, chẳng trì giới tinh tiến tu hành ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo. Vì vậy nên chúng thánh
quở trách, hàng nhơn thiên than khóc.
Này Hải Huệ ! Bồ Tát nếu có thể đúng pháp làm, đúng như chỗ làm mà nói, chẳng nên khi dối tất cả chúng sanh,
Lại này Hải Huệ ! Còn có các chúng sanh thỉnh cầu Bồ Tát vì họ thuyết pháp. Bồ Tát hứa khả, sẽ thuyết pháp cho họ. Sau khi hứa Bồ Tát phóng dật. Chúng sanh đã thấy Bồ Tát phóng dật liền khuyên nhắc. Được khuyên nhắc mới thuyết pháp cho họ. Lúc thuyết pháp hoặc có người hỏi nghĩa thậm thâm. Vì phóng dật nên Bồ Tát không đáp được. Vì không đáp được nên lòng hổ thẹn. Vì hộ thân tâm mình nên gạt chúng sanh mà bỏ lìa họ.
Này Hải Huệ ! Bồ Tát nếu muốn đúng như pháp được nói mà trụ, không tự tiếc thân tâm để hộ trì chúng sanh.
Này Hải Huệ ! Về quá khứ có một sư tử vương ở trong hang núi sâu thường nghĩ rằng : ta là vua của tất cả loài thú, có đủ sức xem coi giữ gìn tất cả thú. Trong núi ấy có hai con khỉ cùng sanh hai khỉ con đến sư tử vương nói rằng : vua hay thủ hộ tất cả các thú, nay chúng
tôi đem hai khỉ con này giao phó cho vua, chúng tôi muốn đi xứ khác kiếm ăn. Sư tử vương liền hứa khả. Hai khỉ để hai con lại giao cho sư tử vương rồi đi.
Bấy giờ trong núi ấy có một kên kên chúa thấy sư tử vương ngủ liền bắt hai khỉ con để ở chỗ hiểm.
Sư tử vương thức dậy biết liền hướng kên kên chúa nói
kệ rằng :
Nay ta thưa cùng chúa kên kên
Cầu mong chí tâm nhận lời tôi
Xin nể mặt tôi tha hai khỉ
Cho tôi khỏi thẹn vì thất tín.
Kên kên chúa nói kệ đáp sư tử vương rằng :
Ta hay du hành bay hư không
Đã qua chỗ người lòng không sợ
Nếu quyết muốn hộ hai khỉ con
Đổi cho ta người phải xả thân.
Sư tử vương đáp :
Nay ta vì hộ hai khỉ con
Xả thân chẳng tiếc như cỏ khô
Nếu ta hộ thân mà nói dối
Sao được gọi là như thuyết hành.
Nói kệ xong, sư tử vương lên gộp cao muốn xả thân mình.
Kên kên chúa liền kêu sư tử vương mà nói kệ rằng :
Nếu vì người khác xả mạng mình
Kẻ ấy liền hưởng vui vô thượng
Nay ta thả hai khỉ con nầy
Mong sư tử vương đừng tự hại.
Này Hải Huệ ! Thuở ấy sư tử vương nay là thân ta, Phật Thích Ca Mâu Ni,
khỉ đực ấy nay là Đại Ca Diếp, khỉ cái ấy nay là Thiện Hộ Tỳ Kheo Ni, hai con khỉ ấy nay là A Nan và La Hầu La, còn kên kên chúa ấy hiện nay là Xá Lợi Phất vậy.
Này Hải Huệ ! Bồ Tát vì hộ kẻ y chỉ mình mà chẳng tiếc thân mạng.
Này Hải Huệ ! Thế nào gọi là đúng như lời mà trụ ?
Bồ Tát nếu nói ta sẽ bố thí, liền thật hành bố thí rộng lớn. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.
Bồ Tát nếu nói ta có thể trì giới, liền giáo hóa tất cả đồng hộ giới như mình. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.
Bồ Tát nếu nói ta tu nhẫn nhục, liền giáo hóa chúng sanh đồng tu nhẫn nhục. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.
Bồ Tát nếu nói ta siêng tinh tiến tu hành Phật pháp, liền giáo hóa mọi người đồng siêng tinh tiến tu hành Phật pháp. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.
Bồ Tát nếu nói ta tu thiền định, liền giáo hóa chúng sanh xả trù loạn tâm tu tập thiền định. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.
Bồ Tát nếu nói ta tu trí huệ, liền phân biệt đúng như pháp. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời nói mà trụ.
Bồ Tát nếu nói ta nên phá hoại tất cả ác pháp, liền tu tập tất cả thiện pháp. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.
Này Hải Huệ ! Hay trang nghiêm thì gọi là như thuyết, hay cứu cánh thì gọi là như trụ. Hay phát tâm thì gọi là như thuyết, được chứng quả thì gọi là như trụ. Hay tịnh tâm thì gọi là như thuyết, hay chí tâm thì gọi là như trụ. Hay phát tâm thì
gọi là như thuyết, tâm bất thối thì gọi là như trụ. Chí tâm nghe pháp thì gọi là như thuyết, nghe rồi như trụ thì gọi là như trụ. Có thể tịnh khẩu thì gọi là như thuyết, hay tịnh thân thì gọi là như trụ. Mới thọ giới thì gọi là như thuyết, chí tâm hộ trì giới thì gọi là như trụ. Phát Bồ đề tâm thì gọi là như thuyết, hành Bồ Tát đạo gọi là như trụ. Được trụ nhẫn địa thì gọi là như thuyết, trụ bất thối địa thì gọi là như trụ. Được thân một đời thì gọi là như thuyết, được thân hậu biên thì gọi là như trụ. Đến dưới cội Bồ đề thì gọi là như thuyết, được quả Bồ đề thì gọi là như trụ.
Này Hải Huệ ! Đây gọi là Bồ Tát đúng như pháp mà thuyết và đúng như thuyết mà trụ".
Lúc đức Thế Tôn nói pháp này, có năm trăm Bồ Tát được trụ vô sanh nhẫn địa.
Lúc bấy giờ trong pháp hội có một Bồ Tát tên Liên Hoa bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã nói về như thuyết mà trụ thiệt chẳng thể nghĩ bàn. Như sở trụ của đức Phật tức là như thuyết tức là như trụ".
Đức Phật nói : "Này Liên Hoa ! Ở nơi sự ấy ông có biết rõ được chăng ?".
Liên Hoa Bồ Tát bạch rằng : "Tôi đã rõ, Bạch đức Thế Tôn !".
Đức Phật nói : "Nếu người biết chánh pháp là chơn thiệt thì gọi là như pháp trụ".
Sơn Vương Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Vô sở trụ pháp thì gọi là như pháp trụ. Tại sao vậy ? Vì thấy tất cả pháp không có
giác, do vì không có giác nên chẳng thấy một pháp gọi đó là giác, nếu không có một pháp thì làm sao có trụ. Nếu thấy như vậy thì gọi là như pháp trụ".
Phước Đức Vương Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người tùy theo tâm thì
chẳng phải như pháp trụ. Nếu có Bồ Tát quán ý như huyễn, gọi là vô trụ. Nếu là vô trụ thì gọi là như pháp trụ".
Nhiên Đăng Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Không có tâm tham thì gọi là như pháp trụ. Thế nào là tham tâm,
đó là ở trong các pháp có tổn có ích. Nếu không có tham tâm thì gọi là như pháp trụ".
Nhựt Tử Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát có chỗ trụ trước thì gọi là động. Nếu ở trong các pháp tâm
không trụ trước thì gọi là vô động. Nếu là vô động thì gọi là như pháp trụ".
Dũng Kiện Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả thế gian đều tùy tâm hành. Nếu biết tâm hành thì gọi là như pháp trụ".
Lạc Kiến Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói : do vì thọ mà thọ khổ, nếu có thể chẳng thọ thì các thọ dứt diệt, nếu có thể chẳng thủ thì các thủ dứt diệt. Dầu chẳng thọ các thọ mà chẳng bỏ chúng sanh thì gọi là như pháp trụ".
Hương Tượng Vương Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả phàm phu chúng
sanh đều có gánh nặng đó là ngũ ấm. Nếu người có thể biết ngũ ấm chơn thiệt, vì phá hoại kiến chấp ngũ ấm mà lìa bỏ gánh nặng, nhưng ở nơi các pháp không có ý tưởng là gánh, đây gọi là như pháp trụ".
Kiên Ý Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát chẳng sanh nơi sanh chẳng diệt nơi diệt cũng lại chẳng thấy tánh sanh diệt thì gọi là như pháp trụ".
Trì Thế Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu đi nơi thế gian thì chẳng phải như pháp trụ. Nếu người chánh trang
nghiêm thì gọi là như pháp trụ. Người chánh trang nghiêm thấy tất cả các pháp bình đẳng như hư không".
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có thể chơn thiệt biết thấy Niết bàn thấy pháp là diệt và không có sanh diệt, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì đến Bồ đề mà tu tập trang nghiêm, đây gọi là như pháp trụ".
Quang Vô Ngại Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có hành xứ tức là ma nghiệp chẳng phải như pháp trụ. Nếu không có hành xứ thì phá ma nghiệp, nếu phá ma nghiệp thì gọi là như pháp trụ".
Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu quan niệm rằng tôi sẽ được tịnh pháp, vì tịnh pháp ấy nên siêng tu tinh
tiến, tinh tiến như vậy là không tinh tiến, nếu có thể quan sát các pháp
bất định, do bất định ấy mà siêng tu tinh tiến, đây gọi là như pháp trụ ".
Bất Khả Tư Duy Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Biết các chúng sanh tất cả tâm tánh chẳng sanh tâm tưởng, gọi là chẳng tư duy được mà tư duy vậy. Nếu có thể ở trong pháp chẳng tư duy ấy mà tư duy thì gọi là như pháp trụ".
Lạc Tịch Tĩnh Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát thanh tịnh các tâm giới thì có thể lìa tất cả hoặc lậu. Nếu có thể xa lìa tất cả lậu thì gọi là chánh hạnh. Nếu chánh hạnh thì gọi là như pháp trụ".
Thương Chủ Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu thanh tịnh thiện pháp, phước đức trang nghiêm, trí huệ trang nghiêm, ? quán hai thứ trang nghiêm bình đẳng vô nhị, dùng phước đức bình đẳng quán trí huệ bình đẳng, dùng trí huệ bình đẳng quán phước đức bình đẳng không có sai biệt thì gọi là như pháp trụ".
Duy Ma Cật Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng quan niệm nơi hai thì gọi là như pháp trụ. Nếu ở nơi pháp giới chẳng hoại hư chẳng khác biệt thì gọi là như pháp trụ".
Y Nghĩa Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát y nơi nghĩa chẳng y nơi chữ. Vì chánh nghĩa nên thọ trì đọc tụng tám vạn bốn ngàn pháp tụ không sai sót không động dời thì gọi là như pháp trụ".
Tịnh Ý Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát phát tâm Bồ đề, chí tâm ủng hộ Bồ đề tâm ấy, lúc tu tập Bồ đề biết các pháp tánh. Luận về pháp tánh ấy chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ đây gọi là như pháp trụ".
Tất Cánh Tịnh Ý Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát xa lìa cấu uế như giặt y bỏ dơ bẩn, có thể khiến các phiền não chẳng ô nhiễm tâm mình thì gọi là tất cánh tịnh. Tâm đã tịnh rồi tùy thật hành Bồ đề đều gọi là như pháp trụ".
Hải Huệ Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người thân cận ác tri thức thì chẳng phải như pháp trụ, chẳng tu thánh pháp thì chẳng phải như pháp trụ, nếu gần ác hữu làm nghiệp ma sa vào xứ ma.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người muốn lìa tất cả ma nghiệp rời hành xứ các ma cùng các ác
pháp thì nên gần thiện hữu".
Đức Phật nói : "Này Hải Huệ ! Nay ông thiệt biết ma nghiệp hành chăng ?".
Hải Huệ Bồ Tát nói : "Tôi đã biết, bạch đức Thế Tôn ! ".
Đức Phật nói : "Này Hải Huệ ! Nay ông nên vì vô lượng Bồ Tát đại chúng mà diễn nói".
Hải Huệ Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Luận về ma nghiệp ấy tức là nhãn sắc. Nếu người thấy sắc sanh tâm tham trước đó là ma nghiệp. Như nhãn sắc, nhĩ thanh tỷ hương thiệt vị thân xúc và ý pháp cũng như vậy.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu hành Đàn Ba la mật, với vật chẳng thích đem bố thí, với vật ưa thích thì tiếc lẫn chẳng xả. Với người thương thì cho, với người giận thì chẳng cho. Nếu có phân biệt tài vật và phân biệt kẻ nhận lãnh, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu hành Thi Ba la mật hộ trì cấm giới gần gũi người trì giới khen ngợi thân mình mà chê
bai phá giới, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu hành Nhẫn Ba la mật, với kẻ có sức mạnh hơn thì hay nhẫn nhịn, với kẻ kém sức thì chẳng nhịn được, thấy kẻ sức mạnh thì nói năng nhỏ nhẹ khiêm hạ thấy kẻ sức yếu thì lời thô khinh miệt, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu hành Tinh tiến Ba la mật diễn nói Thanh Văn thừa, nói Duyên Giác thừa, nói Bồ Tát thừa, lúc tu tập Bồ đề thì khinh mạn Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa miệng chẳng tuyên nói, thích việc thế sự, chẳng thích cung kính cúng dường Tam bảo những món hoa hương phan lọng kỹ nhạc tôn trọng tán thán, chẳng cầu đa văn, thấy người đa văn chẳng đến thân cận, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu tập Thiền Ba la mật được thiền định chẳng điều phục được tất cả chúng sanh lòng hối nhàm, tham trước thiền lạc quở người thuyết pháp, chẳng thích giảng luận tán thán tịch tĩnh, trách chê Dục giới Sắc giới, thích thân Vô Sắc thọ mạng tột dài, chẳng thấy chư Phật, chẳng nghe chánh pháp,
xa lìa thiện hữu, chẳng biết phương tiện, thọ xả tu xả, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu Bát Nhã Ba la mật biết các nhơn quả chẳng dùng tứ nhiếp để nhiếp thủ chúng sanh mà điều phục họ, chẳng biết chúng sanh căn thượng trung hạ, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu thích rảnh rang tịch tĩnh, thích tịch tĩnh rồi thọ vui tịch tĩnh chẳng thích nghe pháp thuyết pháp hỏi điều nghi,do tịch tĩnh nên phiền não chẳng khởi, do chẳng khởi nên chẳng biết mà tưởng là biết, chẳng lìa mà tưởng là lìa, chẳng chứng mà tưởng là chứng, chẳng tu mà tưởng là tu, chẳng được thiệt nghĩa, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu có tu tập đa văn ưa nói thích nói lời vi diệu, lời dịu dàng, lời vui vẻ, nếu vì y phục uống ăn ngọa cụ lợi dưỡng mà thuyết pháp, nếu có người tin hiểu hay chí tâm nghe
mà chẳng vì họ nói pháp, nếu có kẻ phóng dật đến cúng dường thì nói pháp
cho, người đáng vì nói mà chẳng nói, người chẳng nên vì nói lại nói cho, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát lúc thuyết pháp giấu kín thâm nghĩa, có hàng nhơn thiên đắc tha tâm trí biết nên không vui mà
tự nghĩ rằng ta vì Như Lai chơn chánh pháp mà đến nghe pháp chứ chẳng vì thế gian lời nghĩa thiển cận mà đến, người này muốn phá Như Lai chánh pháp chẳng cho tăng trưởng, nếu là người phá hủy Phật chánh pháp chúng
ta chẳng thích thấy nghe lời họ nói, các thiện nhơn ấy liền bỏ đi, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát với ác tri thức tưởng là thiện hữu, ác tri thức ấy chẳng dùng tứ nhiếp pháp nhiếp thủ chúng sanh, chẳng tu đa văn chẳng dạy chúng sanh, chẳng nói pháp xuất thế mà thích nói lời thế tục, chẳng biết pháp chẳng biết thời chẳng biết nghĩa, đây gọi là ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Người ác tri thức chẳng có thể khai thị phân biệt giải thuyết pháp Thanh Văn,
pháp Duyên Giác, pháp Bồ Tát, pháp Phật, chẳng dạy chúng sanh tu từ bi xa lìa tám nạn tu hành bố thí trì giới nhuyến ngữ thân cận bình đẳng, nhẫn nhịn kẻ vô lực, nói rằng Phật đạo rất là khó được trong vô lượng đời cần khổ mới được, đây gọi là ác hữu ma nghiệp.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu có lòng kiêu mạn, do kiêu mạn nên chẳng có thể cúng dường Phật, Pháp, Tăng, Sư Trưởng, Hòa thượng, cha mẹ, trưởng túc đồng học đồng sư, nếu thấy người hơn mình thì chẳng thể gần kề để nghe pháp hỏi nghe, dầu có nghe mà nghe rồi liền quên mất, thấy kẻ thua mình thì thương mến gần gũi, vì vậy nên ác pháp lần lần tăng trưởng, vì ác pháp tăng nên xa lìa thiện pháp. Bạch đức Thế Tôn ! Ví như đại hải vì lần lần sâu nên tất cả sông rạch trăm dòng đồng chảy vào.
Bồ Tát phá hoại lòng kiêu mạn cũng như vậy, lần lần tăng trưởng tất cả thiện pháp. Nếu chẳng phá hoại kiêu mạn thì gọi là ma nghiệp.
Bạch đức Thế Tôn ! Ví như có người ở nơi cao nguyên lục địa trồng cây chiêm ba, chỗ nước thường chảy lại đắp bờ ngăn, đất trồng cây ấy đã cao khô lại không có nước thấm vào nên cây chiêm ba được trồng ấy lần lần khô vàng chẳng tăng trưởng được.
Cũng vậy, Bồ Tát do kiêu mạn tăng nên chẳng thân thiện hữu chẳng nghe chánh pháp, dầu có nghe lại quên mất.
Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát sắc thân đoan chánh đầy đủ tự tại có quyến thuộc đông phước đức trang nghiêm, mà
chưa được đầy đủ trí huệ trang nghiêm, do cớ ấy mà sanh lòng kiêu mạn, Do vì kiêu mạn nên thấy người có trí huệ hiểu rành chánh pháp
mà thân hình gầy xấu thì khi dễ chẳng chịu cúng dường. Do cớ ấy mà càng tăng thêm
kiêu mạn vô minh phóng dật chẳng điều phục ma nghiệp, Bồ Tát như vậy là do sắc mà sanh kiêu mạn, đây gọi là ma nghiệp.
Đức Phật nói : "Lành thay, lành thay, Hải Huệ Bồ Tát khéo có thể phân biệt tuyên nói ma nghiệp.
Này Hải Huệ ! Ông nên chí tâm lắng nghe, nay Phật sẽ nói đạo phá hoại ma nghiệp.
Này Hải Huệ ! Tất cả các pháp tánh nó không tịch. Nếu biết tất cả pháp tánh không tịch rồi cũng biết tất cả chúng sanh đều không. Biết không rồi mà tu từ tâm điều phục tự thân. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.
Nếu quán các pháp tánh là vô tướng mà vì chúng sanh
tu tập từ tâm. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.
Nếu quán các pháp tánh là vô nguyện, vì các chúng sanh chí tâm cầu vào các cõi, đã cầu vào các cõi rồi tùy theo mà điều phục. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.
Quán tất cả các pháp tánh là vô tham, tánh của chúng sanh cũng là vô tham, vì điều phục tham mà nhiếp thủ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát hay phá ma
nghiệp.
Quán tất cả các pháp tánh là vô sân, tánh của chúng sanh cũng là vô sân, vì điều phục sân mà nhiếp thủ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.
Quán tất cả các pháp tánh là vô si, tánh của chúng sanh cũng là vô si, vì điều phục si mà nhiếp thủ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.
Quán tất cả các pháp tánh vô sanh diệt, vì phá sanh diệt nên tuyên nói chánh pháp. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.
Quán tất cả các pháp tánh là bình đẳng, dầu nói ba thừa mà chẳng bỏ Đại thừa. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.
Nếu chẳng tham trước tâm ý thức, cũng hay xa lìa
tất cả nhơn duyên, vì các
chúng sanh được giải thoát nên tu trị trang nghiêm. Dầu siêu quá các hành
mà trọn chẳng bỏ lìa sở hành của Bồ Tát.
Đây gọi là Bồ Tát hay phá ma nghiệp".
Lúc đức Thế Tôn nói pháp ấy, thiên ma Ba Tuần trang nghiêm bốn binh chủng kéo đến đại bửu phường đình như lúc trước chúng kéo đến cây Bồ đề.
Đức Như Lai thấy rồi bảo Hải Huệ Bồ Tát rằng : "Ông nói
ma nghiệp, Phật nói phá ma, vì vậy mà ma vương Ba Tuần trang nghiêm bốn binh chủng kéo đến đây, ông thiết kế gì để chống ngăn họ".
Hải Huệ Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn mang ma vương Ba Tuần cùng tất cả quyến thuộc họ để tại nước Trang Nghiêm, thân tôi sẽ ở chỗ ma ở".
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Hải Huệ Bồ Tát rằng : "Nước Trang Nghiêm ấy cách đây bao xa,
Phật ấy hiệu là gì ?".
Hải Huệ Bồ Tát nói : "Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Nước Trang Nghiêm cách đây về phương Đông quá mười hai hằng hà sa thế giới, nước ấy có Phật tại thế hiệu là Phá Nghi Tịnh Quang đang vì chư Bồ Tát nói tịnh Bồ Tát hạnh. Đại thiên thế giới nước Trang Nghiêm ấy có một ức ma vương, mỗi ma vương có mười ngàn ức bốn binh chủng quyến thuộc. Lúc Phật Phá Nghi Tịnh Quang mới đến ngồi Bồ đề thọ, tất cả ma vương ấy đều đồng trang nghiêm bốn binh chủng đến chỗ Bồ Tát ngồi. Bồ Tát trước vì chúng ma giảng tuyên chánh pháp cho họ được trụ bực bất thối chuyển rồi sau mới thành Vô thượng Bồ đề chuyển chánh pháp luân. Các đại đệ tử và các thị giả của đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang đều là ma cả, các ma ấy đều hay giáo hóa điều phục chúng sanh. Vì cớ ấy nên nay tôi muốn đem ma vương Ba Tuần an trí cõi nước Trang Nghiêm để phá sở hành ma nghiệp của nó, cũng để trang nghiêm vô thế giới chánh pháp của Như Lai".
Thiên ma Ba Tuần nghe lời nói trên đây lòng rất kinh sợ ngó bốn phía muốn tìm chỗ rút lui, mà bốn phương đều chướng ngại đi chẳng được, muốn ẩn thân cũng chẳng được, lại càng sợ hãi mới bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Cầu mong đức đại từ cứu hộ cho".
Đức Phật nói : "Này Ba Tuần ! Với sự việc này ta chẳng tự tại được. Ngươi nên hướng về Hải Huệ Bồ Tát mà cầu xin sám hối".
Ma vương Ba Tuần liền hướng về Hải Huệ Bồ Tát chắp tay nói rằng : "Bạch Đại Sĩ ! Từ ngày hôm nay tôi chẳng còn dám làm ma nghiệp như vầy nữa. Cầu mong Đại Sĩ cho tôi sám hối".
Hải Huệ Bồ Tát nói : "Với ông ta trọn không có hờn giận. Pháp của Bồ Tát thường phải nhẫn nhục tất cả chúng sanh.
Này Ba Tuần ! Ông nên qua nước Trang Nghiêm kính
lễ đức Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai, ông sẽ được vô lượng lợi ích".
Hải Huệ Bồ Tát liền lấy tay hữu xoa đảnh ma vương mà nói rằng nếu chư Bồ Tát ở trong các pháp không có xan lẫn thì do thần thông của ta khiến ngươi đến thế giới của đức Phật ấy.
Hải Huệ Bồ Tát nói xong, ma vương Ba Tuần liền đến nước Trang Nghiêm thấy Phật kính lễ rồi đứng ở một phía.
Chư Bồ Tát nước ấy bạch Phật Phá Nghi Tịnh Quang rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Quốc độ nào mà có những người bất tịnh như vậy đến tại đây ?".
Đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang nói : "Các thiện nam tử ! Phương Tây quá mười hai hằng hà sa thế giới, có thế giới tên là Ta Bà, Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Vì vô số vô lượng chư Bồ Tát nói Đại Tập kinh. Nơi ấy có Bồ Tát hiệu là Hải Huệ, lúc Hải Huệ Bồ Tát nói ma nghiệp, ma vương nầy đem bốn binh chủng đến tại đại hội. Hải Huệ Bồ Tát dùng thần thông dời nó đến tại đây".
Chư Bồ Tát ở nước ấy bảo Ba Tuần rằng : "Nay ông nên phát tâm Vô thượng Bồ đề xa lìa ma nghiệp, chúng ta cùng ông sẽ là bạn đồng học.
Nghe lời khuyên bảo ấy, ma vương Ba Tuần liền phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Chư Bồ Tát ấy liền thỉnh Ba Tuần lên ngôi tòa sư tử rồi hỏi rằng nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì đại chúng nói kinh Đại Tập, vậy có sự gì xin ông nói lại cho.
Thừa sức thần thông của Hải Huệ Bồ Tát, Ba Tuần tuyên nói chỗ được nghe không sót mất một câu một chữ".
Chư Bồ Tát bạch đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi nguyện muốn được thấy Phật Thích Ca Mâu Ni
cùng đại chúng chư đại Bồ Tát ở Ta Bà thế giới".
Đức Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai nói :
"Nên chờ trong chốc lát các ông sẽ được thấy".
Tại pháp hội trong đại bửu phường đình, chư Bồ Tát bạch đức Thích Ca Mâu Ni rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi muốn được thấy ma vương Ba Tuần trong thế giới Trang Nghiêm làm những sự việc gì".
Đức Thế Tôn quan sát tâm chúng sanh ở thế giới nầy cùng ở thế giới kia rồi bảo Hải Huệ Bồ Tát rằng : "Này Hải Huệ ! Nay ông nên hiển thị thế giới Ta Bà nầy cho chư Bồ Tát cõi Trang
Nghiêm kia được thấy".
Từ nơi mười ngón tay mình, Hải Huệ đại Bồ Tát phóng đại quang minh chiếu suốt qua mười hai hằng hà sa Phật thế giới soi sáng khắp cõi Trang Nghiêm.
Đại chúng nơi đây đều thấy cõi ấy, thấy Phật Phá Nghi Tịnh Quang, thấy đại chúng chư Bồ Tát, cũng thấy ma vương Ba Tuần ngồi tòa sư tử tuyên nói Đại Tập kinh. Chư Bồ Tát ở đây liền từ chỗ ngồi đứng dậy hướng về cõi Trang Nghiêm đảnh lễ đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai và rải các thứ hoa để cúng dường, những hoa được rải ở cõi Trang Nghiêm
kia biến làm hoa đài.
Chư Bồ Tát ở cõi Trang Nghiêm bạch đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Hoa đài này
từ đâu đến đây ?".
Đức Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai nói :
"Này các thiện nam tử ! Nay các ông nên kính lễ quang minh ấy và chí tâm niệm trì thì tự mình sẽ được thấy thế giới Ta Bà của Phật Thích Ca Mâu
Ni".
Chư Bồ Tát ấy tuân lời Phật kính lễ quang minh và chí
tâm niệm trì liền được thấy Ta Bà thế giới. Thấy rồi chư Bồ Tát ấy đứng dậy vói lễ Thích Ca Mâu Ni Phật và rải các hương hoa để cúng dường. Lài thấy cõi Ta Bà đầy nước trong đứng như là đại hải. Những hoa được rải ấy đến trong đại bửu phường đình biến thành bửu cái che trên đỉnh Phật Thích Ca Mâu Ni.
Bấy giờ ma vương Ba Tuần bạch đức Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn trở về Ta Bà thế giới thì phải làm thế nào ?".
Đức Phá Nghi Tịnh Quang nói : "Nầy thiện nam tử ! Nếu muốn trở về ông phải chí tâm niệm Hải Huệ Bồ Tát".
Ma vương Ba Tuần nghe lời Phật liền chí tâm niệm Hải Huệ Bồ Tát, niệm rồi liền về đến pháp hội đại bửu phường đình".
Tôn giả Xá Lợi Phất thấy ma vương Ba Tuần liền hỏi rằng : "Nầy Ba Tuần ! Ông có thấy Phật thế giới Trang Nghiêm chăng ?".
Ma vương Ba Tuần nói : "Tôn
giả Xá Lợi Phất ! Tôi đã thấy, cũng thấy chỗ ở của các Bồ Tát thanh tịnh nơi cõi ấy".
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : "Ông ở cõi ấy có làm ma nghiệp chăng ?".
Ma vương Ba Tuần nói : "Thưa đại đức ! Tôi đến cõi ấy chí tâm cần cầu Vô thượng Bồ đề, có cớ gì mà làm ma nghiệp. Nếu có người lúc chí tâm cầu Bồ đề mà thấy ma nghiệp, người nầy liền được siêng tu tinh tiến".
Lúc thấy ma vương Ba Tuần trở về cõi nầy, có sáu vạn chúng sanh và mười ngàn chúng ma đồng phát tâm Vô thượng Bồ đề đồng thanh nói rằng : "Nguyện cho chúng tôi thọ lấy thân hình đồng như thân hình của Bồ Tát ở cõi nước Trang
Nghiêm".
Hải Huệ Bồ Tát bạch đức Phật rằng : "Vì Vô thượng Bồ đề có nhiều oán địch. Lành thay đức Thế Tôn vì hộ pháp mà kiến lập thần thông. Do sức thần thông mà kinh nầy được còn lâu ở thế gian".
Đức Phật nói : "Này Hải Huệ ! Nay Phật lập thiện nguyện thần thông để trồng các căn lành cho các chúng sanh".
Đức Thế Tôn bảo bốn vị Thiên Vương : "Các
Thiên Vương nên biết nếu hàng đệ tử của Phật, các Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni, các Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thọ trì đọc tụng thơ tả rộng nói những kinh điển Đại thừa như vậy. Tứ Thiên Vương các ông nên hộ trợ kỹ chớ vì dục lạc mà phóng dật. Nay Phật xuất thí vì phá phóng
dật hộ trì chánh pháp mà nói chú rằng :
Tam mễ, tam ma tam mễ, mạt dốn nễ, bà la ba để, đà nễ, đà na bạt để, đầu di đà na bạt để, a bà tán đề, ma ha mễ, tỳ ma xà tỳ la đề, ca la đề, ca la na, a lê, a la bạt để, a mễ bà tán đề, niết già đán ni, a bạt kỳ, mạt đề, ma hô mạt đề, ma la di đề, tỳ thủ đề, tỳ thủ đề bạt kỳ, ni tát mễ mạt hản nê.
Nầy các thiện nam tử ! Đây gọi là Tứ Vương chú. Nếu có Pháp sư nào thọ trì kinh này thì nên tụng chú ấy. Tụng rồi tu từ tâm duyên niệm mười phương, chí tâm nhớ đến Tứ Vương. Bấy giờ Tứ Vương thường hiện ra trong giấc mộng, hoặc tự qua thủ hộ".
Tứ Thiên Vương bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi, Tứ Vương lúc nghe chú nầy rồi liền cùng quyến thuộc đến chỗ Pháp sư ủng hộ thị vệ. Nếu Pháp sư ấy cần món dùng, chúng tôi phương tiện khiến được món ấy, xa lìa bịnh khổ, thân hưởng an lạc".
Đức Thế Tôn bảo Hải Huệ đại Bồ Tát rằng : "Ông nay chí tâm nghe Thiên Đế Thích chú.
Xà gia, xà gia mạt để, a bạt để, tỳ bạt kỳ, ma câu mễ, tư đà bạt kỳ, thâu nê,
chiên đế yết mễ, đàn đề đàm ma ni, đa ca mễ, xoa gia xoa gia mục khư, a bạt đế na, sa kỳ, sa kỳ
tán đề.
Đến đây Kiều Thi Ca A Tu La bại hoại, chư Thiên thì thắng lợi. Vì chư Thiên thắng lợi nên Phật pháp tăng trưởng. Này Kiều Thi Ca ! Nếu muốn hưởng an lạc thì nên hộ trì chánh pháp.
Này Hải Huệ ! Đây gọi là Thiên Đế Thích chú. Nếu có Pháp sư lúc muốn thuyết pháp nên trước tắm rửa cho thân thể sạch sẽ, cầm hương hoa tốt hướng về phía Đông kính lễ chí tâm nhớ tưởng mười phương chư Phật từ tâm khắp đến tất cả chúng sanh, sau đó mới lên ngồi pháp tòa sư tử tụng chú này mà nói rằng : Kiều Thi Ca đến đây, Tứ Thiên Vương đến đây vì hàng đại chúng mà trừ dẹp chướng ngại tiêu diệt phiền não. Bấy giờ vì nhớ đến Pháp sư nên Thiên Đế Thích và Tứ Thiên Vương đồng đến pháp hội làm cho đại chúng thích nghe
thuyết pháp.
Này Hải Huệ ! Nay ông lại lắng nghe chú của chư Thiên Ma mười phương và quyến thuộc của họ.
Xa mễ, sa ma bạt kỳ, xa ma mật đề, a phù mễ, ma la hốt kỳ, mông quật mễ, bà la đề ca do lê, kỳ kỳ bạt kỳ, a lô ca ni, tỳ xá trà ni, ni mạt kỳ, a bạt trì, khu khu mễ già la tát ni, ưu mục xí, xa mật kỳ, ba la mục xí, bàn đàn na niết già hi, xa ma thí.
Này Hải Huệ ! Sức lực của chú này có thể buộc trói tất cả ma chúng tất cả luận sư, đây gọi là Phật ấn, tất cả oán địch ma quyến thuộc chẳng thể phá hoại được.
Nếu có Pháp sư thọ trì đọc tụng chú nầy lúc thăng sư tử tòa chuyên niệm chư Phật lòng từ đến tất cả chúng sanh. Tự thân mình thì tưởng là y sư, chánh pháp được nói ra tưởng là pháp dược, người nghe pháp tưởng là bịnh khổ, với Phật Như Lai tưởng là thiện hữu, với chánh pháp tưởng là thường hằng. Nếu có thể được như vậy thì lúc thuyết pháp, chỗ ấy bốn phía cách một do tuần ma chẳng đến được".
Ma Vương Ba Tuần bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu đệ tử Phật có thể đọc tụng thần chú ấy thân họ thanh tịnh tôi sẽ ủng hộ chẳng làm ma nghiệp. Tôi do sức thần thông của Hải Huệ Bồ Tát bỏ hết ma nghiệp. Tùy nơi nào hoặc thành ấp tụ lạc có người nói pháp này, tôi
sẽ hóa thân đến nghe lãnh thọ".
Đức Phật nói : "Lành thay lành thay, này Ba Tuần ! Nếu ông có tâm như vậy thời phá hoại ma nghiệp, ông cũng sẽ được các pháp như vậy.
Này Hải Huệ ! Ông lại nên chí tâm nghe Phạm Thiên chú:
Mê đa già mễ, ca lâu na già mễ, vô kinh da già mễ, ưu tỳ xoa già mễ, phật đà già mễ, đàm ma già mễ, tăng già già mễ, tô yết đa tỳ xa gia, ma
ha tỳ đàn ni, tỳ thú đề mục xí, ni ba mễ đà gia, ô xà bạt kỳ, ô xà nghiêm di, nại đàn ni, đàm ma ba kỳ tra bạt ni, tát giá kỳ ưu ba bạt kỳ, tỳ thú để, sa chiết đa ưu ba xá di, ô lô ca gia phạm ma, tỳ lô ca gia
phạm ma.
Này Hải Huệ ! Nếu người muốn thọ trì đầy đủ Phạm Thiên chú thì nên
tu hành phạm hạnh thanh tịnh trì giới đọc tụng chú này để thỉnh mời Phạm Thiên : Này Phạm Thiên ! Ông đến đây ủng hộ đại chúng nầy khiến họ chí tâm thích nghe chánh pháp niệm tưởng Tam bảo chuyển chánh pháp luân hộ trì pháp thành. Nếu có Pháp sư hay điều các căn chí tâm giữ gìn thanh tịnh thân khẩu ý riêng tu giới nhẫn tinh tiến đa văn phát tâm Bồ đề tu tứ vô lượng mà lên ngôi pháp
tòa tụng chú này. Khi tụng chú này rồi thì Phạm Thiên Vương cùng quyến thuộc chư Phạm Thiên đều đến tập họp tại chỗ giảng pháp".
Bấy giờ Phạm Thiên Vương bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Pháp sư đọc tụng chú này, tôi ở Trời Sơ Thiền nghe biết sẽ bỏ thiền định lạc đến chỗ pháp sư thí cho tám pháp : một là thí niệm vì nhớ lấy pháp được nghe vậy, hai là thí huệ vì suy gẫm pháp thậm thâm vậy, ba là thí giải vì phân biệt nghĩa thậm thâm vậy, bốn là thí lạc thuyết vô ngại vì phá tâm nghi vậy, năm là thí từ vô ngại vì hiểu ngữ ngôn tất cả chúng sanh vậy, sáu là thí vô sở úy vì chúng không ai hơn vậy, bảy là thí pháp quang
minh vì nói chẳng sai lầm vậy, tám là thí cho thọ ký chẳng lầm vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi cũng có thể rộng tuyên nói pháp thậm thâm nầy".
Đức Phật nói với Hải Huệ đại Bồ Tát : "Sau khi Phật Niết bàn, chư Thiên này sẽ hộ trì chánh pháp Như Lai".
Hải Huệ đại Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Sau khi đức Như Lai chánh giác Niết bàn, nếu có người chánh tín thì nên đem pháp này phó chúc cho người ấy khiến pháp Phật còn lâu".
Đức Thế Tôn phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày chiếu khắp Đại Thiên thế giới hóa thân Như Lai đầy chật trong ánh sáng ấy đều có đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm đầy đủ, hóa thân Như Lai ấy số nhiều như số những cỏ cây thân lóng nhánh lá cả cõi Đại Thiên. Các Hóa Phật ấy đồng xướng lên rằng : "Mười phương chư Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai đồng nguyện chánh pháp còn
lâu thế gian. Tại sao vậy ? Dầu có tất cả ác ma quyến thuộc cũng chẳng có thể phá hoại những pháp Đại thừa thậm thâm như vậy được. Đại địa có thể phá hoại được, đại hải có thể đốt cháy được, núi Tu Di có thể đập nát như vi trần được, tâm của các chúng sanh có thể hiệp thành một được, hư không có thể cùng tận được, tứ đại chủng có thể chuyển đổi được, thệ nguyện của chư Phật chẳng thể biến đổi được.
Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan rằng : "Nầy A Nan ! Ông nên thọ trì kinh điển này đọc tụng giải nói rộng ra".
Hải Huệ đại Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nay trong pháp hội này có rất đông vô lượng chư đại Bồ Tát, đức Thế Tôn có duyên cớ gì mà chỉ đoái hoài riêng A Nan thọ trì kinh điển này".
Lúc bấy giờ các đại chúng đều có lòng nghi rằng : "Hải Huệ đại Bồ Tát cùng Tôn giả A Nan ai có niệm tâm nhiều".
Đức Thế Tôn biết lòng nghi của đại chúng liền hỏi Tôn giả Đại Ca Diếp : "Này Đại Ca Diếp ! Số lượng chúng sanh trong
toàn cõi Đại Thiên có nhiều chăng ?".
Tôn giả Ca Diếp nói : "Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn".
Đức Phật nói : "Này Đại Ca Diếp ! Giả sử tất cả vô lượng chúng sanh ấy đều được thân người thường hỏi Như Lai luôn, Như Lai giải nói không có cùng tận không có chướng ngại.
Này Đại Ca Diếp ! Như trời mưa không bị chướng ngại, tất cả các dòng nước chảy về biển cả, mà đại hải ấy không tăng không giảm. Khả năng thọ trì mười phương Phật pháp của Hải Huệ đại Bồ Tát cũng như vậy.
Này Đại Ca Diếp ! Giả sử tất cả chúng sanh toàn cõi Đại Thiên có đủ sức tổng trì bằng A Nan mà muốn so sánh với chỗ thọ trì của Hải Huệ đại Bồ Tát thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn vạn".
Lúc đức Phật nói pháp ấy, có trăm ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề đem diệu hoa hương dâng cúng Hải Huệ đại Bồ Tát.
Liên Hoa Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người hay tín thuận thọ trì đọc tụng thơ tả giải thuyết nghĩa kinh này và cúng dường cung kính kinh
điển này thì được bao nhiêu phước đức ?".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Nếu đầy cả Đại Thiên thế giới
Bảy báu cúng dường mười phương Phật
Chẳng bằng tin thuận kinh điển này
Thọ trì đọc tụng phước hơn kia
Bốn pháp làm thành công đức
Phật nói số vô lượng vô biên
Phát tâm Bồ đề thường pháp thí
Như pháp trụ tu tập đại bi
Phật nói bốn pháp vô biên lượng
Người trí nghe xong chẳng kinh sợ
Hư không tánh và
chúng sanh giới
Phật chánh trí và Bồ đề tâm.
Lúc đức Phật nói khối pháp bửu như vậy, chư Bồ Tát từ mười phương đến đem diệu lạc hương hoa các thứ kỹ nhạc cúng dường đức Phật, tôn trọng tán thán đồng nói rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người hay thọ trì đọc tụng thơ tả giải thuyết kinh điển này thì được công đức chẳng cân lường được, mười phương chư Phật nói cũng chẳng hết. Tại sao vậy ? Bạch đức Thế Tôn ! Nếu chúng sanh nghe được kinh này thì
không ai chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì vậy mà kinh này gọi là khối đại bửu".
Đức Phật nói kinh này rồi, tất cả đại chúng Người Trời, tất cả hàng Thanh Văn và
Tôn giả A Nan, Thiên Long Bát Bộ và người thế gian đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment