Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 20
PHÁP HỘI
BẤT ĐỘNG NHƯ LAI
THỨ SÁU
PHẨM BỒ TÁT CHÚNG
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nghĩ rằng: Đức Thế Tôn đã nói về chúng Thanh Văn ở nước Diệu Hỷ đầy đủ công đức rồi, tôi lại muốn nghe chư Bồ Tát đầy đủ công đức ở nước ấy.Tại sao vậy? Vì tất cả công đức đều từ đây phát sanh.
Đức Thế Tôn biết tâm niệm ấy liền phán rằng: “Nầy Xá Lợi Phất! Trong nước Diệu Hỷ của đức Bất Động Như Lai có vô lượng trăm ngàn ức chúng Bồ Tát đều tập họp đến.
Những Bồ Tát xuất gia, do thần lực của đức Phật, theo pháp được nghe đều lãnh ngộ và thọ trì đọc tụng được cả.
Nầy Xá Lợi Phất! Ở cõi nầy ta nói pháp rất ít, so sánh với pháp tạng của đức Bất Động Như Lai nói trăm phần ngàn phần cho đến Ưu ba ni sa đà phần cũng chẳng bằng một.
Nầy Xá Lợi Phất! Đó là đức Bất Động Như Lai lúc tu Bồ Tát đạo có phát nguyện rằng lúc tôi thành Phật, trong nước tôi chư Bồ Tát do thần lực của tôi theo pháp mà họ được nghe đều lảnh ngộ thọ trì đọc tụng được cả.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát ở nước Diệu Hỷ do bổn nguyện thần lực của đức Bất Động Như Lai, nghe pháp của đức Phật ấy nói đến có thể lãnh thọ đọc tụng thông thuộc.
Nầy Xá Lợi Phất! chư Bồ Tát ở nước Diệu Hỷ, nếu lòng họ muốn đến cõi nước của chư Phật khác, liền khởi tâm thì liền qua đến, thân hình y phục ngôn ngữ âm thanh đều khéo đồng với người địa phương ấy. Sau khi đến, đảnh lễ và cúng dường chư Phật và lắng nghe chánh pháp, khéo thưa hỏi. Việc xong họ trở về bổn quốc.
Nầy Xá Lợi Phất! Trong kiếp hiền nầy sẽ chín trăm chín mươi sáu đức Phật Như Lai xuất thế. Nếu có Bồ Tát nào thích thấy đức Bất Động Như Lai thì nên nguyện sanh về nước Diệu Hỷ của đức Như Lai ấy.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu thiện nam thiện nữ nào từ cõi nầy và những cõi khác mạng chung hoặc đã sanh hoặc đang sanh hoặc sẽ sanh về nước Diệu Hỷ của Bất Động Như Lai thì ắt chẳng tin ở bực Thanh Văn.
Tại sao vậy? Vì họ thực hành Phật đạo thường gặp đức Như Lai, Thiên Ma Ba Tuần chẳng có dịp tiện lợi. Với bực Nhị thừa Thanh Văn và Bích Chi Phật, họ đã dứt hẳn quan niệm, họ thường ở tại các đại hội Như Lai và quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất! Ông cần phải biết nếu ở tại nước thanh tịnh của đức Bất Động Như Lai, các chúng sanh ấy trọn không thối chuyển, chẳng thể dẫn nhiếp thối trở lại được. Họ an trụ Vô thượng Bồ đề có thế lực lớn chẳng bị lay động, trọn không thối chuyển.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ cõi nầy hay ỏ thế giới khác lúc mạng chung sanh về nước Diệu Hỷ ấy, thì lúc sanh được ý nghĩ rằng tôi đã vào nhà Như Lai ở an trong thành vô úy.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát nước Diệu Hỷ có chuyện vãn luận bàn đều tương ưng với Bát Nhã Ba la mật. Họ tôn kính lẫn nhau tưởng là bực đạo sư của nhau.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Ở nước Diệu Hỷ, các chúng Bồ Tát, người tại gia rất ít, xuất gia thì đông, tất cả đều do thần lực của đức Bất Động Như Lai, ở nơi pháp được nghe đều có thể lãnh ngộ thọ trì đọc tụng.
Nầy Xá Lợi Phất! Hàng tại gia Bồ Tát ở nước ấy dầu chẳng thường ở trong pháp hội, nhưng do thần lực của đức Phật, lúc đứng lúc ngồi đều nghe được pháp và liền lãnh hội thọ trì đọc tụng thông thuộc. Hàng xuất gia Bồ Tát dầu ở phương sở khác cũng được như vậy.
Chư Bồ Tát ấy bỏ thân lấy thân, với kinh pháp đã được nghe trọn chẳng quên mất, tùy ý nguyện vãng sanh về các cõi Phật. Đây cũng là sự trang nghiêm do công đức bổn nguyện của đức Bất Động Như Lai.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát nào muốn trong một đời thấy vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Phật thì nên nguyện sanh về nước của đức Bất Động Như Lai. Nếu Bồ Tát nào được sanh về nước ấy thì liền thấy vô lượng chư Phật trồng các cội lành, lại có thể vì vô số trăm ngàn chúng sanh mà diễn thuyết pháp yếu khiến các chúng sanh tăng trưởng gốc lành.
Nầy Xá Lợi Phất! Trong kiếp hiền nầy chư Phật sắp xuất thế, nếu các Bổ Tát đem y phục, ẩm thực, ngọa cụ và y dược các thứ đồ cần dùng cúng dường chư Phật ấy rồi xuất gia. Xuất gia xong, tịnh tu phạm hạnh. Đem căn lành ấy so sánh với phước đức tương ưng Ba la mật của chư Bồ Tát ở chỗ Bất Động Như Lai tu trong một đởi, chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn cho đến Ưu ma ni sa đà phần cũng chẳng bằng một. Đây cũng là công đức thanh tịnh trang nghiêm Phật quốc của đức Bất Động Như Lai.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát từ cõi nầy hay cõi khác khi mạng chung hoặc đã sanh hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh về nước của đức Bất Động Như Lai, tất cả đều được bực bất thối chuyển.
Tại sao vậy? Ở nước ấy, Thiên ma Ba Tuần chẳng làm chướng ngại cũng không có ma nghiệp làm nhiểu loạn.
Nầy Xá Lợi Phất! Ví như loài rắn độc bị thần chú chế phục chẳng làm hại được, tất cả những trùng vật khác thấy rắn độc nầy cũng chẳng lo sợ, những rắn độc nầy cũng chẳng lo sợ. Những rắn độc nầy dầu không độc hại, nhưng vì bổn nghiệp mà thọ thân rắn ấy.
Thiên ma Ba Tuần ở nước Diệu Hỷ cũng như vậy, do đức Bất Động Như Lai lúc tu Bồ Tát đạo bổn nguyện thiện căn hồi hướng như vậy: Lúc tôi thành Phật sẽ điều phục các ma chẳng làm chướng não, các ma cũng chẳng làm chướng não chư Bồ Tát, chư Thanh Văn và tất cả phàm phu ở nước tôi.
Nhưng các ma ấy, do nghiệp đời trước chiêu cảm mà thọ lấy thân hình ma sanh vào cõi trời nước Diệu Hỷ để tự trách tự ăn năn tội nghiệp từ vô thỉ của họ. Được có thân và tên thiên ma ấy, dầu được tự tại, nhưng họ thường sanh lòng chán khổ. Lúc đức Bất Động Như Lai thuyết pháp, các quyến thuộc ma thường dự nghe. Nghe xong lòng họ thanh tịnh mến luyến chúng Thanh Văn, mà tự nghĩ rằng làm thế nào an trụ được cảnh tịch tĩnh thiểu dục tri túc. Chúng sanh ấy thường sanh lòng xuất gia mà không có ý tưởng làm chướng ngại. Vì thế nên ở nước Diệu Hỷ tất cả Bồ Tát, Thanh Văn và phàm phu do oai lực của đức Bất Động Như Lai lúc hành đạo Bồ Tát mà thường được an lạc. Đây cũng là sự trang nghiêm thù thắng của nước Diệu Hỷ vậy ».
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam thiện nữ đem bảy báu đầy cả cõi Đại Thiên để bố thí cầu nguyện sanh về nước Diệu Hỷ. Do hạnh nguyện nầy mà họ trọn chẳng sa vào bực Thanh Văn và Bích Chi Phật. Từ một nước đến một nước Phật, họ tuần tự cúng dường phụng sự chư Phật Như Lai và nghe pháp. Dầu chưa chứng Vô thượng Bồ đề, nhưng được thấy muôn ngàn ức cho đến vô lượng na do tha chư Phật, ở chỗ chư Phật họ trồng những cội lành.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam thiện nữ do phương tiện nầy, đem bảy báu đầy cõi Đại Thiên ra bố thí, nương căn lành ấy mà vãng sanh nước Diệu Hỷ”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy. Nầy Xá Lợi Phất! Họ khéo sanh khéo về, những Bồ Tát như vậy đầy trong nước ấy.
Nầy Xá Lợi Phất! Ví như vàng mỏ nấu luyện tinh thuần loại bỏ cặn bợn chỉ toàn chất vàng rồi đem làm thành đồ trang sức.
Ở nước Diệu Hỷ, chư Bồ Tát an trụ ở chơn thật cũng như vậy. Nhưng chư Bồ Tát thanh tịnh ấy, nay ông cần phải biết.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát ở nước Diệu Hỷ hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, tất cả đều thực hành nhứt hạnh, đó là an trụ nơi Phật hạnh .
Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Phật hạnh, đó là hạnh siêu quá bực Thanh Văn và Bích Chi Phật. Nơi thực hành nhất hạnh là giả danh của hạnh ấy.
Vì thế nên Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát thích thực hành nhứt hạnh ấy, phải nguyện sanh về nước Diệu Hỷ của đức Bất Động Như Lai.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát được ta thọ ký bất thối chuyển nên sanh về nước của đức Bất Động Như Lai. Chư Bồ Tát sanh về nước ấy, ta chẳng rời bỏ họ.
Nầy Xá Lợi Phất! Ví như Quốc Vương Quán Đảnh dòng Sát Đế Lợi, có nước địch xâm lăng, vua nghe tin
nghĩ rằng những phi hậu và các con của ta chẳng kham chống lại quân địch và những của cải châu báu nên thâu vào cung thành, chẳng bị địch quân xâm hại. Quốc tợ của vua an tịnh vững vàng, oai chấn địch quân chẳng lo tai nạn.
Ta chẳng rời bỏ chư Bồ Tát cũng như quốc vương kia đối với các phi hậu vương tử và tài bửu vậy. Người tu hạnh Bồ Tát cần phải biết.
Trong nước Diệu Hỷ không có sự lo sợ như cung thành. Vua nước địch như Ba Tuần khó làm chướng ngai cho người tu Bồ Tát hạnh ở nước ấy.
Quốc Vương Quán Đảnh chẳng bị quân địch xâm nhiễu, cũng vậy, đức Như Lai chẳng bị thiên ma nhiễu não.
Nầy Xá Lợi Phất! Ví như có người sợ chủ nợ đi qua nước khác thì không bị chủ nợ lăng đoạt. Tại sao? Vì chủ nợ và người nhà chẳng đến đó được.
Chư Bồ Tát sanh về nước Diệu Hỷ thì tuyệt đường theo dõi của ma Ba Tuần cũng như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Ở Ta Bà nầy, Thiên ma Ba Tuần thường làm chướng ngại cho chư Bồ Tát và Thanh Văn.
Ở nước Diệu Hỷ, các chúng thiên ma chẳng làm nghiệp ma. Chư Bồ Tát ở nước ấy hoặc đã sanh, đang sanh, hoặc sẽ sanh, thường không bố úy. Tại sao vậy? Ở đức Bất Động Như Lai lúc hành đạo Bồ Tát có bao nhiêu căn lành hồi hướng như vầy: khi tôi thành Phật, ở nước tôi chúng thiên ma chẳng làm chướng ngại và không làm ma sự.
Nầy Xá Lợi Phất! Ví như có trượng phu giỏi uống thuốc độc có thể làm cho tiêu hóa làm sự ăn không có độc hại. Thiên ma ở nước ấy cũng như vậy thường làm lợi ích mà chẳng làm tổn hại.
Nầy Xá Lợi Phất! Nước Diệu Hỷ của đức Bất Động Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy”.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nghĩ rằng tôi mong muốn được thấy nước đức Bất Động Như Lai và chúng Bồ Tát Thanh Văn.
Đức Phật biết tâm niệm của Tôn giả Xá Lợi Phất, liền chẳng rời chỗ ngồi dùng thần lực đều làm cho thấy tất cả, rồi hỏi Tôn giả Xá Lợi Phất: “Nầy Xá Lợi Phất! Ông có thấy chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Vâng tôi đã thấy bạch Thế Tôn!".
Đức Phật hỏi: “Nầy Xá Lợi Phất! Ông thấy chư Thiên và chư Nhơn ở nước ấy có tướng sai khác nhau chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi chẳng thấy có chút tướng nào khác nhau. Tại sao vậy? Tôi thấy người nước Diệu Hỷ từ y phục uống ăn cho đến đồ trân ngoạn đều là những thứ mà chư Thiên cần dùng.
Đức Bất Động Như Lai ở chỗ đại chúng thuyết pháp dường như tòa núi hoàng kim chói
sáng, chúng Thanh Văn đông vô lượng vô biên. Ví như có người đi ra giữa biển lớn trông ra bốn phía chẳng biết bờ mé, tôi nhìn ngó chúng
Thanh Văn ấy cũng như vậy.
Chúng Thanh Văn ấy ở chỗ nghe pháp thân tâm họ chẳng động lay như nhập thiền định, chẳng phải như người cõi nầy nhập định có lúc lay động.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam thiện nữ đem bảy báu đầy cả Đại Thiên ra bố thí, do thiện căn ấy, họ khéo được vãng sanh về Diệu Hỷ thế giới. Tại sao vậy? Vì họ cũng được chẳng thối chuyển như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Ví như Vương Sứ cầm ấn phù đi qua nước khác, dọc đường các quan trấn phòng chẳng làm trở ngại. Tại sao vậy? Vì thế lực của ấn vua nên không bị người ngăn trở.
Chư Bồ Tát ấy cũng vậy, hoặc từ cõi nầy, hoặc từ thế giới khác sau khi mạng chung, hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh về nước Diệu Hỷ ấy, tất cả đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, từ một cõi Phật đến một cõi Phật thường chẳng xa rời chư Phật Thế Tôn, họ sẽ mau chứng Vô thượng Bồ đề”.
Tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát sanh ở nước ấy cùng với bực Tu Đà Hoàn quả ở cõi nầy không khác nhau. Tại sao vậy? Như bực Tu Đà Hoàn quả chẳng còn đọa vào ác đạo, chư Bồ Tát hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh về nước Diệu Hỷ ấy, tất cả chẳng còn đọa ác đạo, cũng chẳng sa vào bực Thanh Văn và bực Bích Chi Phật, cho đến trong lúc chưa chứng Vô thượng Bồ đề, từ một cõi Phật đến một cõi Phật chẳng rời chư Phật và chúng Thanh Văn”.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy! Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát sanh về nước ấy chẳng sa vào bực Thanh Văn và Bích Chi Phật, cho đến trong lúc chưa chứng Vô thượng Bồ đề, từ một cõi Phật đến một cõi Phật thường được hiện tiền cúng dường chư Phật và sẽ chứng được Phật quả.
Nầy Xá Lợi Phất! Như người chứng quả Tu Đà Hoàn thì quyết định sẽ được Thanh Văn Bồ đề trọn chẳng đọa ác đạo. Cũng vậy, chư Bồ Tát ở cõi nầy hay ở cõi khác sanh về nước ấy thì quyết định sẽ chứng Vô thượng Bồ đề. Từ một cõi Phật đến một cõi Phật, thường được hiện tiền cúng dường chư Phật trọn chẳng xa rời Vô thượng Bồ đề”.
Tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ở cõi nầy có bực Tư Đà Hàm hướng và Tư Đà Hàm quả nhẫn đến những bực A La Hán hướng và A La Hán quả cùng với chư Bồ Tát sanh ở nước ấy đồng nhau không khác”.
Đức Phật phán: “ Nầy Xá Lợi Phất! Ông chớ nói như thế. Tại sao vậy? Chỉ có chư Bồ Tát ở cõi nầy được Phật thọ ký mới không khác với chư Bồ Tát sanh ở nước ấy.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát ngồi đạo tràng ở cõi nầy cùng với Bồ Tát sanh ở nước ấy không khác. Tại sao? Vì chư Bồ Tát ở nước ấy thật hành Phật hạnh chẳng bị thiên ma phá hoại, trọn chẳng sa vào bực Nhị thừa, từ một cõi Phật đến một cõi Phật, họ thường cúng dường tất cả chư Phật, nhẫn đến chứng quả Vô thượng Bồ đề”.
Bấy giờ Tôn giả A Nan nghĩ rằng, tôi nên xét sức biện tài của Trưởng lão Tu Bồ Đề. Nghĩ xong Tôn giả hỏi Trưởng lão Tu Bồ Đề rằng: “Bạch Trưởng lão! Chúng tôi nên nhìn
xem đức Bất Động Như Lai và chúng Thanh Văn
cùng nước Diệu Hỷ ấy”.
Trưởng lão Tu Bồ Đề bảo Ngài A Nan rằng: “Ông muốn thấy đức Bất Động Như Lai nay ông nên nhìn lên phương trên’’.
Ngài A Nan nhìn phương trên rồi thưa rằng: “Tôi nhìn tột phương trên đều trống không, vắng lặng”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: « Đức Bất Động Như Lai, chúng Thanh Văn và nước ấy cũng như vậy, như là thấy phương trên”.
Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Như đức Phật đã dạy, Bồ Tát ở cõi nầy được đức Phật thọ ký cùng với Bồ Tát sanh ở nước Diệu Hỷ không khác.
Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng rõ đồng nhau ở chỗ nào?”.
Đức Phật phán: “Nầy Xá Lợi Phất! Vì pháp giới bình đẳng nên được không có khác”.
PHẨM NIẾT BÀN CÔNG ĐỨC TRANG NGHIÊM
Tôn giả Xá Lợi Phất lại nghĩ rằng đức Thế Tôn đã nói đức Bất Động Như Lai lúc tu Bồ Tát đạo công đức vô biên, đức Thế Tôn lại nói nước Diệu Hỷ cùng chúng Thanh Văn, chúng Bồ Tát đức nghiệp thù thắng rộng lớn trang nghiêm.
Nay mong muốn được Thế Tôn khai thị về việc đức Bất Động Như Lai diệt độ hóa tích thế nào?
Đức Phật biết tâm niệm của Ngài Xá Lợi Phất bèn phán: “ Nầy Xá Lợi Phất! Ngày đức Bất Động Như Lai nhập Niết bàn, hóa thân phân bố khắp tất cả thế giới, ở trong địa ngục nói những diệu pháp, đem pháp điều phục vô lượng hữu tình đều sẽ chứng được quả A La
Hán. Nhưng thời gian nầy người được chứng quả so sánh với trước lúc Phật ấy diệt độ những người chừng quả vô học số lượng càng tăng.
Liền trong lúc ấy đức Bất Động Như Lai thọ ký cho Hương Tượng Bồ Tát rằng: “ Sau khi ta diệt độ, ông sẽ được làm Phật hiệu là Kim Liên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác.
Nầy Xá Lợi Phất! Đức Kim Liên Như Lai ấy, cõi nước công đức số chúng Thanh Văn đồng như đức Bất Động Như Lai.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc đức Bất Động Như Lai nhập Niết bàn, khắp đại địa đều chấn động. Tất cả cõi Đại Thiên gầm rống phát ra tiếng, tiếng ấy vang suốt đến trời Sắc Cứu Cánh. Chư Thiên nghe tiếng ấy biết rằng đức Bất Động Như Lai nhập Niết bàn.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Trong nước Diệu Hỷ, bao nhiêu tòng lâm và cỏ thuốc đều ngả ngọn về phía đức Bất Động Như Lai nhập Niết bàn.
Chư Thiên đều mang tràng hoa hương thơm và những y phục rải trên thân Phật. Những hoa hương được rải ấy bao bọc giáp vòng cao một do tuần.
Trong cõi Thiên, bao nhiêu
hàng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, v.v... đều hướng về đức Bất Động Như Lai chắp tay đảnh lễ.
Chư Thiên ở cõi khác, do thần lực của đức Phật, cũng đều được thấy đức Phật nhập Niết bàn.
Suốt bảy ngày đêm, chư Thiên ấy lòng buồn rầu, chẳng màng đến sự vui thú, cũng không có tưởng niệm dục lạc, họ bảo nhau rằng: đức Bất Động Như Lai là ánh sáng của thế gian, là con mắt của chúng sanh, sao nay nhập diệt quá sớm vậy!
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát từ cõi Ta Bà nầy, hoặc từ cõi khác sau khi mạng chung sanh về nước Diệu Hỷ. Nếu đã hiện tại sanh về nước ấy họ đều được thọ ký Vô thượng Bồ đề, chẳng phải lấy số trăm để tính được, mà phải số ngàn và số trăm ngàn để tính, số trăm ngàn Bồ Tát phải biết là vào số chư Phật. Đều vào số chư Phật vào số nhứt thiết chủng trí tánh.
Nếu có Bồ Tát nào sẽ sanh về nước ấy cũng đều được nhập số chư Phật, số nhứt thiết chủng trí tánh.
Nầy Xá Lợi Phất! Trừ hàng Bất thối Bồ Tát, chư Bồ Tát khác ở cõi nầy nếu chẳng được nghe đức Bất Động Như Lai công đức pháp môn đó đều là bị ác ma nhiếp thọ.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Sau khi đức Bất Động Như Lai nhập Niết bàn cho đến thời gian chánh pháp còn ờ đời, chư Bồ Tát sanh nước Diệu Hỷ cũng sẽ vào trong số ấy. Tại sao vậy? Vì do bổn nguyện lực của đức Bất Động Như Lai vậy.
Chư Bồ Tát nếu ở thời gian sau thọ sanh về nước Diệu Hỷ phải đọc tụng bá bát pháp môn. Đọc tụng đây rồi mới có thể thọ trì tất cả pháp kia.
Đức Bất Động Như Lai an lập một trăm lẻ tám pháp môn bổn tánh.
Sau khi ta diệt độ, nếu có Bồ Tát nào sẽ sanh về nước Diệu Hỷ cũng phải đọc tụng bá bát pháp môn và có thể thọ trì tất cả pháp môn.
Nầy Xá Lợi Phất! Đức Bất Động Như Lai khéo nhiếp thọ chư Bồ Tát. Đức Phật đầu đà diệt độ, nhưng tiếng Phật thuyết pháp và công đức trang nghiêm vẫn không khác lúc Phật còn ở đời.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc diệt độ, từ thân đức Bất Động Như Lai phát lửa để tự trà tỳ. Thân sót xá lợi màu hoàng kim.
Như cây Đê di la, tùy từng phần bị chặt khúc đều có lằn (vạn). Xá lợi của đúc Như Lai ấy cũng vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Xá lợi của đức Bất Động Như Lai phần phần châu viên, ngoài và trong đều có tướng cát tường (vạn).
Như cây bổ ca la, tùy chẻ chỗ nào, trong ngoài đều có lằn cát tường. Xá lợi của đức Như Lai ấy cũng vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Vì cúng dường Xá lợi, chúng sanh nước Diệu Hỷ xây tháp bảy báu khắp cả cõi Đại Thiên, lại đem hoa sen ngàn cánh màu
hoàng kim để cúng dường. Cõi Đại Thiên ấy lấy tháp hoa để làm đẹp nghiêm.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Ở nước Diệu Hỳ, nếu chư Bồ Tát nào sắp diệt độ, lúc lâm chung không bao giờ mất chánh niệm, mà thấy những thoại tướng như vầy:
Hoặc có Bồ Tát thấy cõi mình sắp sanh về không có Phật, mình đang làm Phật ở đó .
Hoặc có Bồ Tát thấy cõi mình sắp sanh về có Phật, mình sẽ phụng thờ
Hoặc thấy có Bồ Tát nhập thai mẹ.
Hoặc thấy có Bồ Tát mặc giáp trụ lớn.
Hoặc thấy có Bồ Tát bỏ nhà xuất gia.
Hoặc có Bồ Tát ngồi đạo tràng hàng ma.
Hoặc thấy có Bồ Tát chứng Nhứt thiết chủng trí.
Hoặc thấy có Bồ Tát ở thế giới ấy thành chánh giác, chuyển chánh pháp luân.
Hoặc có Bồ Tát trụ trong hư không tự thân lần lần diệt mất chẳng sót chút gì. Ví như đốt cỏ ướt, khói bốc cao lần cháy tan đến tắt mất.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát đã diệt độ rồi, chư Thiên và nhơn dân lo liệu cúng dường.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Bất Động Như Lai sau khi nhập đại Niết bàn, chánh pháp trụ thế đến trăm ngàn kiếp”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Chánh pháp của đức Bất Động Như Lai trụ thế trăm ngàn kiếp, là loại kiếp nào?”.
Đức Phật phán: “Nầy Xá Lợi Phất! Cứ Hai mươi tiểu kiếp làm một kiếp. Chánh pháp ấy trụ thế trăm ngàn kiếp như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc chánh pháp ấy diệt rồi, có quang minh lớn chiếu mười phương. Đại địa đều chấn động phát âm thanh lớn. Nhưng chánh pháp ấy chẳng phải thiên ma phá hoại được. Cũng chẳng phải do sức Như Lai ấy và chúng Thanh Văn tự ẩn mất. Chỉ vì thời gian ít người nghe pháp, phần đông không ham thích, nên người thuyết pháp đều xa lánh họ.
Với chánh pháp đã ít nghe nên
càng thêm sự bất tin. Bất tin đã không tăng trưởng thì không chuyên cần tu tập. Chư Tỳ Kheo thông hiểu chánh pháp tự sẽ rút lui ẩn dật, thấy mọi người không ham thích chánh
pháp nên chẳng còn ra hoằng tuyên. Do đó lời dạy của đức Bất Động Như Lai sẽ mất lần lần”.
PHẨM NHÂN DUYÊN VÃNG SANH
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! chư đại Bồ Tát dùng sức căn lành nào làm nhơn duyên để được vãng sanh về nước Diệu Hỷ của đức Bất Động Như Lai?”.
Đức Phật phán: “ Nầy Xá Lợi Phất! Nếu đại Bồ Tát muốn sanh về nước Diệu Hỷ thì phải học theo đức Bất Động Như Lai thuờ xưa lúc tu hành đạo Bồ Tát phát thệ nguyện rộng lớn rồi cầu nguyện sanh về nước ấy. Hạnh nguyện như vậy có thể làm nhơn duyên sanh về nước Diệu Hỷ.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành bố thí Ba la mật, đại Bồ Tát đem thiện căn ấy hồi hướng Vô thượng Bồ đề nguyện được hội ngộ đức Bất Động Như Lai. Do nhơn duyên nầy sẽ được sanh về nước Diệu Hỷ. Lúc thật hành giới Ba La mật, nhẫn Bát Nhã Ba la mật cũng vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Quang minh của đức Bất Động Như Lai nhiều khắp cõi Đại Thiên Bồ Tát nguyện cầu đời sau sẽ thấy quang minh ấy chứng Vô thượng Giác. Do thấy quang minh rồi thành đại Bồ đề, lại đem quang minh nơi thân để chiếu khắp thế giới.Bồ Tát do nhơn duyên nầy sẽ được sanh về nước Diệu Hỷ.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Chúng Thanh Văn của đức Phật ấy số đông vô lượng vô biên. Bồ Tát nguyện được thấy chúng Thanh Văn ấy. Thấy rồi khởi công hạnh chứng Phật Bồ đề. Lúc chứng Phật Bồ đề rồi cũng có vô lượng vô biên chúng Thanh Văn
như vậy. Do nhơn duyên nầy, Bồ Tát sẽ được vãng sanh vể nước Diệu Hỷ.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Trong nước ấy có vô lượng vô biên chúng Bồ Tát muốn thấy chư Bồ Tát ấy tu hành thiền định, tôi sẽ theo học, cùng chư Bồ Tát ấy hội họp đồng học đồng tu đồng đến rốt ráo. Tôi nguyện sẽ được hội ngộ với người muốn cầu viên mãn đại từ bi, với người muốn cầu đại Bồ đề, với người bỏ rời tâm Nhị thừa, với người an trụ tánh rỗng không chơn thiệt, với người nhớ niệm danh niệm của Phật Như Lai, Pháp và Tăng.
Nầy Xá Lợi Phất! Có thiện nam thiện nữ nào được nghe danh hiệu của các hàng Bồ Tát như vậy, sẽ được thọ sanh ở nước Diệu Hỷ, huống là đem căn lành Bát Nhã Ba la mật hồi hướng đến đức Bất Động Như Lai. Do nhơn duyên nầy, người ấy quyết định sanh về nước Diệu Hỷ.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Nếu đại Bồ Tát nguyện sanh về nước ấy, nên quán tưởng cảnh tượng ở phương Đông vô lượng thế giới có chư Phật Như Lai thuyết pháp vi diệu và chúng Thanh Văn theo niệm tưởng hiện rõ ra trước mắt. Nguyện tôi sẽ thành Phật thuyết pháp vi diệu và chúng Thanh Văn đều như đức Phật ấy.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát nên tu ba thứ tùy niệm thiện căn nguyện cùng tất cả chúng sanh bình đẳng cùng tu tập hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát hồi hướng thiện căn như vậy không có hạn lượng.
Giả sử tất cả chúng sanh đều riêng cầm một cái bát lớn bằng hư không mà nói rằng xin Ngài đem thiện căn ấy chia cho chúng tôi.
Nếu thiện căn ấy có sắc tướng đem cấp cho chúng sanh đều đầy tất cả bát của họ rồi họ đều cầm đi, nhưng thiện căn vẫn không cùng tận, vì hồi hướng Vô thượng Bồ đề không có hạn lượng chẳng thể di chuyển.
Nầy Xá Lợi Phất! Ba thứ tùy niệm thiện căn thành tựu ấy hồi hướng Nhứt thiết chủng trí, do thiện căn ấy mà Tam Bửu chuyển theo.
Nếu có Bồ Tát nào thành tựu thiện căn ấy thì chẳng còn đọa ác đạo mà có thể trứ dẹp ma Ba Tuần và các ma chúng, tùy ý
thích sanh về nước Diệu Hỷ hay bất cứ một nước nào.
Vì thế nên với tùy niệm thiện căn này, đại bồ tát cần tích tập. Khi tích tập nó rồi nên hồi hướng đến đức Bất Động Như Lai. Do đây sẽ được sanh về nước Diệu Hỷ.
Laị này Xá Lợi! Nước Diệu Hỷ của đức Bất Động Như Lai có công đức trang nghiêm rộng lớn mà trong vô lượng cõi Phật khác không có. Vì thế nên Bồ Tát phải phát tâm như vầy:
Tôi đem thiện căn này nguyện sẽ thấy nước ấy. Nước ấy trang nghiêm nguyện sẽ nhiếp thọ. Cũng nguyện sẽ thấy chư Bồ Tát ở nước ấy.
Này Xá Lợi Phất! Do nhơn duyên trên đây, Bồ tát sẽ được sanh về nước Diệu Hỷ.
Này Xá Lợi Phát! Đại Bồ Tát nguyện sanh về nước ấy phải phát tâm nguyện ưa thích tăng thượng.
Nếu thiện nam thiện nữ phát nguyện tăng thượng, ta đều thọ ký cho họ sẽ được sanh về nước Diệu Hỷ.
Này Xá Lợi Phất! Ví như có tòa thành không có lầu đài vườn rừng ao hồ, cũng không có chỗ cho voi ngựa du hành. Vua trong thành ấy dầu có thế lực ở yên, nhưng vì tòa thành trống trơn nên chẳng phải là tòa thành trang nghiêm.
Này Xá Lợi Phất! Nếu cõi ta bà của ta có những công đức trang nghiêm ấy, thì sẽ như nước của đức Bất Động Như Lai trang nghiêm thù thắng.
Này Xá Lợi Phất Nếu đại Bồ Tát phát nguyện sẽ nhiếp thọ thanh tịnh Phật độ, thì nên như Bất Động Như Lai thuở trước hành đạo Bồ Tát tu tập công đức trang nghiêm cõi nước thanh tịnh, và phải nhiếp lấy công đức như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Như ta ngày nay được Vô thượng Bồ đề điều phục vô lượng chúng sanh đều được chứng quả Nhị thừa, và hàng Thanh Văn của ta giáo hóa điều phục đều nhóm họp cà lại để so sánh với hàng Thanh Văn của đức Bất Động Như Lai thì chẳng bằng một phần trăm một phần ngàn, cho đến ưu ba ni sa đà phần cũng bằng một. Tại sao vậy? Vì số ấy vô lượng vậy. Nếu nói về phần giải thoát thì không khác.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc đức Di Lặc Như Lai xuất thế, chúng Thanh Văn và những người được điều phục so sánh với chúng Thanh Văn của đức Bất Động Như Lai cũng như số trên chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đa.
Nầy Xá Lợi Phất! Do vì đức Bất Động Như Lai một hội thuyết pháp có thể điều phục vô lượng hữu tình, nên người được đức Như Lai ấy nhiếp thọ không ai có thể biết được số lượng.
Nầy Xá Lợi Phất! Cộng chung tất cả chúng Thanh Văn và những người được chúng Thanh Văn nầy điều phục của ta Thích Ca Mâu Ni Phật, của Di Lặc Phật và của tất cả chư Phật trong kiếp Hiền, đem so sánh với chúng Thanh Văn của đức Bất Động Như Lai cũng vẫn không bằng một ngàn ưu ba ni sa đà. Tại sao vậy? Vì số quá nhiều vậy. Giải thoát thì không khác”
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “ Bạch đức Thế Tôn! Theo chỗ tôi nhận hiểu ý nghĩa của đức Thế Tôn đã dạy thì nước Diệu Hỷ chánh là nước A La Hán chớ chẳng phải là nước phàm phu. Tại sao vậy? Vì nước ấy số A La Hán quá nhiều vậy”.
Đức Phát phán: “Đúng như vậy. Nầy Xá Lợi Phất! Như lời ông nói, trong nướx ấy số A La Hán rất đông nhiều.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Cõi Đại Thiên nầy, số lượng tinh tú chẳng nhiều bằng chúng Thanh Văn ở nước của đức Bất Động Như Lai. Do vì một hội thuyết pháp của đức Như Lai ấy, có vô lượng hữu tình được quả A La Hán.
Nầy Xá Lợi Phất! Số lượng tinh tú ở toàn cõi Đại Thiên nầy chỉ bằng số hữu tình được quả A La Hán trong một hội thuyết pháp của đức Phật ấy. Chúng Thanh Văn ở các pháp hội không có số lượng .
Lại nầy Xá Lợi Phất! Hàng chư Thiên và nhơn dân vun trồng cội đức ở nước ấy, Nhơn Thiên cõi khác dầu dùng Thiên nhãn cũng chằng thấy được, dầu đến tại nước ấy dùng thiên nhãn vẫn chẳng thấy được.
Nếu ai nghe công đức nầy rồi thọ tri đọc tụng thông thuộc, người nầy đã thấy nghe đức Bất Động Như Lai lúc hành hạnh Bồ Tát, vì thế nên nay nghe pháp môn công đức ấy liền có lòng tin thanh tịnh.
Nầy Xá Lợi Phất! Trong các cõi nước ở tất cả thế giới phương Đông, hoặc người Bồ Tát thừa, hoặc người Thanh Văn thừa đọc tụng thông thuộc pháp môn nầy, số người ấy rất đông nhuều. Những người Thanh Văn và Bồ Tát ấy do nguyện lực của họ, hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh thành Vô thượng Bồ đề.
Trong các thế giới ở mười phương cũng như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Đức Bất Động Như Lai ở tại nước Diệu Hỷ và ở các cõi nước phương khác, Ngài làm bực thượng thủ trong hàng Bồ Tát thừa v.v...
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ nghe pháp môn công đức của đức Bất Động Như Lai mà khéo có thể thọ trì đọc tụng thông thuộc rồi nguyện sanh về nước ấy. Từ đó đến lúc mạng chung, người ấy được đức Bất Động Như Lai thường hộ niệm, không cho các ma và qưyến thuộc ma làm lòng họ thối chuyển, phải biết những người ấy từ nay đến lúc được Vô thượng Bồ đề không có sự lo sợ thối chuyển, cũng không bị hại về nước lửa dao gậy độc trùng ác thú, cũng không bị người hay quỉ thần làm kinh sợ. Tại sao vậy? Vì thường được sự ủng hộ của đức Bất Động Như Lai, vì sẽ được sanh về nước Diệu Hỷ vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Như mặt nhựt dầu ở rất xa nhưng chiếu ánh sáng cho chúng sanh
Diêm Phù Đề.
Cũng vậy, đức Bất Động Như Lai có thể làm ánh sáng cho chư Bồ Tát ở những cõi khác.
Nầy Xá Lợi Phất! Như Tỳ Kheo có thiên nhãn có thể thấy được những hình sắc tốt xấu ở phương xa.
Cũng vậy, dầu ở tại nước mình, đức Bất Động Như Lai đều thấy tất cả hình loại của chư Bồ Tát ở những thề giới khác.
Nầy Xá Lợi Phất! Như Tỳ Kheo được tâm tự tại, có Thần thông Ba la mật ấy rồi có thể biết rõ tâm niệm của tất cả hữu tình, mặc dầu ở rất xa.
Cũng vậy, có những chúng sanh ở các thế giới khác nguyện rằng: Tôi nguyện được sanh về nuớc Diệu Hỷ. Đức Bất Động Như Lai liền nghe lời nói của họ.
Nầy Xá Lợi Phất! Các hạng thiện nam thiện nữ ấy, đức Bất Động Như Lai đều biết rõ họ tên.
Nếu ai thọ trì đọc tụng thông thuộc pháp môn công đức nầy thì đều được đức Bất Động Như Lai thấy biết và đã hộ niệm họ”.
Lúc ấy Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “ Bạch đức Thế Tôn! Rất là hi hữu đức Bất Động Như Lai hộ niệm chư đại Bồ Tát ấy”.
Đức Phật phán: “Đúng như lời ông nói. Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát ấy được đức Như Lai hộ niệm.
Tại sao vậy? Vì họ niệm chư Bồ Tát nên tất cả chúng sanh đều được hộ niệm.
Nầy Xá Lợi Phất! Như Đại Vương Quán Đảnh có nhiều kho lẫm chứa đầy lúa đậu, nghiêm lịnh cho quan chủ ty phải khéo giám thủ. Tại sao vậy? Vì để cứu tế nhơn dân lúc có nạn đói kém.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát ấy, sau khi đức Như Lai diệt độ, sẽ chứng Vô thượng Bồ đề, lúc chánh pháp thiếu kém, có thể làm mùa trúng lớn.
Đức Như Lai cũng như vậy, khéo có thể hộ niệm chư Bồ Tát ấy.
Nầy Xá Lợi Phất! Ở cõi Ta Bà nầy có chư Bồ Tát sẽ nghe pháp môn Bất Động Như Lai công đức, họ có thể thọ trì đọc tụng thông thuộc nguyện sanh về nước Diệu Hỷ. Phải biết những người nầy được bất thối chuyển.
Nếu có Bồ Tát khác nơi pháp môn nầy khéo có thể thọ trì đọc tụng thông thuộc rồi khai thị giảng thuyết cho vô lượng chúng sanh ấy vun trồng cội công đức như vậy cho họ sẽ gần gũi Vô thượng Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát nguyện mau chứng Vô thượng Bồ đề, thì phải thọ trì đọc tụng thông thuộc pháp môn nầy rồi khai thị giảng thuyết cho chúng sanh.
Tại sao vậy? Đại Bồ Tát phải giảng thuyết pháp môn công đức nầy để tạo nghiệp đại trí huệ.Phải phát khởi tích tập như vậy. Do vì phát khởi tích tập, nên các người ấy hiện đời sẽ sạch phiền não.
Nầy Xá Lợi Phất! Vì thế nên người Thanh Văn thừa nghe pháp môn nầy nên thọ trì đọc tụng thông thuộc rồi khai thị diễn thuyết cho chúng sanh.
Tại sao vậy? Vì do thọ trì chánh pháp như vậy, thiện nam thiện nữ ấy hiện đời sẽ chứng bực vô học.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ tín tâm thanh tịnh nơi pháp môn xưng tán công đức nầy, phải nên vì người khác luôn luôn diễn nói.
Những người ấy chẳng ngoài hai đời sẽ được quả vô lậu.
Nầy Xá Lợi Phất! Pháp môn công đức của Bất Động Như Lai đây, chẳng phải là hàng ngu cạn mà cò thể thọ trì được. Người có trí huệ sâu rộng mới thọ trì được.
Nầy Xá Lợi Phất! Thiện nam thiện nữ nào sẽ thấy chư Phật, chắc chắn sẽ đìch thân được pháp môn xưng tán công đức nầy.
Nầy Xá Lợi Phất! Ví như vô giá bửu châu từ biển lớn mang về. Ý của ông nghĩ sao, ai sẽ là người được trước?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “ Bạch đức Thế Tôn! Chư quốc vương, vương tử, đại thần là người đuợc trước”.
Đức Phật phán: “Nầy Xá Lợi Phất! Pháp môn công đức của đức Bất Động Như Lai cũng vậy, Bồ Tát được trước. Chư Bồ Tát ấy sẽ được bất thối chuyển, nếu nghe pháp môn nầy liền có thể thọ trì đọc tụng thông thuộc. Chư Bồ Tát ấy vì Vô thượng Bồ đề, ở nơi tánh chơn như sẽ siêng năng tu học”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu Bồ Tát muốn ở bực bất thối chuyển, khi nghe pháp môn xưng tán công đức nầy phải thọ trì đọc tụng thông thuộc.
Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát an trụ pháp môn nầy, ở trong pháp tánh sẽ chẳng thối chuyển”.
Đức Phật phán: “Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử có người đem hoàng kim đầy Diêm Phú Đề ra bố thí để trông mong được nghe pháp môn nầy, nhưng trọn chẳng được nghe. Tại sao vậy? Vì pháp môn công nầy chẳng phải các chúng phước bạc sẽ chấp trì được.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Nếu người Thanh Văn thừa nghe pháp môn công đức nầy rồi thọ trì đọc tụng vì Vô thượng Bồ đề và vì tương ưng chơn như mà siêng năng tu tập, người ấy ở thân đời sau sẽ được thành tựu, hoặc trong hai đời thì được bổ xứ, hoặc là ba đời, chẳng bao giờ vượt quá, sẽ thành bực chánh giác.
Nếu họ nghe pháp môn xưng tán công đức Bất Động Như Lai nầy rồi đọc tụng thông thuộc, lại khai thị diễn thuyết cho vô lượng chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Như Chuyển Luân Thánh Vương do nghiệp đời trước mà cảm bảy báu hiện ra.
Cũng vậy, do bổn nguyện lực của đức Bất Động Như Lai, hôm nay ta nói pháp môn công đức nầy.
Nầy Xá Lợi Phất! Nơi pháp môn xưng tán công đức nầy, chư đại Bồ Tát hoặc đã nghe, hoặc sẽ nghe, đó đều là do từ bi nguyện lực của đức Bất Động Như Lai lúc hành đạo Bồ Tát thuở trước. Hoặc sẽ ở nơi chư Phật trong kiếp Hiền, họ dự nghe khai thị pháp môn nầy, như hôm nay ta khai thị diễn thuyết bao nhiêu danh số chẳng thêm chẳng bớt.
Vì thế chư đại Bồ Tát nào muốn mau chứng Vô thượng Bồ đề, thì nơi pháp môn xưng tán công đức nầy phải thọ trì đọc tụng thông thuộc và diễn nói cho người khác.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Nếu thiện nam thiện nữ nào vì cầu pháp môn nầy nên đến xóm làng thành ấp kia để lắng nghe thọ trì đọc tụng thông thuộc, thì dầu họ là hàng xuất gia mà ở nhờ nhà bạch y tại gia, ta nói họ cũng không có lỗi, cũng cho họ ở. Tại sao vậy? Vì họ muốn sau khi họ chết; pháp môn nầy sẽ chẳng ẩn mất vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu thôn ấp ấy ở xa xuôi, các người ấy cũng phải đến ở đó lắng nghe thọ trì đọc tụng khai thị diễn thuyềt pháp môn nầy.
Nầy Xá Lợi Phất! Thiện nam thiện nữ ấy đối với pháp môn xưng tán công đức nầy nều là đã được lưu hành, hoặc ở nơi người khác có quyển kinh nầy, họ phải đến nơi đó biên chép. Người kia nếu yêu cầu phải dứt niệm tham, hoặc bảo kinh hành, hoặc bảo ngồi,bảo đứng, họ đều phải chịu theo chỗ yêu cầu của người kia để biên chép kinh nầy.
Nếu đến thôn xóm ấy tìm chẳng được, thì phải qua địa phương kế cận tìm cầu kinh nầy để biên chép thọ trì đọc tụng thông thuộc, rồi lại khai thị diễn thuyết cho người khác.
Nếu đến địa phương khác vẫn tìm cầu chẳng được, họ phải phát thệ như vầy: Với Vô thượng Bồ đề tôi chẳng nên có ý nghĩ thối chuyển, vì tôi đã được nghe tên pháp môn xưng tán công đức Bất Động Như Lai, người ấy đối với tôi, muốn tôi được lợi ích nên khiến tôi lắng nghe.
Nầy Xá Lợi Phất! Pháp môn xưng tán công đức Bất Động Như Lai nầy, có ai diễn thuyết được và người dự nghe, nếu do sức oai thần của đức Như Lai cả”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Sau khi đức Như Lai diệt độ, do oai lực của ai mà đươc nghe pháp môn nầy?”.
Đức Phật phán: “ Nầy Xá Lợi Phất! Sau khi ta diệt độ, do sức oai thần của đức Bất Động Như Lai nên sẽ được nghe. Hoặc do Tứ Đại Thiên Vương Đế Thích v.v...sẽ riêng gia hộ cho các vị Pháp Sư tuyên dương pháp môn nầy. Và các Bồ Tát ấy vỉ bổn nghiệp thành thục nên Tứ Đại Thiên Vương v.v... dùng oai thần gia hộ sách tiến làm cho họ được nghe pháp môn nầy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp môn như vậy có thể thành tựu được công đức rộng lớn”.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu trong nước nào bị tai nạn sấm sét mưa đá, và những sự kinh khủng khác, các thiện nam thiện nữ ấy phải nên chuyên nghĩ nhớ đức Bất Động Như Lai và xưng danh hiệu của Ngài, thì các tai nạn ấy sẽ được tiêu trừ. Đó là do vì thuở xưa đức Như Lai ấy đã cứu vớt trăm ngàn loài rồng thoát khỏi khổ não. Lại do vì từ bi bổn nguyện chắc thiệt chẳng luống, hồi hướng căn lành nguyện cầu viên mãn, nên xưng danh hiệu Ngài thì tai hoạn tự tiêu trừ. Chỉ trừ những hữu tình có túc nghiệp thành thục”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát muốn hiện đời chứng Vô thượng Bồ đề, phải như đức Bất Động Như Lai tu hạnh nguyện thuờ xưa.
Đức Phật phán: “Đúng như vậy. Nầy Xá Lợi Phất! Đúng như lời ông nói. Ít có Bồ tát nào đã có Bồ Tát nào đã có thể tu thanh tịnh Phật độ hay sẽ tu như đức Bất Động Như Lai.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát được như đức Bất Động Như Lai đều sẽ chứng Vô thượng Bồ đề, đối với Phật tánh và Nhứt thiết chủng trí cùng nhiếp thọ Phật độ thảy đều đồng như nhau. Về phần chúng Bồ tát và chúng Thanh Văn chẳng là không có ưu liệt, nhưng về phần giải thoát thì không khác”.
Bấy giờ chư Thiên cõi Dục và chư Phạm Thiên v.v... đều hướng về đức Bất Động Như
Lai chắp tay đảnh lễ mà xướng ba lần rằng: “ Nam mô Bất Động Như Lai Ứng Cúng Chánh đẳng Chánh giác rất là hi hữu. Nam mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh đẳng Chánh giác khéo nói được pháp môn xưng tán công đức ấy.
Chư Thiên cõi Dục đem hoa trời Mạn đà la và các thứ hương trời rải trên đừc Phật. Các hoa hương được rải lên ấy hiệp lại thành lọng ở trên hư không. chư Thiên cũng vói rải hoa hương đến đức Bất Động Như Lai để cúng dường.
Lúc ấy Thiên Đế Thích nghĩ rằng: “ Tôi và chư Thiên cõi Dục cùng hàng tứ chúng đều muốn được thấy đức Bất Động Như Lai.
Đức Phật biết ý nghĩ của Thiên Đế nên liền vọt lên hư không ngồi kiết già.
Do thần lực của đức Phật, tất cả đại chúng đều an trụ trên hư không, và đều thấy nước Diệu Hỷ, đức bất Động Như Lai, chúng Bồ Tát và chúng Thanh Văn bên
ấy.
Được thấy rồi, tất cả đại chúng đều quý gối hữu hướng về đức Bất Động Như Lai.
Đại chúng ở cõi nầy đồng nghĩ rằng : “ Phải chăng vì thấy đức Bất Động Như Lai mà chư Thiên cung Trời Đao Lợi đến hội họp để lễ bái cúng dường.
Lúc ấy thiên Đế Thích nghĩ rằng chư Thiên ở nước Diệu Hỷ kia do nhơn tướng mà có ngã kiến. Nhơn dân ở nước ấy ăn mặc hưởng thọ chẳng khác chư Thiên ở nước ấy.
Đức Thế Tôn sau khi nhiếp thần thông bảo Thiên Đế Thích rằng:“ Nầy Thiên Đế! Nhơn dân ở nước Diệu Hỷ đều hưởng thọ phước vui cõi trời, Ngài nên ưa thích. Những chúng nhơn nầy được thấy đức Bất Động Như Lai và ưa thích sự hưởng thọ phước trời của nước Diệu Hỷ, sau khi mạng chung họ sẽ được sanh về nước của đức Bất Động Như Lai. Các chúng sanh ở những thế giới khác cũng như vậy’’
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Thiên Đế Thích: “Ngài thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật và đức Bất Động Như Lai, do nhơn duyên nầy sẽ được lợi ích lành trong hiện đời, huống là Ngài đã được pháp hơn người’’.
Thiên Đế Thích lúc ấy lại nghĩ rằng:“ Các chúng sanh ấy nghe pháp môn công đức nầy cũng đưỡc lợi ích lành. Huống là được sanh về nước của đức Bất Động Như Lai.
Đức Phật phán với Thiên Đế Thích:“ Người Bồ Tát thừa sẽ sanh về nước ấy cũng được lợi ích lành. Tại sao vậy? Vì chư Bồ Tát ấy đều được an trụ bực bất thối chuyển.
Nếu chư Bồ Tát khác hiện đời nguyện sanh về nước ấy, phải biết đều là người an trụ bực bất thối chuyển cả”.
Lúc đúc Phật nói pháp môn nầy, coa năm trăm Tỳ kheo được tâm giải thoát nơi pháp vô lậu. Năm ngàn Bồ Tát, sáu ngàn Tỳ kheo Ni, tám ngàn Ưu Bà Tắc, mười ngàn Ưu Bà Di và vô lượng Thiên Tử cõi Dục đều phát nguyện sanh về nước Diệu Hỷ của đức Bất Động Như Lai.
Đức Phật liền thọ ký cho họ đều sẽ được vãng sanh về nước ấy.
Nếu có chúng sanh nào sẽ phát nguyện sanh về nước ấy, đức Phật cũng đều thọ ký họ sẽ được vãng sanh.
Bấy giờ khắp cõi Đại Thiên chấn động sáu cách. Đó là động, biến động và đẳng biến động, chấn, biến chấn và đẳng biến chấn. Do vi được sự gia trì của pháp môn xưng tán công đức Bất Động Như Lai nầy vậy.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tôn giả Xá Lợi Phất v.v...và các thế gian chư Thiên, nhơn dân, A Tu La, Càn Thát
Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La, La Hầu La Già, tất cả đại chúng nghe lời đức Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment