Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 12
PHÁP HỘI
MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SĨ
THỨ BA
Duyên chư Thiên ư ? Vì tồn tâm hiểu thị những hội hiệp đều sẽ biệt ly vậy.
Duyên chúng nhơn ư ? Vì tâm an trụ tại tất cả diệu thiện vậy.
Duyên niệm Phật ư ?Vì tập thấy chư Phật vậy.
Duyên niệm Pháp ư ? Vì tồn tâm phụng hành đạo pháp mà bỏ sự vô ích vậy.
Duyên niệm Tăng ư ? Vì gầy dựng pháp bất thối chuyển vậy.
Duyên thí cho ư ? Vì tâm an trụ chẳng rời bỏ chúng sanh vậy.
Duyên cấm giới ư ? Vì đầy đủ sở nguyện vậy.
Duyên niệm thiên ư ? Vì tồn tâm an lập đủ trọn công đức nhứt sanh bổ xứ vậy.
Duyên thân hành ư ? Vì đến được Phật thân vậy.
Duyên khẩu ngôn ư ? Vì tâm an trụ các ngôn giáo kinh điển của Phật vậy.
Duyên tâm ý ư ? Vì tồn tâm được Phật ý vậy.
Duyên hữu vi ư ? Vì tâm an trụ tại tích công chứa đức tự được đầy đủ vậy.
Duyên vô vi ư ? Vì tâm an trụ tại đầy đủ thánh huệ vậy.
Nầy thiện nam tử ! Chẳng phải từ nơi không duyên không hóa độ mà đến được đạo Đại thừa. Đều do duyên tâm mà được đến Phật đạo, được đến Nhứt thiết trí.
Nếu có Bồ Tát đều do nơi duyên hóa mà dẫn đạo Nhứt thiết trí. Đây là thiện quyền phương tiện của Bồ Tát, đều do thấy các Pháp, đều cưu lòng đến dẫn đạo Nhứt thiết trí.
Như cõi Đại Thiên chứa nhận tất cả đất đai chúng sanh cỏ cây sông biển, không thứ gì chẳng bao gồm. Tất cả đều mong nhờ nơi đó mà được sanh hượt.
Nầy thiện nam tử ! Cũng vậy, tất cả các duyên đều do Bồ Tát thiện quyền phương tiện thật hành những công hạnh thù thắng đệ nhứt đến Nhứt thiết trí.
Như các hình sắc đều có bốn đại chủng.
Cũng vậy, Bồ Tát thiện quyền phương tiện tạo lập các duyên đều đến Phật đạo.
Tại sao vậy ?
Các chúng sanh hưng khởi tội vạ, đối với Bồ Tát chẳng những không báo đền mà Bồ Tát duyên nơi đây thật hành Bố thí ba la mật liền có thể thành tựu đầy đủ Giới ba la mật.
Nếu có người giận thù cưu lòng độc hại, bấy giờ Bồ Tát thật hành Nhẫn ba la mật liền đó sung mãn Tinh tiến ba la mật.
Nếu thấy chúng sanh ở nơi ồn ào náo nhiệt, tâm họ không an ổn, duyên đây mà Bồ Tát hành Thiền ba la mật, bỗng nhiên thành tựu Trí ba la mật.
Nếu có chúng sanh che chướng tối tăm, Bồ Tát vì họ mà dứt trừ lưới kiết phược chướng ngại.
Nếu có chúng sanh siêng tu tập, Bồ Tát bèn vì họ tiêu trừ tất cả chỗ chấp trước, cúi đầu khen ngợi chỉ thị cho họ tự quy.
Với kẻ ưa chê bai hủy báng, Bồ Tát cũng tùy thuận ý của họ, làm cho họ chẳng sanh tâm hủy báng.
Nếu thấy người cần khổ bị vô số khổ não, Bồ Tát liền khởi đại bi cứu họ khỏi khổ.
Nếu thấy người an lạc, Bồ Tát rất vui mừng mà nhiếp thọ họ.
Nếu thấy những loài cang cường khó hóa độ, Bồ Tát tùy thời dìu dắt huấn thị cho họ phát đạo tâm.
Thấy người nhơn hòa, Bồ Tát ở nơi họ tu tập chí hạnh phát khởi đạo tâm cho họ.
Nếu có lực sĩ báo ứng nghiệp hạnh, Bồ Tát liền thuận nhiếp thủ dạy dỗ hiển khởi đạo tâm.
Đây gọi là tùy duyên mà được tự tại, Bồ Tát tùy thuận thiện quyền phương tiện biết rõ chúng sanh đúng thời mà thuyết pháp. Ở tại báo ứng chí nguyện ái mộ, giáo hóa khai thị phân giải, đều làm cho chúng sanh thản nhiên tinh tiến nơi đại đạo thánh huệ, vì họ mà luận nghĩa sâu xa vô thượng.
Bồ Tát tồn lòng từ rộng vì chúng sanh mà giãi
bày đạo chí chơn, lần lượt vì họ mà ban tuyên chỉ dạy đạo nhơn vô thượng ấy, giải thích phân biệt chương cú. Bồ Tát lấy một cú pháp mà diễn xướng bao nhiêu nghĩa.
Với người ưa vắng lặng , Bồ Tát vì họ phân biệt quán xét tất cả. Với người ác giác quán, Bồ Tát đem quán giải thoát tam muội giảng thuyết cấm giới, lại vì họ mà tuyên giảng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Do nghe pháp ấy mà hiểu sự vô thường không cứu không hộ, khiến họ cầu đạo hộ.
Nếu người có chánh định, Bồ Tát vì họ mà luận Huệ ba la mật.
Với người ham mộ ở rảnh rang, Bồ Tát giáo hóa họ tịnh thân khẩu ý.
Với người biết tri túc, Bồ Tát vì họ mà hiển phát hạnh nghiệp công đức của thánh hiền.
Với người có quan niệm tự đại ngu tối, Bồ Tát sẽ vì họ tuyên bố tinh tiến học rộng nghe nhiều.
Với người tham dục, Bồ Tát chỉ bảo cho họ biết họa hoạn bất tịnh vô ích.
Với người hay giận thù, Bồ Tát khuyên họ phát tâm từ chẳng cưu lòng oán hại.
Với người ngu lầm, Bồ Tát dạy họ pháp thập nhị nhơn duyên phát khởi sanh tử.
Với người đẳng phần phiền não, Bồ Tát vì họ diễn nói vô thường, khổ, không, vô ngã.
Với người ham mê sắc dục, Bồ Tát giảng dạy sự bất tịnh.
Với người nhơn từ đến nỗi ngu tối không hiểu biết, Bồ Tát vì họ chỉ bảo sự duyên khởi tội lỗi.
Với người tà kiến, Bồ Tát vì họ quyết rõ pháp không vô.
Với người cưu lòng hy vọng, Bồ Tát diễn nói hạnh không vọng tưởng.
Với người cố chấp nơi thệ nguyện, Bồ Tát dạy họ không nguyện cầu.
Với người ưa nơi ngũ cái, Bồ Tát vì họ phân tích năm ấm như huyễn như hóa hư ngụy không thiệt.
Với người tham chấp các đại chủng, Bồ Tát vì họ giải rõ bốn đại chủng mười tám giới như bóng, do hình chiếu mà hiện.
Với người dựa theo các nhập, Bồ Tát giảng nói mười hai thứ nhập, trong sáu căn, ngoài sáu
trần đều chẳng phải sở hữu của ta. Như cảnh chiêm bao lúc thức không còn có.
Với người nương cõi dục, Bồ Tát vì họ giảng nói phân biệt tất cả vạn vật đều về nơi vô thường.
Với người nắm lấy cõi sắc, Bồ Tát vì họ diễn nói tất cả hạnh nghiệp chúng sanh đều là gốc phiền não.
Giả sử có người binh vực cõi vô sắc, Bồ Tát tuyên bố tất cả các pháp đều không có vô ngã.
Với người khó hóa độ, Bồ Tát bảo họ siêng tu tập pháp hiền thánh.
Với người dễ hóa độ, Bồ Tát sẽ vì họ khai thị pháp vô thượng chí chơn.
Với người muốn sanh ở cõi trời cõi người, Bồ Tát vì họ ca ngợi giới phẩm thanh tịnh.
Với người thích Thanh Văn thừa, Bồ Tát chỉ thị tứ đế : khổ, tập, diệt, đạo.
Với người mộ Duyên Giác thừa, Bồ Tát khai thị mười hai nhơn duyên lấy vô minh làm gốc.
Với người học hạnh Đại thừa, Bồ Tát nhơn đó lưu bố sáu ba la mật, bốn đẳng, bốn ân để dắt dẫn họ.
Với người mới phát tâm, Bồ Tát xem xét chí tánh của họ mà dạy dỗ.
Với người đủ các công hạnh chẳng nhàm sanh tử, Bồ Tát chỉ dạy pháp không nạn để họ được chẳng thối chuyển.
Với người bất thối chuyển, Bồ Tát nhơn đó phân biệt nói Phật độ thanh tịnh.
Với bực nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát đại nhơn, Bồ Tát hiển thị đạo tràng Bồ đề chí chơn.
Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát được tự tại theo duyên giáo hóa tuyên
bố đạo pháp không có sai lầm, dùng ngôn từ khéo léo làm vui đẹp lợi ích chúng sanh ».
Lúc đó đức Thế Tôn nói lời trên đây, trong pháp hội có một vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề, năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ trong chúng hội có các Bồ Tát nghĩ rằng Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy bao giờ thành Phật ? Lúc ông ấy thành Phật hiệu là gì ? Quốc độ ấy tên gì ? Công đức nghiêm tịnh thuộc về loại gì ? Thành tựu chúng Bồ Tát thế nào ?
Đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát liền mỉn cười. Vô số ức trăm ngàn tia sáng từ miệng đức Phật phóng ra chiếu thấu vô hạn thế giới mười phương che ánh sáng của mặt trời mặt trăng, trùm cung điện của ma. Những tia sáng ấy trở về nhiễu vòng quanh đức Phật vô số vòng rồi từ đỉnh đầu đức Phật mà thâu vào.
Tịch Ý Bồ Tát liền đứng dậy trịch vai áo phía hữu chắp tay lễ Phật, nói kệ ca ngợi để hỏi ý cười của đức Phật :
“ Cao vọi như núi vàng
Diệu quang sạch bụi trần
Tâm Phật vững vắng lặng
Như mặt trời trên không
Tia sáng ấy rất sáng
Tiêu trừ các tối tăm
Cớ chi hiện như vậy
Xin Thế Tôn giải bày
Sạch sẽ như hoa sen
Mọc ở trong bùn sình
Gốc cọng ở trong nước
Lớn lên không cấu nhơ
Công đức rất thơm tho
Ý niệm càng rộng xa
Chỉ nên an nhiên nói
Cớ chi lại vui cười
Tâm trí Phật an ổn
Vắng lặng và nhu hòa
Lòng từ càng thêm lớn
Tiêu trừ những cấu uế
Dùng ánh sáng trí huệ
Trừ bỏ các tối tăm
An trụ như hoa sen
Vứt bỏ các hồ nghi
Thêm thương tu đạo tràng
Phụng hành được tự tại
Miệng Phật phóng quang minh
Khô cạn các ái dục
Khai hóa các chúng sanh
Cho mắt họ sáng sạch
An trụ tiêu nghịch tặc
Trừ bỏ những tội lỗi
Khắp tất cả chúng hội
Chư Thiên và mọi người
Ngưỡng nhìn tướng mạo Phật
Có chi Phật vui cười ?“.
Đức Phật bảo Ngài Tịch Ý Bồ Tát : « Ông có thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ấy chăng ? »
Ngài Tịch Ý Bồ Tát thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy ông ấy ».
Đức Phật dạy : « Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ sẽ cúng dường chư Như Lai ở Hiền Kiếp, hộ trì chánh pháp, khai thị lợi ích vô lượng chúng sanh.
Từ thân ấy chết, ông ấy sẽ sanh về nước Diệu lạc của đức Phật A Súc. Từ đó về saư gặp vô số chư Phật, tịnh tu phạm hạnh.
Qua khỏi số kiếp ấy, ông ấy chứa nhóm công đức sẽ thành Phật hiệu Kim Cang Bộ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước tên Phổ Tịnh. Kiếp hiệu Nghiêm Tịnh. Cõi nước Phổ Tịnh hiệp bảy báu làm thành, nhơn dân giàu
vui đông đảo như cung trời Đâu Suất. Cõi nước ấy không có ba ác đạo và tám chỗ nạn, trời và người chẳng riêng biệt, tất cả đều mộ Phật đạo vi diệu. Cõi ấy không có hai thừa, không có tên Thanh Văn,
Duyên Giác, thuần là Bồ Tát.
Đức Kim Cang Bộ Như Lai tuyên thuyết pháp Đại thừa bất thối chuyển. Chúng Bồ Tát ở cõi Phổ Tịnh đông chẳng thể tính đếm hạn lượng được. Cõi ấy không có người tánh ác ganh ghét phá giới tà kiến. Người cõi ấy mến thích Phật Pháp, tâm tánh hiền hòa , đều đủ hai mươi tám tướng tốt trang nghiêm thân thể.
Đức Kim Cang Bộ Như Lai tại thế thọ tám tiểu kiếp, thường vì chúng hội trời người thuyết pháp, thân phóng quang minh chiếu khắp cõi nước. Các hàng trời người được quang minh Phật chiếu đến đều được giải quyết các điều nghi khen ngợi chánh pháp, về theo đức Phật. Mọi người nghĩ rằng tôi phải đến chỗ Phật để học hỏi kinh điển. Có người dùng thần thông của mình đi đến chỗ Phật. Có hàng hữu học nương oai thần của Phật mà đến.
Đức Phật Kim Cang Bộ ở trên hư không cách mặt đất trăm ngàn nhẫn tuyên cáo pháp âm khắp mười phương làm vui đẹp tất cả những người đến dự hội. Chỉ tuyên pháp Đại thừa Vô thượng đại đạo cho chư Bồ Tát.
Cõi nước Phổ Tịnh ấy không một ai chống báng lời giáo huấn của đức Phật.
Cõi nước ấy không có vua chúa, chỉ có đức Phật Thế Tôn là vị Pháp Vương.
Ở cõi nước ấy, tất cả nhơn dân đều có trí huệ, không chấp ngô ngã, không có ngã sở, chẳng làm chủ nhà ruộng riêng.
Do lòng từ xót thương của đức Phật, chiều tối người cõi nước ấy thấy đức Kim Cang Bộ Như Lai hiện thân tượng đắp y mang bát đứng trước nhà mình, liền tự nghĩ đức Như Lai thương tôi muốn đến nhà tôi thọ trai. Đêm ấy họ sắm sửa thức ăn, trần thiết ghế bàn. Sáng hôm sau đến giờ ngọ trai, đức Phật và Thánh chúng đến nhà họ thọ trai xong, sau khi rửa tay, đức Phật vì người nhà thí chủ mà thuyết kinh pháp. Thí chủ ấy được pháp bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh Giác. Thuyết kinh xong đức Phật trở về tinh xá.
Nếu đức Phật ngồi yên nơi tịnh thất, chư Bồ Tát cõi ấy đều theo pháp tam muội của mình đã được mà tu tập.
Nầy thiện nam tử ! Cõi nước của đức Phật Kim Cang Bộ có công đức trang nghiêm thanh tịnh thù đặc dường ấy ».
Lúc đức Thế Tôn nói lời thọ ký cho Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, trong chúng hội có hai vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề phát nguyện sanh về cõi nước ấy.
Đức Phật thọ ký rằng lúc đức Phật Kim Cang Bộ thành đạo, trong đại chúng đây ai nguyện được thấy thì đều sẽ được sanh về cỏi Phổ Tịnh ấy, và sẽ được đức Phật ấy thọ ký Vô thượng Bồ đề.
Nghe đức Phật thọ ký, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vui mừng hớn hở dồi chày kim cang đang cầm lên hư không. Liền đó khắp cõi Đại Thiên chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu mươi phương, hoa trời tuôn xuống như tuyết rơi, các thứ âm nhạc tự nhiên trổi lên.
Tay mặt của tất cả mọi người trong pháp hội tự nhiên có nhiều thứ hoa hương phan long xinh đẹp, đều cầm lấy mà đi.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cầm hoa hương phan lọng đi vòng quanh đức Phật nói kệ ca ngợi rằng :
« Pháp rộng khắp tự tại
Pháp tạng chẳng cùng tận
Thuyết pháp rất rành rẽ
Lợi ích cho chúng sanh
Phật trao phó cho tôi
Thường thích dùng pháp khí
Phụng hành đúng chánh pháp
Nguyện tự quy Phật đạo
Trí huệ hay thanh tịnh
Công hạnh đã sáng suốt
Danh hiệu thấu ba đời
Công đức trọn rốt ráo
Trí Phật suốt ba chỗ
Thánh đức không chấp trước
Tự tại độ chúng sanh
Giáo hóa khỏi khổ ách
Thanh tịnh như mặt nguyệt
Dung nhan rất sáng rỡ
Chiếu đến chỗ rất xa
Dường như mặt trời sáng
Phật âm rất diệu hòa
Như tiếng trời Phạm Thiên
Từ bi tuyên lời dạy
Kính lễ đấng chí tôn
Tự hiển hiện thân hình
Thị hiện có thọ mạng
Xin Phật tuyên pháp âm
Diễn nói các văn tự
Dầu diễn nói kinh pháp
Nhưng không niệm có pháp
Dầu độ khắp chung sanh
Nhưng không tưởng có nhơn
Thế Tôn thương giáo hóa
Ai bảo được ơn Phật
Giả sử tất cả chúng
Chứa đức vô lượng kiếp
Chỉ thưa hỏi Phật pháp
Chí chẳng ở nghiệp khác
Mình phụng hành Phật hạnh
Lại dạy bảo người khác ».
Nhiễu Phật và chúng hội đủ bảy vòng, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cầm các thứ hoa và lọng báu tung lên cúng dường đức Phật. Vừa lúc tung hoa, khắp tứ thiên hạ tự nhiên hóa sanh bao nhiêu
thứ hoa trang nghiêm tám lớp đường sá, những ao nước tám vị công đức, nương oai thần của Phật, không đâu là chẳng khắp.
Tịch Ý Bồ Tát hỏi Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Đức Như Lai đã thọ ký Phật đạo cho Ngài ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đáp : « Ngài đã thấy đức Phật thọ ký. Sự thọ ký ấy tự nhiên như chiêm bao ».
Hỏi :
« Ngài được thọ ký là đến chỗ nào ? ».
Đáp :
« Chỗ được thọ ký ấy là không chỗ đến ».
Hỏi :
« Chẳng đến chỗ nào ? ».
Đáp :
« Chẳng đến vô ngã, chẳng được nhơn và thọ mạng, chẳng được năm ấm, sáu trần, bốn đại chủng, chẳng thấy công nghiệp độ đời hiện tại, chẳng đến các tội cùng chẳng tội, không có lậu và vô lậu, không có trần lao sân hận, không có hữu vi và vô vi, không có sanh tử và Niết bàn, tất cả đều chẳng đến mới gọi là thọ ký ».
Hỏi :
« Nếu không chỗ đến thì ai được thọ ký ? ».
Đáp :
« Không chỗ đến ấy mới gọi là đến ».
Hỏi :
« Nếu không ngô ngã thì ai được thọ ký ? ».
Đáp :
« Người thọ ký và người được thọ ký đều bình đẳng, bổn tế không có hai, không có
khác ».
Hỏi :
« Nếu không bổn tế, thì ai được thọ ký ấy ? ».
Đáp :
« Bổn tế không sanh, cũng không diệt, không có hai. Do bổn tế ấy mà ngày nay được thọ ký ».
Hỏi :
« An trụ bổn tế nào mà được thọ ký ? ».
Đáp :
« An trụ nơi tự nhiên, bổn tế không hai, bổn tế không ngã, không nhơn, không thọ mạng, an trụ nơi tự nhiên mới gọi là được thọ ký ».
Hỏi :
« Ngô ngã bổn tế an trụ chỗ nào ? ».
Đáp :
«An trụ nơi đức Như Lai an trụ ».
Hỏi :
« Không chỗ hay biết là biết chỗ nào? ».
Đáp :
« Chỗ hay biết ấy, là không chỗ biết ».
Hỏi :
« Nếu không chỗ bảo nói là không chỗ nói, giả sử không chỗ nói thì dạy những gì ? ».
Đáp :
« Dạy không chỗ dạy ».
Hỏi :
« Thế nào là dạy không chỗ dạy? ».
Đáp :
« Tất cả các pháp đều không chỗ dạïy ».
Hỏi :
« Giả sử không chỗ dạy thì làm sao biết đó ? ».
Đáp :
« Giả sử không chỗ dạy thì chỗ biết dường ấy ».
Hỏi :
« Thế nào là dạy chỗ biết ? ».
Đáp :
« Chẳng hỏi chỗ biết ».
Hỏi :
« Thế nào là chẳng hỏi chỗ biết? ».
Đáp :
« Tâm không phóng dật ».
Hỏi :
« Thế nào là tâm không phóng dật? ».
Đáp :
« Tự về nơi yếu nghĩa».
Hỏi :
« Thế nào là tự về nơi yếu nghĩa? ».
Đáp :
« Chẳng thấy vô nghĩa ».
Hỏi :
« Sao gọi là chẳng thấy vô nghĩa? ».
Đáp :
« Chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa mới gọi là nghĩa ».
Hỏi :
« Sao gọi là chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa mới gọi là nghĩa? ».
Đáp :
« Chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa ấy là đạo nghĩa ».
Hỏi :
« Nếu lấy vô nghĩa thì chẳng thành pháp nghĩa ư ? ».
Đáp :
« Pháp nghĩa ấy sao lại là nghĩa ! Tại sao vậy ? Người xu hướng nơi nghĩa thì là phi pháp, chẳng thành là pháp ».
Hỏi :
« Thế nào là pháp? ».
Đáp :
« Pháp không âm hưởng mới gọi là pháp ».
Hỏi :
« Pháp không âm hưởng sao gọi là pháp? ».
Đáp :
« Nơi pháp ấy không có văn tự mới gọi là pháp. Pháp ấy không chỗ được. Pháp ấy không âm thanh, không ngôn từ ».
Hỏi :
« Sao gọi là chỗ đến? ».
Đáp :
« Như chỗ đến được, đây mới gọi là tất cả không đến. Rời lìa nơi có được, nên gọi là tôi đến được Như Lai. Tu tập các pháp mới có thể đến được. Có thể dứt bặt tâm vô ngã. Tất cả chỗ tuyên bày là ánh sáng của trí huệ. Nhơn nơi văn tự ấy mà tuyên bày công nghiệp của Như Lai. Chẳng lấy không đến, Chẳng lấy sẽ đến ».
Hỏi :
« Chỗ đến ấy, chỗ nào chẳng được ? ».
Đáp :
« Lời nói từ nơi miệng là chẳng được vậy. Lời nói từ nơi miệng, trong tâm dựa theo văn tự thì là chẳng được ».
Hỏi :
« Thế nào gọi là được ? ».
Đáp :
« Không chỗ đến ấy, không chỗ dạy ấy. Không chỗ dạy ấy, biết thì là chẳng tự chẳng biết tha. Chẳng biết tự chẳng biết tha mới gọi là được ».
Hỏi :
« Chẳng được thì cái gì làm căn bổn nó. Còn được thì cái gì làm căn bổn nó ? ».
Đáp :
« Sở thọ là căn bổn ».
Hỏi :
« Cái gì làm căn bổn của sở thọ ? ».
Đáp :
« Chỗ dựa nhờ làm căn bổn ».
Hỏi :
« Cái gì làm căn bổn của chỗ dựa ? ».
Đáp :
« Hư ngụy vọng tưởng làm căn bổn ».
Hỏi :
« Cái gì làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng ? ».
Đáp :
« Trần lao làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng ».
Hỏi :
« Chỗ nào làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng trần lao ? ».
Đáp :
« Luyến trước làm căn bổn ».
Hỏi :
« Những gì làm căn bổn của luyến trước ? ».
Đáp :
« Sắc thanh hương vị xúc làm căn bổn ».
Hỏi :
« Chỗ gì là cội gốc luyến trước ? ».
Đáp :
« Ân ái kiết tập gọi là cội gốc luyến trước. Ở nơi những chỗ luyến trước ấy mà không luyến mộ thì gọi là không luyến trước ».
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ân ái kiết tập ấy, tìm cầu chỗ luyến trước thì vĩnh viễn không có chỗ luyến trước vậy ».
Lúc đức Phật Thế Tôn thọ ký cho Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ và lại ban tuyên nói lại pháp ấy, trong chúng hội có năm trăm vị Tỳ Kheo được lậu tận ý giải, hai trăm vị Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ được đức Phật thọ ký cho, sở nguyện đã đủ, chỗ mong đã toại, vui mừng vòng tay thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Ngưỡng vọng đấng Đại Thánh quang lâm đến cõi Khoáng Dã quốc độ Quỷ Vương tại cung xá Mật Tích của tôi thọ trai bảy ngày. Tôi cũng kính thỉnh chư Bồ Tát và chư đại Thanh Văn cùng đến bỉ xá thọ bữa ăn mọn bảy ngày.
Tại quốc độ Khoáng Dã Quỷ Vương, các chúng quỷ thần yêu mî, Càn Thát Bà, Ma Hầu La già và những chúng sanh khác được thấy đức Phật Thế Tôn và chư Hiền Thánh, được nghe kinh pháp tất sẽ được mãi mãi an vui không có
các họa hoạn, bèn sẽ bỏ lòng sân hận độc hại trái nghịch.
Tứ Thiên Vương cùng quyến thuộc đến cõi Khoáng Dã Quỷ Vương nếu được thấy đức Như Lai nghe thuyết pháp tất sẽ được an hòa chẳng bị ách nạn ».
Vì lòng xót thương và muốn khai hóa vô số chúng sanh khiến họ vun trồng cội công đức nên đức Phật yên lặng nhận lời thỉnh bảy ngày cúng dường của Mật Tích.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thấy đức Phật yên lặng nhận lời thỉnh của mình, lòng vui mừng hớn hở cúi lạy chưn Phật đi nhiễu bên hữu ba vòng rồi lui đi, bỗng nhiên ẩn mất trở về nước Khoáng Dã nơi cung xá của mình.
Sau khi đến cung xá, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tự nghĩ rằng :
Tôi nên vì đức Thế Tôn mà trang nghiêm cung
điện cho hàng chư Thiên cõi dục cõi sắc được chưa từng có, chư Bồ Tát ở các thế giới mười phương đều vui mừng. Tôi còn nhớ thuở trước một đêm ôm ấp chí nguyện tôn thờ đạo pháp chẳng thể nghĩ bàn, nay cũng sẽ như vậy.
Phương Đông cách đây hằng hà sa quốc độ có thế giới tên là Vô lượng Bửu Đức Tịnh. Đức Phật ở cõi đó hiệu là Tịnh Vương. Tôi nên mượn tòa sư tử cao lớn trang nghiêm thanh tịnh ở cõi ấy.
Lúc ấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nhập tịnh bửu vương tam muội. Liền đó tòa sư tử cao lớn trang nghiêm tốt đẹp như ở quốc độ Vô lượng Bửu Đức Tịnh bỗng nhiên hiện đến nước Khoáng Dã Quỷ Thần Vương. Từ Đông đến Tây hai ngàn bốn trăm tám mươi dặm, từ Nam đến Bắc một ngàn hai trăm tám mươi dặm dùng lưu ly, thủy tinh và xà cừ làm đất. Vô lượng hương thơm rải khắp nơi. Có vô số lò hương báu đốt hương thù diệu. Rải các hoa trời. Trần thiết bao nhiêu là phẩm vật cực hảo màu sắc đẹp sáng làm vui đẹp lòng người, làm thư thái thân người.
Bốn bên tòa sư tử cao quý trang nghiêm ấy lại tự nhiên có ức trăm ngàn triệu vô số những tòa sư tử : các báu làm chưn làm bao lơn, vô số thiên y trải lên trên, những hoa sen báu, những trân châu thanh tịnh và các thứ báu đặt khắp trên đất.
Trần thiết vô lượng tòa sư tử cao lớn trang nghiêm thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn như thế xong, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ từ tam muội an tường xuất định, liền trong đêm ấy sắm sửa những thức ăn uống lành ngon.
Trần thiết sắm sửa đã xong tất cả, đêm còn chưa sáng, Lực Sĩ cáo với Tứ Thiên Vương rằng : « Các Ngài nên biết ngày hôm nay đức Thế Tôn sẽ đến cung xá tôi thọ trai thỉnh bảy ngày. Chư Bồ Tát và hàng Thanh Văn cũng cùng đến.
Các Ngài chớ nên phóng dật. Phật rất khó gặp, ức đời mới có. Đều phải nhứt tâm nhàm tục mộ đạo cung kính phụng Phật, để được khỏi sanh tử đến nơi chí đạo, chánh pháp khó được nghe, thời cơ cũng khó được gặp. Ba cõi không cậy được, chỉ có đạo được nhờ như hư không khắp nơi không chướng ngại. Chớ để loạn tâm phóng dật. Nên cùng quyến thuộc cúng dường đức Phật bảy ngày. Chớ dựa nơi thân tâm, nên lấy đạo làm gốc. Chớ theo việc khác mà tổn trái đạo giáo, nên chuyên tinh nhứt tâm cúng dường đức Như Lai. Khiến cho cõi nước của Vương, chư Thổ Địa Quỷ Thần, Càn Thát Bà v.v... đều quy y Phật, kính nghe đạo pháp.
Các Ngài nên rõ, đã thỉnh đức Thế Tôn cúng dường quy mạng rồi siêng nghe đức Thế Tôn thuyết pháp để tuyên bố khắp nơi cho tất cả đều được lợi ích. Như vậy mới gọi là báo đáp ân đức Phật ».
Mật Tích Lực Sĩ có hai người con trai tên là Mật Binh và Thiện Phần.
Lực Sĩ bảo con trưởng Mật Binh rằng : « Ngươi đi bố cáo khắp cả địa thần, hư không thần, trời Tứ Thiên Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, lên đến trời Thiên Ma, cho tất cả đồng hay rằng ngày hôm nay đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn sẽ đến cõi nước Khoáng Dã Quỷ Vương tại cung xá Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thọ thỉnh cúng dường. Chư Bồ Tát và hàng Thanh Văn cũng đồng đến. Ai muốn thấy Phật nghe pháp thì đến dự hội ».
Thái tử Mật Binh lãnh lịnh, giây lát đã truyền rao khắp nơi.
Lực Sĩ lại sai con thứ Thiện Phần dùng thần thông đi bố cáo khắp các cõi trời sắc giới, từ trời Sơ Thiền Phạm Chúng Thiên đến trời Tứ Thiền Sắc Cứu Cánh Thiên, rằng ngày hôm nay đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ đến thọ cúng dường tại cung xá của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ở nước Khoáng Dã Quỷ Vương. Ai muốn thấy Phật nghe pháp thì đến dự hội.
Thiện Phần lãnh lịnh, giây lát đã truyền rao khắp trời cõi sắc.
Trong khoảnh khắc sau, chư Thiên cõi dục và vhư Thiên cõi sắc đồng đến dự hội dừng ở hư không ngồi theo thứ tự khắp một khoảng ngang rộng trên dưới đều bốn muôn dặm.
Hội trường đã trần thiết trang nghiêm sắm dọn xong, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vòng tay hướng về phía đức Phật đang ngự mà bạch vói rằng : « Giờ thọ trai đã đến, xin đức Phật Thế Tôn cùng chư Hiền Thánh chúng quang lâm ».
Lực Sĩ nói kệ rằng :
« Đại Thánh Lưỡng Túc Tôn
Trên hết trong trời người
Nay trai thời đã đến
Thỉnh đức Phật quang lâm
Giới đức như sen nở
Tinh tiến căng tăng trưởng
Tàm quý trên chở che
Đấng tối thắng đoái thương
Kiến lập nơi Thánh đế
Từ bi ban ơn lớn
Không ngã không ngã sở
Đấng Sư Tử đoái thương
Giới hạnh học nghe rộng
Hoa giác ý xinh tươi
Trái giải thoát đầy đủ
Cây thù thắng quang lâm
Công đức lớn hơn biển
Ý Phật sâu lại rộng
Định trong sạch là ý
Hạnh tinh tiến vững mạnh
Từ bi làm đạo tràng
Chuỗi trí huệ trang nghiêm
Bổn huệ sáng mở tỏ
Xin Đại Thánh từ cố
Trí vô động đệ nhứt
Dùng dược thọ chữa bịnh
Học vô học thạnh sáng
Đấng tối thắng quang lâm ».
Đức Thế Tôn thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ bạch đã đến giờ liền bảo đại chúng nên sớm chuẩn bị đắp y cầm bát đến chỗ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ bảy ngày thọ thỉnh.
Trong hàng Thanh Văn và chư Bồ Tát, những vị có thần thông thì tự dùng thần lực đi theo đức Phật, những vị không có thần thông thì đứng vào trong ánh sáng của đức Phật, nương oai thần của đức Phật đều được đi cả.
Lúc đức Phật lên đường, chư Bồ Tát đi trước dẫn đường, chư Thanh Văn đi hầu phía sau, chư Thiên, Long Thần cầm hoa hương kỹ nhạc chầu chực trên không, chư Thiên Nữ nói kệ ca ngợi đức Phật rằng :
« Vui mừng phát quang minh
Âm nhạc tự nhiên vang
Trời mưa các thứ hoa
Chấn động cả thế giới
Phật oai đức rất lớn
Thần thông ba la mật
Phật biến hóa vô hạn
Rất mừng được thấy Phật
Phật cát tường vô lượng
Phật Thần Thánh vô biên
Phật oai nghi vô cùng
Phật công đức vô hạn
Đi đến Linh Thứu sơn
Tại trong tám núi lớn
Bay kên giữa hư không
Vô ngại như nhạn vương
Chư Thiên cõi
dục và chư Thiên cõi sắc thấy đức Phật Thế Tôn từ hư không mà đến dường như mặt trời sáng hiện trong nước, như mặt trăng tròn đứng giữa các vì sao, chư Thiên Đế tôn quý trong hàng chư Thiên, như Phạm Vương chói che chúng hội, tất cả đều rất vui mừng liền rải bao nhiêu thứ hoa trời xanh vàng đỏ trắng cúng dường đức Phật. Những là ý hoa, đại ý hoa, nhu nhuyến hoa, đại nhu nhuyến hoa, trú dạ thọ hoa, ly cấu hoa, những thứ hoa trăm cánh, ngàn cánh đến trăm ngàn cánh. Chư Thiên cũng
nổi mây rải các thứ hương trời : thiện diệu hương, thường huân hương, ô diên hương, thường hữu hương. Đồng thời cũng trổi âm nhạc trời.
Giây lát đức Phật cùng chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn đến nước Khoáng Dã Quỷ Vương thuộc cõi của Tứ Thiên Vương dừng lại tại cung điện của họ.
Lúc đức Phật vừa dừng bước thì cả đại địa chấn động có ánh sáng chiếu khắp mười phương.
Tứ Thiên Vương thấy đức Phật đến, vội vàng cùng quyến thuộc mang hoa hương phan lọng trổi nhạc đờn ca đến trước đức Phật đảnh lễ đi vòng bên hữu ba vòng rồi rải hương hoa cúng dường, xong rồi đứng qua một phía.
Đức Thế Tôn vì Tứ Thiên Vương mà ban tuyên kinh pháp. Một vạn ba ngàn quỷ thần yêu mị phát tâm Vô thượng Bồ đề. Một vạn ngọc nữ cũng phát tâm như vậy.
Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cùng các con, cung nhơn thể nữ và quyến thuộc cầm hương hoa phan lọng trổi nhạc đến chỗ đức Phật đảnh lễ đi nhiễu bên hữu bảy vòng, rồi rải hoa rải hương cúng dường, tất cả đều theo thứ tự mà ngồi.
Tòa sư tử của đức Phật ngự cao lớn trang nghiêm hơn cả.
Chư Bồ Tát và hàn Thanh Văn vẫn ngồi nơi chỗ của mình.
Chư Thiên cõi dục và chư Thiên cõi sắc thấy những tòa sư tử được trần thiết ấy rất cao lớn trang nghiêm thì lấy làm lạ nghĩ rằng sao Mật Tích Lực Sĩ tìm đâu những tòa sư tử báu đẹp trang nghiêm huyền diệu thù thắng thế nầy ?
Thừa oai thần của đức Phật, ở trên không tự nhiên có tiếng bảo :
Các Ngài muốn biết ư ! Phương Đông cách đây quá hằng hà sa quốc độ có thế giới tên là Vô Lượng Tịnh, Phật hiệu là Tịnh Vương Như Lai chí chơn đẳng chánh giác. Mật Tích Lực Sĩ đã từng thấy cõi vi diệu trang nghiêm thanh tịnh ấy. Nay vì pháp mà trưng vời những tòa cao vọi rất vi diệu vấy.
Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Phật vừa ngồi lên tòa sư tử cao rộng xong, trong nước Khoáng Dã Quỷ Vương chúng quỷ thần yêu mị, Càn Thát Bà, Ca Lâu La,
Khẩn Na La, Ma Hầu La Già đồng đến lễ Phật rồi đứng qua một phía vòng tay cung kính.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Tứ Thiên Vương và những chúng đến dự hội rằng : « Thưa các Ngài ! Nay những thứ ăn uống đã sẵn sàng, các Ngài nên cùng tự tay cần mẫn dâng cúng lên đức Phật và chư Bồ Tát Thánh chúng. Tại sao vậy ? Vì những lời đức Phật đã dạy, nếu ai có thể hoan hỉ tá trợ hưng công cúng dường thì được vô lượng phước. Đối với thí chủ, phước cũng chẳng giảm ».
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment