Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 26
PHÁP HỘI
PHÁP GIỚI THỂ TÁNH VÔ PHÂN BIỆT
THỨ TÁM
Như vậy, tôi nghe một lúc nọ đức Phật ở tại nước Xá Vệ trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng tám ngàn đại Tỳ Kheo câu hội.
Có một muôn ngàn hai ngàn đại Bồ Tát từ vô lượng Phật độ đến.
Lại có ba muôn hai ngàn vị Thiên Tử, tất cả đều hướng về Đại thừa.
Trong đại chúng ấy có đại Bồ Tát tên là Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử và vị Thiên Tử tê là Bửu Thượng .
Lúc ấy Thiên Tử Bửu Thượng nghĩ rằng hôm nay nếu đức Thế Tôn bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết pkáp, làm cho cung ma đều tối tăm mất cả oai đức, khiến ma Ba Tuần lo sẩu ,khiến chúng ma khéo điều phục, những kẻ tăng thượng mạn thì phá trừ tăng thượng mạn, người tự ghi nhớ sở đắc khéo tu hành thì được quả Sa Môn, người đã được quả lại càng tăng thượng, khiến chủng tử Phật , Pháp và Tăng nối luôn chẳng dứt , khiến nhiều chúng sanh phát tâm Bồ đề làm cho Bồ đề của đức Như Lai chứa nhóm từ vô lượng a tăng kỳ kiếp được còn lâu , lúc đức Như Lai tại thế hoặc sau khi diệt độ thường được nghe pháp ấy tùy theo thừa của họ xu hướng chóng được diệt độ.
Biết tâm niệm của Bửu Thượng Thiên Tử, đức Thế Tôn bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng : "Văn Thù Sư Lợi ! Ở trong đại chúng nầy , ông nên tuyên nói một ít pháp .Nay trong đại chúng nầy muốn được nghe pháp nơi ông".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Tôi nên nói pháp
gì?".
Đức Phật phán: "Ông nên nói về pháp giới thể tánh nhơn duyên".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng:" Bạch đức Thế Tôn! Tất cả pháp giới là pháp giới thể tánh. Ra ngoài pháp giới không có được nghe. Sao đức Thế Tôn bảo nhơn nơi pháp giới ma nói pháp?".
Đức Phật phán : " Nầy Văn Thù Sư Lơị ! Chúng sanh kiêu mạn nếu nghe pháp ấy tất sanh lòng kinh
quái".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn!Pháp giới thể tánh không có kinh quái. Sư kinh quái ấy tức là pháp giới thể tánh".
Ngài Xá Lợi Phất hỏi Ngài Văn thù Sư Lợi Bồ Tát : "Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Nếu tất cả pháp đều là pháp giới thể tánh , thì chúng sanh chổ nào có ô nhiểm tịnh?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Các chúng sanh ấy thân kiến điên đảo chấp ngã và ngã sở.Hàng phàm phu ấy phát khởi ngã tưởng, chấp trước ngã tưởng và chấp trước tha tưởng mà phát khởi tâm và tâm sở.Những tâm và tâm sở ấy tạo tác các nghiệp thiện hoặc các nghiệp bất thiện. Do hành nghiệp ấy làm nhơn mà các chúng sanh ấy có được quả báo. Nếu đã có sanh thì có nhiễm ô. Chính nhiễm ô ấy la pháp giới thể tánh.
Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Nếu biết nhiễm ô là pháp giới thể tánh thì gọi là bạch tịnh vậy. Nhưng nơi đệ nhứt nghĩa không có nhiễm ô, không có hoặc pháp nhiễm hoặc pháp tịnh".
Lúc Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói pháp ấy , có năm trăm Tỳ Kheo dứt hết phiền não được tâm vô lậu.
Ngài Xá Lợi Phất nói với Ngài Văn thù Sư Lợi Bồ Tát : "Pháp giới được nói ấy khọng có sai lầm. Ngài nói pháp ấy rồi có hơn trăm Tỳ Kheo đều dứt phiền naõ được tâm vô lậu".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Pháp giới ấy có phải trước kia hệ phược mà nay được giải thóat chăng?"
Ngài Xá Lợi Phất nói : " Thưa Ngài Văn thù Sư Lợi ! Pháp giới ấy , chẳng phải trước hệ phược mà nay được giải thoát".
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : " Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Chư Tỳ Kheo ấy ,nay ở chỗ nào tâm được giải thoát ?".
Ngài Xá lợi Phất nói : " Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Hàng thanh văn điều phục như vậy rất đơng , đều dứt phiền não được tâm giải thoát".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : " Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Ngài có phải là đệ tử Thanh Văn của đức Phật chăng ?".
Ngài Xá Lợi Phất nói :" Đúng như vậy. Tôi là đệ tử Thanh Văn của đức Phật."
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : " Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Có phải là Ngài dứt phiền não mà được tâm vô lậu giải thoát chăng ?".
Ngài Xá Lợi Phất nói : " Tôi được tâm vô lậu giải thoát".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : " Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Ngài dùng những tâm nào để được giải thoát ? Là tâm quá khứ , là tâm vị lai hay tâm hiện tại ?
Thưa Đại Đức ! Tâm quá khứ đã diệt , tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại chẳng an trụ. Đại Đức dùng tâm nào để được giải thoát ?".
Ngài Xá Lợi Phất nói : " thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Chẳng phải tâm quá khứ được giải thoát, chẳng phải tâm vị lai , tâm hiện tại được giải thoát".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : " Thưa Đại Đức ! Sao Ngài lại nói Tâm được giải thoát?".
Ngài Xá Lợi Phất nói : " Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ở nơi thế đế mà nói là tâm được giải thoát. Trong đệ nhứt nghĩa đều không có tâm hệ phược tâm giải thoát".
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : " Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Có phải Ngài muốn khiến pháp giới thể tánh có thế đế và đệ nhứt nghĩa đế chăng ?".
Ngài Xá Lợi Phất nói : " Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Pháp giới thể tánh không có thế đế và đệ nhứt nghĩa đế".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Thưa Đại Đức ! Sao Ngài nói ở nơi thế đế tâm được giải thoát ?".
Ngài Xá Lợi Phất nói : "Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Phải chăng không có tâm được giải thoát ư?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : " Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Nếu tâm có nội, ngoại và trung gian thì có được giải thoát.Nhưng tâm không có nội ngoại và trung gian nên không
có hệ phược và giải thoát".
Lúc đó trong đại chúng có hai trăm Tỳ Kheo nghe lời của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói liền rời chỗ ngồi rồi nói rằng nếu không có giải thoát , không có tâm giải thoát ,sao chúng tôi lại xuất gia tu hành ? Nếu không có xuất thế sao lại phải tu hành?
Nói thô ngữ ấy xong, hai trăm Tỳ Kheo bỏ chúng mà đi.
Muốn điều phục nhóm Tỳ Kheo ấy , Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hóa một Tỳ Kheo đón trước đường.Nhóm Tỳ Kheo ấy đến chổ Hoá Tỳ Kheo hỏi rằng :" Đại Đức từ dâu đến đây ?".
Hóa Tỳ Kheo nói: " Thưa chư Đại Đức ! Tôi ở nơi chỗ nói của Ngài Văn Thù Sư Lợi không hiểu không biê&t chẳng tin chẳng hướng.Vì thế nên tôi bỏ chúng mà đi đê&n
đây".
Nhóm Tỳ Kheo ấy nói :" Chúng tôi cũng vậy.Vì chẳng hiểu chẳng biết chẳng tin chẳng hướng nên chúng tôi bỏ chúng mà đi đến đây".
Hóa Tỳ Kheo hỏi : " Chư Đại Đức ở trong chổ nói của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có chỗ nào chẳng thích mà bỏ đi?".
Nhóm Tỳ Khei ấy nói :" Thưa Đại Đức ! Vì Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói không có hướng quả,không có chứng quả lại không có giải thoát. Chúng tôi tự nghĩ nếu không có hướng quả không có chứng quả không có giải thóat thì có nghĩa gì để chúng tôi tu hành phạm hạnh , nếu không có xuất thế cớ chi lại tu hành ? Vì nghĩ như vậy mà chúng tôi bỏ đi".
Hóa Tỳ Kheo hỏi : " Có phải vì không hiểu, vì phỉ báng , vì mắng nhiếc mà chư Đại Đức bỏ đi chăng?".
Nhóm Tỳ Kheo ấy nói : " Thưa Đại Đức! Chúng tôi không có phỉ báng mắng nhiê&c.Chỉ vì chẳng thấy giải thoát mà chúng tôi bỏ đi".
Hóa Tỳ Kheo liền khen rằng :" Lành thay, lành thay ! Thưa chư Đại Đức! Nay chúng ta nên cùng
nhau sưy luận. Nếu chẳng phải mắng nhiếc thì chẳng phải tránh tụng.Chẳng phai tránh tụng là pháp đệ nhứt Sa môn vậy.
Tâm của chư Đại Đức la tướng dạng gì?Là màu xanh vàng đỏ trắng hay màu tím màu pha lê ?
Là thiệt là chẳng thiệt ? Là thường là vô thường ? Là sắc là phi sắc?".
Nhóm Tỳ Kheo ấy nói : " Thưa Đại Đức ! Tâm chẳng phải sắc, chẳng thấy được, không có hình bóng cũng
không có xúc đối , không nơi chỗ, không chỉ bày".
Hóa Tỳ Kheo nói : " Thưa chư Đại Đức! Tâm đã chẳng phải sắc, không thấy được, không có hình bóng cũng
không xúc đối,không nơi chỗ,không chỉ bày.Nhưng tâm ấy ở trong ở ngoài hay ở chặng giữa của trong ngoài ư?".
Nhóm Tỳ Kheo ấy nói : Không phải vậy".
Hóa Tỳ Kheo nói : " Thưa chư Đại Đức ! Tâm các Ngài đã không
hình sắc, không có xúc đối , không nơi chỗ không chỉ bày, chẳng phai nội ngoại trung gian , mà nó có
chánh thành tựu chăng ?"
Nhóm Tỳ Kheo ấy nói : " Không phải vậy".
Hóa Tỳ Kheo nói : " Thưa chư Đại Đức !Nếu tâm chẳng thiệt không thành tựu , thì thế nào giải thoát ?".
Nhóm Tỳ Kheo ấy nói : " Chẳng phải vậy".
Hóa Tỳ Kheo nói : " Thưa chư Đại Đức ! Vì nghĩa ấy nên ngà Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói pháp giới thể tánh không có nhiễm tịnh . Thưa chư Đại Đức ! Vì các Ngài là phàm phu điên đảo chấp ngã và ngã sở mà phát khởi tâm đi trong các cảnh giới mà sanh khởi tâm phân duyên . Đây là tất cả những pháp phân duyên sanh diệt chẳng trụ biếng đổi mà diệt đế có thể dứt diệt.
Nếu tâm duyên nơi xuất gia thọ giới cụ túc tu đạo đắc quả , thi thể tánh của tâm ấy rỗng không chẳng có thiệt, chỉ từ vọng tưởng phát khởi . Nếu là vọng tưởng chẳng thiệt thì là chẳng sanh chẳng trụ chẳng diệt. Nê&u đã là chẳng phải sanh trụ diệt thì không có hệ phược cũng không có giải thoát, không hướng quả không chứng quả.
Vì nghĩa ấy nên Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói pháp giới thể tánh không nhiễm không tịnh, cũng không hướng không chứng, không có giải thoát".
Nghe Hóa Tỳ Kheo giải bày, nhóm Tỳ Kheo ấy được vô lậu giải thoát.
Được giải thoa&t rồi , nhóm Tỳ Kheo ấy liền trở về chỗ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đều tự cởi y uất đa la tăng dâng cúng cho
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà thưa rằng : " Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Ngài khéo thủ hộ chúng tôi . Chúng tôi vì chẳng tín hướng pháp điều phục thậm tâm ấy mà rời lìa bỏ đi".
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : " Chư Đại Đức! Các Ngài được những gì , giác ngộ những gì , mà đều tự cởi y uất đa la tăng để cúng dường Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ?".
Nhóm Ty Kheo ấy nói : " Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề! Nay chúng tôi không được không giác, nên chúng tôi
cúng dường Văn Thù SưLợi Bồ Tát.
Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề ! Trước đây vì có ý tưởng hữu sở đắc nên chúng tôi bỏ chúng mà đi.Nay chúng tôi
đã bỏ được ý tưởng hữu sở đắc nên chúng tôi trở lại".
Ngài Tu Bồ Đề nói : " Cớ sao các Ngài nói như vậy?".
NHóm Tỳ Kheo ấy nói : " Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề ! Chấp^trước nơi danh là động lay ái trước.Nếu người có động lay có ái trước thì không hướng không đắc.
Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề ! Nếu không hướng đắc thì ở chỗ ấy có thể dứt được tất cả động lay ái trước".
Ngài Tu Bồ Đề nói : " Ai điều phục các Ngài ?".
Nhóm Tỳ Kheo ấy nói : " Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề ! Người không có sở đắc không có sở giác là người điều phục chúng tôi.
Người ấy sanh cũng chẳng diệt độ , chẳng phải thiền định cũng chẳng loạn tâm".
Ngài Tu Bồ Đề nói : " Ai điều phục các Ngài?".
Nhóm Tỳ Kheo ấy nói :" Ngài nên hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát".
Bấy giờ Ngài A Nan hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng :" Chư Tỳ Kheo ấy được ai điều phục?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Thưa Đại Đức A Nan! Người không co& ấm giới nhập, cũng chẳng phải phàm phu, chẳng phải Thanh Văn, chẳng phải Duyên Giác, chẳng phải Bồ Tát , chẳng phải Như Lai, chẳng phải tương ưng với thân, chẳng phải tương ưng với ngữ, chẳng phaỉ tương ưng với ý".
Ngài A Nan nói :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngài nói ai vậy?".
Ngài Văn Thu Sư Lợi Bồ Tát nói : " Thưa Đại Đức A Nan ! Nếu đức NhưLai biến hóa ra ho nhơn , thì hóa nhơn ấy có tương ưng chăng ?".
Ngài A Nan nói : " Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Hóa nhơn không co& pháp gì để co& thể cùng tương ưng hay chẳng tương ưng".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : " Thưa Đại Đức A Nan ! Tất cả pháp thể tánh là hóa. Chính hóa ấy điều phục nhóm Tỳ Kheo ấy.
Thưa Đại Đức A Nan ! Như hóa điều phục, tất cả Thanh Văn cũng như vậy. Điều phục như vậy chánh là điếu phục.Nếu người chẳng hiểu điều phục như vậy,nên biết đó là người tăng thượng mạn vậy".
Ngài A Nan nói : " Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Tỳ Kheo tăng thượng mạn ấy có thể biết được chăng?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : " Thưa Đại Đức A Nan ! Giới tụ thanh tịnh tức là động lay, nên biết đó là tăng thượng mạn.
Định tụ,huệ tụ,giải thoát tụ và giải thoát tri kiến tụ thanh tịnh tức là động lay ,nên biết đó là tăng thượng mạn.
Tôi được tôi chứng, suy nghĩ như vậy là động lay vọng tưởng,nên biết đó là tăng thượng mạn.
Kinh sợ thân kiến,cũng không như hư không, nhập nhứt đạo cũng không ,lời nói trên đây là chánh thuyết, nên biết đó là tăng thượng mạn.
Nếu Tỳ Kheo nói : " thân kiến là không nhẫn đến nhập nhứt đạo không, không như vậy là bình đẳng không, nên biết đó là tăng thượng mạn.
Tại sao vậy?
Thưa Đại Đức A Nan! Thân kiến khác với không, vì khác nên thân
kiến tức là không.Không với khác cùng nói, chẳng nói khác tức là không.
Thưa Đại Đức A Nan ! Nếu có kinh sợ vô minh hữu ái và mừng được minh giải thoát,nên biết đó là tăng thượng mạn.
Tại sao vậy? Vì nếu có hai tướng thì chẳng phải giải thoát.
Thưa Đại Đức A Nan ! Nếu có Tỳ Kheo kinh sợ tham sân si mà mừng ba giải thoát, sợ bốn đảo mà mừng bốn tướng, sợ ngũ cái ma mừng ngũ căng, sợ lục nhập mà mừng lục thông , sợ bảy thức trụ mà mừng bảy pháp trợ đạo, sợ bát tà mà mừng bát thánh đạo, sợ chín chỗ ở của chúnh sanh mà mừng chín thứ đệ định, sợ mười bất thiện mà mừng mười vô lậu thiện, sợ hữu vi giới mà mừng pháp vô vi, nên biết đó là người tăng thượng mạn.
Tại sao vậy? Vì tất cả đều là động lay, đều là hí luận.
Thưa Đại Đức A Nan ! Nếu có động lay nếu có hí luận thì tâm liền tự cao tự tại nhiếp lấy dựa theo vọng tưởng bằng lòng với chỗ thành tựu. Những thứ như vậy gọi là tự tại. Vì tự tại nên sanh ra kiêu mạn.
Tỳ Kheo như vậy thì gọi là có tăng thượng mạn.Tại sao vậy? Thưa Đại Đức A Nan! Sao lại hữu vi giới không ? Đó là đem không vào không.Nên biết Tỳ Kheo ấy có tăng thượng mạn".
Ngài A Nan hỏi :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là Tỳ Kheo không tăng thượng mạn?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : " Thưa Đại Đức A Nan ! Nếu có Tỳ Kheo tịch tịnh nơi trong thì ngoài cũng tịch tịnh. Tất cả cảnh giới : bình đẳng hay chẳng bình đẳng, có hay không , hữu vi hay vô vi đều không có vọng ley cũng không cò vọng tưởng không chẳng vọng tưởng, không hai không một, không trang nghiêm không
chẳng trang nghiêm,chẳng có hí luận, chẳng chấp trước chổ thấy biết ban đầu, đối với tất cả pháp đều bình đẳng, cũng không có bình đẳng không chẳng bình đẳng, không có một pháp có thể làm được bình đẳng chẳng bình đẳng.Chẳng động chẳng lay như vậy, không có vọng tưởng không chẳng vọng tưởng,lại chẳng chấp trước, cũng chẳng thấy vọng tưởng, huông là hướng đến giải thoát được quả trí chứng, không bao giờ có động lay vậy.
Thưa Đại Đức A Nan! Tỳ Kheo như vậy không có tăng thượng mạn cũng không hí luận, xa tướng tự tha, bỏ những ái trước, vì tất cả ái trước chẳng phaỉ ái trước vậy.Rời lìa những phân duyên giác quán tư duy tư duy giải thoát, giải thoát hứơng,không có người nhận lấy, thảy đều là nhơn tịch tịnh duyên tịch tịnh. Ngã thân và ngã sở thân ấy qua đế bờ kia , chẳng thấy có gì là giải hướng đạo và chứng.
Nếu có Tỳ Kheo tu hành như vậy thì không tăng thượng mạn,vì bình đẳng rỗng không. Biết rõ tất cả các pháp bình đẳng không có thượng hạ,hoặc thiện bất thiện,nên làm chẳng nên làm,hữu lậu vô lậu,thế gian xuất thế,hữu vi vô vi, những pháp thượng hạ động lay như vậy không gì chẳng phaỉ là vọng tưởng cũng chẳng thấy biết. Các pháp như vậy đều thấy bình đẳng, dụ như hư không.
Thưa Đại Đức A Nan! Nếu có Tỳ Kheo hiểu như vậy thì gọi là thiện giải thoát.Tỳ Kheo ấy không tăng thượng mạn.
Vì nghĩa ấy nên Đức Như Lai nói : nếu có Tỳ Kheo hiểu các pháp dình đẳng dụ như hư không.
Như động chạm hư không thì không có chỗ chạm động,pháp của Sa Môn cũng như vậy".
Lúc Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói lời trên đây, trong đại chúng có hai trăm Tỳ Kheo đều dưt hết phiền não được pháp vô lậu giải thoát.
Bửu Thượng Thiên Tửhỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát :"Thế nào là Bồ Tát không tăng thượng mạn? Xin Ngài cứ như thiệt mà nói cho".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Thiên Tử ! Nếu có Bồ Tát ,nhứt thiết trí tâm, vô đẳng đẳng tâm, tam giới tối thắng tâm, vượt quá các hàng Thanh Văn và
Dyên Giác dùng các cảnh giới ngoài để an trụ tâm, nhưng cũng tu hành tất cả thiện căn, vì tăng thượng vì giáo hóa chúng sanh
vì nhiếp lấy chánh pháp đẻ nói cho chúng sanh khác và người khác về nhứt thiết trí tâm ,tâm ấy như thiệt hiểu bổn thể bìng đẳng, theo đúng như chổ nghe thể tánh của tâm mình mà hiểu biết thể tánh của tất cả chúng sanh.Vì hiểu biết thể tánh của tất cả các pháp nên hiểu biết thể tánh của tất cả thiện căn. Vì hiểu biết thể tánh của tất cả thiện căn nên hiểu biết và diễn thuyết thể tánh của Bồ Tát.
Đó là Bồ Tát như thiệt nói thọ ký vậy.
Lại nầy Thiên Tử! Nếu Bồ Tát bố thí , tùy chổ thí cho, tùy chỗ nguyện thí và những bố thí khác tất cả đều vô ngại.Bố thí không chỗ y cứ, chẳng chấp trước chẳng quan niệm chẳng hay biết. Vì chẳng hay biết nên tức là không.Nếu có thể được như vậy thì hiểu biết thể tánh bố thí .Vì hiểu biết thể tánh bố thí nên hiểu biết thể tánh như thiệt. Vì hiểu biết thể tánh như thiệt nên hiểu biết thể tánh các pháp.Vì hiểu biết thể tánh các pháp nên hiểu biết thể tánh tất cả các chúng sanh. Vì hiểu biết thể tánh tất cả các chúng sanh nên nói thể tánh Bồ Tát.
Nầy Bửu Thượng Thiên Tử! Đây gọi là vì Bồ Tát bố thí thanh tịnh nên nói thọ ký vậy.
Lại nầy Thiên Tử! Nếu có Bồ Tát hiểu biết thân thì hiểu biết giới,hiểu biết khẩu thì hiểu biết giới , hiểu biết ý thì hiểu biết giới.Hiểu biết thân và khẩu thì hiểu biết quan niệm tịch tịnh. Vì hiểu biết quan niệm tịch tịnh nên hiểu biết chúng sanh tịch tịnh. Vì hiểu biết chúng sanh tịch tịnh nên hiểu biết tất cả pháp tịch tịnh. Vì hiểu biết tất cả pháp tịch tịnh nên hiểu biết như thiệt tế tịch tịnh.Vì hiểu biết như thiệt tế tịnc tịnh nên được pháp tịch tịnh,nhơn tịch tịnh,duyên tịch tịnh.Tùy có chỗ nghe tất cả các pháp đều có thể tuyên thuyết tịch tịnh.
Nầy Thiên Tử! Đây gọi là vì Bồ Tát giới thanh tịnh nên như thiệt nói thọ ký vậy.
Lại nầy Thiên Tử! Nếu có Bồ Tát biết ở pháp tánh rốt ráo là không,biết ở pháp tánh rốt ráo tự tại, đối với các chúng sanh có thể nhẫn nhịn những sự ác độc mà tâm chẳng sanh khởi quan niệm nhẫn nhịn, chẳng nghĩ sự ngoài,chẳng trái chúng sanh, hay diệt tất cả điều ác. Như tánh của các chúng sanh, thể tánh của nhẫn cũng vậy. Như thể tánh của nhẫn, tánh Bồ đề cũng vậy. Như tánh Bồ đề, thể tánh tất cả pháp cũng vậy.Như biết thể tánh tất cả pháp như thiệt, pháp chơn như cũng vậy.NHư chỗ nghe đồng tận pháp tánh,pháp tánh giới rốt ráo không.Pháp tánh rốt ráo không,nói đó là hành thuận nhẫn.
Đây gọi là Bồ Tát chơn thiệt tịnh nhẫn nói thọ ký vậy.
Lại nầy Thiên Tử! Bồ Tát biết thận trọng tất cả pháp hành rời lià những tư duy không có những trang nghiêm mà thành tựu hạnh xả tiến. Như có chõ làm cũng không chỗ làm , chỗ biết vững chắc có thể rời lìa tất cả.Trong thì tánh tịch tịnh, ngoài thì hóa độ chúng sanh.Vì biết tinh tiến tịch tịnh nên Bồ đề tịch tịnh.Vì biết Bồ đề tịch tịnh nên biết tất cả các pháp tịch tịnh.Vì biết các pháp tịch tịnh nên biết như thiệt tế tịch tịnh.Như pháp đã được nghe vì tánh tinh tiến tịch tịnh nên tất cả đều có thể tuyên thuyết.
Đây gọi là Bồ Tát thanh tịnh tinh tiến như thiệt nói thọ ký vậy.
Lai nầy Thiên Tử! Nếu Bồ Tát nhập thiền chư pháp bình đẳng không tăng giảm,do sức thiền mà tâm an trụ.Vì dừng an trụ nên thức không chỗ trụ nên bảy giác tâm bình đẳng.Vì bảy giác tâm bình đẳng nên được thiền định bình đẳng.Vì được thiền định bình đẳng nên biết Bồ Đề bình đẳng.Vì biết Bồ Đề bình đẳng nên biết tất cả chúng sanh bình đẳng.Vì biết tất cả chúng sanh bình đẳng nên biết các pháp bình đẳng.Nếu biết các pháp bình đẳng như vậy thì tùy chỗ pháp được nghe có thể tuyên thuyết các pháp thể tánh bình đẳng.
Đây gọi là Bồ Tát thanh tịnh thiền định như thiệt nói thọ ký vậy.
Lại nầy Thiên Tử! Nếu có Bồ Tát hụê nhãn thanh tịnh thấy biết như thiệt,với tất cả pháp, tùy thấy pháp nào đều không chỗ thấy,không có động lay, được trí vô động,không hành không nhơn không duyên. Hành cũng chẳng hành các pháp oai nghi, cũng chẳng phải chẳng hành.Chẳng hành nhơn duyên biết các pháp bình đẳng chẳng cứu chẳng hành.Tại sao vậy?Nếu chẳng hành là vô phân biệt dứt diệt các vọng tưởng hy vọng tham trước, đó là Bồ Tát rời lìa các sở hữu. Bồ Tát cũng hành tất cả chỗ hành của chúng sanh, vì muốn giáo hóa họ,vì muốn chứa họp tất cả pháp trợ Bồ Đề, vì nhiếp thủ chánh pháp, vì chẳng dứt mất giống Tam Bảo. Chỗ sở hành của Như Lai ,nơi thể tánh thanh tịnh tất cả pháp không có phân biệt.Vì dùng thể tánh thanh tịnh Bát nhã ấy nên biết Bồ đế thể tánh thanh tịnh.Vì biết Bồ đề thể tánh thanh tịnh nên biết chúng sanh thể tánh thanh tịnh. Vì biết chúng sanh thể tánh thanh tịnh nên biết tất cả pháp thể tánh thanh tịnh. Vì biết tất cả pháp thể tánh thanh tịnh nên ở nơi các pháp thể tánh được như thiệt trí.Vì được như thiệt trí nên tùy sự được nghe là pháp giới tánh tuyên nói vô phân biệt.
Đây gọi là Bồ Tát huệ nhãn thanh tịnh như thiệt nói thọ ký.
Lại này Bửu Thượng Thiên Tử! Bồ Tát quán thân, hành thân niệm xứ.Biết quá khứ thân không có biên tế.Biết vị lai thân không có hướng đến.Biết thân hiện tại như cỏ cây ngói đá tường vách.Nếu có thể quán thân như vậy,thân hành là thân thể tánh sở hành,tịch tịnh tư duy đòng hành,cũng không
phát khởi chẳng tư duy chẳng tự tại. Đây gọi là rời lìa ngã thức không chỗ trụ tu thân niệm xứ hành, cũng không có pháp
tu hành được,cũng chẳng phải chẳng tu hành.Biết tất cả pháp không có thể tánh, chẳng phải chẳng có tánh.Quán thân như vậy mà tu thân hành.
Quán tâm như huyễn hóa,biết tâm như hưởng ứng,như thiệt biết tâm,thọ vui chẳng luyến,thọ khổ chẳng khổ,thọ chẳng vui khổ chẳng mất chánh niệm,chẳng chấp vô minh,rời lìa thọ,nơi thọ chẳng bị nó kéo dắt. Đây gọi là như thiệt thấy biết thọ niệm xứ.
Nếu có thể quán thọ như vậy,hành giả ở nơi thọ,tâm không sở hành, tâm chẳng an trụ. Tất cả tâm ấy cũng chẳng buông bỏ, tâm Bồ đề cũng chẳng quên mất cũng chẳng xa rời. Đây gọi là quán tâm ,hành tâm niệm xứ.
Khéo biết nơi pháp,thấy pháp, hành pháp,không niệm không tư duy,nhập vào pháp tánh không có thân thọ và tâm,chẳng phải quán pháp tướng phát khởi kiến hành nhập vào pháp tánh. Đây gọi là quán pháp hành pháp niệm xứ.Là tất cả pháp thể tánh hòa hiệp tụ họp không có vật như hư không.Như sự được nghe,không tưởng niệm không tư duy tự nhiên thuyết pháp niệm xứ.
Đây gọi la biết rõ tịnh pháp niệm xứ nói thọ ký vậy.
Lại nầy Bửu Thượng Thiên Tử! Bồ Tát ấy,tâm nhứt thiết trí được tự tại, như chỗ giáo hối,chánh an trụ chẳng bố thí chẳng loạn động chẳng thất niệm,nơi tất cả thiện căn ban đầu phát khởi,tâm vô cấu hiện hành, tùy chỗ sở hành đều xả được tất cả, quở tâm phạm giới, chẳng y chỉ nơi giới,nhẫn không tranh cãi,thân khẩu ý đối với chúng sanh chẳng có tâm sân hận,chẳng phát khởi tinh tiến về Thanh Văn và Duyên Giác thừa, chẳng tưởng niệm tư duy tất cả pháp lành, chẳng y chỉ các thiền định thứ đệ định, tâm không sở hành, chẳng thấy hành các kiến chấp, chẳng hành các pháp.Nhập vào tất cả pháp như chư Thánh.Nơi các cảnh giới đều không sở hành.Dầu gần chẳng phải thánh mà thân khẩu ý nghiệp chưa bao giờ bị quở trách.Chẳng vì tin mà cầu pháp lành. Độc hành không có bạn.Muốn tự mình vượt quá thế gian hành hạnh tinh tiến.Dứt hẳn tham dục sân hận ngu si, tâm không phiền não.Vì chẳng phá giới nên cũng chẳng thân kẻ hành ác hạnh.Không có dua vậy, vì nội hạnh thanh tịnh vậy.Không có nói lời tán loạn,vi khẩu nghiệp thanh tịnh vậy.Không có mong cầu,vì biết đủ nơi cùa đã có.Chẳng phải là kẻ sai khiến, vì chẳng phải sống tà mạng vậy.Là người không chứa nhóm,vi tùy chỗ có được đều tự biết đủ vậy.Là người không hi vọng,vì rời lìa ham muốn ba cõi vậy.Là người tri túc,vì rời lìa sự tìm cầu sái quấy vậy.Là người tịch tịnh,vì hiểu tất cả pháp đều tịch tịnh vậy.Là người hiện sân si,vì bỏ hạnh thế gian vậy. Là người không hí luận, vì dứt các hí luận vậy.Là người chẳng sanh trở lại, vì dứt ái dục sân và si vậy. Là người tham thèm chánh pháp, vì
điều phục kiêu mạn vậy.Là người dễ hiểu, vì khéo đều tâm vậy.Là người khéo thủ hộ,vì thủ hộ giới tụ vậy.Là người khéo giải thoát, vì huệ tụ thanh tịnh vậy. Là người chẳng xả bỏ,vì hành thánh chủng vậy.La người không thối chuyển,vì phát tâm Bồ đề trọn vẹn rốt ráo vậy. Là người không có sở dụng, vì tất cả thế hạnh vậy.Là người không tránh tụng, vì bình đẳng tất cả chúng sanh vậy. Là người khéo tự thủ hộ,vì thủ hộ kẻ khác vậy.Là người điều phục tự tâm,vì chẳng tìm lỗi người khác vậy.Là người lià các hi vọng,vì hộ giới thanh tịnh vậy. Là người thuyết pháp rộng, vì không lẫn tiếc vậy.Là người ưa thủ hộ,vì thủ hộ tâm tất cà chúng sanh vậy.Là người sơ phát tâm, vì họp tất cả thiện pháp vậy.Là người không có dị hạnh, vì được nhứt vị đối với tất cả pháp vậy.Là người chẳng động lay ,vì dứt các động lay vậy.Là người chẳng xem dòng họ, ví giáo hóa chúng sanh vậy.Là người bình đẳng chúng sanh,vì nhiếp thủ tất cả chúng sanh vậy.Là người ban đầu quán không, vì tất cả pháp vậy.Là người điều phục các kiến chấp, vì khéo giáo hóa vậy. Là người không có tưởng và hành, vì điều phục các chúng sanh tưởng và hành vậy.Là người biết vô nguyện, vì sở nguyện đầy đủ khéo điều phục vậy. Là người biết tất cả,vì quán vô tát vậy. Là người hành thiện, vì chẳng biết đủ vậy. Là người không có vật mà quán vật, vì thị hiện chẳng phải vật mà là vật vậy. Là người chẳng tư duy quan sát, vì ngã tịch tịnh vậy. Là người không tự ngã , vì quán hóa chúng
sanh để được vô ngã vậy. Là người không gì chẳng phải là đạo hạnh ,vì hóa độ các chúng sanh rời lìa kiết sử vậy.Là người tâm phương tiện được rốt ráo,vì tu hành Bát nhã vậy.Là người định tánh không dời, vì trọn chẳng chứng tất cả Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa.Là người rời lìa đạo và phi đạo,vì đệ nhứt nghĩa vậy.Là người rời lìa hạnh và phi hạnh,vì tất cả phàm phu chứng chánh hạnh vậy.Là người không trang nghiêm không
chẳng trang nghiêm,vì không chẳng hy vông các pháp vậy.Là người chẳ tự khen,vì chẳng hì luận kẻ khác vậy.Là người vô đẳng đẳng trí,vì đủ Phật pháp vậy.Là người vô sanh pháp nhẫn,vì tất cả pháp vô sanh vô diệt nhẫn vậy.
Đây gọi là Bồ Tát được nơi tự tại.
Nầy Bửu Thượng Thiên Tử! Bực Bồ Tát, tùy sanh ở chỗ nào chẳng phải là chẳng biết mà sanh, ma do nơi biết để sanh.Mà Bồ Tát ấy nhiếp thủ sanh tử tự tại, cũng được đầy đủ thành tựư Phập pháp.Mà Bồ Tát ấy chẳng phải lưu chuyển sanh tử.Do sức bổn nguyện sanh ở chỗ nào đều được tự tại trí. Đây gọi là Bồ tát được tự tại trí.
Bồ Tát chẳng phải do được ngằn mé mà gọi là tự tại trí.Nếu chẳng dứt tuyệt tất cả thiện căn, đây gọi là Bồ Tát được tự tại trí.
Bồ Tát chẳng phải vì được các thiện căn mà gọi là tự tại trí.Không nhàm đủ đối với các thiện căn, đây gọi là tự tại trí.
Bồ Tát chẳng phải vì chẳng sanh trong ba cõi mà được gọi là tự tại.Vì giáo hóa chúng sanh nên sanh trong tam giới, đây gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải vì rời lìa tự kiết sử mà được gọi là tự tại.Vì các chúng sanh dứt kiết sử nên siêng tu tinh tiến, đây gọi la Bồ Tát được tự tại trí.
Bồ Tát chẳng vì thân mình mà được gọi là tự tại.Vì tịch tịnh các khổ não của tất cả chúng sanh mà gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải vì xả bỏ mà tự tại. Vì nhiếp thủ giáo hóa chúng sanh mà gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải tự dứt tham sân si mà được gọi là tự tại. Vì dứt tham sân si các kiết sử của tất cả chúng sanh mà được gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải tự chứng diệt đế mà được gọi là tự tại. Vì các chúng sanh mà chứng diệt đế nên được gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải tự dứt phiền não mà được gọi là tự tại.Bồ Tát vì tăng trưởng các thiện căn nên chẳng dứt phiền não mà được gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải vì chứng ba môn giải thoát nên gọi la được tự tại. Vì Bồ Tát hiểu rõ ba môn giải thoát nên gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải tự tại tịch diệt năm ấm mà gọi là được tự tại. Vì xả bỏ gánh nặng cho tất cả chúng sanh nên gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải do diệt sáu căn mà gọi là được tự tại.Vì biết căn tánh thượng hạ của các chúng sanh nên gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải do sanh phần tận diệt gọi là được tự tại.Bồ Tát vì do chẳng đợan tuyệt sanh phần nên gọi là tự tại.
Bồ Tát chẳng phải được quả Thanh Văn, Duyên Giác giải thoát mà được gọi là tự tại.
Bồ Tát đạo tràng được quả giải thoát thọ dụng tất cả các chúng sanh nên gọi là tự tại".
Lùc Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát diễn thuyết phẩm Tự Tại như vậy,trong đại chúngấy có ba muôn hai ngàn Thiên
Tử đều phát đạo tâm chánh chơn vô thượng.
Đức Thế Tôn khen rằng: "Lành thay, lành thay! Khéo nói tất cả Bồ Tát thọ ký.Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Nếu có Bồ Tát nghe nói Bồ Tát thọ ký như vậy một bề tin hiểu chẳng kinh sợ,thì chư Phật Như Lai vì họ mà thọ ký đạo chơn thiệt vô thượng".
Bửu Thượng Thiên Tử nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: "Nay Ngài diễn thuyết về thọ ký như vậy".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:" Nầy Thiên Tử! Tôi nói thọ ký, tôi có pháp ấy.Có người nào hiểu rõ thì tôi nói thọ ký".
Nầy Thiên Tử! Nay tôi chẳng được nhẫn đến một pháp,cũng không hiểu rõ thì làm sao nói thọ ký".
Bửu Thượng Thiên Tử nói:" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Hằng sa chư Phật Thế Tôn há lại không giải hướng mà đắc quả ư?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: " Nầy Thiên Tử! Chư Phật Thế Tôn chẳng vì giải hướng đắc quả mà thuyết pháp".
Thiên Tử nói :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp thế nào ?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :" Nầy Thiên Tử! Chư Phật Thế Tôn cũng chẳng phân biệt thể tánh mà thuyết pháp.Không sanh không diệt không nhơn không duyên không khứ không lai,không có chúng
sanh chẳng phải không chúng sanh, không ô nhiễm không bạch tịnh, không sanh tử không Niết Bàn,chư Phật Thế Tôn thuyết pháp như vậy".
Thiên Tử hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : " Chư Phật Thế Tôn chẳng vì Niết Bàn mà thuyết pháp,cớ sao gọi là Phật xuất thế ư?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:"Nầy Thiên Tử! Vì hiểu rõ thể tánh của thân kiến nên gọi là Phật xuất thế.
Nầy Thiên Tử! Vì thị hiện thể tánh của vô minh hữu và ái nên gọi là Phật xuất thế.
Vì hiểu rõ thể tánh của tham sân si nên gọi là Phật xuất thế.
Nầy Thiên Tử! Thị hiện thể tánh bình đẳng của điên đảo gọi là Phật xuất thế.
Nầy Thiên Tử ! Hiểu rõ thể tánh của các kiến chấp gọi là Phật xuất thế.
Nầy Thiên Tử ! Hiển bày thể tánh pháp giới của ấm giới và nhập gọi là Phật xuất thế.
Nầy Thiên Tử ! Phật xuất thế là các pháp vô sanh, đây gọi là diễn thuyết pháp vô sanh vậy.
Pháp vô sanh ấy đều không có sanh tử cũng không có Niết Bàn".
Thiên Tử nói :" Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Nên vì chúng sanh mà nói trang nghiêm đạo pháp chánh chơn ngôn vô thượng.
Tại sao vậy?
Thưa Ngài Văn
Thù Sư Lợi ! Chư Phật xuất thế không có chỗ tăng trưởng".
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment