Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 27
PHÁP HỘI
PHÁP GIỚI THỂ TÁNH VÔ PHÂN BIỆT
THỨ TÁM
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Nầy Thiên Tử ! Biết ơn báo ơn".
Thiên Tử nói :" Người hữu sở tác nên biết báo ơn".
Ngài Van Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Thiên Tử ! Ngài muốn cho đức Như Lai hữu sở tác ư?".
Thiên Tử nói :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Đức Như Lai không có sở tác. Chư Phật Như Lai đến nơi vô vi, đạo vô vi không có sở tác".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Thiên Tử ! Ông nói vô vi đó, là
không có báo ân hay chẳng phải chẳng báo ân?".
Thiên Tử nói :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Pháp như vậy chẳng nên nói với hàng sơ phát tâm. Tại sao vậy ? Vì nếu nghe pháp ấy mà sanh lòng kinh sợ thì sẽ thối chuyển".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : " Nầy Thiên Tử ! Nếu có Bồ Tát mới phát tâm Bồ Đề Vô thượng mà kinh sợ thối chuyển,thì người ấy ở nơi hạng thối chuyển".
Thiên Tử nói : "Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Cớ sao Ngài nói lời ấy ?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Thiên Tử ! Nếu có Bồ Tát sơ phát đạo tâm mà kinh sợ bực Thanh VănDuyên Giác thì thối chuyển.Nếu lẫn tiếc, phá giới ,sân hận , giải đãi,tán loạn và ngu si thì an trụ bực bất thối ".
Thiên Tử nói : "Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào mà an trụ ?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : Nầy Thiên Tử ! Nếu có Bồ Tát sơ phát đạo tâm an trụ trong pháp giới bình đẳng thì gọi là khèo an trụ.Sơ phát tâm Bồ Tát ấy gọi là an trụ".
Thiên Tử nói:" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi!Ngang chừng đâu gọi là Bồ Tát sơ phát tâm?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Nầy Thiên Tử! Nếu có Bồ Tát sơ phát tâm tu hành không vô tướng và vô tác,hiểu biết tất cả pháp không sanh không diệt,thì gọi là Bồ Tát sơ phát tâm vậy".
Thiên Tử nói:" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào gọi là cửu hành?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Thiên Tử!Tất cả phàm phu gọi là cửu hành,vì họ ở trong sanh tử chẳng biết sơ thủy vậy".
Thiên Tử lại hỏi:"Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi!Bồ Tát thế nào gọi là người cửu hành?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Nầy Thiên Tử! Nếu có Bồ Tát hành nơi ái nhiễm mà cũng chẳng cùng ở với ái nhiễm,thì gọi là Bồ Tát cửu hành.
Bồ Tát hành npơi sân hận để hóa độ các chúng sanh sân hận mà chẳng cùng ở với sân hận, cũnh hành nơi ngu si để hóa độ các chúng sanh ngu si mà chẳng cùng ở với ngu si, cũng hành nơi đẳng phần để hóa độ các chúng sanh đẳng phần mà chẳng cùng ở với đẳng phần kiết sử,thì gọi là Bồ Tát cửu hành vậy.
Nầy Thiên Tử! Nếu có Bồ Tát vì hóa độ chúng sanh mà quan sát tất cả tướng mà chẳng phân biệt pháp giới thể tướng ,thì gọi là Bồ Tát cửu hành".
Thiên Tử nói : "Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thế náo Bồ Tát gọi là bực bất thối chuyển?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Thiên Tử! Nếu có Bồ Tát quan sát tất cả pháp không tai hoạn không chẳng tai hoạn ,quan sát pháp giới thể tánh không tai hoạn không chẳng tai hoạn,thì gọi là Bồ Tát chẳng thối chuyển vậy.
Lại nầy Thiên Tử! Nếu có Bồ Tát cũng thối cũng chẳng thối,thì gọi là Bồ Tát chẳng thối chuyển vậy.
Tại sao vậy? Vì thối là thối các điều thiện của Dục giới vậy.
Lại nầy Thiên Tử! Bồ Tát vì chẳng biết chẳng hiểu nên thối.Vì biết và hiểu nên không có tránh tụng, đây gọi là bất thối.Tại sao vậy?
Hiểu tất cả tánh pháp tánh,vì tôi hiểu được tất cả pháp tánh nên chẳng còn thối chuyển, đây gọi là bất thối.
Ở nơi Phãt pháp không nghi ngờ,chẳng tin theo lời người khác,rời lìa phải và chẳng phải,sơ tâm tanh tịnh không có tật đố cũng không động lay trí huệ chiếu sáng, được tự tại với tất cả pháp,hiểu rõ Phật pháp. Đây gọi là Bồ Tát bất thối chuyển vậy".
Thiên Tử nói :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào Bồ Tát gọi là nhứt sanh?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Thiên Tử! Nếu Bồ Tát biết tất cả các sanh cũng chẳng sanh,biết tất cả chúng sanh sanh tử. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng
sanh.Chỗ sanh,không thủ không chẳng thủ. Các sanh rời lìa sanh tử thủ,chẳng thứ chẳng lai chẳng thượng chẳng hạ,vì tất cả pháp đều bình đẳng.Cũng biết nhơn duyên hóa hiệp tăng trưởng tất cả chúng sanh.Thân khẩu tâm ý đều bình đẳng.Tất cả chúng sanh không có cảnh giới,an trụ cảnh giới,an trụ cảnh giới chư Phật nhập vào pháp giới bình đẳng nên bình đẳng hiểu rõ tâm chúng sanh.Khéo hiểu biết phải thời đến ngồi đạo tràng. Đây gọi là nhứt sanh.
Nầy Thiên Tử! Như trên ấy ,gọi là Bồ Tát nhứt sanh vậy".
Bửu Thượng Thiên Tử lại hỏi:" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi!Thế nào gọi lá Bồ Tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:" Nầy Thiên Tử! Nếu có bồ Tát biết các hành nghiệp vì chẳng phải kiêu mạn.Bồ Tát ấy bất sanh cũng được tự tại ở tất cả.
Lại nầy Thiên Tử! Bồ Tát xả bỏ được tất cả ,rốt ráo chẳng thối tâm Bồ Đề đã có, đây gọi là bất sanh.Nếu chẳng cùng ở với các tật đố kiết sử, đây gọi là được tự tại ở tất cả.
Nếu có Bồ Tát đầy đủ thành tựu oai nghi pháp tắc các công đức giới, đây gọi là bất sanh.Chẳng cùng ở với phạm giới, đây gọi là được tự tại ở tất cả.
Nếu Bồ Tát tâm chẳng trái bỏ tất cả chúng sanh, đây gọi là bất sanh.Chẳng cùng ở với các sân hận kiết sử, đây gọi là được tự tại ở tất cả.
Nếu có Bồ Tát thiện căn vững chắc chẳng động lay, đây gọi là chẳng sanh. Ở trong thiện căn phát khởi ý siêng năng tinh tiến dũng mãnh, đây gọi là được tự tại ở tất cả.
Nếu có Bồ Tát nhập các thiền định và thứ đệ định, đây gọi là bất sanh.Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả.
Nếu có Bồ Tát siêng tinh tiến cầu Bát Nhã huệ học hỏi không nhàm, đây gọi là bất sanh.
Chẳng cùng ở với ngu si, đây gọi la được tự tại ở tất cả.
Nếu có Bồ Tát chẳng sân não tránh tụng, đây gọi là bất sanh.Chẳng cùng ở với sân não các tránh tụng, đây gọi là được tự tại ở tất cả.
Nếu có Bồ Tát như thiệt ngữ, đây gọi là bất sanh.Nếu an trụ như thiệt thì gọi là bất sanh.Nếu an trụ như thiệt thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh.Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ngoài thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát hay rốt ráo tâm nhứt thiết trí thì gọi là bất sanh.Nếu chẳng cầu hạ thừa thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát giác sát ma nghiệp thì gọi là bất sanh. Nếu hàng phục ma nghiệp thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát được thế gian quang minh thì gọi là bất sanh.Nếu thế pháp chẳng nhiễm ô thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ thì gọi là bất sanh.Nếu chẳng tùy theo chỗ sở tác thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát rời lìa các kiêu mạn phóng dật thì gọi là bất sanh.Nếu có trí huệ thành tựu thánh lạc thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ TáT chẳng thối thất bổn nguyện thì gọi là bất sanh.Bổn nguyện xuất thế thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát thuận hành duyên sanh thì gọi là bất sanh.Chẳng chấp pháp duyên sanh thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát dùng tận trí quán nhứt thiết pháp không thì gọi là bất sanh.Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát cùng phương tiện trí phát khởi sở tác sanh lòng đại bi siêng tu hạnh tinh tiến thì gọi là bất sanh.Nếu an trụ được ở các pháp giải thoát thì gọi là đưọc tự tại.
Nếu có Bồ Tát chẳng ô nhiễm nơi tất cả pháp thì gọi là bất sanh.Nếu dứt các kiến chấp mà vì người thuyết pháp thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát khéo tư duy chẳng thấy các pháp thì gọi là bất san.Nếu đắc lực mà chẳng chứng tất cả pháp thì gọi là được tự tại.
Nếu có Bồ Tát quán nhứt thiết pháp tánh không thì gọi là bất sanh.Nếu chẳng buông bỏ tất cả các chúng sanh thì gọi là được tự tại.
Nếu cò Bồ Tát chẳng trụ tam giới thì gọi là bất sanh.Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết Bàn thì gọi là được tự tại.
Lại nầy Thiên Tử!Nếu có ngôn ngữ thì là động diêu ngữ,là vọng tưởng ngữ,là chấp trước ngữ,là có phát khởi.
Nầy Thiên Tử! Nơi tất cả pháp không có ngôn ngữ,chẳng hành chẳng động,không có các hí luận ngữ, chẳng bỏ chúng sanh ,cũng chẳng diệt độ,không có chỗ ngôn thuyết.
Nầy Thiên Tử! Nếu không có ngôn thuyết thì cũng không có văn tự không có sở thuyết.Nếu có tác dụng thì có phát khởi ngôn thuyết văn tự.
Nầy Thiên Tử! Do nghĩa ấy nên Bồ Tát hạnh chẳng được nói công dung,chẳng được có quan niệm, đây gọi là từ tâm, đây gọi là bất sát, ở trong hàng Thánh được gọi là tự tại".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói pháp ấy xong, đức Thế Tôn khen rằng : "Lành thay,lành
thay! Văn Thù Sư Lợi khéo vì chư bồ Tát mà nói bất sanh tự tại.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu Bồ Tát hành pháp như vậy tự tại vô ngại.Bồ Tát ấy chóng được chư Phật thọ ký đạo vô thượng".
Lúc nghe pháp ấy,trong đại chúng có năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn,và liền được đức Thế Tôn thọ ký đạo chánh chơn vô thượng: đều sẽ thành Phật hiệu ấy tại Phật độ ấy.
Bấy giờ ở trong đại chúng có một vị Thiên Tử nghĩ rằng: Bửu Thượng Thiên Tử chừng nào sẽ thành đạo vô thượng? Hiệu là gì? Phật độ ra sao?
Do thần lực của đức Phật,Ngài A Nan bạch rằng:" Bạch đức Thế Tôn! Ngài Bửu Thượng Thiên Tử ấy chừng nào sẽ thành đạo chánh chơn vô thượng? Phật độ ra sao? Được thành Phật rồi hiệu là gì ?".
Đức Phật phán:" Nầy A Nan! Bửu Thượng Thiên Tử quá trăm ngàn kiếp sẽ thành Phật đạo hiệu là Bửu Trang Nghiêm Như Lai tại phương Đông ,quốc độ tên là Bửu Trang Nghiêm,kiếp tên là Bửu Lai.
Nầy A Nan! Quốc độ Bửu Trang Nghiêm ấy giàu vui rất đáng ưa thích, của báu nhiều ,nhơn dân đông, không có các nạn cũng không có ác đạo.
Nầy A Nan ! Trong Phật độ ấy không có những ngói đá gai góc cát đất gò nổng núi hang.Mặt đất bằng phẳng do ba thứ báu tạo thành diêm phù đàn kim, lưu lu và pha
lê xen lẫn nhau rất đáng ưa thích.Có lưới vàng che phía trên.
Nầy A Nan ! Như trời Hóa Lạc,cung điện vườn ao y phục dư dật ,quốc độ Bửu Trang Nghiêm cũng như vậy. Nước ấy không có danh từ Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa, chỉ có Bồ Tát hưởng thọ những pháp lạc,nhập những thiền địng trang nghiêm,hiện những thứ thần thông để tự vui.Không có sự vui nào khác ngoài trừ sự vui pháp hỉ thiêén duyệt,vì thế nên nước ấy tên là Bửu Trang Nghiêm.
Đức Phật Bửu Trang Nghiêm ấy thọ sáu mươi sáu ức tuổi.Có sáu mươi sáu Bồ Tát xuất gia.Bồ Tát tại gia đông vô lượng vô biên.
Lúc thuyết pháp cho chư Bồ Tát, đức Bửu Trang Nghiêm Như Lai bay lên hư không cao tám mươi ức cây đa la, ngồi kiết gìa phóng ra ngàn tia sáng chiếu quốc độ ấy,rưới những hoa trời hương trời trổi nhạc trời,mỗi mỗi thứ đều có trăm ngàn thứ âm thanh thuyết pháp nghe khắp cả nước.Nói pháp vô tận chủ đà la ni.
Sao gọi là pháp vô tận chủ đà la ni ?
Tất cả các pháp,vì tịch tịnh làm chủ nên hiển thị thân tâm ý tưởng tịch tịnh.
Tất cả các pháp ,vì quán chiếu làm chủ nên hiển thị phân biệt nơi tất cả pháp.
Tất cả các pháp ,vì thiện tư duy làm chủ nên hiên thị tất cả pháp tịch tịnh.
Tất cả các pháp,vì thiện hành làm chủ nên hiển thị tất cả pháp khả tác quang minh chiếu sáng.
Tất cả các pháp, vì trí quang minh chiếu bìng đẳng làm chủ nên hiển thị các pháp không có tăng giảm.
Tất cả các pháp, vì quyết định làm chủ nên hiền thị các pháp tăng trưởng.
Tất cả các pháp ,vì trí huệlàm chủ nên hiển thị tất cả pháp không tránh tụng.
Tất cả các pháP ,vì thiện quán làm chủ nên hiển thị tất cả pháp không có sân.
Tất cả các pháp,vì chánh niệm làm chủ nên hiển thị tất cả pháp chẳng thất niệm.
Tất cả các pháp, vì đạo dẫn làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp tướng nghĩa.
Tất cả các pháp, vì huệ phân biệt làm chủ nên hiển thị tất cả pháp thanh tịnh ý.
Tất cả các pháp, vì không tịch làm chủ nên hiển thị các pháp dứt các kiến đạo.
Tất cả các pháp, vì vô tướng làm chủ nên nên hiển thị tất cả các pháp tịch tịnh.
Tất cả các pháp, vì vô nguyện làm chủ nên hiển thị các pháp dứt các đạo.
Tất cả các pháp, vì vô tác làm chủ nên hiển thị các pháp rời tác gỉa.
Tất cả các pháp, vì vô xuất làm chủ nên hiển thị tất cả pháp vô xuất.
Tất cả các pháp, vì vô sanh làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp vô tận.
Tất cả các pháp, vì ly dục làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp không thác loạn.
Tất cả các pháp, vì vô nhị làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp hiện tại trí.
Tất cả các pháP, vì vô nhị làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp ly nhị.
Tất cả các pháp, vì vô y làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp bất động.
Tất cả các pháp, vì không chúng sanh làm chủ nên hiển thị các pháp chúng sanh bình đẳng.
Tất cả các pháp, vì tịch tịnh làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp bất biến.
Tất cả các pháp, vì bất đắc làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp vô hành.
Tất cả các pháp, vì không cư ngụ làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp rời xứ sở.
Tất cả các pháp, vì vô định làm chủ nên hiển thị tất cả không có pháp, được tự tại.
Tất cả các pháp , vì nhơn duyên làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp vượt hơn.
Tất cả các pháp,vì dũng mãnh làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp chẳng gì hơn.
Tất cả các pháp, vì không lỗi làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp không sanh khởi.
Tất cả các pháp ,vì như làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp không gì chẳng như.
Tất cả các pháp, vì như thiệt tế làm chủ nên hiển thị tất cả pháp không hư hoại.
Tất cả các pháp, vì pháp tánh làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp nhứt vị.
Tất cả các pháp, vì như thiệt làm chủ nên hiển thị các pháp ba đời bình đẳng.
Tất cả các pháp, vì bất khả thuyết làm chủ nên hiển thị chẳng chấp tất cả pháp ngôn ngữ đàm luận.
Tất cả các pháp, vì thiền định làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp tịch tịnh.
Tất cả các pháp, vì pháp tánh làm chủ nên hiển thị tất cả pháp vô nhơn.
Tất cả các pháp, vì Bồ Đề làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp bình đẳng.
Nầy A Nan ! Đức Bửu Trang Nghiêm Như Lai ngồi trên hư không chưa đứng dậy, vì chư Bồ Tát diễn nói pháp vô tận chủ đà la ni, đà la ni làm chủ ấy ,trong cõi ấy có vô lượng a tăng kỳ đại Bồ Tát được pháp nhẫn".
Ngài A Nan bạch rằng :" Bạch đức Thế Tôn! Chưa từng có vậy.Nếu chư Như Lai tự nhiên vô tác, trong pháp
quá khứ vị lai hiện tại được vô ngại trí".
Đức Phật phán : "Nầy A Nan ! Nay ta vì ông mà nòi chư Phật Như Lai tự nhiên vô tác ở trong pháp quá khứ vị lai hiện tại được vô ngại trí".
Ngài A Nan nói với Bửu Thượng Thiên Tử rằng :" Thưa Thiên Tử ! Ngài được lợi lành lớn. Đức Như Lai thọ ký cho Ngài đạo vô thượng".
Bử Thượng Thiên Tử nói : " Thưa Đại Đức A Nan ! Đều không có pháp ,chẳng nói thọ ký.Tại sao vậy? Sắc chẳng phải Bồ Tát,chẳng phải nói thọ ký cho sắc.Thọ tưởng hành và thức chẳng phải Bồ Tát ,chẳng phải nói thọ ký cho thọ tưởng hành và thức. Địa giới chẳng phải Bồ Tát,chẳng phải nói thọ ký cho địa giới.Thủy giới hỏa giới và phong giới chẳng phải Bồ Tát,chẳng phải nói thọ ký cho thủy hỏa và phong giới.Nhãn chẳng phải là Bồ Tát,chẳng phải nói thọ ký cho Nhãn.Nhĩ tỉ thiệt thân và ý chẳng phải Bồ Tát,chẳng phải nói thọ ký cho nhĩ tỉ thiệt thân và ý.Danh sắc chẳng phải là Bồ Tát, chẳng phải nói thọ ký cho danh sắc.Quá khứ vị lai và hiện tại chẳng phả là Bồ Tát ,chẳng phải nói thọ ký cho tam thế bình đẳng.nhơn kiến chẳng phải là Bồ Tát ,chẳng phả nói thọ ký cho nhơn kiến.Sanh diệt chẳng phải là Bồ Tát,chẳng phải nói thọ ký cho sanh diệt.
Thưa Đại Đức A Nan! Danh từ Bồ Tát là gỉa danh là câu tịch tịnh.Nếu pháp rốt ráo là tịch tịnh thì không có thọ ký.
Thưa Đại Đức A Nan ! Luận về thọ ký là nhiếp lấy tất cả lời đã đưọc thuyết pháp.
Thưa Đại Đức A Nan! Cũng không có pháp
để Bồ Tát nắm lấy được là trong là ngoài,hoặc thiện bất thiện,hoặc hửu vi vô vi, rồi sau mới thọ ký.
Thưa Đại Đức A Nan ! Bồ Tát thọ ký là ,tất cả các pháp không có sở thuộc gọi đó là thọ ký.Tất cả pháp chẳng chấp thủ gọi đó là thọ ký.Tất cả pháp không có xứ sở gọi đó là thọ ký.Tất cả pháp không cư ngụ gọi đó là thọ ký.Tất cả pháp không cư ngụ gọi đó là thọ ký.Tất cả pháp không có xuất sanh gọi đó là thọ ký.Tất cả pháp không có vọng tưởng gọi đó là thọ ký.
Thưa Đại Đức A Nan ! Luận về Bồ Tát thì thọ ký như vậy".
Đức Thế Tôn khen rằng :" Lành thay, lành thay! Nầy Thiên Tử ! Bồ Tát thông đạt được các pháp ấy thì có thể nói thọ ký như vậy,như chư Phật Thế Tôn tuyên nói thọ ký Vô thượng Bồ đề".
Lúc nói pháp ấy,ma Ba Tuần và các quyến thuộc đồng đến chỗ đức Phật đứng qua một phía nói rằng : "Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên gì chỉ nói thọ ký Bồ Tát mà chẳng nói thọ ký Thanh Văn ?".
Đức Phật đáp rằng :" Nầy Ba Tuần ! Bồ Tát ấy, chư Thiên và nhơn dân khắp cõi Đại Thiên đều nghe biết nên nói thọ ký Bồ Tát .Người Thanh Văn chẳng phải được nghe biết của Trời Người nên chẳng nói thọ ký Thanh Văn.
Nói thọ ký Bồ Tát thì có nhiều chúng sanh phát tâm Bồ đề,nên nói thọ ký Bồ Tát.Nói thọ ký Thanh Văn thì Bồ Tát thối chuyển nên chẳng nói thọ ký Thanh Văn".
Bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với Ba Tuần rằng : " Nay ông do
duyên cớ gì mà đến tại chúng hội nầy ?".
Ba Tuần nói :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Do đức Phật Thế Tôn tuyên nói thọ ký đạo vô thượng cho Bửu Thượng Thiên Tử rằng ông sẽ thành Phật hiệu là Bửu Trang Nghiêm Như Lai, mà chẳng thọ ký cho Thanh Văn,làm cung
điện đền đài lan can cây báu vườn rừng của tôi rúng chạm nhau phát ra âm thanh nói : Thích Ca Như Lai vì Bửu Thượng Thiên Tử mà thọ ký đạo vô thượng.Lại nghe có tiếng nói : Ba Tuần nầy ! Nay ông đến chỗ đại chúng ấy, chớ để lại còn thọ ký Bồ Tát sanh đến cung của ông".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Ba Tuần ! Tuyên nói thọ ký Bồ Tát ,nay ông chẳng vui ư?".
Ma nói : " Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ! Tôi thiệt chẳng vui.Nói thọ ký A La Hán cho tấ cả chúng sanh ở Diêm Phù Đề tôi không sầu não ,nếu chỉ thọ ký cho một Bồ Tát được Vô thượng Bồ đề tôi cũng sầu não chẳng nói được .Tại sao vậy ? Vì tuyên nói thọ ký Vô thượng Bồ đề cho Bồ Tát thì cung điện của tôi tối om chẳng còn sáng .Rồi vị Bồ Tát ấy sẽ đem pháp ba thừa cứu vớt vô lượng a tăng kỳ chúng sanh ra
khỏi ba cõi.Vì cớ sự ấy mà tôi lo buồn vô hạn".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Nầy Ba Tuần ! Ông nên trở về đi thôi. Ông không có thế lực gì ngăn trở được người thành tựu phương tiện đầy đủ hạnh Bát Nhã Ba la mật rốt ráo hướng đến đạo Vô thượng Bồ đề.Tại sao vậy ?
Chư Bồ Tát ấy đã rời những hệ phược của ma, thành hạnh rốt ráo,khéo biết phương tiện hành Bát Nhã Ba la mật vậy".
Lúc ấy thần lực của đức Phật khiến ma Ba tuần hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát :
" Thưa Ngài Văn
Thù Sư Lợi ! Thế nào là Bồ Tát tu hạnh rốt r1o khéo biết phương tiện hành Bát Nhã Ba La mật?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Ba Tuần ! Nếu có Bồ Tát rời lìa tất cả những công hạnh chút ít phần nhỏ, đó gọi là Bồ Tát thành tựu hạnh rốt ráo.
Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng , đó gọi là Bồ Tát khéo biết phương tiện.
Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật.
Lại nầy Ba Tuần! Nếu Bồ Tát tâm vì trọn vẹn cứu vớt chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ Tát rốt ráo tâm hạnh.Nếu dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ Tát khéo biết phương tiện.Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La mật.
Lại nầy Ba Tuần! Nếu có Bồ Tát xả tất cả sở hữu trong thân ngoài thân đều có thể bố thí,tâm Bồ đề trọn vẹn rốt ráo , đó gọi là Bồ Tát rốt ráo tâm hạnh.Nếu Bồ Tát vì tất cả chúng sanh mà khởi tâm làm người nhận lãnh, đó gọi là Bồ Tát khéo biết đến phương tiện.Nếu có Bồ Tát với người xin người thọ biết như thiệt tế hành bình đẳng hạnh, đó gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật.
Lại nầy Ba Tuần! Nếu có Bồ Tát ở nơi các pháp lành từ sơ phát tâm trọn chẳng thối chuyển, đó gọi là Bồ Tát rốt ráo hành nơi tâm Bồ đề.Nếu có Bồ Tát chẳng bị kẻ khác bức bách,có thể xả bỏ tự lợi ,đó gọi là Bồ Tát khéo biết phương tiện.Nếu Bồ Tát nhớ nghĩa chẳng nhớ văn tự , đó gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật.
Lại nầy Ba Tuần! Nếu thấy kẻ đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ Tát rốt ráo tâm hạnh.Nếu có Bồ Tát họp các thiện căn nguyện cầu nhứt thiết trí, đó gọi là Bồ Tát khéo biết phương tiện.Bồ Tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật".
Bấy giờ Bửu Thượng thiên Tử nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng :" Quyến thuộc ma Ba Tuần nầy nên dùng thần lực nạp chúng vào trong bụng.Nếu để vậy chúng có thể làm trở ngại cho những thiện nam thiện nữ hướng về Đại thừa".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nòi với Thiên Tử rằng :" Chẳng phải như lời ông nói nên nạp Ba Tuần để vào bụng của Bồ Tát.
Lại nầy Thiên Tử! Ông đã thọ trì tướng Phật trang nghiêm thọ lạc đệ nhứt ,làm cho ma Ba Tuần ngồi tòa sư tử,do thần lực của đức Phật biết thuyết pháp như Phật".
Ba Tuần nghe lời nói ấy kinh sợ muốn ẩn thân rời đại chúng mà chẳng ẩn được ,vì bị thần lực của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát giữ lại, và làm cho ma ba Tuần làm thân tướng đức Phật ngồi tòa sư tử.Tất cả đại chúng thấy biết là ma Ba Tuần.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hỏi :" Nầy Ba Tuần ! Nay ông có được đạo chư Phật chăng,mà ông lại được thân Phật ngồi tóa sư tử ?".
Do thần lực của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát , ma Ba Tuần nói : " Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Đức thế Tôn còn chẳng đươ(c đạo Bồ đề ,huống là tôi mà đươ(c.
Tại sao vậy? Bồ đề là tướng báo ân, chẳng phải ly dục mà được ,chẳng phải giải hướng mà được.
Lại Bồ đề là tướng vô vi,vì kia được tướng vô vi biết rõ tướng không, đó gọi là Bồ đề. Vì chẳng phải kho§ng mà biết rõ là không vậy.Biê&t rõ tướng vô tướng, đó gọi là Bồ đề,vì chẳng phải lấy vô tướng để biết rõ tướng vô tướng vậy.Biết rõ tướng vô nguyện, đó gọi là Bồ đề ,vì chẳng phải lấy vô nguyê(n để biết tướng vô nguyện vậy.Biết rõ thể tánh pháp giới, đó gọi là Bồ đề, vì chẳng phải lấy thể tánh để biết thể tánh vậy.Biết rõ chân như tướng vô phân biệt gọi là Bồ đề,vì chẳng phải lấy như để biết như vậy.Biết rõ an trụ nơi như thiệt tế, đó gọi là Bồ đề,vì chẳng phải lấy an trụ như thiệt tế để biết an trụ như thiệt tế vậy.Biết rõ thể tánh không ngã không nhơn không chúng sanh không thọ giả, đó gọi là Bồ đề,vì không có người biết vậy.
Thưa Ngài Văn
Thù Sư Lợi! Nếu có Bồ Tát nào nghe nói tướng Bồ đề như vậy.Nghe rồi ,có thể ở nơi các pháp thể tánh không chỗ phân biệt thì gọi là Phật".
Lúc ma Ba Tuần dùng biện tài của Phật để nói pháp ấy,có năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thiệt là chưa từng có ! Ngài dùng thần lực làm cho ma Ba Tuần hiện thân Phật đủ tướng hảo ngồi tòa sư tử và nói pháp thậm thâm ấy".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp.
Tôi cũng có thể khiến Đại Đức Xá Lợi Phất làm thân Phật đủ tướng hảo dùng biện tài của Phật mà thuyết pháp".
Ngài Xá Lợi Phất nghĩ rằng tôi nên ẩn khỏi đại chúng nầy.Nếu không ,Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hoặc gỉa khiến tôi làm thân Phật đủ tướng tốt để đùa cợt tôi,làm cho tôi mang tiếng gỉa làm đức Thế Tôn.
Do thần lực của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát giữ lại nên Ngài Xá Lợi Phất muốn ẩn đi mà không ẩn được.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biết tâm niệm của Ngài Xá Lợi Phất ,liền biến Ngài Xá Lợi phất làm thân Phật đủ tướng tốt ngồi tóa sư tử.Tất cả đại chúng đều thấy biết như vậy.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với Ngài Xá lợi Phất : " Đại Đức nên cùng ma Ba Tuần luận thuyết,như Phật luận thuyết với Phật".
Ngài Xá Lợi Phất đang mang thân Phật hỏi ma Ba Tuần cũng đang mang thân Phật:"Nầy Ba Tuần! Luận về Bồ đề,thể tánh của nó là những gì?".
Ba Tuần nói :"Biết rõ tất cả pháp bình đẳng là thể tánh Bồ đề.Biết rõ hai pháp là thể tánh Bồ đề.Nhứt thiết trí quán là thể tánh Bồ đề.Chẳng phải chẳng thể tánh ,chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành,dứt hẳn tất cả các hành chẳng hành,chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là Bồ đề của chư Phật Thế Tôn".
Ba Tuần hỏi Ngài xá lợi Phất : "Ngài Xá lợi Phất ! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào ?".
Ngài xá Lợi Phất nói :"An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử,an trụ nơi Niết Bàn bất đông,an trụ nơi tánh như thiệt của tất cả các kiến chấp,an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh,an trụ nơi căn bổn của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vi và vô vi,các an trụ đều chẳng an trụ vì không cò an trụ vậy.
Nầy Ba Tuần!Chư Phật Như Lai an trụ như vậy".
Ngài xá Lợi Phất hỏi Ba Tuần :" Nên tìm cầu Bồ đề ở chỗ nào?".
Ba Tuần nói :" Đại Đức Xá Lợi Phất ! Từ thân kiến căn bổn mà tìm cầu Bồ đề.Từ vô minh hữu ái mà tìm cầu Bồ đề.Từ điên đảo kiết sử mà tìm cầu Bồ đề.Từ chướng ngại phú cái mà tìm cầu Bồ đề".
Ngài Xá Lợi Phất nói:"Nầy Ba Tuầ ! Do nhơn duyên gì mà ông nòi như vậy ?".
Ba Tuần đáp rằng :" Đại Đức Xá Lợi Phất ! Như thiệt biết rõ các pháp như vậy thì gọi là Bồ đề".
Lúc nói pháp ấy,có tám trăm Tỳ Kheo dứt hết phiền não được tâm vô lậu.
Vì tin lời Ngài Xá LLợi Phất và ma Ba Tuần ,nên có ba muôn hai ngàn chư Thiên Tử phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Vì muốn điều phục chư Thiên Tử nên Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khiến ma Ba Tuần và Ngài Xá Lợi Phất là thân Phật đủ tướng tốt.
Việc xong,Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thâu nhiếp thần lực, Ngài Xá Lợi Phất và ma Ba Tuần hườn lại bổn thân.
Lúc đó từ các Phật độ bốn phương có ngàn Bồ Tát ngự hư không mà đến chỗ đức Phật đãnh lễ chưn Phật đi nhiễu bên hữu rồi đứng qua một phía bạch đức Phật rằng :" Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi nghe nói
kinh Pháp giới Thể Tánh Vô Phân Biệt nên đến đây thủ hộ chánh pháp.Chúng tôi thọ trì thủ hộ kinh nầy, đọc tụng thông thuộc giảng nói cho người khác để nhiếp thủ chánh pháp".
Ngài A Nan bạch rằng :" Bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát nầy từ xứ nào đến?".
Đức Phật phán :" Nầy A nan ! Chư Bồ Tát ấy đều riêng tụ họp ở quốc độ của chư Phật.Chư Bồ Tát ấy đều do Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát giáo hóa , thường vì họ mà nói kinh Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt để khai hóa họ.Vì báo ân kinh ấy mà chư Bồ Tát đến đây ,và để chiêm ngưỡng kính lễ đi nhiễu đức Như Lai,cũng muốn lễ bái cúng dường Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đồng thời phát nguyện thủ hộ kinh ấy.Do những cớ trên mà chư Bồ Tát ấy đến đây.
Nầy A Nan ! Sau khi ta nhập Niết Bàn, chư Bồ Tát nầy sẽ rộng lưu truyền thủ hộ chánh pháp nầy tại cõi Diêm Phù Đề nầy.
Nầy A Nan ! Ở chỗ trăm ngàn đức Phật ,chư Bồ Tát ấy lập chí dũng mãnh hộ trì chánh pháp".
Bấy giờ trong đại chúng có Đế Thích Phạm Vương,Hộ Thế chư Thiên Vưong bạch đức Phật rằng :" Bạch đức Thế Tôn ! Hoặc đây hoặc kia có những thiện nam thiện nữ hộ trì chánh pháp,chúng tôi sẽ thủ hộ cung cấp phục dịch cho họ không có khỗ não".
Đức Phật khen Đế Thích Phạm Vương và Hộ Thế chư Thiên Vương rằng :"Lành thay, lành
thay ! Các Ngài có thể dũng mãnh thủ hộ những người ái hộ chánh pháp , đó chính là cúng dường chư Phật quá khứ vị lai hiện tại và ái hộ chánh pháp vậy".
Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát :" Văn Thù Sư Lợi ! Ông thọ trì kinh nầy để rộng lưu truyền tại Diêm hù Đề ở thời kỳ mạt thế sau".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng :" Bạch đức Thế Tôn ! Lúc hỏa tai khởi lên ,hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy.
Bạch đức Thế Tôn ! Như thể tánh hư không,tất cả pháp đây cũng như vậy .Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt .Nếu pháp không sanh không diệt thì cũng thọ trì .Vì chư pháp thể tánh không thọ trì , đúng như pháp thể tánh,thọ trì các pháp cũng như vậy".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật rằng :" Cúi mong đức Thế Tôn thọ trì kinh nầy để cho các thiện nam thiện nữ gieo trồng thiện căn.Nếu người cúng dường pháp thì ham thích kinh
nầy.
Bạch đức Thế Tôn! Đúng như vậy,thọ trì kinh nầy vì điều phục kiêu mạn và những oán ghét nên không bị ai làm trở ngại , ở đời tuơng lai sẽ rộng lưu truyền ở Diêm Phù Đề".
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn từ nơi thân phóng ánh sáng chiếu khắp Đại Thiên thế giới đều thành màu hoàng kim,rồi bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: " Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Ánh sáng sủa Như Lai chiếu khắp,kinh nầy cũng như vậy.Người tâm hành vô ngại trọn vẹn nơi Phật pháp,thiện nam thiện nữ ấy tay họ cầm kinh nầy".
Đức Phật lại bảo Ngài A Nan rằng :" Nầy A nan ! Ông thọ trì kinh nầy, đọc tụng thông thuộc diễn nói cho người khác,như vậy là ông cúng dường chư Phật Như Lai quá khứ vị lai hiện tại vậy".
Ngài A Nan bạch rằng :" Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy tên là gì và thọ trì thế nào ?".
Đức Phật phán : "Nầy A Nan ! Kinh pháp^nầy có tên là Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt,cũng tên là Bửu Thượng Thiên Tử Sở Vấn, cũng tên là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Sở Thuyết. Ông nên khéo thọ trì như vậy".
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Đại Đức A Nan, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ,Bửu Thượng Thiên Tử,chư Bồ Tát từ các Phật độ đến, cùng Thiên, Nhơn, a Tu La và tất cả thế gian đều rất vui mừng đảnh đới phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment