Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 60
PHÁP HỘI BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU
PHẨM BỔN SỰ
Bấy giờ Huệ Mạng Ma Ha Ca Diếp thấy các A Tu La Vương cúng , dường đức Phật rồi , sanh tâm hi hữu tự nghĩ rằng : Lúc đức Thế Tôn tu hạnh Bồ Tát tạo căn lành gì mà nay được quả báo ấy ? Ngài liền nhập như thiệt tam muội, do sức tam muội trang nghiêm nơi tâm nên nhớ biết thuở quá khứ vô số a tăng kỳ kiếp tất cả công đức mà Như Lai đã tu tập trong các loài ấy, trong các đời ấy tu tập thiện căn đều để làm đầy đủ vô thượng Bồ đề. Do các thiện căn ấy mà được bực bất thối chuyển, các thiện căn ấy đều nhớ biết.
Lúc Ngài Ma Ha Ca Diếp nhớ thiện căn lớn của đức Như Lai, Ngài nghĩ rằng như Phật đã tu tập căn lành rộng lớn, thiện căn mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai , ví như hằng sa thế giới quốc độ mười phương tất cả chúng sanh trong ấy đều được thân người, rồi trong hằng sa kiếp cúng dường chư Phật như A Tu La Vương. Mỗi mỗi chúng sanh trong hằng sa kiếp cúng dường Phật rồi chẳng báo đáp được thiện căn một lần phát tâm của đức Như Lai.Huệ Mạng Ma ha Ca Diếp từ tam muội dậy tán thán rằng :
“ Mỗi mỗi Như Lai đấng Mâu Ni
Phát tâm rộng lớn hướng Bồ đề
Sự cúng dường Phật các Tu La
Cũng chẳng bằng một phần Ca La
Thế Tôn Ứng Cúng Thầy Trời Người
Như khối chiên đàn bằng núi chúa
Chỗ cúng dường thù thắng Trời Người
Do nơi công đức đến bỉ ngạn
Đấng Thầy Trời Người đáng thọ cúng
Hơn số hằng hà sa đã thọ
Ví như biển cả đầy nước trong
Nước thơm hòa hiệp mà cúng dường
Đầy đủ công đức nên thọ cúng
Nhiều hơn cả số hằng hà sa
Chứa đầy khối hoa mà cúng dường
Dường như núi Chướng Ca Bà La
Tự nhiên Đại Sĩ nên thọ cúng
Ngọn đèn sáng như núi Tu Di
Biển cả dùng làm bình đựng dầu
Đem đèn cúng dường chư Thế Tôn
Đấn oai thế nên thọ cúng dường
Nhiều hơn số hằng hà sa
Tạo lập tháp miếu mà cúng dường
Do nơi công đức đến bỉ ngạn
Nhơn Thiê Đạo Sư nên thọ cúng
Đem những lọng báo lớn đẹp lạ
Mỗi lọng che khắp cõi Đại Thiên
Trải suốt số kiếp na do tha
Đấng Thế Tôn thương xót thế gian
Công đức vô biên nên thọ cúng
Đem những tràng báo để cúng dường
Đầy khắp thế giới trong mười phương
Nơi số kiếp ức bất tư nghị
Đem phan rộng lớn mà cúng dường
Đầy hằng hà sa các thế giới
Trải qua vô lượng ức kiếp số
Cúng dường Như Lai Thiên Nhơn Sư
Phát khởi phân biệt làm thí dụ
Đại chúng con của Đại Luận Sư
Lắng nghe lắng nghe các Trời Người
Tôi cùng mọi người tại chúng nầy
Số đông như số hằng hà sa
Bao nhiêu đại chúng ở mười phương
Tất cả đều sẽ được làm Phật
Đầy đủ thập lực đại Đạo Sư
Số chư Phật ấy như hằng sa
Mỗi mỗi đều có hằng sa đầu
Nơi mỗi mỗi đầu như hằng sa
Đều có đủ cả hằng sa miệng
Nơi mỗi mỗi vô lượng miệng ấy
Đều có vô lượng vô số lưỡi
Dùng lưỡi ca ngợi nơi Như Lai
Chư Như Lai ấy nói chẳng hết
Công đức bờ kia chẳng đến được
Nhứt thiết chủng trí chẳng lường được
Do công đức đến bỉ ngạn vậy ”.
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: “ Lành thay, lành thay ! Nầy chư Tỳ Kheo ! Chư Thanh Văn của ta lòng đoan trực có trí có pháp như Phạm Thiên mới được vào trong biển công đức của
Phật. Tại sao ? Vì Như Lai đầy đủ vô lượng công đức, đầy đủ công đức chẳng nghĩ bàn. Khối công đức của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy chư Tỳ Kheo ! Khối công đức của Như Lai nếu là hình sắc, thì công đức mỗi mỗi lần phát tâm ấy, hằng sa thế giới chẳng dung chứa được? Tại sao ?
Nầy chư Tỳ Kheo ! Công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai là chỗ phan duyên của Nhứt thiết trí, như hằng sa chư Phật, như hằng sa kiếp, chẳng thể suy lòng chẳng thể nói hết. Tại sao ? Vì lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa không một phát tâm nào là chẳng vì lợi ích tất cả chúng sanh, nhiếp thuộc chúng sanh không một phát tâm nào là chẳng vì tất cả chúng sanh, chúng sanh giới không biên tế, chúng sanh trong đó cũng
không biên tế, công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai cũng không biên tế. Tại sao ? Như chúng sanh giới không biên tế, như chúng sanh giới chẳng lường được, khối công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai chẳng thể cùng tận, đều vì thương xót lợi ích an lạc tất cả chúng sanh mà phát tâm vậy. Giả sử tất cả chúng sanh đều cúng dường chẳng thể báo đáp được công đức một lần phát tâm của Như Lai. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy cúng dường Như Lai đều vì hi vọng quả báo thế gian tạp thực vậy.Bồ Tát phát tâm rời lìa nơi tâm tạp thực cầu báo thế gian mà vì lợi ích an lạc chúng sanh, muốn khiến chúng sanh trái sanh tử mà xu hướng Niết bàn.
Lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa vì lợi ích an lạc chúng sanh, rời lìa tạp thực chẳng cầu báo thế gian ”.
Đức Phật bảo chư Tỳ Kheo ; “ Thuở quá khứ, vô lượng vô biên lưu chuyển sanh tử vô số bất khả tư nghì trong vô thỉ thế giới bất khả thuyết kiếp có Phật hiệu Nhơn Đà Tràng Vương xuất thế đủ mười đức hiệu.
Nầy chư Tỳ Kheo ! Lúc đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai thành Phật, hằng sa thế giới đồng một quốc độ trang nghiêm thanh tịnh không có các ác đạo và tám nạn, chúng sanh trong đó đều an trụ chánh định tụ. Hoàn toàn không có chúng sanh tà định, tăng thượng mạn. Tất cả đều không có thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh, cũng không có phiền não ác đạo, nghiệp ác đạo.
Tại sao ? Vì đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai giáo hóa chúng sanh ấy cho họ phát tâm dứt tất cả ác, đem pháp lành dạy cho họ tu học.
Trong quốc độ của đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai có năm thứ vui : một là được dục lạc, hai là được vui xuất gia, ba là được vui thiền định, bốn là được vui tam ma đề, năm là được vui Vô thượng Bồ đề.
Các chúng sanh ở quốc độ ấy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm trước , như ong mật chi” lấy mật hoa mà chẳng lấy sắc hoa, như chim bay đi trên không mà chẳng dừng dính hư không, chúng ấy cũng vậy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm lạc. Các chúng sanh ấy không có lo khổ chỉ có vui sướng, cũng không bất khổ bất lạc thọ vì không ngu si vậy, chỉ có sự vui thích vừa lòng. Tại sao ? Vì các chúng sanh vốn đã tu căn lành. Do vì đức Phật ấy lúc tu hạnh Bồ Tát hiện các tướng hảo khiến các chúng sanh ấy chẳng làm ác mà đặt để cho họ tu tập pháp lành, họ lần lượt rời lìa ác đạo ở chỗ lành vui, tất cả thứ nghiệp bất thiện họ đều không hẳn. Lúc họ tạo nghiệp lành được quả báo an vui mà họ chẳng tham luyến và không bao giờ sanh khổ thọ, vì chẳng tạo nghiệp ác nên chẳng thọ quả khổ vậy.Vì không ngu si nên cũng
không bất khổ bất lạc thọ.
Trong quốc độ ấy tất cả thời gian thường không có gió dữ mưa bạo, cũng không có độc nhiệt, chúng sanh cõi ấy không có khổ vì thời tiết thay đổi.
Lúc đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai tu hạnh Bồ Tát, tất cả thân nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả khẩu nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả ý nghiệp trí thượng thủ tri thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả chúng sanh trong quốc độ ấy theo Bồ Tát nghe pháp rồi tất cả ba nghiệp thân khẩu ý nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển hồi hướng. Do nơi nghiệp lành nên báo ngu si chẳng sanh. Do vì không ngu si nên chúng sanh ấy không có khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Các chúng sanh ấy lúc sanh quốc độ kia, đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai giáo hóa rồi, họ kính trọng nơi pháp, nếu lúc du hành họ suy lường nơi pháp yêu thích nơi pháp nhiễm trước nơi pháp. Lúc du hành do họ yêu thích nhiễm trước nơi pháp không có khổ thọ, đi đứng ngồi nằm ngủ thức đều không có một chút khổ về oai nghi. Các chúng sanh
trong quốc độ ấy không có ác để thuận theo. Do vì không ác nên không có khổ sanh và không chấp nơi lành. Do cớ ấy nên các chúng sanh kia khéo thuận nơi không mà không có biến dịch khổ. Ở trong các pháp chẳng sanh tham trước nên chẳng có hoại khổ. Quốc độ ấy cũng không có hoán tắng hội khổ. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy ở trong tất cả chúng sanh được tâm an trụ bình đẳng hiện tiền nên không có oán tắng. Cũng không có ái biệt ly khổ. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy không ái trước tất cả pháp. Khổ ái biệt ly do nơi ái mà sanh. Chúng sanh ấy không ái nhiễm nên không có ái biệt ly khổ. Cũng không có khổ khổ. Tại sao ? Vì đối với lạc thọ chẳng luyến trước vậy.Chỉ có hành khổ thôi, đó là vô thường khổ. Tại sao ? Đức Phật ấy chỉ nói đệ nhứt nghĩa đế. Đức Phật thọ hằng sa kiếp. Trong Phật độ ấy không có một chúng sanh nào tranh luận với Phật mà sanh trong cõi ấy. Tại sao ? Vì lúc làm Bồ Tát đã thành thục xong chúng sanh vậy”.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “ Nầy chư Tỳ Kheo ! Ý các ông thế nào ? Có thể dùng hạ thiện căn, ít thiện căn những thiện căn
Chẳng tập giỏi, những thiện căn chẳng tương ưng, thiện căn chẳng phải đại tinh tấn, thiện căn chẳng phải thiện thú, chẳng phải thiện pháp, chẳng phải thiện hồi hướng mà có hể làm lợi ích các chúng sanh ấy hay ban vui trừ khổ ư ? Có thể nghiêm tịnh quốc độ quảng đại ấy ư ? Có thể thành thục nhiều chúng sanh như vậy ư ? ” .
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ” .
Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tâm hạ liệt, tâm khiếp nhược, tâm tương ưng bất thiện, tâm chẳng phải tinh tấn, tâm chẳng phải khéo tập thiện căn, tâm chẳng phải thiện thú, tâm chẳng phải thiện pháp, tâm chẳng phải thiện hồi hướng mà làm lợi ích an lạc được các chúng sanh ấy, ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng snh như vậy chăng ? ”.
Chư Tỳ Kheo
bach rằng : “ Chẳng thể được ”.
Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? có thể dùng tin hạ liệt, tin ít, tin kém, tin khiếp nhược, tin tương ưng bất thiện, tin chẳng phải tinh tấn, tin chẳng phải khéo tập thiện căn, tin chẳng phải thiện thú, tin chẳng phải thiện pháp, tin chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đai như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bạch Phật rằng :” Chẳng thể được ”.
Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng giới hạ liệt, giới ít, giới kém, giới chẳng phải tinh tấn, giới chẳng phải khéo tập thiện căn, giới chẳng phải thiện thú, giới chẳng phải thiện pháp, giới chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ dược và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?” .
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được”.
Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tinh tấn hạ liệt , tinh tấn ít, tinh tấn kém, tinh tấn khiếp nhược, tinh tấn chẳng tương ưng, tinh tấn chẳng phải tinh tấn, tinh tấn chẳng phải khéo tập thiện căn, tinh tấn chẳng phải thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướng mà lợi ích được
Các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể dược ”.
Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng niệm hạ liệt, niệm ít, niệm kém , niệm khiếp nhược, niệm chẳng tương ưng thiện căn, niệm chẳng tinh tấn, niệm chẳng khéo tập thiện căn , niệm chẳng phải thiện thú, thiện phát thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ? ”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng định hạ liệt, định ít, định kém, định khiếp nhuợc, định chẳng tương ưng thiện căn, định chẳng tinh tấn, định chẳng khéo tập thiện căn, định chẳng thiện thú, thiện phát, thiện hồi hướng, mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ và nghiêm tịnh được quốc độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ? ”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng huệ hạ liệt,huệ ít, huệ kém, huệ khiếp nhược, huệ chẳng tương ưng thiện căn, huệ chẳng tinh tấn, huệ chẳng khéo tập thiện căn, huệ chẳng thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “Đúng như vậy. Nầy các Tỳ Kheo ! Thiệt chẳng phải dùng ít thiện căn , ít giới, ít tín, ít tinh tấn, ít niệm, ít định, ít huệ mà có thể lợi ít được các chúng sanh, và có thể ban vui cứu khổ, nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại, thành thục, được nhiều chúng sanh như vậy.
Nầy chư Tỳ kheo ! Ý các ông thế nào ? Các ông có biết đức Phật Nhơn Đà Tràng Vương thuở quá khứ xa xưa ấy là ai chăng ? ”.
Đức Phật hỏi rồi mà chư Tỳ Kheo đều nín lặng chẳng đáp.
Đương lúc ấy, phương Đông quá hằng sa thế giới tên Nguyệt Quang Trang Nghiêm, hiện tại có Phật hiệu Cao Oai Đức Vương Như Lai. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở tại chúng hội ấy biết tâm niệm của Phật Thích ca Mâu Ni liền bạch đức Cao Oai Đức Vương Như Lai rằng : “ Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp tại thế giới Ta Bà. Tôi qua đó đảnh lễ cúng dường cung kính nghe pháp ”. Đức Cao Oai Đức Vương Như Lai nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng : “Ông đi tùy ý, nay đã phải lúc ”. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đầu diện lễ đức Cao Oai Đức Vương Như Lai đi nhiễu Phật ba vòng rồi như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ cõi Nguyệt Quang Trang Nghiêm hiện ra trước đức Thích Ca mâu Ni Như Lai lạy chân Phật rồi ngồi một bên mà bạch rằng : “ Bạch Thế Tôn ! Đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai thuở xưa ấy tức là Thế Tôn vậy. Tại sao ? Do đức Thế Tôn đầy đủ bất tư nghì các thiện phương tiện có thể thành thục chúng sanh và nghiêm tịnh Phật độ luôn chẳng mỏi mệt cũng chẳng chán nhàm. Đức Thế Tôn an trí chúng sanh nơi Bồ Tát thừa cũng chẳng mỏi nhàm. Nếu có người chơn thiệt ngữ nói lời chánh đáng rằng : Thù thắng trong thù thắng, vi diệu trong vi diệu, thượng thủ trong thượng thủ, tối thắng trong tối thắng, nói đức Phật là như vậy, thì nên biết rằng Thích Ca Mâu Ni chơn thiệt không khác ”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói kệ rằng :
“ Hùng mãnh xảo phương tiện
Thương xót các
thế gian
Hiện đại oai thần lực
Để thành thục chúng sanh
Đã ở thuở quá khứ
Từng làm tám ức Phật
Như tự có thần lực
Vô tâm chứng chánh giác
Sáu mươi một Tam Thiên
Thanh tịnh quốc độ Phật
Trí cạn chẳng biết Phật
Mâu Ni xảo phương tiện
Chẳng bỏ sơ phát tâm
Các nơi chỗ kia hiện
Lại ở đời vị lai
Thị hiện vô lượng Phật ”.
PHẨM CA LÂU LA VƯƠNG THỌ KÝ
Bấy giờ
lại có tám ức sáu vạn
Kim sí Điểu Vương
thấy A Tu La cúng dường Phật
và được thọ
ký rồi, đối với
Như
Lai lòng tin vô lượng vui mừng
hớn hở. Vì để
cúng dường nên chư Kim Sí điểu
Vương
hóa hiện tám ức sáu ngàn vạn đền
đài thuần nghiêm sức với
thất bửu cõi trời
rất lạ vi diệu.
Mỗi mỗi đền
đài có bảy lớp câu lan bằng tứ
bửu la vàng bạc lưu ly và pha lê vi diệu đệ
nhứt xen lẫn hiệp
thành.
Vòng quanh bốn
mặt đền đài ấy
treo thòng những linh thất bửu
là vàng bạc lưu
ly pha lê xa cừ mã não và chơn
châu, báu ấy tinh kỳ vi diệu đệ
nhứt. Lại có màn lưới thất bửu,
tràn thất bửu, phan thất
bửu và tám ức sáu ngàn vạn trướng thất bửu.
Chư
Kim Sí Điểu Vương
cầm tám ức sáu ngàn vạn đền
đài thất bửu ấy,
lọng phan tràng trướng thất
bửu ấy dưng lên đức
Phật Như
Lai . Đã cúng dường xong, chư
Kim Sí Điểu Vương
và những vật cúng dường bay trên hư
không nhiễu quanh đức Phật
ba vòng như
tượng vương Yên La Bà Na ở cõi trời
Đao Lợi đầu đội
chư
Thiên bay trên không đến cây ba lợi chất
đa la. Chư
Điểu Vương
ấy mang đền đài lọng
tràng phan trướng thất
bửu bay trên không nhiễu quanh Phật
ba vòng cũng như
vậy.
Chư
Điểu Vương
bay nhiễu Phật rồi
dừng ở một
phía cung kính đồng thanh nói kệ tán thán rằng :
“
Quy mạng đấng xuất
ly sanh tử
Quy mạng
đấng cứu độ
sanh tử
Quy mạng
đấng kiên cố vô thương
Quy mạng
đấng vô thượng vô đẳng
Nghuyện
tôi sẽ được thân kiên cố
Ba
mươi
hai tướng tự
nghiêm sức
Lại có tám mươi tùy hình hảo
Nguyện
cầu chúng tôi như
Đạo Sư
Nguyện
tôi viên quang đủ oai đức
Hình nhan công đức đều
thành tựu
Nguyện
được Phật
oai nghi đệ nhứt
Khiến
tâm người tịnh
chứng tịch diệt
Nguyện
đủ giới đức
tam ma đề
Cũng được Phật trí huệ
vô thượng
Nguyện
đều làm Phật độ
chúng sanh
Như
nay Phật làm thế Đạo
Sư
Bạch Phật
tôi nguyện đủ thập
lực
Cũng được mười tám pháp bất cộng
Thành Phật
trí huệ hơn
thế gian
Như
nay là Phật thượng trong thượng
Cũng biết
chúng sanh không thể tánh
Như
ảo như
mộng không sở y
Tuyên nói như hướng như
hư
không
Như
Phật hôm nay vì chúng nói ”.
Đức Phật
biết chư
Điểu Vương
kính tin rồi, liền hiện
tướng mỉm
cười.
Huệ Mạng
Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch
hỏi rằng :
Đấng vô thượng thắng đại
Đạo Sư
Chẳng vô sự
mà hiện tướng cười
Đấng thương thế
gian xin nói cho
Hiện tướng mỉm cười do cớ gì
Chư
Điểu Vương
kia đã cúng Phật
Điện lọng
tràng phan hiện hư
không
Khiến
Trời Người thấy
sanh ngưỡng mộ
Nguyện
Lưỡng Túc Tôn nói nghĩa ấy
Tất cả
đại chúng chấp tay đứng
Thân tâm thanh tịnh đều
mừng rỡ
Nguyện
nghe Điểu Vương
quả vị lai
Xin Lưỡng Túc Tôn tuyên nghĩa ấy
Néu đức
Thế Tôn tuyên nói rồi
Tất cả
đại chúng đều không nghi
Đại chúng rời
nghi được vô úy
Trí Như Lai hay làm mừng rỡ
Đại chúng vui mừng được vô úy
Rời những
lỗi ác tâm thanh tịnh
Chúng ấy
thích nghe Như
Lai nói
Dường như đệ
tử nhận lời
thầy
Nguyện
dứt lòng nghi của đại
chúng
Nguyện
Phật nhiếp thọ
cho mừng rỡ
Đại chúng mừng
vui đều đến họp
Nguyện
nói Điểu Vương
quả đương
lai ”.
Đức Phật
nói kệ đáp Huệ Mạng
Mã Thắng rằng :
Thập lực
chơn
thiệt siêu tất cả
Viên
âm phạm thanh đều đầy
đủ
Hàng phục
các căn vì Mã Thắng
Nói quả
vị lai của Kim Sí
Lành thay Mã Thắng
hỏi nghĩa ấy
Phật hiện
mỉm cười thương thế
gian
Lắng nghe báo ấy để
vui dạ
Lòng sẽ
mừng rỡ trừ
nghi hoặc
Điểu Vương cúng dường lớn nơi Phật
Để cầu
quả Bồ đề
Vô thượng
Bốn vô sở
úy mười trí lực
Vì
được pháp ấy
thành Đạo Sư
Lại cầu
mười tám pháp bất cộng
Kim Sí Vương ấy
cúng dường Phật
Cũng cầu
thân kiên cố chẳng hoại
Ba
mươi
hai tướng tám mươi tốt
Cầu Phật
tịnh giới tam ma đề
Cảnh giới
đại trí huệ của
Phật
Thành tựu
tịnh độ độ
thế gian
Vì
cầu đây Điểu Vương cúng Phật
Điểu Vương lòng tin cúng Phật rồi
Kẻ trí hay rời
súc sanh đạo
Quyết
sẽ được sanh tại
cõi trời
Thân chim nầy
là thân tối hậu
Hằng sa kiếp
sau chúng họ sẽ
Thường sanh nhơn gian và thiên thượng
Cúng dường vô lượng chư Phật
rồi
Sẽ được làm Phật phục
các căn
Quốc độ
Phật ấy không ác thú
Đầy đủ
thân tướng lìa tám nạn
Phật ấy
đồng hiệu Phổ
Đoan Chánh
Kiếp ấy
tên là Tu Di Tràng
Trong tám ức
bốn ngàn vạn năm
Vì
thương
thế gian Phật trụ
thế
Thuở
ấy tất cả
chư
Như
Lai
Tuổi thọ
Phật sự thảy
đều đồng
Phật ấy
lìa nhiệt dứt phiền
não
Mỗi mỗi
đức Phật tám mươi hội
Trong mỗi
mỗi hội tám ức
người
Rời lìa kiêu mạn được tự tại
Vì
họ sẵn có thân kim sắc
Sức mạnh
nên lòng thường kiêu mạn
Sau nầy
thành Phật thương
chúng sanh
Dứt trừ
kiêu mạn chuyển pháp luân
Quá khứ
chúng họ đã từng làm
Chúng tiên nhơn tu hành khổ hạnh
Số đủ
tám ức sáu ngàn vạn
Phàm chỗ
tu hành vì thần thông
Lúc chúng tiên nhơn
được thần
thông
Khen mình khổ
hạnh là hi hữu
Chẳng phạm
cấm giới đủ
công đức
Ở trong rừng
núi sanh kiêu mạn
Do
kiêu mạn nên sanh Kim Sí
Do
tâm thông nên có thần lực
Do
giới thanh tịnh nên thấy
Phật
Do
mạn nên quên tâm Bồ đề
Nay Phật
thọ ký Bồ đề
rồi
Và
nói gốc sanh ra Kim Sí
Đại chúng nghe rồi đều
vui mừng
Mừng rồi
đều thành Bồ đề
khí ”.
PHẨM LONG NỮ THỌ KÝ
Bấy giờ chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ thấy chư A Tu La và chư Ca Lâu La cúng dường Thế Tôn và được thọ ký rồi sanh lòng mừng vui hớn hở vừa ý phát khởi tâm cúng dường Thế Tôn. Họ liền hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn lọng thất bửu, thân lọng bằng tỳ lưu ly, cán lọng bằng chơn kim, lưới tỳ lưu ly trùm trên lọng, viền bằng lưới xích chơn châu, trăm ngàn lọng con bằng tỳ lưu ly và lưu tô bảy báu thòng rủ bốn phía. Chư Long Nữ lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn ngựa quí, ngựa xanh màu xanh thân xanh
ánh sáng xanh, tất cả đồ trang sức đều xanh, báu tỳ lưu ly làm cương khớp,lại hóa hiện trên không xe báu ma ni đại oai đức trên xe ấy có điện báu ngang rộng đều sáu mươi do tuần, điện báu ấy che trùm
khắp cả chúng tại đại hội, bốn mặt điện có chín ức sáu ngàn vạn lưu tô bằng những châu báu thòng xuống các nơi vi diệu rất lạ, màu sáng chóa mắt. Có lưới báu trùm trên điện báu ấy. Lại có linh báu treo bốn mái điện hóa làm các thứ chim thất bửu thứ tự bay liệng, nhiều vòng bốn mặt điện báu ấy. Lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn thứ âm nhạc rồng. Chư Long Nữ ấy ngồi trên ngựa xanh ném lọng báu lên hư không tự nhiên bay đi . Chư Long Nữ đều cầm nhạc khí hòa tấu nhiễu quanh Phật ba vòng, dùng bột thơm chiên đàn và trầm thủy cõi trời và bột la đa ma la, bột vàng chơn kim cõi trời cùng các thứ hoa rải lên trên đức Phật, lại đem các thứ vòng hoa, các thứ y phục quý lạ, các thứ hương, các thứ anh lạc rải lên trên đức Phật để cúng dường.
Lúc chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ tấu nhạc, do thần lực của Phật, âm thanh ấy vang khắp tam thiên Đại thiên thế giới. Chúng sanh được nghe âm thanh ấy thì được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Trong điện báu đại oai đức và trong khoảng kê của lưu tô thất bửu, các chim thất bửu, những linh báu do gió nhẹ thổi đọ-ng phát ra âm thanh vi diệu hòa nhã rất đáng ưa thích
như trăm thứ nhạc do các nhạc công giỏi cùng hòa tấu. Âm thanh ấy do thần lực của Phật, cũng vang khắp Đại Thiên thế giới, chúng sanh được nghe đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Chư Long Nữ lại mua các thứ hoa trời, các thứ hương trời cùng nước thơm. Hơi thơm ấy bất luận gió nghịch gió thuận đèu bay đi vô ngại. Do nước thơm mưa xuống ấy mà cả thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm. Hơi thơm ấy xông khắp Đại Thiên thế giới. Chúng sanh được ngửi hơi thơm ấy đều được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ ấy cúng dường đức Phật rồi và cùng chín ức sáu ngàn vạn lọng báu, ngựa báu, âm nhạc báu, tất cả các báu trang nghiêm ở trên hư không đảnh lễ Phật nhiễu quanh Phật ba vòng rồi dừng ở một phía cung kính nói kệ tán thán rằng :
“ Hàng Long Nữ có trí huệ tốt
Tâm ý hớn hở sanh mừng vui
Cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật
Nguyện cầu an đại Bồ đề
Hóa làm chín ức sáu ngàn vạn
Lọng báu và các trang nghiêm đẹp
Cúng dường đức Phật khéo điều tâm
Xuất ly tất cả các chướng ngại
Lại hóa chín ức sáu ngàn vạn
Ngựa quí và đồ trang nghiêm báu
Ngựa và trang nghiêm đều màu xanh
Cũng lại hóa hiện tràng màu xanh
Ngựa ấy đều đi trên hư không
Đến chỗ Phật ngự dâng lễ cúng
Long Nữ đều có lòng kính tin
Đầu mặt đảnh lễ chư Như Lai
Những hóa nhạc khí ở Long cung
Vì cúng dường Phật mà đem đến
Đến rồi dâng lên Thích Ca Phật
Đáng thọ cúng dường đại Đạo Sư
Thế Tôn khiến tiếng âm nhạc ấy
Vang khắp cõi tam thiên Đại Thiên
Vô lượng chúng sanh được nghe rồi
Đều được tâm Bồ đề bất thối
Chúng Long Nữ ấy ở không trung
Hóa làm một đại chúng bửu điện
Rộng rãi có sáu mươi do tuần
Trùm khắp toàn hội các đại chúng
Báu ấy tên ma ni oai đức
Chiều khắp mười phương cõi Đại Thiên
Hàng Long Nữ ấy đều tiến lên
Tâm tịnh mừng vui cúng dường Phật
Phát sanh lòng hớn hở vô lượng
Vì cầu quả Bồ đề an ổn
Nguyện cho chúng tôi sẽ làm Phật
Vì lợi ích tất cả chúng sanh
Chúng tôi nguyện vì vô lượng chúng
Thuyết pháp cứu khỏi vòng phiền não
Cũng như thập lực đại Đạo Sư
Hiện nay cứu khổ chúng sanh vậy
Tất cả các pháp như ảo mộng
Cũng như bọt nước chẳng chắc bền
Lại như mưa xối nổi bóng nước
Nên biết các pháp không có chủ
Chúng sanh như ảnh cũng như tượng
Quan sát thế gian như vậy rồi
Mong nguyện chúng tôi vì chúng nói
Pháp tánh chơn như và thiệt tế
Như Phật trí sáng khéo thấy pháp
Vọng tưởng hư ngụy dối thế gian
Như ảo trang nghiêm không có thiệt
Chỉ hay noặc loạn các phàm phu
Với pháp chúng sanh mê vô trí
Chẳng biết các pháp chơn thiệt tánh
Đạo Sư đã thấy pháp bỉ ngạn
Lại hay khiến các chúng khác hiểu
Hư không nổi mây che khắp đất
Thấy mây hư không kia như ảnh
Nó không thể thiệt không sở y
Cũng lại như ảnh không có thiệt
Chúng sanh như vậy không thể tánh
Chỉ hay dối lầm các căn môn
Phật trí thấy các loài như vậy
Chỉ hay dối lầm kẻ vô tri
Thế gian tôn trọng lấy nghiệp ấy
Nơi người trí huệ làm lợi ích
Như Lai thị hiện không thể tánh
Vì chúng sanh thấy chơn thiệt vậy
Chỉ dùng thiệt pháp vui lòng chúng
Trong bùn sanh tử làm cầu đò
Thiệt pháp chẳng phải cảnh người ngu
Vì họ chấp danh chẳng cầu nghĩa
Vì Phật trí sáng tôi quy y
Đấng đầy đủ thị hiện chơn thiệt
Hay làm thân cứu cho kẻ ngu
Làm thiện tri thức làm nhà về
Như vậy vì cầu đại Bồ đề
Chúng tôi cúng dường đại Đạo Sư
Nguyện được làm Phật giác ngộ người
Lợi ích thế gian như Phật vậy ”.
Đức Thế Tôn biết các Long Nữ đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười; huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi rằng :
Đấng thắng trí ở trong thế trí
Đạo Sư tối thắng hiện mỉm cười
Đức trọng kiên cố dường như núi
Phật hiện mỉm cười chẳng không nhơn
Đấng chứa tối thượng hơn trong người
Mong nói nhơn duyên tướng mỉm cười
Trời Người Rồng Quỉ nếu được nghe
Nơi Phật đều sanh lòng mừng rỡ
Thế gian Đạo Sư với thế gian
Thương biết tất cả pháp nhơn duyên
Không có một pháp Phật chẳng hiểu
Nhơn duyên chủng loại Phật đều biết
Ngưỡng mong đức Phật thương nói cho
Duyên cớ do đó Phật mỉm cười
Tất cả đại chúng nếu được nghe
Sanh lòng mừng rỡ hết nghi hoặc
Như Lai diệu pháp có lợi lớn
Những đại chúng đây quyết sẽ được
Đại chúng nếu được tâm tịch định
Do ưa diệu pháp được lợi ích
Phật lực khiến dứt phân biệt rồi
Chỉ thích Bồ đề nghe Phật nói
Nếu được nghe nhơn duyên mỉm cười
Quyết sẽ thành tựu nơi Phật đạo
Nếu người nơi pháp lòng có nghi
Tâm họ xao động sanh khổ não
Hiện nay đại chúng trong hội này
Chẳng biết duyên do Phật mỉm cười
Đại chúng có thể dứt lòng nghi
Ngưỡng mong Đạo Sư trừ dứt cho
Mau thương tuyên
nói độ chúng tôi
Do nhơn duyên gì
Phật mỉm cười
Ngày nay ai tâm được thanh tịnh
Ngày nay ai trừ được ma oán
Ngày nay ai kính tin nơi Phật
Ngày nay ai được cúng duờngPhật
Ngưỡng mong Đại Sư ở trước chúng
Tuyên nói ai có công đức ấy
Chúng tôi nghe nói sanh lòng mừng
Lòngmừng vui rồi được an ổn
Các đại chúng đây đều kính lễ
Tất cả đều có lòng muốn biết
Nguyện nghe cớ cười dể được mừng
Ngưỡng mong Thế Tôn tuyên nói rõ
Các Trời Người nầy được nghe rồi
Tất cả đại chúng không còn nghi
Nếu được nghe lời Như Lai nói
Tất cả sẽ được lòng mừng rỡ ”.
Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng :
“ Lành thay Huệ Mã Thắng Tỳ Kheo
Hỏi nơi Như Lai nhơn duyên cười
Thấy các Long Nữ cúng dường rồi
Phật thương thế gian nên mỉm cười
Nay Phật vì ông nói quả ấy
Rời lìa tội lỗi chí tâm nghe
Duyên cớ nay Phật hiện mỉm cười
Mã Thắng các người nghe Phật nói
Các Long Nữ nầy tâm không chấp
Cầu đại Bồ đề tu tinh tấn
Dùng trí huệ tu thế gian không
Quyết định an trú đạo Bồ đề
Nơi đây không
tác không người thọ
Cũng không kẻ sanh kẻ dưỡng dục
Chỉ có các pháp không việc khác
Pháp ấy cũng vọng như ảo mộng
Do vì biết ơn cúng dường Phật
Hay dùng trí huệ biết chơn thiệt
Lành thay Phật hiểu các thế gian
Nghĩa là thấy được không vô ngã
Họ thích không ấy khéo tu tập
Dầu bày cúng dường xem như ảo
Nơi thắng Bồ đề đã phát nguyện
Quán Bồ đề ấy cũng chẳng chấp
Họ đem tối thắng ấy cúng dường Phật
Cũng quán chúng sanh không tịch rồi
Lìa hẳn loài rồng thân ác thú
Cùng trời Đế Thích kia đồng ở
Tại trời Đao Lợi thọ vui lớn
Hưởng hết thọ mạng Đao Lợi rồi
Không ai chê được tiếng tâm họ
Lại được sanh lên trời Dạ Ma
Lúc họ ở cung trời Dạ Ma
Hưởng đủ vui sướng cung trời ấy
Các Phật tử ở trời Dạ Ma
Cho đến mãn hết thọ lượng ấy
Các Phật tử nầy hưởng đủ vui
Hết thọ mạng nơi Dạ Ma rồi
Lại được sanh lên trời Đâu Suất
Cùng trời cõi ấy đồng một loại
Được các Thiên nữ thường vây quanh
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Lòng không luyến trước gìn đạo lành
Như hoa sen
kia nước chẳng ngấm
Trời ấy dùng được trí huệ lớn
Quan sát tất cả thế gian không
Dường như khác đá chớ chẳng mất
Đạo niệm chẳng mất cũng như vậy
Các Thiên Tử ấy ở Đâu Suất
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Ở nơi Đâu Suất mãn thọ rồi
Lại được sanh lên trời Hóa Lạc
Họ được danh tốt không hư hoại
Được các Thiên Nữ thường cúng dường
Dầu ở cung trời tâm không trước
Cho đến hết hạn thọ lượng ấy
Ở trong cung trời Hóa Lạc kia
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Chủng trí huệ ấy mãn thọ rồi
Nơi tất cả pháp được cứu cánh
Sanh lên Tha Hóa Tự tại Thiên
Làm thương chủ lớn tín thanh tịnh
Ở trời Tha Hóa lòng không nhiễm
Lúc ở trời ấy ưa chánh pháp
Phật tử ở cung trời Tha Hóa
Hưởng ngũ dục lạc rất vi diệu
Không có ngu si gìn đạo lành
Cho đến hết hạn thọ mạng ấy
Dầu hưởng lạc dục mà thấy lỗi
Ưa cầu chánh định và Niết bàn
Tu tập chứng được thiền định rồi
Mạng chung liền sanh trời Phạm Thiên
Ở cung Phạm Thiên giỏi biết thiền
Hưởng vui tịch diệt quả thiền ấy
Trí huệ rất lớn trụ một kiếp
Nguyện cầu Vô thượng đại Bồ đề
Lúc ở Phạm cung trong một kiếp
Khéo dùng oai nghi cầu trí huệ
Phương tiện để lợi ích thế gian
Rộng làm vô biên và vô lượng
Trí ở Phạm cung vui tại thiền
Chẳng trước nơi thiền mà tịch diệt
Biết trước thiền lạc cũng là lỗi
Các căn tịch định cầu Bồ đề
Nơi tất cả pháp lòng tin hiểu
Đều được an trụ Bồ Tát hạnh
Biết các thiền định tướng hư dối
Chỉ cầu tịch diệt đại Niết bàn
Các Phật tử ấy ở trong đó
Cầu được Bồ đề quả an ổn
Ở tại Phạm cung tâm thanh tịnh
Nghĩ lại chúng sanh khéo điều tâm
Giáo pháp tự nhiên của Phạm Thiên
Thuyết giáo Phạm Thiên chẳng xuất thế
Chỉ có Bồ đề đạo chư Phật
Cứu cánh hay được xuất thế gian
Đương thời Phạm Thiên sanh tin rồi
Phát tâm an trụ nơi Phật đạo
Biết giáo tự nhiên của Phạm Thiên
Chẳng phải cứu cánh đạo xuất thế
Nơi pháp Như Lai họ tương ưng
Vì các thế gian nói pháp ấy
Như pháp nhãn
họ nói quả ấy
Khiến người nghe kia mau được biết
Phật tự ở tại Phạm cung kia
Làm những lợi ích thế gian rồi
Hay khiến vô lượng na do tha
Ức chúng an trụ đạo Bồ đề
Họ ở vô lượng na do tha
Sẽ được cúng dường tất cả Phật
Vị lai kiếp tinh tú sau đây
Các căn tịch tịnh sẽ làm Phật
Các Trời Người Rồng A Tu La
Kim Sí Dạ Xoa Càn Thát Bà
Cưu Bàn Trà
Quí Khẩn Na La
Tất cả đại chúng đều mừng rỡ
Chúng ấy được chư Phật giáo hóa
Ở trong Phật pháp đắc lực rồi
Thảy đều mừng vui chấp tay kính
Cúi đầu đảnh lễ nơi chưn Phật » .
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment