Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 144
PHÁP HỘI NHỰT MẬT BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI
Nầy Quang Mật Công Đức! Chúng sanh cõi ấy được nghe thần chú nầy thì kiết sử thượng trung hạ đều mỏng kém, Sắc giới, Vô Sắc giới phiền não cúng kém mỏng, đều được siêu việt các nghiệp trong hằng hà sa số kiếp, tất cả ngũ đạo thân khẩu ý ác đều khiến thanh tịnh.
Nếu có người nghe học chú nầy thọ trì đọc tụng nhẫn đến bảy ngày chí tâm chẳng quên, nên biết rằng người nầy tất cả tội ác đều tiêu diệt, trừ ngũ nghịch huỷ báng kinh điển phương đẳng Đại thừa, chê bai thánh nhơn, phạm bốn trọng tội. Người nầy cầu mong điều gì nhẫn đến Bồ đề đều tuỳ ý liền được. Nếu người nầy muốn tu hành Đàn Ba la
mật nhẫn đến Bát Nhã Ba la mật liền được thành tựu.
Nầy Quang Mật Công Đức! Chúng sanh nơi thế giới Ta Bà kia không
có nhơn duyên gì mà phải bị pháp quở trách, tại sao? Vì mười phương thế giới các chúng sanh bị phạt đuổi đều đến sanh trong thế giới Ta Bà. Vì vậy mà họ hay tạo nghiệp ngũ nghịch huỷ báng Đại thừa chê bai thánh nhơn phạm bốn tội trọng. Do nhơn duyên nghiệp ác như vậy nên họ sanh trong ba ác đạo thọ vô lượng khổ. Đã thọ khổ rồi họ lại chẳng thể được pháp thập thiện, vì vậy mà họ lại sanh ở Ta Bà thế giới. Người ấy nếu trước có tu tập thiện căn như tín căn đến huệ căn thì trọn chẳng sanh vào quốc độ tệ ác. Vì họ tạo nghiệp nhơn ác nên sanh nơi ác quốc độ các căn thiếu khuyết tàn tật, thân người chẳng đủ, không có niệm tâm, những món cần dùng và các thứ uống ăn, y phục ngoạ cụ thuốc men phòng nhà đều khó được, thọ mạng ngắn ngủi ngủ thức chẳng yên, trí huệ thiện căn phược đức đều không đủ, sự lành tốt ít có, họ không có tâm từ bi ưa làm việc ác độc, ưa tu ác kiến, thích đọc sách tà luận, ưa tin bạn xấu ác, ưa phát nguyện xấu ác, thân nhiều bịnh dữ, nhiều sự việc ác, thường vui thích thêm lớn nhiều pháp tam ác đạo, kính thờ tà thần, bẩm tánh tệ ác, ưa cợt đùa ganh ghét, thành tựu đầy đủ các nghiệp bất thiện, ưa huỷ báng Tam bửu, thích đi trong
ba ác đạo.
Các chúng sanh như vậy nếu được nghe thần chú nầy rồi thì ở trong sanh tử họ sẽ sanh lòng hối rời lìa ác đạo tu tập tín căn đến huệ căn, họ cũng sẽ thích tu hành sáu Ba la mật thanh tịnh phạm hạnh, thêm thọ thêm phước, trừ bịnh ác khổ, trí huệ xí thạnh, thân hậu không giảm, tất cả thiện pháp không có hao
tổn, thành tựu đầy đủ pháp thập thiện, thêm thạnh Tam bửu, thích tu pháp hành. Thần chú nầy có thể làm cho các chúng sanh đầy đủ vô lượng thiện pháp như vậy.
Nầy Quang Mật Công Đức! Các chúng sanh cõi Ta Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni , nếu là người thọ trì cấm giới kính tin Tam bửu thưa hỏi diệu pháp đọc tụng thơ tả được tâm hoan hỉ, do nhơn duyên ấy liền được qua khỏi nghiệp ba ác đạo, nếu có tội trọng ácvị lai thì hiện tại thọ, hoặc hơi nhức đầu, hoặc mất tài vật, hoặc quyến thuộc hư lìa, danh xấu đồn xa, hoặc bị đánh mắng thì được trừ khỏi.
Thần chú nay hay phá tất cả ác nghiệp đã có, hay làm lợi ích lớn cho chúng sanh, hay làm đại quang minh, được đại niệm tâm, làm đại tịch tĩnh. Người nầy thường được thập phương chư Phật, chư Bồ Tát, Thanh Văn,
Duyên Giác hộ niệm, được Thiên, Long, Quỷ, Thần thường ủng hộ. Lúc lâm chung, người nầy thấy thập phương chư Phật, nghe Phật thuyết pháp, chư Phật khen rằng: Lành thay lành thay, nhà người đến sanh trong quốc độ tịnh diệu của ta, ta có thể khiến ngươi mau trụ bực Thập địa. Người nầy nghe lời Phật nói liền sanh lòng hoan hỉ. Vì tâm hoan hỉ nên được thâm tín, do đây được sanh nơi quốc độ tịnh diệu. Sanh rồi liền lên bực Thập trụ được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Quang Mật Công Đức! Ông nên thọ trì thần chú nầy đọc tụng thông thuộc qua Ta Bà thế giới, trước thăm hỏi lễ kính Thích Ca Mâu
Ni Như Lai rồi sau tuyên đọc đó”.
Đức Phật Cao Quý Đức Vương liền nói chú rằng:
Khước già ba lợi xa đà, kiệt bà xoa tư, kiệt bà linh, bí đà ba lã bà già sai, xoa bà du kỳ, ba lã đề ha linh, xa ma na
tư ca đề, tam ma mế già thọ tỉ, ha xoa xà na để, xoa bà bà kỳ, ni
đà na xà tỉ, tam ma na xà tỉ, a đà xá xà xà tỉ, tỉ ba lã bà xà tỉ, tư xoa xà tỉ, tư nhã xà bà xà tỉ, xa lợi la cừu ha xà tỉ, sa la cừu ha xà tỉ, xí bà na câu thi, sa đà na câu bạc, tư bà đà na đề, tỉ bà ba lã la để, ưu ba ca la ma na đề, a na bà đá la xí,
ba la đề ca lã mế na, ba ca tha thi, bà lô giá na bà mế ca lã tha đà linh,
ca ma sa thi, a xá khước kỳ, na xà quân kỳ,
bí đà bà ninh, cơ ly na bà ninh, lưu giá bà ninh, bà mế ma ca linh, xá lợi xà bà ninh, ma
già xà tỉ, ha lợi câu na bà, na xà na mục xí, sa la xoa câu la, na xà na thọ linh, nhơn đà la bà sa ninh, ô a, a bà a, a lã bà a, bà
lã a bà lã lã, bà mế già đậu khê ni đề la niết bàn hi, sá ha.
Đức Cao Quý Đức Vương Như Lai nói thần chú xong, Quang Mật Công Đức đại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đa la ni ấy sẽ qua Ta Bà thế giới tuyên đọc điều phục chúng sanh”.
Còn có vô lượng Bồ Tát đại chúng đồng thanh nói: “Lành
thay lành thay, hôm nay chúng tôi cũng đều muốn qua thế giới đó”.
Đức Phật nói: “Đã phải lúc, các ông có qua đó thì nên biến làm thân Na La
Diên”.
Quang Mật Công Đức đại Bồ Tát và đại chúng Bồ Tát tất cả biến thân làm Na La Diên đồng đến Ta Bà thế giới. Đến rồi mưa cát vàng ròng mịn nhuyễn để cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni rồi từ hư không xuống đầu mặt kính lễ hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Phương Bắc quá tám vạn hằng ha sa số thế giới chư Phật, có thế giới tên là Phổ Hương Thân đủ ngũ trược, Phật hiệu là Đức Hoa Mật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn hiện tại vì chúng sanh
thuyết pháp giáo hoá. Có Bồ Tát tên là Hư Không Mật ngước nhìn hư không thấy vô lượng Bồ Tát từ Bắc phương đến đi thẳng qua phương Nam liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng Bồ Tát từ phương Bắc đến đi thẳng qua Nam phương?”.
Đức Phật nói: “Nầy Hư Không Mật! Phương Nam quá tám vạn hằng hà sa số thế giới, có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni
Như Lai hiện tại vì chúng sanh
tuyên nói diệu pháp phân biệt tam thừa dựng pháp tràng rộng nói pháp tụ. Thập phương chư Phật đều tập hội cõi ấy vì chư Bồ Tát giải nói bửu tràng đà la ni rồi đều trở về bổn trụ xứ. Thích Ca Như Lai vẫn vì đại chúng Bồ Tát Thanh Văn tuyên nói pháp yếu có nhiều lời bí mật cam lồ. Nếu muốn nghe thì nên qu cõi đó.
Thích Ca Như Lai thường phát đại nguyện, nếu có thập phương chư Bồ Tát đến nghe ta nói pháp liền được mười tám pháp bất cộng. Lại nguyện rằng lúc ta thành Phật rồi nguyện đất đai cõi ta có đủ thượng vị. Chư Bồ Tát cõi ấy có đại niệm tâm tinh tiến trì giới trí huệ đầy đủ như ở thế giới thanh tịnh chư Phật, tu tập đầy đủ thiền định, lúc nhập thiền định thân họ phóng quang minh hoặc sáng như một ngọn đèn nhẫn đến sáng như trăm ngàn vô lượng nhựt nguyệt. Họ đều tập hội nghe Phật thuyết pháp. Hoặc có thập phương chư Bồ Tát chúng khởi định đều đến cõi ấy kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai lắng nghe đà la ni du hí thần thông.
Nầy Hư Không Mật! Chúng sanh thế giới Ta Bà thọ mạng ngăn ngủi nhiều ác bịnh, trí huệ thiện căn phước đức thiện hành thảy đều kém mỏng, họ chẳng biết sợ ba ác đạo khổ, họ tham trước của cải tâm chẳng thanh tịnh, lòng nhiều tật đố không có tàm quý, ưa làm mười điều ác, các chúng
sanh ấy hoặc có tạp hành sau khi xả thân liền ở cõi ấy làm đại ác quỉ nhẫn đến làm ác ca na, phú đơn na, họ làm ác quỷ rồi thâu lấy vị đất nhẫn đến tất cả các vị dưa trái, lúa gạo, cỏ cây,ai ăn thứ ấy thì sanh ác bịnh thân mất thể lực. Các ác quỷ ấy thường rình chúng sanh
lúc sơ sanh lúc trưởng đại có thể cướp mất tánh mạng, đây cũng là một cớ mà chúng sanh cõi ấy đoản thọ.
Nầy Hư Không Mật! Trước kia lúc ta tu tập Bồ đề đạo cũng thường phát nguyện tôi đời vị lai thường siêng tinh tiến chẳng thôi chẳng nghỉ cung kính cúng dường vô lượng chư Phật nghe học chánh pháp thưa hỏi thâm nghĩa. Tôi sẽ thế nào thủ hộ người ở thai khiến mẹ con kia sản sanh yên ổn. Hoặc Trời, Rồng Quỷ Thần, hoặc Quỷ La Sát, A Tu La,
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, hoặc Câu Biện Trà, Lệ Lê Đa, Tỳ Xá Giá, Phú Đơn Na, Ca Đa Phú Đơn Na, Thọ Đa La, A Vệ Mạt La, hoặc nhứt hành đến tứ hành, hoặc quỷ khởi thi, hoặc độc cổ, hoặc ác độc dược xúc thân tâm, các
độc sự như vậy không làm tổn hại được mẹ con ấy, nhẫn đến lúc bú mớm ăn uống nuôi lớn khôn cũng chẳng làm hại được, cũng chẳng khiến tâm loạn trược được, cho đến trong giấc mộng cũng không làm tổn não được, thường hành thập thiện, thích bố thí, thích trì giới, với ba ác đạo lòng sanh bố uý, có chú dược nào hay xong những sự việc như vậy. Lúc bấy giờ vô lượng Phật liền ban cho ta tịnh đà la ni. Do sức lực của đà la ni ấy khiến ta thuở trước trong vô lượng đời điều phục vô lượng vô số chúng sanh khuyên
họ thật hành sáu Ba la mật.
Trong vô lượng vô số đời trước ta thường nghĩ nhớ xứ nào có nữ nhơn chửa nghén để phòng ngăn ác quỷ nhẫn đến độc dược. Ta đến chỗ họ dạy tam quy y. Dạy họ tam quy rồi tất cả ác quỷ độc dược chẳng làm hại được. Đứa con sanh ra thường được thiện tâm trí huệ đầy đủ thân thể không thiếu khuyết, lúc nó du hành
thường được vô lượng thiện thần ủng hộ, diện mạo đoan chánh mọi người thích thấy, ưa tu từ bi, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, ở nơi tịch tĩnh thích tu thiền định, gần thiện tri thức có đủ trí huệ, phá các khổ não nhàm lìa sanh tử ưa mến Niết bàn, tất cả thiên thần quỷ thích cúng dường. Nếu nó phát tâm Vô thượng Bồ đề thì được Bồ đề Vô thượng, nếu phát tâm Bích Chi
Phật thì được Bích Chi Phật đạo, nếu phát tâm Thanh
Văn thì được như thiệt nhẫn. Các chúng sanh ấy xa lìa hẳn ba ác đạo thường đi trong thiện đạo.
Ta dùng vô lượng phương tiện như vậy điều phục chúng sanh vì Vô
thượng Bồ đề.
Nầy Hư Không Mật! Nếu có chúng sanh bị bịnh rất nặng, lấy da sư tử tụng chú nầy vào rồi trao cho người bịnh. Nếu không có da thì
dùng thịt hoặc xương. Nếu không có thịt xương sư tử thì dùng phẩn hoặc chỗ đất mà sư tử đái. Nếu không có phẩn có đất ấy thì tụng chú cột gút hoặc làm sách bùa trao cho người bịnh, thì bịnh liền lành. Nếu cây không trổ hoa trái thì tụng chú vào nước mưa rồi xối tưới, cây ấy liền có bông trái. Hoặc lúc hạn khô, tìm tim rùa tụng chú năm biến đem đặt trong long tuyền thì trời sẽ mưa lớn. Hoặc lúc mưa nhiều lũ lụt hại lúa mạ thành ấp tụ lạc, tìm da mãng xà tụng chú bảy biến đem đặt trong long tuyền thì mưa liền dứt. Nếu quốc độ nhiều tướng quái dị, ác phong, ác vũ, ác tinh nhựt nguyệt, thì nên bảy ngày tắm gội sạch sẽ ăn cháo sữa, trong bảy ngày đọc tụng chú nầy thì các tướng quái di liền tiêu diệt.
Nầy Hư Không Mật! Nếu có người nghe đà la ni nầy thì bao nhiều phiền não đều nhẹ mỏng nhập chánh định tụ.
Ta dùng vô lượng phương tiện như vậy điều phục chúng sanh khiến họ tu tập sáu Ba la mật nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Hư Không Mật! Đà la ni nầy có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh,
hay dứt tất cả các ác trọng bịnh, hay thủ hộ tất cả nữ nhơn thai nghén và kẻ ở trong thai, hay dứt tất cả kiết sử biết ấm nhập giới, xô dẹp bốn ma cảnh giới, hay làm cho tất cả chư Thiên hoan hỉ, khiến các ác quỷ sanh ý tưởng tri túc, hay làm
các ác long kinh sợ, hay phá tất cả các luận tà ác khiến hàng tứ tánh hoan hỉ, hay khiến nữ nhơn trừ dứt tâm tham, khiến người đa văn niệm tâm vững chắc, người toạ thiền tâm được thiện tịch, hay trừ tất cả tướng xấu trong quốc độ, hay làm cho chủng tánh Tam bửu không đoạn tuyệt, hay làm cho pháp
giới tăng trưởng không giảm, hay làm cho Phật pháp lưu bố khắp nơi, hay phá tất cả khối si vô minh, hay được tận trí vô sanh trí. Tất cánh hết khổ, đây gọi là chú”.
Đức Phật Đức Hoa Mật Như Lai liền nói đà la ni chú:
Ma na xoa, a bà xoa, già la bà xoa, xà la xoa, ma ma na xoa, ma
đà xoa, na đồ xoa, na đồ la hưu, tỉ bà na tra, khước già na tra, a tra na tra, cứu na tra, ba lợi cứu bà na tra, na đồ na tra, phú lợi ca na tra, ưu đa la na tra, già
tỳ na tra, quân xà na tra, a mục khê na tra, giá phàm bà la na tra, khước kìm bà la na tra. phật ca la na tra, đế bà lưu đà lã na tra, ma
la xà na tra, thi lợi câu bà na tra, kiêu đa tra, đa đồ la bà, ma lưu đa khước bà, đề hưu xoa, bà đề lã thù, toá ma na thù, bà ha na phú trí, tán đề lã xà bà, a ma ma
xà bà, ma hưu la già xà la, a
niết na, a niết na lã bà, a niết na xoa, a bà ha mạt lực già niết na xoa, y bàn đô đậu khư tả, sá ha.
Lúc Phật nói chú ấy, trong đại chúng kia có sáu vạn ức người được như pháp nhẫn. Lại có sáu vạn người nhập chánh định tụ.
“Nầy Hư Không Mật! Nay ta dùng tịnh đà la ni nây giữ dục cho Phật Thích Ca Mâu Ni,
ông nên thọ trì phúng tụng thơ tả”.
Hư Không Mật đại Bồ Tát kính vâng lời Phật thọ trì thơ tả đà la ni ấy rồi cùng vô lượng Bồ Tát đến Ta Bà thế giới, tất cả đều biến thân làm Chuyển Luân Vương, dâng các thứ châu báu cúng dường Phật, đầu mặt kính lễ hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Vua Tần Bà Sa La thấy vô lượng Bồ Tát hoặc là Phạm Vương, hoặc là Thiên Đế Thích, hoặc là Na La Diên, hoặc là Chuyển Luân Vương, từ bốn phương đến tập hội, vua liền đứng dậy cung kính chắp tay.
Nhựt Mật đại Bồ Tát ở trước đức Phật nói kệ tán thán:
Trong các bức thánh rất thù thắng
Ban đại quang minh trừ ác kiến
Người hành chánh đạo cho pháp ấn
Xô diệt ác long và tứ ma
Dựng vững pháp tràng ban giải thoát
Dùng đuốc pháp sáng phá tối tăm
Thân cận thiện hữu tu tập định
Vì thương chúng sanh nói
phước điền
Phật Pháp Tăng bửu rất khó được
Thân người lòng tin cũng còn
khó
Được thiện hữu phá được phiền não
Chúng sanh đi tối chìm sông kiết
Như Lai thuyền sư hay cứu vớt
Bốn phương chư Phật sai tôi đến
Nay trong đại hội nói giữ dục.
Nhựt Mật Bồ Tát nói kệ ấy rồi, như ở bổn độ đã được bổn Phật giáo giới đều nói y như vậy.
Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: “Nầy Xá Lợi Phất! Đà la ni nầy là của tứ phương chư Phật giữ dục để làm lợi ích cho các chúng sanh cõi nầy. Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả đà la ni nầy rồi ở trong hàng tứ chúng rộng phân biệt nói”.
Nhựt Mật đại Bồ Tát nói kệ tán thán:
Như Lai chơn thiệt biết pháp giới
Dạy ma chúng sanh đạo chánh trực
Nếu người chơn thiệt sanh tín tâm
Người nầy hay phá ba ác đạo
Cúng dường Như Lai một hương hoa
Vô lượng đời thọ vô thượng lạc
Trong vô lượng đời thân đầy đủ
Cũng được vô thượng chơn trí huệ
Nếu một lần nghe tổng trì nầy
Liền trừ diệt được các phiền não
Được hàng nhơn thiên thường cúng dường
Chứng được vô sanh và tận trí.
Đức Thế Tôn bảo bốn đại chúng Bồ Tát rằng: “Nầy chư thiện nam tử! Nếu các ông thích ở thế giới nầy thì tuỳ ý tu tập các thiện pháp đã có”.
Bốn đại Bồ Tát và đại chúng Bồ Tát liền tuỳ ý nhập định, Đã nhập định rồi thân phát quang minh, hoặc như một ngọn đèn sáng nhẫn đến hoặc như ánh sáng vô lượng nhựt nguyệt.
Thừa Phật thần lực, A Nhã Kiều Trần Như suy nghĩ rằng: Nay nếu ta hỏi Phật một nghĩa nhơn đó hoặc Phật sẽ phân biệt nói rộng bốn đà la ni như vậy, tiếng nói của Phật ắt được nghe khắp Ta Bà thế giới, chúng sanh nghe rồi dứt lòng nghi, ở trong hướng pháp được đại quang minh đến bờ kia nhập chánh định tự chẳng đoạ ác đạo, tất cả đều hành pháp thuần thiện.
Suy nghĩ rồi Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy kính ý yên lặng chắp tay mà đứng.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Có phải ông muốn hỏi Phật đại nghĩa ư?”.
Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng vậy, tôi muốn thưa hỏi duy nguyện Thế Tôn hứa cho”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Nay ông biết phải lúc. Phật sẽ phá hoại tất cả điều nghi”.
Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn! Như trong kinh Phật nói có hai thứ là ái và sĩ phu đi
trong sanh tử. Thế nào là ái, là sĩ phu. Cớ chi Phật nói hai thứ nầy đi trong sanh tử?”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Kiều Trần Như! Ông khéo phát lời hỏi ấy, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh. Đây là biết phải lúc mà hỏi, đây là hỏi đáp đúng. Lắng nghe lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Nầy Kiều Trần Như! Ái có ba thứ, đó là dục ái, sắc ái và vô sắc ái. Còn có ba thứ là hữu ái, đoạn ái và pháp ái.
Thế nào là dục ái?
Nói là dục ấy gọi là phóng dật, phóng dật nhơn duyên là tham
xúc, do xúc nhơn duyên thì sanh tưởng lạc, lạc tưởng nhơn duyên thì đôt cháy thân tâm, vì đốt thân tâm nên ưa làm thập ác nghiệp, thập ác nhơn duyên thì hay
tăng trưởng ba ác đạo khổ, nếu thọ thân người thì nghèo cùng khốn khổ. Vì tham nhơn duyên nên thọ sanh trong ngũ đạo, sanh trong loài
dê nhiều thọ khổ não. Dầu thọ khổ mà tâm không có tàm quý chẳng biết hối hận. Nêu nhơn chút ít thiện được sanh làm người thì lòng ái tăng
trưởng. Vì ái tăng trưởng nên thân khẩu bất tịnh tạo gây vô lượng tội ác nặng nhẫn đến tội ngũ nghịch. Do nhơn duyên nầy lại sa địa ngục thọ đại khổ não. Tất cả thọ khổ đều nhơn tâm ái. Vì vậy nên Như Lai nói chánh pháp để giải thoát tâm ái, quở trách tham dục. Nếu có chúng sanh
nghe lời quở trách lòng dục rồi, xem dục như ngọn lửa, như cây đại độc, như độc bồn hành xí, như dao bén, như giặc ác, như chiên đà la, như hoàn sắt nóng, như mưa đá ác, như gió ác, như độc xà, như oán thù, như quỷ La Sát nơi đồng hoang, như kẻ giết hại, như phẩn, như mả mồ. Nếu có người hay quán sát như vậy thì người nầy có bao nhiêu sự ái cùng tham, ái nhị, ái trước, ái trạch, ái nhiệt, ái tăng thảy đều trừ diệt. Dứt ái rồi niệm pháp, thích pháp,
học pháp, thọ pháp, thủ pháp, siêng cầu pháp, cất chứa pháp, tịnh pháp, hành pháp, quy y nơi pháp. Người nầy lâm chung được pháp niệm. Nhơn sức pháp niệm liền nghe thập phương chư Phật tuyên nói pháp yếu giáo hoá chúng sanh. Nghe pháp rồi lòng hoan hỉ. Vì hoan hỉ nên thấy sắc thân chư Phật. Người nầy xả thân sanh quốc độ thanh tịnh không có ba ác đạo, thường cùng thượng thiện nhơn chung ở, đầy đủ trí huệ, xả thí, tinh tiến, tu tập từ bi điều phục chúng sanh, dứt phiền não tập khí, đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Ví
như hộp hương thơm đựng y phục, y phục đều thơm mà hộp hương không giảm hơi thơm.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu các chúng sanh do
sức thiện nguyện sanh quốc độ thanh tịnh cùng thượng hữu đồng sự nghiệp thiện tự tăng thiện pháp mà thiện của thượng thiện hữu cũng không giảm bớt. Vì vậy nên có thiện nam thiện nữ muốn tự lợi lợi tha và cộng lợi thường nên cần cầu y dựa các thiện hữu.
Nếu có người hay quán sát tướng của dục tham như vậy, thì nên biết người ấy chẳng lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề”.
Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là thiện hữu?”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Thiện hữu ấy là chư Phật chư Bồ Tát chư A La Hán. Lại thiện hữu ấy là thân Phật ta đây. Tại sao, vì ta thường thương xót tất cả chúng sanh, hay nói những lỗi hoạ của dục tham, vì vậy nên đại chúng phải học lời của ta. Lời Phật nói trọn không có hai, không có hư vọng, chẳng có lưỡng thiệt, chẳng phải vô nghĩa, chẳng phải thô ác. Là lời thành thiệt, lời từ lời bi, lời an lạc chúng sanh.
Nay Phật nói tội lỗi của dục tham các ông phải nên thọ trì. Đã thọ trì rồi thoát khỏi ba ác đạo mau được Vô thượng Bồ đề”.
Lúc bấy giờ Ta Bà thế giới tất cả chúng sanh đồng thanh nói: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện tuyên nói tội lỗi của dục tham. Nay chúng tôi sẽ chí tâm thọ trì”.
Đức Phật nói: “Nầy các Thiện nam tử! Dục có bốn thứ là sắc dục, hình dục, thiên dục và dục dục.
Thế nào là sắc dục?
Sắc do tứ đại tạo ra, hàng phàm phu chẳng thấy là không có ngã không có chúng sanh nên sanh tưởng điên đảo thấy tướng nam, tướng nữ, tướng thượng sắc, tướng hạ sắc, thấy sắc nầy đáng yêu, sắc nầy đáng ghét. Nhơn vì điên đảo thấy tướng nam nữ nên làm cho tham dục chưa sanh thì sanh sanh rồi thì tăng trưởng. Người nầy do đó mà xa lìa
thiện căn và thiện tri thức, chẳng thể thủ hộ khéo thân khẩu ý nghiệp. Vì vậy nên gọi là khối ác pháp. Tại sao, vì chẳng thể quán sát dục giải thoát vậy. Do nghĩa nầy nên tăng ba ác đạo thọ các thân địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trong vô lượng đời thọ đại khổ não đều do tham dục. Tham dục nhơn duyên khiến dục tăng trưởng.
Nếu có người trí quán sát nữ sắc thấy tướng bất tịnh da thứa, thịt xương, gân cốt, máu mủ mạch lạc, thấy vậy rồi tâm thích tu tập quán tưởng ấy. Như quán sát nữ thân, quán sát nam
thân cũng như vậy. Như quán sát người gần, quán sát người xa cũng vậy. Như quán sát người nầy quán sát người kia cũng vậy. Như quán sát người quán sát mình
cũng vậy.
Người ấy nếu có thể tu tập pháp tâm nầy thì ở nơi tham ái mau được giải thoát.
Quán sát thân nầy gân cốt lóng đốt dính liền nhau tâm theo thân hành, bấy giờ buộc tâm trụ tại trán chừng bằng trái táo. Tâm thích tu tập tướng như vậy rồi thì thân được tịch tĩnh, chẳng thấy ác tướng, chẳng thấy ác sự, chẳng thấy ác duyên. Đây gọi là Xa ma tha, gọi là tâm tịch tĩnh.
Thế nào gọi là thân tịch tĩnh?
Người nầy nhập định diệt nhập tức. Đã không có nhập tức thì nào có xuất tức. Đây thì gọi là thân tâm tịch tĩnh. Thân tâm tịch tĩnh tức là Xa ma tha nhơn duyên vậy. Người nầy quán thân bao
nhiêu lóng xương lìa tan như cát bụi bị gió thổi. Thấy rồi liền sanh ý tưởng không rỗng không có vật, quán nơi hư không. Đây thì gọi là thân tâm tịch tĩnh. Đây gọi là nhơn xa ma tha định mà được giải thoát”.
Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tướng hư không ấy có là tướng hữu vi chăng?”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Hư không là tướng hữu vi”.
Tôn gỉa nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Hư không nếu là tướng hữu vi thì là tự tướng hay là tha tướng ?”.
Đức Phật nói : “Nầy Kiều Trần Như ! Nếu có thể quán sát tất cả pháp giới và hữu vi giới, đây gọi là tự tướng. Tại sao, vì nếu có thề quán sắc tịch tĩnh ấy liền thấy Phật thân. Tại sao, nếu người quán xương có thể thành cát bị gió thổi, người nầy có thể phá sắc tham sắc dục, có thể thâm quán sát sắc dục thiệt tánh, chỗ thấy của người nầy đều như hư không, thập phương các sắc rỗng không như lưu ly, trong ấy lại thấy vô lượng chư Phật, thấy mười phương cũng như vậy. Lại thấy Như Lai đủ ba mươi hai tướng tám mươi hảo. Thấy thập phương thế giới chư Phật cũng như vậy. Người nầy nếu được hối pháp sanh tử liền tự tư duy, ta sẽ hội Phật, hư không như vậy ai làm ra sẽ thế nào diệt ? Tư duy như vậy rồi tự biết rằng ta đã hỏi rồi ta đã biết rồi,. Tánh hư không không có tác
gỉa, đã không có tác gỉa thì làm sao diệt. Nói là hư không ấy, không có giác
quán, không có vật, không có số, không có tướng mạo, không xuất, không diệt. Tất cả các pháp cũng như vậy. Lúc quán như vậy, người nầy được quả A Na Hàm. Người A Na Hàm dứt hết tâm tham dục. Chỉ có năm sự chưa trừ diệt được, đó là sắc ái, vô sắc ái, diệu, mạn, vô minh.
Người nầy nếu được thấy thân Như Lai bèn suy nghĩ
như vầy : Ta nên biết số. Lúc ấy người nầy quán ít thấy ít quán nhiều thấy nhiều. Lại suy nghĩ chư Phật như vậy từ xứ nào đến ? Liền suy nghĩ rằng chư Phật như vậy không từ đâu lại, đi cũng không chỗ đến. Tâm tam giới của ta, tâm nầy nhơn nơi thân. Ta theo giác quán muốn nhiều thấy nhiều muốn ít thấy ít. Chư Phật Như Lai ấy tức là tâm ta. Tại sao ? Vì theo tâm
mà thấy, tâm là thân ta, ta là hư không. Ta nhơn giác quán thấy vô lượng Phật. Ta dùng giác tâm
thấy Phật biết Phật. Tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng biết tâm. Ta quán pháp giới tánh không vững chắc, tất cả các pháp đều từ giác quán nhơn duyên mà sanh. Vì
vậy mà tất cả bao nhiêu tánh tướng tức là hư không. Tánh hư không cũng là
không. Nếu có người sơ phát Bồ đề tâm thì nên quán vô lượng các pháp nhơn duyên. Người nầy nếu phát tâm cầu Thanh Văn liền được vô tướng tam muội lhiến vô minh kia dứt hẳn tịch tĩnh, cũng chứng được tùy thuận không nhẫn. Người nầy nếu thấy hư không là không liền được thân tâm tịch tĩnh. Đây gọi là không giải thoát môn, lấy quả A La Hán không khó.
Người nầy nếu lại tu hành diệt định giải thoát, để diệt vô lượng các pháp nhơn duyên”.
Lúc nói pháp ấy, có chín vạn chín ngàn ức chúng sanh được tu định nhẫn. Tám vạn bốn ngàn chúng sanh được tu không nhẫn. Sáu vãn chúng sanh được không tam muội giải thoát môn. Hai vạn chúng sanh được hiện kiến chư Phật tam muội. Tám vạn bốn ngàn chúng sanh được quả A La Hán. Vô lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn.
Đức Phật phán tiếp : “Lại nầy Kiều Trần Như ! Nếu có Tỳ Kheo tự quán thân mình làm
tướng bất tịnh mà không điều phục được tự tâm mình. Người nầy nên tiếp quán tử thi, hoặc sắc xanh bầm, hoặc thúi rã, hoặc màu đỏ, hoặc sình trương, hoặc rời rã, hoặc xương trắng như võ ốc, nên quán kỹ tâm mình thích trụ chỗ nào, biết rồi thì trụ tâm nơi tướng ấy. Như quán thân người quán thân mình cũng vậy, hoặc sắc xanh bầm nhẫn đến như vỏ ốc, như ngày ban đêm cũng vậy. Như đêm ban ngày cũng vậy. Như quá khứ vị lai cũng vậy. Như vị lai quá khứ cũng vậy.
Lúc bấy giờ nếu thấy vật ngoài hoặc cỏ, cây, người, vật, tạp vật đều quán xương trắng. Quán như vậy nhẫn đến mạng chung chẳng sanh tâm tham.
Người nầy hiện tại hay lìa ái dục, đời khác cũng lìa.
Người nầy nếu có thể được tu không đà la ni thò có thể quán xương làm tướng lìa tan như cát vi trần. Hoặc nơi mình nơi người chẳng thấy tướng sắc như vi trần, liền chứng được tướng hư không, thấy tất cả sắc như thanh lưu ly. Thấy rồi lại quán hư không sắc vàng. Có thể quán sắc vàng, s8ác đỏ, sắc trắng, nhiều màu, màu lưu ly. Nếu thấy đất và nước cũng như lưu ly, người nầy có thể thấy tất cả đại địa như chừng bằng bốn ngón tay. Nếu muốn lay động liền lấy ngón tay chưn nhấn đó khiến động, tùy ý gần xa nhẫn đến cả đại địa cây cối núi sông đều bị lay động. Hoặc quán các dòng nước làm nhiều thứ màu, hoặc hoa phân đà lợi, hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa ba đầu ma, trên mặt nước tự ý đi đứng ngồi nằm. Quán tất cả núi làm nhiều thứ màu, hình nó dịu mềm như bông đâu la rồi ở trong đó đi đứng ngồi nằm/. Lại tự quán thân nhẹ bay như gió. Tác quán như vậy rồi có thể đi đứng ngồi nằm trên hư không. Người Nầy lại nhập hỏa quang tam muội, thân phóng ra
các thứ quang minh sắc vi diệu, lại di nhập viêm ma ca định, trên thân ra nước dưới thân ra lửa. Lam đại thần biến như vậy rồi suy nghĩ rằng : Ta sẽ thế nào được thấy chư Phật ? Lúc ấy tùy phương diện được quán sát đều được thấy Phật quán nhiều thấy nhiều quán ít thấy ít. Thấy rồi lại suy nghĩ chư Phật ấy không từ đâu lại đi cũng không chỗ đến. Tâm tam giới của ta, tâm ấy theo thân, ta
theo giác quán muốn nhiều thấy nhiều muốn ít thấy ít. Chư Phật Như Lai tức là tâm ta. Tại sao, vì theo tâm mà thấy vậy. Tâm ấy tức là thân ta, ta tức là hư không. Ta nhơn giác quán thấy vô lượng Phật. Ta do giác tâm
mà thấy Phật biết Phật. Tâm chẳng thấy tâm tâm chẳng biết tâm. Ta quán pháp giới tánh không vũng chắc, tất cả các pháp đều từ giác quán nhơn duyên mà sanh, vì
vậy nên pháp tánh tức là hư không hư không tánh cũng là rỗng không. Ta nhơn tâm ấy thấy xanh vàng đỏ trắng tạp sắc và hư không. Làm thấy biến ấy rồi, cảnh được thấy như gió không có chơn thiệt. Đây thì gọi là chung đồng người phàm phu như thiệt đà la ni.
Người nầy lại suy nghĩ rằng : Nếu có hư không tức là không có thủ không có giác quán, không thể tuyên nói được. Như tâm ta rời lìa tướng quán hư không, cũng quán tâm tướng chẳng có tác là viễn ly, lìa tất cả các chẳng tác phát tâm. Gỉa sử có phát liền diệt. Vì tâm duyên diệt nên tâm ấy bèn diệt, tịnh thân khẩu ý tu tập diệt định. Người nầy lâu dài cột tâm tại định, từ diệt định khởi nhập vào Niết bàn. Đây gọi là chẳng chung đồng người phàm phu như thiệt đà la ni.
Thế nào gọi là cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni ?
Nếu người ấy hay suy nghĩ như vậy :
Ta tùy ý quán sắc thì liền thấy sắc, sắc ấy tức là tâm ta, tâm ta tức là sắc. Như ta rời xa tất cả sắc tướng mà quán hư không tướng. Người ấy lúc bấy giờ tu hư không tướng. Đây gọi là cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni.
Thế nào gọi là bất cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni ?
Người ấy nếu suy nghĩ như vậy :
Sắc tức là hư không. Ta do sắc nhơn duyên như vậy được thấy hư không. Tánh hư không gọi là không chướng ngại, là trụ xứ của gío. Gió như vậy nhơn tứ đại sanh, sắc tướng nầy của ta cũng nhơn tứ đại khởi. Hư không với gió và sắc tướng bình đẳng không sai biệt. Tất cả pháp tánh, tánh tự không tịch, tự tánh và tha tánh
cũng không tịch. Hư không ấy tức là không sanh
không diệt. Lúc quán như vậy cột niệm Như Lai. Niệm Như Lai rồi thấy trong hư không có vô lượng Phật, liền chứng được quả A Na Hàm. Đây gọi là bất cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni vậy.
Người ấy lại suy nghĩ rằng :
Hư không ấy tức là ta, tức là ta tịnh, tức là tâm ta, ta
không có sắc, như hư không vô biên cũng vô biên. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt đà la ni.
Nếu người ấy suy nghĩ rằng :
Trong tất cả pháp không có ta không có sở hữu ta. Nói hư không ấy tức là không có ta, sắc không có ta. Nếu niệm Như Lai liền thấy Như Lai. Như Lai ấy tức là ta vậy. Ta thấy Phật rồi được quả Sa Môn đến quả A La Hán. Đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt đà la ni.
Người ấy nếu quán ta tịnh tức là hư không xứ, hư không tức là tâm ta, nếu hay dứt hẳn tất cả phiền não tức là tịnh tâm, nếu hay tu tập bát chánh đạo thì gọi là tịnh tâm, hay tu như vậy thì có thể được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt đà la ni.
Nếu người ấy quán sắc, quán sắc tướng tức là phân biệt tướng, phân biệt tướng ấy tức là sân hận tướng, sân hận tướng ấy tức là sanh tử tướng. Nay ta vì đoạn dứt tướng sanh tử mà quán tâm tướng rỗng không. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt đà la ni.
Người ấy lại quán ta tức là tịch tĩnh, nay ta
cũng chưa dứt giác quán. Nếu ta quán ta, ta như hư không, ta ta ấy tức là khổ, nhơn sanh ra khổ tức gọi là tập, khổ và tập ấy là pháp đoạn dứt được đây gọi là diệt, quán sát khổ tập và diệt ấy đây gọi là đạo. Được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt đà la ni.
Người ấy lại suy nghĩ rằng :
Ta cớ chi quán hư không, hư không ấy tức là ta của ta. Nếu xa lìa quán hư không kế đến quán thức xứ. Như quán hư không, quán thức xứ cũng vậy. Như hư không vô biên, thức xứ cũng vô biên. Đây
gọi là cộng phàm phu như thiệt đà la ni.
Nếu người ấy quán thức tức là khổ, biết sở nhơn của khổ gọi đó là tập, khổ và tập ấy đoạn dứt được đây gọi là diệt, quán khổ tập diệt đây gọi là đạo. Được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt đà la ni vậy.
Người ấy lại quán thức xứ tức là giác quán ghẻ chốc phiền não. Như ta xa lìa không xứ thức xứ tu vô tưởng xứ. Tu vô tưởng rồi được vô tưởng định. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt đà la ni.
Người ấy nếu quán thức xứ tức là pháp ghẻ chốc khổ não. Như ta xa lìa quán thức tướng kế quán vô tưởng tướng. Nói vô tưởng ấy tức là không có ta của ta. Quán như vậy rồi liền được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Đây gọi là bất cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni vậy.
Người ấy nếu có thể quán vô tưởng xứ ấy tức là tế tưởng. Nếu ta xa lìa vô tưởng xứ mà quán phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Đây gọi là cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni.
Người ấy nếu quán phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy là đại khổ não xứ có thể dứt có thể được giải thoát. Lúc quán như vậy được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Đoạn hẳn tất cả dục tham, sắc tham và vô sắc tham, rời lìa phàm phu gọi là được hiệu Thánh nhơn. Dứt hẳn nhơn của ba ác đạo. Đây gọi là như thiệt đà la ni vậy.
Đây là dục được chư Phật kia sai Nhựt Mật đại Bồ Tát mang đến, có thể dứt tất cả kiết sử phiền não, tất cả ác kiến, ngã kiến, thủ kiến, giới kiến, thường kiến, đoạn kiến, thọ mạng kiến, sĩ phu kiến, tác kiến, thọ kiến, sắc kiến, xúc kiến, xuất kiến, tứ đại kiến, hay đoạn dứt các kiến như vậy.
Đà la ni ấy khéo có thể rõ thấu ấm nhập giới, hay tịnh các kiến, hay kiến người thọ trì vĩnh viễn thọ an lạc, trở hoại chúng ma, điều phục ác ma, làm cho chư Thiên hoan hỉ, phá A Tu La, điều Ca Lâu La, hay đem lại sự vui mừng cho Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, hay dứt ác đạo. Hay khiến người tọa thiền ưa thích tịch tĩnh, hay chữa tất cả các ác trọng bịnh, hay phòng tất cả các ác đấu tụng, hay tăng pháp giới, hay hộ Tam bảo, hay được tận trí và vô sanh
trí, phá hoại khối vô minh”.
Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, vô lượng chúng sanh được quả A La Hán, vô lượng chúng sanh được đà la ni ấy, vô lượng chúng sanh phát
tâm Vô thượng Bồ đề, vô lượng chúng sanh được Vô sanh nhẫn.
Tôn giả Kiều Trần Như bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là liên hoa đà la
ni được người trí thọ trì đọc tụng thơ tả được lợi ích lớn chẳng ưa tam giới được vô tướng giải thoát môn, đều có thể dứt các phiền não, bảy lần thọ thân nhơn thiên, dầu ở Dục giới mà chẳng bị dục ái nhiễm ô, thường được chư Thiên và thế nhơn cung kính. Đà la ni ấy trước đây được Nhựt Mật đại Bồ Tát tuyên nói”.
Đức Phật nói : “Nầy Kiều Trần Như ! Liên hoa đà la
ni mà ông hỏi đó, chẳng phải là chỗ biết của Thanh Văn và Duyên Giác, đà la ni nầy nhẫn đến mười tám pháp hành bất cộng.
Nầy Kiều Trần Như ! Giả sử ta ở trong vô lượng kiếp nói đà la ni ấy trọn chẳng hết được, cũng làm cho người nghe sanh tâm mê muộn. Đà la ni ấy chỉ có Phật hay nói được, chỉ có Phật hay nghe được. Tại sao, vì đà la ni ấy khó biết khó hiểu, ba đà la ni khác cũng vậy”.
Tôn gỉa nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Duy nguyện Như Lai sẽ nói như không không hành đà la ni”.
Đức Phật nói : “nầy Kiều Trần Như ! Chí tâm lắng nghe Phật sẽ vì ông mà tuyên
nói.
Nầy Kiều Trần Như ! Nếu có chúng sanh vì
nhơn duyên phóng dật mà sanh tâm xúc dục, người nầy chẳng biết chỗ giải thoát, lưu chuyển sanh tử trong vô lượng đời ở ba ác đạo thọ đại khổ não. Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh thọ vô lượng khổ não như vậy nên sanh lòng thương xót siêng năng
chẳng nghỉ dứt, tu khắp các trợ Bồ đề đạo. Tu tập các hành pháp rồi được Vô thượng Bồ đề tuyên nói khổ giải thoát. Chúng sanh nghe rồi liền được thoát lhổ. Khổ giải thoát ấy tức là Sơ quả đến quả A La Hán.
Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào gọi là xúc dục ?
Nói xúc dục ấy là hai thân hiệp nhau. Nhơn vì hai thân chung
hiệp mà sanh cảm xúc. Nhơn xúc sanh thọ lạc, nhơn lạc thọ sanh khổ thọ. Vì khổ nhơn duyên nên sanh tử khổ não nhơn đó màng sanh. Nầy Kiều Trần Như ! Như bốn độc xà dùng bốn nhơn duyên có thể hại chúng sanh, đó là
nhìn thấy, hà hơi, cắn mổ và chạm xúc. Dục cũng như vậy, có kiến nhơn duyên, văn nhơn duyên, niệm nhơn duyên và xúc nhơn duyên. Do bốn nhơn duyên ấy làm cho các chúng
sanh xa lìa tất cả các thiện căn bổn, ở trong sanh tử thọ đại khổ não.
Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào gọi là xúc dục giải thoát ?
Nếu Tỳ Kheo có thể quán bạch cốt suy nghĩ như vầy : Sắc ấy là sở tạo của tứ đại. Được tứ đại tạo ra là vô thường tánh nó không bền chắc là pháp ly tán,
là do thịt máu xương. Người trí sao lại ở nơi thân như vậy mà sanh tướng sạch tốt. Quán như vậy rồi với tất cả tịnh sắc mười phương đều liền được tướng chẳng nên thích. Tỳ Kheo ấy lại suy nghĩ rằng : Ta thích tu tập tướng chẳng nên thích ấy thì dứt trừ tất cả phiền não sanh lão bịnh tử. Đây gọi là Xa ma.
Nếu quán xương trắng nhẫn đến xương đầu thì gọi là bà xá na.
Đã được Tỳ bà xá na và Xa
ma tha ấy rồi quán sát tức nhập xuất. Thấy hơi ra liền suy nghĩ rằng : Hơi gió ấy từ nơi nào lại đi đến chỗ nào. Lúc quán như vậy xa lìa thân tướng sanh ra không tướng. Chẳng thấy nội thân đây gọi là nội không. Chẳng thấy vật sở hữu cà sắc tướng ngoài, đây gọi là ngoại không.
Quán nội không và ngoại không rồi lại suy nghĩ rằng : Nay ta tu tập tướng nhập tức rồi làm lợi ích lớn, có thể phá hoại tất cả nội ngoại các sắc. Ta phá hoại nội ngoại sắc tướng như vậy đều là nhập tức quán nhơn duyên vậy. Do nhơn duyên ấy khiến tôi chẳng thấy nội ngoại các sắc. Ta không có sắc tướng tức là hư không lực. Nay ta quyết định biết tất cả các pháp không có
chỗ đi không có chỗ đến. Quán như vậy thì tất cả giác quán đều dứt hẳn.
Lại quán thức ấy biết là tất cả giác quán nhơn duyên, ta nên xa
lìa tâm ý thức hành. Tại sao ? Vì nếu có sanh thì biết quyết định diệt. Lúc quán như vậy được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Hoặc được như pháp nhẫn hoặc được Bồ đề.
Nếu quán sát giác quán là tướng diệt liền được diệt định.
Đây gọi là bất cộng phàm phu như không đà la ni. Đà
la ni thành tựu vô lượng công đức, dứt hẳn vô lượng các khổ não lớn”.
Lúc nói pháp ấy, chín vạn hai ngàn chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, sáu vạn chúng sanh được quả A La Hán, chín vạn chín ngàn chúng sanh được như không đà la ni, tám vạn chúng sanh được quả Bích Chi Phật, tám ngàn ức chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, vô lượng chúng sanh được tâm bất thối.
Tôn giả Kiều Trần Như bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Phật Cao Quý Vương Như Lai ban cho dục tùy vô nguyện đà la ni. Duy
nguyện Như Lai phân biệt giải nói”.
Đức Phật nói : “Nầy Kiều Trần Như ! Ông nên chí tâm
lắng nghe nay ta dẽ tuyên nói đó.
Nầy Kiều Trần Như ! Có các chúng
sanh bị súc dục trói buột chẳng giải thoát được. Người nầy nên quán vô nguyện giải thoát.
Người ấy suy nghĩ rằng : Dục dục, Sắc dục và Vô sắc dục, xúc dục, giải dục, các dục như vậy nhơn giác quán sanh
các hành nhơn duyên. Các hành
như vậy không có tác gỉa không có thọ giả nhơn gió mà sanh. Thân khẩu hành của ta cũng nhơn phong mà sanh. Nhơn nơi gió nầy mà thân được tăng trưởng. Nhơn nơi gió nầy mà khẩu được tăng trưởng. Như ta quán gió ấy tức là hơi thở vào ra. Quán kỹ tất cả lỗ lông từ phong nhơn duyên. Lại quán tất cả vật bất tịnh. Lại quán thân nầy lúc chết, thây ấy không còn gió vào ra. Lại suy nghĩ rằng : Thân khẩu hành của ta nhơn phong nhơn duyên. Nếu không có phong thì không có thân khẩu hành nhơn duyên. Do cớ ấy nên lúc nầy được không tam muội tu tập tăng trưởng nhơn vì tu tập nên có thể dứt dục tham đến xúc dục. Quán như vậy rồi được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Hoặc phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Lúc bấy giờ Thiện Ý Giác Quán Bồ Tát Ma ha tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người Thanh Văn tu bất tịnh tướng, thành tựu tướng ấy rồi thì có những tướng gì ?”.
Đức Phật nói : “Nầy Thiện Ý Giác Quán ! Nếu người ấy vì phá hoại kiết sử dục tham mà tu bất tịnh tướng, cột tâm giữa mày mà quán xương thân mình, đây gọi là một tướng. Nếu quán xương thân mình và xương thân người thì gọi là hai tướng. Lại quán tất cả đều là bất tịnh đây gọi là ba tướng. Người nầy hay quán khổ tập, đều sạch gọi là xa ma tha, được tướng noãn pháp.
Người ấy lúc quán bạch cốt như vậy thấy trí mình như ngọn đèn sáng, quán
thân bốn hành nhẫn đến vi trần, đây gọi là đảnh pháp. Quán tứ chơn đế đây gọi là Thanh Văn. Bất tịnh quán thành tựu chứng được Xa ma tha định đây gọi là tướng quán bạch cốt.
Lúc quán tướng ấy được bát chánh đạo. Nhơn bát chánh đạo được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Nầy Thiện Ý Giác Quán ! Quang Minh Phật độ, hàng Thanh Văn quán pháp như vậy liền được đạo quả”.
Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh được như pháp nhẫn, vô lượng chúng sanh được như thiệt nhẫn.
Đức Phật lại bảo Tôn giả Kiều Trần Như rằng: “Nầy Kiều Trần Như! Nếu tứ chơn đế có thể trong một niệm chứng được đó, Như Lai lẽ ra vì tất cả chúng sanh diễn nói một hạnh một pháp một sự, lẽ ra lúc một người chứng thì tất cả chúng sanh cũng đồng chứng, tại sao, vì phiền não đồng vậy, và cũng lẽ ra chẳng nên có tám vạn pháp tụ sai biệt.
Nầy Kiều Trần Như ! Vì vậy nên chúng sanh phải dùng nhiều thứ nhơn duyên điều phục, chẳng do một duyên.
Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả chúng sanh thiệt chẳng phải thừa, một hành, một tham, một niệm, một dục, một giải, một tín. Vì vậy nên Như Lai tuyên nói các thứ cú kệ danh tự nhiều loại pháp môn. Do vì
nghĩa ấy mà Như Lai đầy đủ mười thứ thần lực.
Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả chúng sanh có đủ các thứ tướng điên đảo, do đây Như Lai vì phá tịnh đảo mà nói tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng thây sình, thây rã, thây xanh bầm, thây hư hoại, tướng thây lìa tan”.
Tôn giả nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là tướng chẳng đáng nên ưa của tất cả thế giới ? Thế nào gọi là tướng thực Bất tịnh ?”.
Đức Phật nói : “Nầy Kiều Trần Như ! Nay ông chẳng nên hỏi sự như vậy. Tại sao, vì giới kia đắc đạo cùng giới nầy đắc đạo, tướng ấy đều khác biệt. Nếu Phật nói đủ các chúng sanh
nghe đó hoặc họ sanh mê muộn”.
Tôn giả nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Duy nguyện Như Lai vì chư Bồ Tát, những người có thể tin hiểu, thương xót mà phân biệt tuyên nói.
Bạch đức Thế Tôn ! Những người nầy nếu nghe Phật tuyên nói hai tướng như vậy thì họ có thể giao giống lành tăng trưởng căn lành hay phá được vô minh.
Bạch đức Thế Tôn ! Các chúng sanh vì si ái nhơn duyên mà thích
sanh tử, vì vậy mà sanh tử vô thì vô chung.
Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả chúng sanh do thực nhơn duyên mà tăng trưởng tham dục. Vì họ chưa bao giờ được nghe hai tướng như vậy nên họ lưu chuyển sanh tử ngũ đạo thọ đại khổ não.
Đức Như Lai đại từ đại bi trong vô lượng đời thường nghĩ nhớ đến chúng sanh, duy
nguyện đức Như Lai vì thương xót mà tuyên nói tướng chẳng đáng nên ưa và tướng thực bất tịnh.
Nầy đức Như Lai tuyên nói hai
tướng ấy, các chúng sanh
nghe nói rồi chẳng sanh dục tham, chẳng sanh thực tham.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh hat quở trách nặng dục tâm và thực tâm, nên biết người ấy mau đến được bờ kia”.
Đức Phật nói : “Nầy Kiều Trần Như ! Chí tâm lắng nghe Phật sẽ vì ông mà tuyên
nói tất cả thế giới tướng chẳng đáng nên ưa và tướng thực bất tịnh.
Nầy Kiều Trần Như ! Thế có hai là chúng
sanh thế và khí thế.
Chúng sanh thế là ngũ đạo chúng sanh.
Khí thế là trong Dục giới cói hai mươi xứ, trong sắc giới có mười sáu xứ va trong Vô Sắc giới có bốn xứ.
Những gì là hai mươi xứ trong cõi Dục ?
Tám đại địa ngục, mỗi đại địa ngục có mười sáu địa ngục vây quanh.
Tám đại địa ngục là : Hượt, Hắc thằng, Chúng hiệp, Kiếu hoán, Đại hoán, Nhiệt, Đại nhiệt và A Tỳ địa ngục.
Nếu có chúng sanh thân khẩu ý ác đều sanh trong đại địa ngục ấy thọ đại khổ não. Các chúng sanh ấy dầu thấy diệu sắc chẳng sanh ý tưởng vui thích, do nhơn duyên ấy lại sanh đại khổ não. Như thấy sắc, với thanh hương, vị và xúc cũng như vậy. Người có trí quán sát sự ấy rồi chẳng sanh lòng ưa thích.
Nầy Kiều Trần Như ! Nếu quán sát súc
sanh, thân nó nhỏ như vi trần chia làm mười phần, có loài thân như vi thần, thân bằng trái táo, cao lớn một do tuần hoặc thân cao lớn đến trăm ngàn vạn do tuần. các loài ấy hoặc có thọ mạng bằng thời gian một niệm đến khoảng bảy niệm, hoặc có thọ mạng một kiếp đến thời gian ngàn vạn kiếp. Các loài ấy không có pháp
hành trí huệ tàm quý lòng từ mẫn phải thọ khổ não sanh kinh sợ nhiều, loài ấy thường sanh lòng giết hại nhau, xa lìa tất cả pháp lành, thường đi trong tối tăm, thường hành tà đạo. Do đây là người trí tu ý tưởng chẳng vui.
Nầy Kiều Trần Như ! Người trí lại quán ngạ quỷ. Thân nó hoặc cao một xích, hoặc bằng nghiệp, hoặc trăm do tuần, hoặc bằng núi Tuyết, thường khổ đói khát, trần truồng không y phục, tóc trùm quanh
thân không có tàm quý, ốm o lòi xương, thân không có
máu thịt, họ đều có tâm ác độc không lòng thương xót, các hơi lạnh ẩm ướt vĩnh viễn không còn có, họ hoặc ăn các thứ sắt hoàn, sắt sợi, nước sắt, phẩn nóng, mủ nóng, máu nóng, gió nóng, cỏ nóng, trái nóng nhưng chẳng thường được cung cấp đầy đủ, thọ mạng ngàn muôn kiếp luôn thọ khổ não, đi nơi tối tăm. Người trí quán sát rồi tu tập ý tưởng thế giới chẳng đáng ưa thích.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment